WordPress database error: [Expression #1 of ORDER BY clause is not in GROUP BY clause and contains nonaggregated column 'oldsite_dcvwp.wp_posts.post_date' which is not functionally dependent on columns in GROUP BY clause; this is incompatible with sql_mode=only_full_group_by]
SELECT YEAR(post_date) AS `year`, MONTH(post_date) AS `month`, count(ID) as posts FROM wp_posts WHERE post_type = 'post' AND post_status = 'publish' GROUP BY YEAR(post_date), MONTH(post_date) ORDER BY post_date DESC

 
|

Viết cho ngày 01 tháng 11

Đối với phần lớn người từ miền Bắc di cư vào Nam năm 1954 thì sự kiện ngày 01 tháng 11 năm 1963 mãi mãi là một cơn ác mộng, nhất là bản tin ngắn được phát đi vào khoảng 10 giờ sáng ngày 02 tháng 11, loan báo về cái chết của Tổng Thống Ngô Đình Diệm và cố vấn Ngô Đình Nhu đã thực sự làm suy sụp tinh thần của hầu hết đồng bào di cư, nhất là đồng bào công giáo. Đối với hầu hết người Bắc di dân thì cái chết của Tổng Thống Ngô Đình Diệm và sự cáo chung của nền Đệ Nhất Cộng Hòa là một hồi chuông báo tử cho nền cộng hòa ở miền Nam. Những giáo dân di cư, trong đó có cả ông tôi, đã mường tượng một ngày quân đội cộng sản tiến vào Sài gòn, và một cuộc “di cư” nữa để lánh nạn cộng sản sẽ diễn ra sau đó.

Suốt những ngày tiếp theo của tháng 11 kinh hoàng đó, gia đình ông bà chúng tôi cùng tất cả giáo dân, giành hầu hết thời gian đến nhà xứ để cầu nguyện cho Tổng Thống và bào đệ Ngô Đình Nhu, những đại ân nhân đã giúp cho gia đình chúng tôi cùng hơn một triệu đồng bào khác thoát được hiểm họa cộng sản ở miền Bắc, bởi sau hai năm miền Bắc cải cách ruộng đất, với chính sách tố khổ, cộng sản đã mang đến bao nỗi tang thương và kinh hoàng cho những người dân xứ Bắc.

Chắc sẽ có nhiều người đặt vấn đề rằng với thời gian 300 ngày để di cư, thì cứ tùy nghi ra đi chứ cần gì phải có ai giúp đỡ? Sự thật hoàn toàn không đúng như vậy, vì chính quyền của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, tức chính quyền cộng sản của ông Hồ Chí Minh luôn tìm mọi cách để ngăn chặn người ta di cư sang xứ tự do ở miền Nam, bằng nhiều hình thức đe dọa, bưng bít thông tin, kể cả khủng bố tinh thần và tuyên truyền xuyên tạc chính sách di cư cũng như xuyên tạc về chế độ Cộng Hòa để giảm thiểu số người di cư vào vùng tự do đến mức thấp nhất. Nhân ngày hiệp kỵ lần thứ 49 của Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, 01 tháng 11 năm 2012, như một nén hương lòng, để ghi tạc công đức của Cụ Ngô, chúng tôi xin thuật lại hành trình lánh nạn cộng sản lần thứ nhất của gia đình chúng tôi, cũng như của hơn một triệu đồng bào miền Bắc, theo nhật ký hành trình của ông tôi, nguyên là một Chánh Tổng ở Văn Giang, Hải Hưng.

Sau khi quân đội Pháp đầu hàng ở  Điện Biên Phủ, Hiệp định Genève được ký kết giữa chính phủ của Hồ Chí Minh và chính phủ Cộng Hòa Pháp, chia đôi Việt Nam thành hai miền, lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến. Từ vỹ tuyến 17 trở ra thuộc Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, tức là Cộng Sản Việt Nam. Từ Vĩ tuyến 17 đến Cà Mau thuộc Quốc Gia Việt Nam. Việc đất nước phải bị chia cắt làm hai miền với hai thể chế chính trị khác nhau là một thảm họa của dân tộc Việt Nam, mà ít nhất đã một lần xảy ra trong lịch sử của đất nước khi Trịnh – Nguyễn Phân Tranh kéo dài hơn 100 năm từ 1627 cho đến năm 1789 khi Hoàng Đế Quang Trung kéo đại binh ra Bắc đánh tan 20 vạn quân Thanh vào khuya tối mùng 5 Tết Kỷ Dậu 1789 mới hoàn toàn chấm dứt 100 năm chiến tranh giữa Chúa Trịnh và Chúa Nguyễn, mang bao nhiêu đau thương tang tóc cho dân Việt giữa hai bờ sông Gianh. Có một điều khác biệt trong lần chia cắt đất nước lần này là giới tuyến không còn là sông Gianh mà là sông Bến Hải, và “Họa trung hữu phúc”, cũng “nhờ” Hồ Chí Minh ký hiệp ước chia cắt đất nước mà ít nhất là một nửa dân tộc Việt ở bờ nam sông Bến Hải đã không phải chịu sự thống trị sắt máu của cộng sản ngót 21 năm từ 1954 cho đến 1975.

