Nỗi sợ lớn nhất của đảng cộng sản Việt Nam đang dần trở thành hiện thực, nguy cơ tự diễn biến từ một mối nguy hiểm mơ hồ nay đã hiển hiện trước mắt. Cảm nhận được nguy cơ tự diễn biến trong quân đội ngày một lớn cùng với khả năng mất quyền kiểm soát quân đội dẫn đến sụp đổ chế độ như đã từng xảy ra tại các quốc gia cộng sản Đông Âu đã khiến thượng tầng chính trị Việt Nam có những bước đi trước. Ấy là khi các tờ báo chính thống như Tiền Phong, Tạp Chí Cộng Sản, Quân Đội Nhân Dân ồ ạt tung ra các bài báo với luận điểm tuyệt đối hóa sự lãnh đạo của đảng với quân đội, khẳng định quân đội nhân dân Việt Nam là quân đội do chính đảng cộng sản Việt Nam tổ chức thành lập, quân đội phải tuyệt đối trung thành với đảng.
Hầu như, tất cả các bài viết đăng trên các tờ báo chính thống trên đều khẳng định chắc chắn rằng: “quân đội nhân dân Việt Nam là do đảng cộng sản Việt Nam thành lập, tổ chức và lãnh đạo” trong bài viết “Quân đội không thể và không nên trung lập về chính trị – Lịch sử đã cảnh báo” [1] đăng trên tạp chí cộng sản đã nhấn mạnh: “Quân đội đó, trước hết là do Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập; là một bộ phận cấu thành của Đảng và trước tiên là để thực hiện các mục tiêu chính trị và quân sự của Đảng”. Còn ở bài viết “Không có quân đội đứng ngoài chính trị” [2], trung tướng Nguyễn Tiến Bình tiếp tục khẳng định “Quân đội nhân dân Việt Nam là một quân đội kiểu mới do Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện”.
Như vậy, khi những quan điểm đó được khẳng định trên Tạp Chí Cộng Sản (cơ quan lý luận chính trị của trung ương đảng cộng sản Việt Nam) và trên báo Quân Đội Nhân Dân (cơ quan của quân ủy trung ương và bộ quốc phòng, tiếng nói của lực lượng vũ trang và nhân dân Việt Nam), đảng cộng sản Việt Nam đã công khai thừa nhận quân đội nhân dân Việt Nam là quân đội của đảng, hoàn toàn không phải quân đội quốc gia nên không thể phi đảng phái hóa, tuyệt đối không thể đứng ngoài chính trường và phục vụ, bảo vệ quyền lợi của nhân dân.
Sự khẳng định quyền sở hữu quân đội vào thời điểm này có thể được xem như một bất ngờ lớn. Sự khẳng định này sẽ đem đến nhiều hệ lụy khôn lường cho đảng cộng sản.
Khi khẳng định quân đội là một bộ phận cấu thành của đảng, được đảng tổ chức và rèn luyện. quân đội phải tuyệt đối trung thành với đảng thì quân đội đó sẽ không được sử dụng lãnh thổ Việt Nam cho các hoạt động của mình, không được sử dụng ngân sách quốc phòng trích từ tiền thuế do nhân dân đóng góp. Bên cạnh đó, công dân Việt Nam không phải đảng viên hoặc cảm tình đảng có quyền hợp pháp từ chối thực hiện nghĩa vụ quân sự với một đội quân của một tổ chức chính trị.
Đặc biệt, khi công khai quyền sở hữu quân đội, đảng cũng gián tiếp thừa nhận quân đội nhân dân Việt Nam là cú lừa lịch sử với dân tộc khi đội quân này không phải do nhân dân thông qua đại diện của mình thành lập tổ chức nhưng bao nhiêu năm qua lại sử dụng tiền thuế của nhân dân cho các hoạt động của mình. Nếu vẫn giữ lập trường cũ, đảng sẽ phải giải trình, hoàn trả toàn bộ tiền thuế theo tỷ giá hiện hành và chịu trách nhiệm trước nhân dân vì sự lừa dối đó. Ngoài ra, đảng cộng sản cũng sẽ phải đối mặt với việc kiện tụng đòi bồi thường những mất mát của nhiều thế hệ thanh niên Việt Nam khi ép buộc họ thực hiện nghĩa vụ quân sự bắt buộc, đổ xương máu cho một đội quân không phải đại diện cho quốc gia mình.
