WordPress database error: [Expression #1 of ORDER BY clause is not in GROUP BY clause and contains nonaggregated column 'oldsite_dcvwp.wp_posts.post_date' which is not functionally dependent on columns in GROUP BY clause; this is incompatible with sql_mode=only_full_group_by]
SELECT YEAR(post_date) AS `year`, MONTH(post_date) AS `month`, count(ID) as posts FROM wp_posts WHERE post_type = 'post' AND post_status = 'publish' GROUP BY YEAR(post_date), MONTH(post_date) ORDER BY post_date DESC

 
|

Hoa Kỳ và Cam Ranh

Ông Leon Panetta, Bộ Trưởng quốc phòng Hoa Kỳ sau khi tham dự Hội nghị Shangri-La tại Singapore với 27 Bộ trưởng quốc phòng trên thế giới (1) hôm Chủ Nhật 3 tháng 6-2012 đã đến viếng căn cứ Cam Ranh mở đầu chuyến công du Việt Nam 3 ngày. Đây là chuyến thăm viếng căn cứ Cam Ranh đầu tiên của một bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ kể từ khi Hoa Kỳ rút quân ra khỏi căn cứ sau Hiệp Định Paris 1973.

Bộ trưởng Quốc phòng LeonPanetta tại Cam Ranh

Công bố chính thức của cuộc công du Việt Nam là để thúc đẩy việc tìm kiếm tung tích của 1200 binh sĩ Mỹ đã chết trong cuộc chiến Việt Nam nhưng chưa tìm được hài cốt. Và đồng thời thăm chiến hạm Richard E. Byrd, một chiến hạm chuyên chở binh sĩ của Hải quân Hoa Kỳ đang neo để sửa chữa tại Cam Ranh. Chuyên viên sửa tàu của Việt Nam đã được gởi đến giúp chuyên viên Hoa Kỳ trong việc sửa chữa.

Dù được công bố mục đích của chuyến thăm viếng là gì, và các lời tuyên bố rào được đón sau của Hà Nội cũng như của Hoa Kỳ để làm yên lòng Trung quốc, sự hiện diện của ông bộ trưởng Panetta là một thông điệp không thể nhầm lẫn của Hoa Kỳ đối với Trung quốc.

Tại Hội nghị Shangri-La ở Singapore ông Panetta đã cảnh giác Trung quốc rằng nếu Hoa Kỳ đưa sức mạnh quân sự trở lại Tây Thái Bình Dương Hoa Kỳ không có mục đích đe dọa quyền lợi của Trung quốc. Và ông Panetta thuyết phục Trung quốc rằng nói chuyện với nhau tốt hơn là cãi vã nhau.

Tại Singapore, ông Panetta không nói gì đến việc ông sắp thăm viếng Cam Ranh, và chỉ nói rằng Trung quốc đừng ngạc nhiên nếu trong tương lai Hoa Kỳ đưa thêm nhân sự và tàu chiến vào vùng Á châu Thái Bình Dương. Ông cũng không ngần ngại tiết lộ rằng vào năm 2020, 60% trong số 285 tàu chiến của Hoa Kỳ sẽ hiện diện tại vùng Á châu Thái Bình Dương và ông cũng cho biết 6 trong số 11 mẫu hạm của Hoa Kỳ cũng sẽ thường trực tại Á châu. Ông Panetta nói kế hoạch bố trí dài hạn 8 năm trước mắt của Hải quân Hoa Kỳ đã được dự liệu dù ngân sách quốc phòng được cắt giảm.

Căn cứ Cam Ranh là một quân cảng quan trọng, và có thể nói ai quản lý Cam Ranh là người kiểm soát Biển Đông và con đường thông thương huyết mạch từ Ấn Độ Dương lên phía Bắc Thái Bình Dương. Năm 1964 Hải quân Hoa Kỳ bắt đầu nghiên cứu địa hình cảng Cam Ranh chuẩn bị mở rộng cuộc chiến bảo vệ miền nam Việt Nam ra miền Bắc. Và đầu năm 1965 sau khi Hải quân Hoa Kỳ và Hải quân Việt Nam Cộng Hòa phát hiện và đánh đắm một chiếc tàu trọng tải 100 tấn của Bắc Việt chở vũ khí tiếp tế cho bộ đội cộng sản ở miền Nam tại Vũng Rô (trong vùng Đèo Cả thuộc tỉnh Phú Yên) Hoa Kỳ quyết định xây dựng Cam Ranh thành một căn cứ Hải Không quân.