Ít nhất cũng hơn 1 triệu người Bắc chúng tôi cũng tránh được họa cộng sản trong ngần ấy năm, nhờ vào  Điều 14 phần (d) của Hiệp định Geneva cho phép người dân ở mỗi phía di cư đến phía kia và yêu cầu cơ quan quản lý tạo điều kiện cho họ di cư trong vòng 300 ngày sau thoả hiệp đình chiến, tức việc di cư sẽ chấm dứt vào ngày 19 tháng 5 năm 1955. Dân Hà Nội có 80 ngày, Hải Dương có 100 ngày, còn Hải Phòng, điểm cuối cùng tập trung để di cư có 300 ngày để di cư.

Ngày 4/6/1954, trước khi Hiệp định Geneve được ký kết 6 tuần, Pháp đã ký một Hiệp định với Quốc gia Việt Nam, công nhận Quốc gia Việt Nam hoàn toàn độc lập. Theo đó chính phủ Quốc gia Việt Nam sẽ tự chịu trách nhiệm với những hiệp định quốc tế được ký bởi Pháp trước đó nhưng có liên quan tới họ, cũng như không còn bị ràng buộc bởi bất cứ hiệp ước nào do Pháp ký sau này.

Ông Trần Văn Đỗ, trưởng đoàn đại diện của Quốc gia Việt Nam nhất quyết không ký vào Hiệp định Genève vì không chấp nhận việc chia cắt Việt Nam và đại diện phái đoàn Quốc Gia Việt Nam ra một tuyên bố riêng:

“… Chính phủ Việt Nam yêu cầu Hội nghị ghi nhận một cách chính thức rằng Việt Nam long trọng phản đối cách ký kết Hiệp định cùng những điều khoản không tôn trọng nguyện vọng sâu xa của dân Việt. Chính phủ Việt Nam yêu cầu Hội nghị ghi nhận rằng Chính phủ tự dành cho mình quyền hoàn toàn tự do hành động để bảo vệ quyền thiêng liêng của dân tộc Việt Nam trong công cuộc thực hiện Thống nhất, Độc lập, và Tự do cho xứ sở.”

Tuy vậy, lời phản kháng và đề nghị của đại diện Quốc gia Việt nam đã không được Hội nghị bàn tới. Ngoại trưởng Trần văn Đỗ từ Genève tuyên bố với báo chí như sau: “Từ khi đến Genève, phái đoàn không bao giờ được Pháp hỏi về ý kiến về điều kiện đình chiến, đường phân ranh và thời hạn Tổng tuyển cử. Tất cả những vấn đề đó đều được thảo luận ngoài Hội nghị, thành ra phái đoàn Việt Nam không làm thế nào bầy tỏ được quan niệm của mình”.

Tuy lên tiếng phản đối, nhưng sau khi hiệp định được kí kết, Chính phủ và quân đội Quốc Gia Việt Nam vẫn cùng quân Pháp tập kết về phía nam vĩ tuyến 17. Ngày 28 tháng 4 năm 1954, Uỷ Ban Bảo vệ Bắc Việt Nam của Quốc Gia Việt Nam tìm cách kêu gọi dân chúng di cư vào Nam để lánh nạn cộng sản. Một kế hoạch di cư được đặt ra và một Uỷ Ban Di Cư được thành lập. Ngày 30 tháng 7 năm 1954, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm phát biểu cổ vũ dân chúng miền Bắc di cư vào miền Nam để lánh nạn cộng sản.

Một ngày sau khi Hiệp định được ký kết, tức ngày 22 Tháng Bảy, Thủ tướng Ngô Đình Diệm ra lệnh treo cờ rũ toàn Miền Nam từ vĩ tuyến 17 trở vào để bày tỏ quan điểm chống đối sự chia đôi đất nước.