Hơn nữa, khi không phải là quân đội quốc gia, với những hoạt động trong quá khứ, quân đội nhân dân Việt Nam có thể bị cộng đồng thế giới xem như một lực lượng khủng bố, rất có khả năng phải hứng chịu những cáo buộc liên quan tới tội ác chống lại nhân loại và điều đó đồng nghĩa với việc sẽ hứng chịu những lệnh cấm vận triệt để từ Liên Hợp Quốc.
Công khai không chấp nhận quốc gia hóa quân đội, hiến định sự lãnh đạo tuyệt đối của đảng với quân đôi, đảng đã tạo ra một tiền lệ không hay. Khi chiếu theo nguyên tắc bình đẳng, thì tất cả đảng phái khác, các hội đoàn, tổ chức chính trị đều có quyền thành lập quân đội. Khi đó, Việt Nam sẽ thành một chiến trường cho các đội quân đó thi thố. Trớ trêu thay, đội quân nào cũng có thể xưng danh quân đội nhân dân Việt Nam.
Như vậy, có thể thấy, cái giá của việc công khai quyền sở hữu quân đội là quá đắt với đảng. Không lẽ, những nhà lý luận quân sự của đảng lại không thấy điều đó? Hay, cái giá đó chính là “chi phí cơ hội” mà đảng sẵn sàng chấp nhận vì những mục đích lớn hơn ẩn phía sau những lời khẳng định ấy?
Điều gì khiến đảng cộng sản Việt Nam phải chơi một ván bài với chi phí cá cược cao đến như thế, khi cuộc chơi trên chính trường Việt Nam vẫn là màn độc diễn của đảng? Để làm rõ điều này, cần phải xem lại những biến cố và thách thức gần đây với thượng tầng đảng cộng sản Việt Nam.
Chưa bao giờ, quyền lực của đảng bị thách thức như hiện nay, tại hội nghị trung ương 6, nhóm lợi ích (giai cấp?!) nằm trong đảng đã vô hiệu hóa quyền lực đầu não của đảng là bộ chính trị. Thực tế, tại hội nghị trung ương 6, nhóm lợi ích đã kết vòng hoa tang tiễn đảng với bản chất là một tổ chức chính trị vào dĩ vãng. Làm được điều tưởng chừng như không thể ấy, họ đã có sự giúp đỡ không thể tuyệt vời hơn với sự trở cờ của quân đội, điều mà những lãnh đạo bảo thủ trong đảng không ngờ tới. Thế nên, sẽ chẳng có gì bất ngờ khi những lãnh đạo đó tận dụng khoảng thời gian mà đối thủ đang tơi tả để đưa quân đội với tư cách công cụ bạo lực của đảng về phía mình, sẵn sàng cho những cuộc chơi chính trị tiếp theo.
Kinh tế Việt Nam đang có dấu hiện sụp đổ do khủng hoảng kinh tế kéo dài cùng với sự lãnh đạo kém cỏi của đảng. Tình trạng này có thể thổi bùng những bất mãn xã hội đã tích tụ bấy lâu nay, châm ngòi cho các cuộc đấu tranh của nhân dân. Kinh nghiệm từ Liên Xô và các nước Đông Âu đã chỉ ra rằng, quân đội sẽ đứng về phía nhân dân khi áp lực từ phong trào dân sự đủ lớn. Mất quyền kiểm soát quân đội, chính phủ các nước cộng sản này nhanh chóng sụp đổ. Cũng cần phải thấy rằng, tại các nước cộng sản đã sụp đổ trước đây, quân đội đã mất niềm tin vào đảng cầm quyền khi nhận thức được vấn đề chính của quốc gia. Điều này khiến các quốc gia trong hệ thống xã hội chủ nghĩa còn rơi rớt lại làm tất cả mọi cách để giữ quyền kiểm soát quân đội, cột chặt quân đội quốc gia vào ý thức hệ của mình, qua đó chi phối, sử dụng công cụ bạo lực trong vấn đề đối nội nhằm giữ quyền lực trước những biến cố có thể xảy ra. Việt Nam cũng không phải ngoại lệ, khi tính chính danh của quyền lực bị thách thức nghiêm trọng, bởi ngoài sử dụng bạo lực để duy trì quyền lực liệu còn phương pháp nào tối ưu hơn?.