Từ năm 1965 đến năm 1973 Cam Ranh là một cứ điểm quan trọng của Hoa Kỳ. Quân đội và tiếp liệu cho toàn cuộc chiến đều ra vào qua cảng Cam Ranh. Sau Hiệp Định Paris 1973 Hoa Kỳ rút các lực lượng ra khỏi Cam Ranh, và giao lại cho quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Việt Nam Cộng Hòa không có phương tiện duy trì Cam Ranh như một căn cứ và chỉ xử dụng phi trường Cam Ranh một cách giới hạn.

Vào đầu tháng 4/1975 cảng Cam Ranh còn được xử dụng để tiếp người tị nạn từ miền Trung. Ngày 3/4/1975 quân đội VNCH rút khỏi Cam Ranh.

Sau khi chiếm miền Nam, Hải quân Bắc Việt một phần không có nhu cầu, một phần không có khả năng nên căn cứ Cam Ranh bỏ trống. Năm 1979, sau cuộc chiến biên giới với Trung quốc, Việt Nam cho Nga thuê Cam Ranh trong 25 năm. Mục đích chính yếu là dùng sự hiện diện của Nga ngăn ngừa một cuộc xâm lăng Việt Nam của Trung quốc. Nga đã biến cảng Cam Ranh thành một căn cứ hải quân lớn ngoài lãnh thổ Nga. Nga cho xây thêm tại Cam Ranh 5 cầu tàu, 2 bãi đưa tàu lên cạn để bảo trì và sửa chữa, xây thêm cơ sở cho tàu ngầm ẩn núp, kho chứa dầu, nhà máy điện, doanh trại và kéo dài phi đạo. Năm 1991 Liên bang Xô viết sụp đổ, quan hệ giữa Việt Nam và Trung quốc thay đổi. Giữa năm 2002, Nga rút khỏi Cam Ranh. Sau khi Nga rút đi, Trung quốc ve vãn Hà Nội để thuê cảng Cam Ranh, nhưng Hà Nội vẫn còn đủ tỉnh táo để không “bán” Cam Ranh cho Trung quốc dù căn cứ được bỏ trống .

Những năm gần đây Hà Nội cho chuyển phi trường dân sự Nha Trang vào Cam Ranh dùng cho các chuyến bay nội địa. Người ta đoán Hà Nội có ý dân sự hóa hải cảng Cam Ranh, và sau đó quốc tế hóa Cam Ranh để giải tỏa áp lực đòi thuê bao xử dụng của Trung quốc. (Hải Cảng Cam Ranh, www.tranbinhnam.com, bình luận số 335.

Quyết định đó của Hà Nội là một quyết định có tính chiến lược đúng đắn chừng nào Trung quốc còn biết tự chế trong việc đòi quyền làm chủ Biển Đông và giành quyền kiểm sóat con đường biển quan trọng của thế giới.

Thời gian cho thấy Trung quốc dường như đặt mục tiêu “trở thành siêu cường” là một nhiệm vụ lịch sử và bước đầu là bung ra Biển Đông, biến Biển Đông thành cái “hồ nhà” của mình để dọn đường đi bốn biển năm châu. Trung quốc biết rằng sức mạnh của Hoa Kỳ đang đi xuống nhưng còn mạnh hơn mình nhiều và Trung quốc sẽ chờ đợi:10 năm, 15 năm, trước khi đọ sức với Hoa Kỳ.

Nhưng với các nước nhỏ trong vùng Trung quốc không cần chờ đợi. Trung quốc dùng chính sách o ép bằng kinh tế và chính trị. Riêng với Việt Nam ngoài áp lực kinh tế Trung quốc còn dùng nợ nần và ơn nghĩa cũ để làm áp lực. Đối với Trung quốc, Việt Nam là quốc gia có tiềm năng nhất nên nếu trị được Việt Nam, các nước khác trong khối Asean sẽ phải cúi đầu thuần phục. Cho nên trong những năm qua Trung quốc đã triển khai một chính sách “lấn ép” Việt Nam trên Biển Đông. Và năm 2011 là năm Trung quốc làm những hành động bắt nạt Việt Nam lộ liễu nhất.