Ngày 22 tháng 7 năm 1954, Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi đồng bào cả nước: “Đấu tranh để củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập dân chủ cũng là một cuộc đấu tranh lâu dài và gian khổ”, và khẳng định: “Trung, Nam, Bắc đều là bờ cõi của nước ta, nước ta nhất định thống nhất, đồng bào cả nước nhất định được giải phóng”. Đây là lần đầu tiên, Hồ Chí Minh bày tỏ lập trường của Quốc Tế Cộng Sản về chiến lược nhuộm đỏ cả Đông Dương, và quyết tâm dùng bạo lực cách mạng, dùng máu xương của đồng bào Việt Nam trong một cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn để mở rộng quyền thống trị của Hồ Chí Minh và của chế độ cộng sản trên toàn bộ đất nước.

Sở dĩ chúng tôi phải nêu lại những sự việc trên là để quý độc giả cũng như các lãnh đạo của cộng sản Việt Nam hiện nay thấy được rằng việc chia cắt đất nước là tội ác của Hồ Chí Minh và Thực dân Pháp, chứ hoàn toàn không có sự can dự của Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam hay của Thủ Tướng Ngô Đình Diệm.

Sau đó, hậu thân của Quốc gia Việt Nam là Việt Nam Cộng hòa, với sự hậu thuẫn của Hoa Kỳ đã từ chối tổ chức tuyển cử thống nhất Việt Nam. Năm 1956, Việt Nam Cộng Hòa được thành lập trên cơ sở Quốc Gia Việt Nam. Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm tuyên bố: “Chúng tôi không từ chối nguyên tắc tuyển cử tự do để thống nhất đất nước một cách hoà bình và dân chủ” nhưng “nghi ngờ về việc có thể bảo đảm những điều kiện của cuộc bầu cử tự do ở miền Bắc”. Đây là một nhận định vô cùng sáng suốt của Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, bởi theo thể thức “đảng cử dân bầu” của cộng sản, thì chắc chắc toàn thể cử tri miền Bắc buộc phải dồn phiếu cho Hồ Chí Minh, bởi họ biết rằng chỉ có làm như thế họ mới mong được yên phận, chứ nếu chọn lựa theo lương tri của họ, để bầu cử cho chính phủ Quốc Gia Tự Do, thì chắc chắn họ sẽ bị quy kết là Việt Gian, rồi cả gia đình, họ tộc sẽ bị đấu tố bị tru diệt. Trong khi đó ở miền Nam tự do, người ta có quyền lựa chọn ngay cả việc chống đối lại chính phủ mà không bao giờ sợ phải bị trả thù, không bao giờ bị đấu tố, thì thiếu gì những thành phần thân cộng hoặc những kẻ phá thối, sẵn sàng bỏ phiếu cho Hồ Chí Minh để thủ tiêu nền Cộng Hòa còn non trẻ.

Trở lại với việc di cư vào Nam, gia đình chúng tôi cũng như hầu hết đồng bào Bắc phần vào thời gian đó, những vụ đấu tố trong cải cách ruộng đất bắt đầu từ năm 1953 là một ác mộng kinh hoàng, và cả những vụ khủng bố, thanh trừng của cộng sản đối với những sỹ phu yêu nước, những chính khách thuộc các đảng phái khác, luôn luôn là một nỗi ám ảnh về những cái chết oan nghiệt hãi hùng, cho nên ai cũng mong muốn được thoát khỏi ách thống trị của cộng sản, ai ai cũng muốn được vào miền Nam tự do, nhưng khốn nạn cho nhiều người Bắc chúng tôi, cơm chưa đủ ăn, áo chưa đủ mặc thì làm sao có đủ chi phí cho hành trình từ quê nhà về đến Hải Phòng để xuống tàu vào Nam, dù chuyến hành trình từ bắc vào Nam là hoàn toàn miễn phí. Cũng như vào những năm cao trào vượt biên đi tìm tự do sau năm 1975, cả dân tộc Việt Nam đều muốn bỏ nước ra đi, cả cái cột điện mà đi được thì nó cũng đã đi rồi, nhưng đâu phải ai cũng có đủ vàng đủ bạc để chi phí cho những chuyến vượt biên đi tìm tự do đó. Cho nên, chỉ có khoảng hơn một triệu người có đủ điều kiện để vào Nam trong suốt 300 ngày di cư đó. Bên cạnh cái nghèo khó cái đói rách đã ngăn chặn người miền Bắc di cư, thì chính sách tuyên truyền, xuyên tạc và khủng bố của chính quyền cộng sản cũng là một cản trở lớn. Những truyền đơn, bích chương của Liên Hiệp Quốc in ấn, phát hành để tuyên truyền, khích lệ và hướng dẫn cho dân chúng về chính sách di cư đều bị chính quyền tịch thu, không đến được tay của dân chúng, ngoài ra các cán bộ thôn xã còn đến từng nhà xuyên tạc chính sách của Liên Hiệp Quốc, cũng như đe dọa rằng những ai có ý định di cư vào Nam tức là những người có tư tưởng theo Việt gian, chống lại đảng, chống lại chính phủ của cụ Hồ, sẽ bị trừng phạt đích đáng! Nhiều gia đình có điều kiện ra đi, nhưng vì những sự đe dọa đó, họ sợ rằng nếu không đi được mà phải trở về thì chắc chắn là không còn đường sống với chính quyền cộng sản, mà đành nhắm mắt đưa chân, quyết định ở lại chung sống với cộng sản.