Thế nên, để giữ quyền lực tuyệt đối, với những đặc quyền đặc lợi không tưởng thì cái giá bị xem là quá đắt ấy, khi chưa thật sự có một đối thủ xứng tầm thách thức xem ra cũng đáng để chấp nhận. Nhưng về lâu dài, kiểu chơi dao này sớm muộn cũng dẫn tới đứt… mạng.
Khẳng định tử huyệt: Đảng ôm bom
Khẳng định quân đội là công cụ bạo lực của riêng mình, đảng sẽ có những ưu thế lớn trong cuộc chiến giữ quyền lực. Thế nhưng, ưu thế đó chỉ mang tính thời điểm. Khi phong trào dân sự đủ mạnh, ưu thế bạo lực đảng đang có sẽ trở thành quả bom ngay trong lòng đảng. Đó không đơn thuần là một quả bom thông thường mà sẽ là một quả bom hạt nhân, với sức công phá khủng khiếp đủ để đưa đảng vào dĩ vãng.
Đảng đang siết chặt chiếc thòng lọng ý thức hệ vào quân đội, nhưng hiệu quả của chiếc thòng lòng đó gần như con số không với ngay cả đảng và các quân nhân xuất thân bình dân trong quân đội. Có chăng, chỉ là trao thêm quyền lợi và quyền lực cho nhóm tướng tá lãnh đạo và các sỹ quan xuất thân “hoàng gia” (COCC). Điều này không giải quyết vấn đề chỗ dựa cho đảng trong cuộc chiến quyền lực, bởi khi để các lãnh đạo quân đội tham gia quá sâu vào chính trường, trao quá nhiều quyền lực cho nhóm tướng lĩnh lãnh đạo thì càng tạo thêm nguy cơ tiềm ẩn về quyền lực của đảng. An ninh quyền lực chưa chắc được đảm bảo thì có thể đối diện với bất ổn vì suy cho cùng, dù lãnh đạo quân đội có là một gã thất phu đi chăng nữa thì gã vẫn có súng.
Vấn đề của quân đội, nếu xem xét kỹ còn trầm trọng hơn vấn đề của đảng, quân đội đã tha hóa trầm trọng, năng lực chiến đấu kém cỏi, tham nhũng, chạy chức chạy quyền tràn lan từ thượng tầng tướng lĩnh tới tận cấp phân đội. Cơ chế quản lý lỗi thời đã tạo điều kiện cho quân đội tha hóa, thì việc để quân đội làm kinh tế đẩy lực lượng tha hóa tới mức không thể cứu chữa. Quân đội làm kinh tế đã tạo ra những tên tư sản lưu manh mang quân hàm và súng. Đây chính là kíp nổ chính của quả bom mà đảng đang cố gắng ôm.
Ngoài ra, mâu thuẫn của nhóm sỹ quan “hoàng gia” mang nhiều đặc quyền đặc lợi với đại bộ phận quân nhân xuất thân bình dân, sống với mức thu nhập chỉ đủ thoi thóp trong cơn bão giá cũng là một nguy cơ tiềm ẩn. Khẳng định “quân đội là một bộ phận cấu thành của đảng” thì mâu thuẫn bắt nguồn từ đó, sẽ khiến đảng đi tới con đường sụp đổ nhanh nhất. Khi sức mạnh chính của quân đội không nằm ở ý thức hệ, cũng không phải từ đám sỹ quan con ông cháu cha mà ở đám đông quân nhân bình dân kia. Bất mãn của đội quân đó đã được kiểm nghiệm tại các chính thể đã sụp đổ ở Đông Âu, gần đây nhất là quân đội Iraq thời Saddam Hussein hay quân đội Libia của Gadafi, trước các biến cố mang tính thời đại, họ đã quay súng trở về với nhân dân, làm nòng cốt cho lực lượng vũ trang đối lập, đẩy nhanh hơn quá trình sụp đổ của chế độ.