Giữa năm 2011 chính quyền đảo Hải Nam công bố lệnh ngưng đánh cá trong Biển Đông và gởi hằng trăm tàu hải giám để chận bắt ngư dân Việt Nam. Ngày 1/6 Trung quốc dọa bắn một ngư thuyền Việt Nam gần Trường Sa và ngày 5/7 nhân viên Hải giám Trung quốc đánh đập một chủ thuyền khác trước khi dùng vũ lực đuổi ra khỏi vùng biển “cấm” tại Hoàng Sa.

Trung quốc cũng còn tìm cách ngăn cản việc khai thác dầu khí của Việt Nam trong vùng Đặc quyền Kinh tế (Exclusive Economic Zone – EEZ). Ngày 26/5 Trung quốc cho 3 tàu Hải giám đến lén cắt giây cáp dò tìm dầu khí của tàu Bình Minh 2 của Cục Dầu khí PetroVietnam . Đây là lần đầu tiên Trung quốc xâm phạm một cách lộ liễu vùng EEZ của Việt Nam.

Trong hai ngày liên tiếp 29 và 30/5 trong khi tàu khảo sát Viking II do PetroVietnam thuê tìm dầu khí trong bãi Tư Chính (Vanguard Bank), một tàu hải giám Trung quốc đến cắt giây kéo dụng cụ tìm dầu. Lực lượng bảo vệ Viking II của Việt Nam đã ngăn cản đuổi tàu hải giám của Trung quốc đi và hai bên xuýt đụng đô nhau bằng vũ lực. Chưa hết, ngày 9/6 Trung quốc lại cho tàu đánh cá đến cắt giây cáp của Viking II. Và cuối tháng 6 một vụ cắt giây cáp khác lại diễn ra chung quanh bãi Tư Chính.

Trước các hành động khiêu khích và lần lướt của Trung quốc, Việt Nam đã áp dụng đối sách phản ứng nhiều mặt: 1/ đối đầu (không dùng vũ khí) trên thực địa, 2/ thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết tuyên bố mạnh mẽ Việt Nam sẽ hy sinh tất cả để bảo vệ chủ quyền biển đảo của quốc gia, 3/ làm ngơ để nhân dân Hà Nội và Sài gòn biểu tình trong các ngày Chủ Nhật trong suốt 12 tuần từ đầu tháng 6, và sau cùng, 4/ không quên mặt ngoại giao gởi giới chức cao cấp đi Trung quốc nói chuyện hơn thiệt (Trung Quốc bắt nạt Việt Nam, www.tranbinhnam.com, bình luận số 413).

Nhưng các hành động của Trung quốc trên Biển Đông không phải là những đụng chạm ngoài ý muốn, mà là các hành động trong chính sách nên các đối sách đáp ứng của Việt Nam không còn thích hợp. Việt Nam cần phải có một chọn lựa khác.

Có nhiều dấu hiệu năm 2012 là năm căng thẳng. Đầu tháng 3/2012 Trung quốc bắt giữ 21 ngư dân Việt Nam và hai thuyền đánh cá trong vùng biển Hoàng Sa (Trung quốc đã chiếm bằng vũ lực đầu năm 1974) đòi tiền chuộc. Và Việt Nam cũng chỉ có thể phản ứng bằng nước bọt. Giữa tháng 4 Trung quốc gây hấn với Phi luật Tân tại bãi cạn Scarborough của Phi, và với lời lẽ “dao to búa lớn” của Trung quốc người ta chờ đợi những bước lấn tới trong chính sách đã được hoạch định của Trung quốc. Dường như Trung quốc muốn khiêu khích để Việt Nam chịu không nổi phải đánh trả và họ có cớ để ra tay đẩy cuộc tranh chấp sang một tầng cao khác có lợi cho họ.