Do vậy mà phần lớn những người di cư vào Nam năm 1954 là những người từng là nạn nhân của cộng sản, từng bị tịch thu tài sản, nhà cửa ruộng vườn, vì bị quy vào thành phần địa chủ, phú nông hay tư sản, tiểu tư sản phản động ở các thành phố, là những người hiểu rằng họ không thể nào sống dưới chế độ cộng sản được mà phải quyết tâm bỏ lại cửa nhà để ra đi. Tuy nhiên, chính quyền cộng sản lúc bấy giờ vu cáo  rằng những người Công giáo Việt Nam đã bị chính quyền Pháp, Mỹ và thân Mỹ cưỡng bức hay “dụ dỗ di cư”. Cộng sản Bắc Việt từng lu loa rằng “các Linh mục miền Bắc giục giã giáo dân vào Nam với lời giảng rằng Đức Mẹ Đồng Trinh đã vào Nam nên họ phải đi theo” (Sic). Đó là lối tuyên truyền xuyên tạc lố bịch và trơ tráo của công sản mà thôi. Thực tế các Linh mục, các Cha xứ là người hiểu rõ hơn dân chúng về chế độ cộng sản, và các vị linh mục cũng là người nắm được đầy đủ thông tin từ Liên Hiệp Quốc về chính sách di dân, nên đã giảng giải, giúp giáo dân hiểu đích xác về vấn đề, cũng như khích lệ họ vượt qua sự sợ hãi mà mạnh dạn lên đường đi về miền tự do; đó là lý do tại sao trong số hơn một triệu người di cư vào Nam thì đã có đến 800.000 người công giáo. Đây là công lớn của các vị mục tử.

Trong khi đó, có những bằng chứng cho thấy  rằng những tờ bích chương và tờ bướm do Uỷ hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến in và trao cho hai bên phổ biến cho dân chúng biết về quyền tự do di tản thì không được chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hoà phân phát. Hơn nữa chính Uỷ hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến đã mở cuộc điều tra đơn khiếu nại của chính quyền cộng sản Bắc Việt của Hồ Chí Minh, khiếu nại về hành động cưỡng bách di cư. Trong số 25.000 người Uỷ hội tiếp xúc, không có ai nhận là họ bị “cưỡng bách di cư” hay muốn trở về Bắc cả. Thế mới thấy rõ được sự lường láo tráo trở của Hồ Chí Minh và cộng sản Việt Nam.

Trại Tạm Cư Cho Người Bắc Mới Di Cư Vào Nam

Theo số liệu thống kê Uỷ hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình chiến thì ngoài những người kinh là nạn nhân của chế độ cộng sản hoặc giáo dân Công giáo thì trong số dân di cư vào Nam, còn có những người thuộc dân tộc thiểu số đã từng theo quân đội Pháp chống Việt Minh. Trong đó có khoảng 45.000 người Nùng vùng Móng Cái và 2.000 người Thái và Mèo từ Sơn La và Điện Biên cũng đã gồng gánh con cái, theo đường bộ đến Hải Phòng để xuống tàu vào Nam.