Sự chuẩn bị đưa quân đội thống nhất làm một bộ phận của đảng đã được các bộ phận có liên quan thực hiện một cách tỉ mỉ, từ việc áp dụng nghị quyết 51 của bộ chính trị về chế độ chính ủy trong quân đội, đến các bài báo xuất hiện dày đặc trên loại hình báo chí chính thống và bản dự thảo hiến pháp bổ sung sửa đổi hiến pháp năm 1992. Dù vậy, đảng cũng không thể lường hết những rủi ro mà mình sẽ phải hứng chịu. Vấn đề sống còn của đảng nằm ở yếu tố quân đội và chấp nhận đánh bài ngửa bằng lá bài quân đội. Xem ra, lần này đảng đang như một vị vua già quẫn trí.
Điều 71, bản dự thảo sửa đổi hiến pháp, đã cố ý bỏ cụm “nhà nước xây dựng quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng” từ điều 46 hiến pháp năm 1992 với dụng ý gì? [3] Phải chăng là một màn tung hỏa mù, gây lẫn lộn trong danh xưng quân đội quốc gia hay quân đội của tổ chức chính trị. Cụm từ “Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng được xây dựng” trong điều 71, bản dự thảo sửa đổi hiến pháp, có thể được dự trù để trong trường hợp khi cần có thể ngụy xưng quân đội quốc gia, khi thực hiện nhiệm vụ bảo vệ lợi ích cho đảng có thể công khai thừa nhận là quân đội của đảng nên tuyệt đối trung thành vì lợi ích của đảng.
Nên nhớ rằng, nhân dân là chủ thể đóng thuế để nuôi toàn bộ bộ máy nhà nước, trong đó một phần tiền thuế được trích ra để nuôi quân đội quốc gia. Việc điều hành công việc của quốc gia dù do bất kỳ cơ quan nào cũng phải chiếu theo ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Chỉ duy nhất nhân dân thông qua đại diện của mình là quốc hội mới có quyền thành lập, tổ chức, xây dựng quân đ.ội lấy danh nghĩa quân đội quốc gia, được phép sử dụng ngân sách của nhà nước, được quyền sử dụng không phận, hải phận và địa phận cho các hoạt động hợp pháp của mình. Nếu hiến pháp cố tình viết một cách mù mờ như vậy, thì công dân ai cũng có quyền xây dựng quân đội, khi đó e rằng đảng có kịp vứt quả bom kia hay không?
Vì thế, khi đảng đã không thể tự điều chỉnh, không thể thay đổi được chính bản thân của đảng thì việc đảng lạm dụng bạo lực, lôi kéo quân đội về phía mình để chiến thắng chỉ mang tính hiện tượng, nhất thời. Còn về lâu dài, chính đảng sẽ chết ngay trên tử huyệt của mình dẫu có ra sức che giấu, củng cố hay ngụy biện. Có lẽ, đó là con đường và cái kết không thể tránh khỏi của bất kỳ một chính thể đọc tài nào thành hình, tồn tại dựa trên bạo lực và sợ hãi.
.
N.T.L.
.
“Quân đội phải trung lập về chính trị” là đòi hỏi phi lý
Lướt mạng, thấy trên lĩnh vực nào cũng thấy ông A, ông D, ông V… rất tích cực “phản biện” các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong lãnh đạo, quản lý mọi mặt của đời sống xã hội, nhất là khi Nhà nước lấy ý kiến của các tầng lớp nhân dân vào bản DTSĐHP 1992. Một trong những “phản biện” của các ông là kiến nghị bỏ Điều 70 DTSĐHP 1992 và yêu cầu Quân đội phải “trung lập về chính trị”!
Là những “nhân sĩ, trí thức”, học rộng, tài cao chắc các ông hiểu rõ nguồn gốc, khái niệm chính trị, quân đội hơn tôi nhiều!