Trong tình hình hiện nay Cam Ranh trở thành một cái chìa khóa giải quyết cuộc tranh chấp Biển Đông. Nếu trong 10 năm qua (từ 2002 khi Nga rút ra khỏi Cam Ranh) Việt Nam đã từ chối mọi ve vãn quốc tế xử dụng cảng Cam Ranh và nhắm quốc tế hóa cảng này là một chính sách khéo léo thì với các chuyển biến càng lúc càng tăng cường độ của Trung quốc có thể buộc Việt Nam phải có một chọn lựa khác.

Đồng minh và quan hệ an ninh có văn bản đối với Hoa Kỳ có lẽ còn quá sớm. Nhưng nếu có giao kèo để Hoa Kỳ xử dụng Cam Ranh thì có lẽ cũng là một thế bài giải nước bí của Việt Nam. Trước đây người ta vẫn đặt câu hỏi: Hoa Kỳ có muốn xử dụng lại Cam Ranh hay không. Và không ai có câu trả lời dứt khoát. Chuyến thăm viếng Cam Ranh của bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ Leon Panetta và sự tiếp đón nồng hậu của Việt Nam là một câu trả lời từ hai phía không nhầm lẫn được.

Tín hiểu chuyển đổi chính sách của Hoa Kỳ và Việt Nam sẽ làm Trung quốc rà soát và điều chỉnh lại chiến thuật tiến ra Biển Đông của họ. Và lịch trình Hoa Kỳ thuê bao Cam Ranh để làm căn cứ tiếp vận cho Hạm đội 7 còn tùy thuộc vào sự điều chỉnh này.

Có thể còn rất lâu. Nhưng chuyến thăm Cam Ranh của ông Panetta sẽ làm cho tính cách bè bạn giữa Hoa Kỳ và Việt Nam thay đổi, và quan hệ giữa Trung quốc và Việt Nam sẽ không còn như trước. Nếu giữa Việt Nam và Trung quốc còn đồng sáng với 16 giữ vàng giả dối thì “mộng” cũng đã khác nhau nhiều.

June 5, 2012

binhnam@sbcglobal.net

www.tranbinhnam.com

——————————–

1) Hội nghị Tổng trưởng quốc phòng của 27 nước Australia, Brunei, Burma, Cambodia, Canada, France, Germany, India, Indonesia, Japan, Laos, Malaysia, Mongolia, New Zealand, Pakistan, People’s Republic of China, Philippines, Russia, South Korea, Sri Lanka, Singapore, Thailand, East Timor, United Kingdom, United States và Vietnam. họp hằng năm tại khách sạn Shangri-La ở Singapore bắt đầu từ năm 2002 do sáng kiến và tổ chức bởi Viện Nghiên Cứu Chiến Lược Quốc Tế (International Institute for Strategic Studies). Do đó hội nghị này có tên là Hội nghị Shangri-La (Shangri-La dialogue)

146 Phản hồi cho “Hoa Kỳ và Cam Ranh”

  1. vietnam says:

    Nhật Bản ca ngợi đối sách biển Đông của Việt Nam

    Tờ Sankei Shimbun (Nhật Bản), ngày 21/6, đã đăng một bài viết của phóng viên phụ trách Trung Quốc có tên Isao với tựa đề: “Nhật Bản nên học theo Việt Nam”.
    (ĐVO) Bài báo cổ vũ việc chính phủ Nhật Bản nên bắt chước phương thức ngoại giao của Việt Nam trong các tranh chấp biển đảo với Trung Quốc.

    Bài báo nói rằng “tấm gương” cho Nhật Bản hiện nay chính là Việt Nam. Dù có những thua kém về sức mạnh quân sự, nhưng trên mặt trận ngoại giao, trí tuệ Việt Nam được phát huy rất mạnh mẽ và không hề tỏ ra lép vế so với Trung Quốc.