Ngày 9 tháng 8 năm 1954, chính phủ Quốc Gia Việt Nam của tân Thủ tướng Ngô Đình Diệm lập Phủ Tổng Ủy Di Cư Tỵ Nạn ở cấp một bộ trong nội các với ba nha đại diện, một ở miền Bắc, một ở miền Trung và một ở miền Nam để xúc tiến định cư. Thêm vào đó là Uỷ Ban Hỗ Trợ Định Cư, một tổ chức cứu trợ tư nhân giúp sức.

Đối với sinh viên đại học, Bộ Tư Lệnh Pháp dành 12 chuyến bay trong hai ngày 12 và 13 Tháng 8 đưa khoảng 1.200 sinh viên miền Bắc vào Nam. Ước tính chỉ khoảng 1/3 ở lại còn 2/3 chọn di cư.

Ngày 04 tháng 8 năm 1954 cầu hàng không nối phi trường Tân Sơn Nhất, Sài Gòn trong Nam với các sân bay Gia Lâm, Bạch Mai, Hà Nội và Cát Bi, Hải Phòng ngoài Bắc được thiết lập. Nỗ lực đó được coi là cầu không vận dài nhất thế giới lúc bấy giờ (khoảng 1.200 km đường chim bay). Phi cảng Tân Sơn Nhứt trở nên đông nghẹt; tính trung bình mỗi 6 phút là một máy bay hạ cánh và mỗi ngày có từ 2.000 đến 4.200 người di cư tới. Tổng kết là 4.280 lượt hạ cánh, đưa vào 213.635 người.

Ngoài ra, một hình ảnh quen thuộc với người dân tỵ nạn là “tàu há mồm”, tiếng Anh là Landing Ship Tank viết tắt là LST- đón người ở gần bờ rồi chuyển ra tàu lớn neo ngoài hải phận miền Bắc. Các tàu thủy vừa hạ xuống, hàng trăm người đã giành lên. Các tàu của Việt Nam, Pháp, Anh, Hoa Kỳ, Trung Hoa, Ba Lan… giúp được 555.037 người “vô Nam”.  Ngoài ra cũng có tới 102.861 người tự tìm đường bộ hoặc ghe thuyền và phương tiện riêng để tự túc di cư vào Nam, lánh nạn cộng sản miền Bắc.

Được sự trợ giúp tận tình của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa, những người di cư chúng tôi rất sớm ổn định cuộc sống trên quê hương mới trên nhiều tỉnh thành ở miền Nam, với những tên gọi thân quen của những làng xã, phố thị bản quán của chúng tôi ở miền bắc như Bùi Chu, Phát Diệm hoặc Tân Hoá, Tân Thanh tức Thanh Hoá mới, Tân Phát tức Phát Diệm mới, Tân Hà tức Hà Nội mới… với mong muốn bảo lưu được các nét đẹp văn hoá của quê xưa trên vùng đất mới còn tiềm ẩn nỗi nhớ quê hương bản quán, của người những người vì lý tưởng tự do mà phải xa rời nơi đó.

Biến cố 30 tháng Tư năm 1975, một lần nữa mang hiểm họa cộng sản đến cho toàn dân miền Nam, và cho cả người Bắc di cư chúng tôi, những người đã một lần phải lìa bỏ quê hương bản quán để lánh nạn cộng sản 21 năm về trước. Những tưởng chúng tôi đã vĩnh viễn thoát khỏi họa cộng sản rồi, nào ngờ đâu cái biến cố 01 tháng 11 năm 1963 lại báo hiệu cho chúng tôi về một hiểm họa cộng sản mới, và điều đó đã ứng nghiệm lời tiên liệu của ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu phát biểu trong một cuộc họp của Tổng Đoàn Thanh Niên Dân Vệ tháng 10 năm 1962 tại Trung Tâm Huấn Luyện Thi Nghè, rằng “Nếu chính phủ này bị ngoại bang và tay sai lật đổ thì 12 năm sau (tức là năm 1975) Việt Nam Cộng Hòa sẽ bị rơi vào tay cộng sản.”.  Thế là hàng triệu người Việt lại phải ra đi tìm tự do mà không có bất cứ sự sắp đặt nào của quốc tế! Những người Bắc 54 của chúng tôi lại một lần nữa phải “di cư” để lánh nạn cộng sản trong đời. Thật là ai oán! Sao chúng tôi lại phải hai lần tắm trên một dòng sông? Điểm khác biệt là lần này chúng tôi ra đi không được sự bảo trợ nào của quốc tế, mà chúng tôi phải trả chi phí cho chuyến đi bằng vàng, bằng máu và cả bằng sinh mạng nữa. Bởi người Ta đã sát hại Cụ Diệm, vị ân nhân của chúng tôi rồi… còn ai nữa đâu để chở che cho chúng tôi trên bước đường gian nan đi lánh nạn cộng sản lần thứ hai này,  trách sao chúng tôi không phải trả giá.