Tôi chỉ nhắc lại vài kiến thức cơ bản về lý luận và thực tiễn liên quan đến nội dung này. Theo đó, chính trị là một hiện tượng xã hội mang tính lịch sử, ra đời khi xuất hiện chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và đối kháng giai cấp. Vì lẽ đó, chính trị phản ánh toàn bộ những hoạt động có liên quan đến các mối quan hệ giữa các giai cấp, giữa các dân tộc, các tầng lớp xã hội, mà cốt lõi của nó là giành chính quyền, duy trì và sử dụng quyền lực nhà nước, sự tham gia vào công việc nhà nước, sự xác định hình thức, tổ chức, nhiệm vụ, nội dung hoạt động của nhà nước. Quân đội được hình thành để bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, phục vụ cho mục tiêu, lý tưởng của giai cấp thống trị xã hội, luôn mang bản chấp giai cấp sâu sắc; làm gì có cái thứ quân đội “phi giai cấp”, “trung lập”, “đứng ngoài chính trị” như ảo tưởng của các ông. Trong thực tiễn, từ xưa đến nay, trên thế giới chẳng có thứ quân đội nào là quân đội phi chính trị. Quân đội của các nước TBCN hiện nay, cứ tưởng là trung lập, là đội quân nhà nghề, nhưng thực chất chẳng “đứng ngoài chính trị” chút nào. Những người chỉ huy của quân đội tư sản đều tuân theo đường lối của giai cấp cầm quyền, hiện nay họ đang phục tùng mục đích của nhà nước tư sản, đưa quân đội đi khắp thế giới để thực hiện tham vọng chính trị ngông cuồng đó sao!
Ở VN, chắc các ông thừa hiểu về sự ra đời, xây dựng chiến đấu và trưởng thành của QĐNDVN. Ngày 22-12-1944, anh Văn (Đại tướng Võ Nguyên Giáp) đã đọc Chỉ thị thành lập Đội VN TTGPQ (tổ chức tiền thân của QĐND VN ngày nay) của Bác Hồ, trong đó chỉ rõ: “Tên: Đội VN Tuyên truyền Giải phóng quân nghĩa là chính trị trọng hơn quân sự. Nó là đội tuyên truyền”. Sau này, ở Bài nói trong buổi chiêu đãi mừng Quân đội 20 tuổi, Bác Hồ tiếp tục khẳng định: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì CNXH. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Thưa các ông, với tinh thần “chính trị trọng hơn quân sự”, từ khi ra đời đến nay, QĐNDVN luôn “trung với Đảng, hiếu với dân”, vượt qua mọi gian khổ, hy sinh, không ngừng lớn mạnh, trưởng thành, làm nòng cốt cho toàn dân ta đánh thắng mọi thứ giặc ngoại xâm (dù chúng có hung hãn, được trang bị hiện đại đến đâu), giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Lịch sử hiện đại của dân tộc VN đã chứng minh rõ điều đó. Cũng vì thế, hàng triệu chiến sĩ ưu tú vốn là nông dân, công nhân, nhân sĩ, trí thức… (trong đó có những người cùng trang lứa với các ông) đã hy sinh hoặc để lại một phần xương máu của mình trên khắp các chiến trường. Máu đào của họ đã tô thắm nền độc lập của dân tộc, cho hạnh phúc của nhân dân, để đất nước ta, dân tộc ta có được như ngày hôm nay.
Cho nên, cái gọi là kiến nghị bỏ điều 70 DTSĐHP 1992, đòi “các lực lượng vũ trang phải duy trì tính trung lập về chính trị” là hết sức phi lý. Nó phi lý cả về lý luận, thực tiễn và đi ngược với đạo lý “Uống nước, nhớ nguồn”, “Đền ơn, đáp nghĩa” của dân tộc VN.
Thực ra, các ông đang chơi trò “đánh lận con đen”, “rắn giả lươn”. Các ông lợi dụng bầu không khí dân chủ của nước nhà để chơi trò “phản biện” với dụng ý xấu. Bản chất, mục đích của các ông là muốn ĐCSVN từ bỏ quyền lãnh đạo Nhà nước và xã hội, từ bỏ trọng trách bảo vệ những thành quả cách mạng của nhân dân ta đã giành được suốt hơn 80 năm qua, học đòi “đa nguyên, đa đảng”, nhằm lái con đường phát triển của dân tộc theo mô hình chính trị của phương Tây(!) Để làm được điều đó, các ông âm mưu biến QĐNDVN thành một “cỗ máy chiến tranh”, không có linh hồn (chính trị).
Thật là ảo tưởng! Nếu nghe theo, làm theo các ông thì đất nước sẽ rơi vào hỗn loạn, nhân dân sẽ đau khổ, lầm than. Vì vậy, những điều các ông “phản biện”, đòi hỏi phi lý như thế sẽ chẳng bao giờ được nhân dân VN chấp nhận.