    Đối với vấn đề biển Đông, Việt Nam sử dụng con bài ngoại giao đa phương làm một mũi tấn công sắc bén. Trong những năm gần đây, Việt Nam liên tục mua sắm mới và nâng cấp vũ khí từ Liên Bang Nga, đồng thời hợp tác khai thác dầu khí ở các giếng dầu trên biển Đông, đẩy mạnh hợp tác trên các lĩnh vực kinh tế và quốc phòng với Mỹ, xây dựng căn cứ hải quân và tổ hợp bảo dưỡng tàu chiến ở quân cảng Cam Ranh…

    Những thành tựu mà đạt được trên mặt trận ngoại giao giúp Việt Nam nâng cao sức mạnh tổng hợp của mình, trong khi đó quan hệ song phương Việt – Trung cũng không hề bị gián đoạn hoặc làm xấu đi. “Vậy tại sao chính quyền của Thủ tướng Noda Noshihiko lại không học tập theo phương pháp của Việt Nam?”, tác giả Isao đặt vấn đề.

    Cũng trong bài viết trên, tác giả Isao cho rằng các chiến lược, chiến thuật của Trung Quốc hết sức đa dạng, diễn ra trên các mặt trận truyền thông, kinh tế hay thậm chí bằng vũ lực. Do vậy, nếu chính quyền Tokyo hoặc Chính phủ Nhật Bản nhân rộng mô hình mua hoặc quốc hữu hóa các đảo tranh chấp thì mâu thuẫn Nhật – Trung sẽ trở nên lớn hơn bao giờ hết.

    Hiện nay, tranh chấp ở đảo Senkaku giữa Nhật Bản và Trung Quốc ngày càng căng thẳng. Để đối phó với kế hoạch mua đảo của chính quyền thành phố Tokyo, phía Trung Quốc liên tục tập trung công kích vào thị trưởng thành phố này ông Ishihara Shintarō.

    Báo chí Trung Quốc mô tả ông Ishihara Shintaro là một nhân vật chính trị hiếu chiến – một hiện thân của các phi công cảm tử Kamikaze của Nhật Bản trong chiến tranh Thái Bình Dương hồi Thế chiến 2. Theo đó, ông này từng kêu gọi vũ trang Nhật Bản bằng vũ khí hạt nhân, điều mà ông cho rằng có thể thực hiện trong vòng một năm. “Một chính trị gia như thế có thể sẽ đưa Nhật Bản vào một vòng xoáy chiến tranh mới”, truyền thông Trung Quốc nhận xét. Thực chất các chỉ trích vị thị trưởng Tokyo là đòn đánh gián tiếp nhắm vào chính quyền trung ương Nhật Bản.

    Bài báo cho rằng nếu Tokyo vẫn còn e ngại Trung Quốc và vẫn giữ thái độ ngoại giao hòa hoãn như hiện nay thì sẽ rất khó khăn trong việc giữ vững chủ quyền biển đảo của Nhật Bản.

    Theo nhà báo Isao, Nhật Bản nên học tập theo cách trên, ngoài quan hệ đồng minh chiến lược với Mỹ, Nhật Bản cũng nên tăng cường hợp tác với các nước ASEAN, Ấn Độ, cũng như tìm cách gia tăng tính ổn định và thân thiết với đất nước có khả năng khắc chế Trung Quốc là Nga.

    Hiện nay Nhật Bản vẫn xem Nga là một mối đe dọa ở phía Bắc, hai nước đang có tranh chấp chuỗi đảo. Tranh chấp này là trở ngại chính khiến hai nước chưa thể ký hiệp ước hòa bình dù Chiến tranh Thế giới thứ 2 đã qua hơn 60 năm. Bốn hòn đảo thuộc Kurils thuộc quyền kiểm soát của Liên Xô sau khi quân đội nước này chiếm được vào những ngày cuối cùng của Thế chiến 2. Người Nhật sinh sống trên các đảo khi đó bị trục xuất, thay thế bằng người Nga.

    Trong khi đó quan hệ Nga – Trung được đánh giá là nồng ấm và “vững như bàn thạch”, nếu Nhật Bản vừa muốn dùng Nga để khắc chế Trung Quốc vừa muốn thu hồi lại vùng chuỗi đảo Kuril (Nhật Bản gọi là Vùng lãnh thổ phía Bắc) là một việc rất khó khăn. Do đó, Nhật Bản cần có một chiến lược linh hoạt và lâu dài.

Leave a Reply to vietnam