Nhiều người cho rằng chính những kẻ phản loạn và ăn cháo đái bát như Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Khánh, Dương Văn Minh, Mai Hữu Xuân, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Hữu Có, Lê Văn Nghiêm, Đỗ Mậu, Phạm Xuân Chiểu, Trần Văn Minh, Nguyễn Ngọc Thơ, Trần Văn Đôn, Tôn Thất Đính và Lê Văn Kim… là những tội đồ của dân tộc, là những kẻ phản chủ đã gián tiếp dâng miền Nam cho cộng sản để cả dân tộc phải lầm than… Riêng tôi là những người sinh sau đẻ muộn, chúng tôi không dám phán xét ai cả, mà chỉ tâm niệm rằng vì nghiệp chướng của dân tộc Việt Nam quá nặng nên đã trót sinh ra Hồ Chí Minh và những kẻ “ác ôn côn đồ đáng nguyền rủa” đó mà thôi. Vả lại, trên bước đường di tản nhọc nhằn rồi những năm tháng sống lưu vong nơi đất khách quê người vật vờ như cái bóng, những kẻ đó chắc cũng đã nhận ra tội ác và lầm lỗi của mình đối với một vị tổng thống anh minh, cũng như đối với đất nước, đối với dân tộc Việt Nam, khi vì tiền, bàn tay của họ đã vấy máu của người đã ban phát cho họ những ân huệ, bổng lộc và chức tước… Đó là sự trừng phạt không nhỏ, và chắc chắn với những ray rứt trong suốt những năm cuối đời trong kiếp sống lưu vong, khi nhắm mắt xuôi tay, trở về với đất, chắc chắn linh hồn của họ sẽ không bao giờ được siêu thoát. Nhất là lịch sử ngàn đời của dân tộc Việt sẽ phán xét họ.

Tôi viết lên bài này chỉ là để làm tròn ước nguyện của ông tôi trước khi qua đời, đó là xin được tỏ bày lòng tri ân của chúng tôi đối với NGÔ TỔNG THỐNG và Nền Để Nhất Cộng Hòa đã một lần giải thoát chúng tôi khỏi ách cộng sản vào năm 1954.

Như một nén hương lòng xin thành kính dâng lên Cụ.

© Nguyễn Thu Trâm

© Đàn Chim Việt

163 Phản hồi cho “Viết cho ngày 01 tháng 11”

  1. Hoài An says:

    Thật tai hại cho những kẻ không hiểu kinh thánh mà thích trích dẫn tầm bậy!

    Những chuyện dâm ô được nhắc trong kinh thánh là muốn chỉ cho biết những yếu đuối, đam mê của con người. Nhưng cũng đồng thời dạy cho con người biết vượt qua những đam mê ấy bằng sự cố gắng hối cải và cải thiện qua các gương sống của chính nạn nhân.

    Vua Đavít, ông Job, thánh Phaolồ và nhiều người khác cũng đã từng là như người phạm tội giết người hoặc dâm ô, nhưng sau đó đã thực tình ăn năn thống hối, cải thiện đời sống và làm những việc lành phúc đức, giúp ích cho nhân loại.

    Tương tự như thế, ông Chưng Sơn vì không hiểu kinh thánh nên đã tiếp tay với những kẻ xấu nói bậy, nói càn, xúc phạm đạo giáo và chửi rủa người khác. Nhưng nếu ông động tâm suy nghĩ và hối cải để trở thành người lương thiện thì cũng rất đáng được mọi người yêu mến.

    Một số kẻ thiếu hiểu biết, thay vì đọc kinh thánh để suy nghĩ và rút tỉa ra những điều đáng làm hay nên tránh, thì lại chỉ rút chuyện dâm ô, tục tĩu mà những kẻ phạm tội đã làm góp thành sách rồi phổ biến với cái tên nghe rất hấp dẫn; “Cuốn Thánh Kinh Thuộc Loại Dâm Ô”?

  2. Đăng Minh says:

    Thưa các ông bà chống cộng, các Ông làm cách nào để lật đổ chế độ cộng sản VN thế , ông chỉ cho tôi với . Hay các ông chỉ biết nói cho sướng cái miệng thúi thôi . Các Ông lấy tư cách gì để nói chuyện yêu nước , yêu nòi ? chán mấy ông quá

    • Trường Giang HN says:

      Yêu nước thương nòi là quyền của tất cả mọi ngưòi dân Việt!

      Chỉ có những kẻ dốt đặc cán mai, đầu óc bã đậu như Đăng Minh mới viết rằng: “Các Ông lấy tư cách gì để nói chuyện yêu nước , yêu nòi ? “.

      Biết thì nói, không biết thì dựa cột mà nghe, mồm mép toe toe làm chi cho thiên hạ ghét và chửi Đăng Minh là tên dốt, là kẻ thúi mồm!

    • Thằng Mõ says:

      Đăng Minh là biểu tượng của những tên cộng sản con, đầu óc “bã đậu”, bị cộng sản nhồi sọ từ nhỏ nên chẳng hiểu biết gì về xã hội, chính trị … ! Xin quí vị thông cảm cho họ.

    • Văn Khánh says:

      Không đủ tư cách vì mấy người là những người con mà có những lời nói và hành động làm hại đất nước, tất nhiên là đội lốt việc chống cộng, chống chính quyền, đám người này đáng bị nguyền rủa!

  3. Trung Kiên says:

    Viết cho ngày 1.11. mà không đưa thêm chứng liệu sống, mới nhất, sống động nhất, thì vẫn còn có một cái gì đó…thiếu sót?

    Xin được giới thiệu buổi họp báo đối chất giữa các nhân chứng sống, về những thủ phạm đã gây ra cái chết của cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm!

    1) Liên Thành họp báo tại Đài TV QGVN ngày 13.10.2102 …phần một

    2) Liên Thành họp báo tại Đài TV QGVN ngày 13.10.2102 …phần hai

    3) Bài viết đối chất giữa Liên Thành và Võ Văn Ái!

    Hãy bấm vào: XEM, NGHE, và SUY NGHĨ!

  4. Trần Bảo Thịnh says:

    Lịch sử không bao giờ có chữ “nếu”, mà đã là “nếu” thì không phải là lịch sử nữa, vì Lịch sử là những gì đã diễn ra.

    Tôi vào web bacaytruc đọc được bài viết nầy của tác giả Thiện Ý: NẾU TỔNG THỐNG DIỆM KHÔNG BỊ LẬT ĐỔ VÀ SÁT HẠI, VIỆT NAM SẼ RA SAO?

    Khi đọc xong bài viết tôi ngồi nghiệm lại những gì đã xảy ra ở Việt Nam, bỗng cảm thấy có cùng một suy nghĩ như tác giả.

    • Hồng Lĩnh says:

      Bài viết có lý.
      Dù sao chỉ trong vòng 9 năm, dù là “độc tài gia đình trị” (vào lúc đó cũng không có cách nào khác hơn), TT Diệm đã gấp rút ổn định đất nước và bắt đầu các sách lược phát triển.

      Có thể nói, những người xưng là “trí thức” thời 1960′s quá non dại và hám danh, hám quyền lực . Tướng lãnh thì ngu dốt (lính Pháp chuyển qua, không có một chút ý thức về quốc gia, dân tộc) – không khác gì Bộ Chính Trị đảng công sản hiện nay . .

      Cám ơn đã giới thiệu.

  5. May Vu says:

    Ngô đính Diêm “VẤN ĐỀ CÒN TRANH CẢI ” ĐÚNG . . sẻ dài dài
    Ông TT Ngô đình Diêm NUÔI ,Bề dưới,Chân tay toàn là LOAI GIA NÔ ” TẮC KÈ ” và củng chính LOẠI này CẮN lại ông ? Các LOẠI TẮC KÈ này theo dỏi từng PHÚT ,từng GIÂY ông chủ CHÍNH (U.S) lẩn ông chủ (Con ) ,Và khi nào THAY DA và ĐỔI MÀU nếu cần ? Cho nên không lấy làm LẠ gần THOÁI TRIỀU NGÔ các con TẮC KÈ (chính ,trung thành ) tìm đường TRỐN chạy …v.v .(Trần kimTuyến ,LM Cao v Luận … ) Sau Cách mang êm RU và tới TT Nguyển v Thiệu thì hơi NGOE ,NGOE bò dậy và kẹt lại với VC /CSVN thì TỊT hơi ,TỊT tiếng ,TỊT TĂM .
    Sang HẢI NGOẠI (U.S) Thành THẰNG CHÔT LÀM VUA ,Đợi thời cơ TƯỚNG TÁ SALON ,YẾU ,BỆNH
    hay QUÁ VÃNG thì RA ĐỜI các QUÁI THAI
    PHỤC QUỐC , QUỐC HẬN ,PHỤC HƯNG ,TỘI ĐỐ HCM ,TRẢ TÊN SAIGON, TRUY TỐ TÔI ÁC . . và mới đây TT NĐD ? Cụ Diệm KHÔNG NỔI DANH thì (MÌNH NỔI DANH) Các con TẮC KÈ ở PHƯỜNG BÁT NHÁO Cu Cao xuân VỈ ,Lưu trung Khảo ,BS Nguyển t Cảnh . . Và lại Thêm các Con Thằn lằn Kỳ nhông VIẾT SỬ Minh Vỏ ,NV Minh ,,LM Qúy Thiện ,Cao v Luận ,Vủ đ Hoạt ,.Tôn T Tùng ,Tôn T Thiệt ..Tôn THÁT BẠI ? Đang cố gắng múa TUỐNG CHÈO “Nhạc bât Quần ,Luyện công Tẩu hỏa nhâp ma ” Và ra công tô vẻ râu ,vẻ ria vai chính Cụ NGÔ ĐÌNH DIÊM cho (ăn khách ) cho sách HÁT BÔI này bán chạy ? Tội nghiêp để Cụ Chết , để yên thân với LỊCH SỬ xét ,phán ,nhưng cứ mang ra thi đua với TƯ TƯỞNG BÁC HỒ ? Thật là cái vở KỊCH lưu danh hậu thế của các con TẮC KẺ ,THẰN LẰN ,KỲ NHÔNG thành lưu (manh ) hậu thế cho mình hơn ,Vì tham danh , tên tuổi nổi tiếng cho đời mình còn lại ,để cho Giao dân CG hay đồng bào VN kính trong mình như kính trong CỤ , thật là sai lầm to lớn ,đánh giá THẤP mọi người (Dân tộc Vn)
    loại dân ngu cu đen ,mất trí ,lú lẩn như đàn em ,họ đạo cai quản ? Mà đi mua sách,nghe lời các ông ?
    Thời buổi này là DÂN CHỦ ,TRUY TÌM VẾT DẤU SỰ THẬT thì thật là dể ,có thắc mắc ,ý kiến ,xin gửi về Chủ trại HOA KỲ (US ) C-ty sản xuất = ( CÁC LOẠI GIỐNG ,THỨC ĂN THỤC PHẨM GIA SÚC , CHO CÁC LOẠI ,GIỐNG BÒ SÁT ) ? Chỉ vào Thư viện , Mạng ,hay Tham khảo phân tích giá trị Phản hồi cùa các quý vị thì củng ra bài TOÁN (hữu xạ tự nhiên hương ).
    Thật cái xương Chủ nghỉa (CS) ,Chủ thuyết (Nhân vị) mà chúng ta phân chia ,đối lập ,Thôi đành GÀ NHÀ BÔI MẶT ĐÁ NHAU phải chịu vậy với Trung Kiên ,Tiên Ngu ,Trúc Bạch ,Hòa ..v.v. đang khổ sở đi tìm nhửng chử điền vào chổ trống cho chúng ,Còn chùng tôi củng vất vả không kém CHẤT VẤN vế các con TẮC KÈ ,KỲ NHÔNG ,thêm rắn mối nói trên CẦN THỨC ĂN GÌ ? CHO CHÚNG TA VÀ DÂN TÔC VIỆT NAM ,ĐƯỢC BÌNH YÊN ,ĂN NO NGỦ NGON ?

    • Tien Ngu says:

      Hết ngậm phân phun Ngô đình Diệm, đến ngậm phân phun…phãn động ở hải ngoại…
      Thiệt là tội cho cái…mồm của Vu.

      Vu mần như là người Việt, ai cũng ngu hết

      Ngậm phân phun người, được cái chi?

      Cò mồi VC thì được…lên lon, biết đâu sau này lên đến…chủ tịch hay tổng bí thư thì rỏ ràng là…quá đã 9 theo lời của một anh điếm lấy nick nguyễn)

      Giáo điếm thì hi vọng chạy được cái tội rước giặc Cộng về dày mả tổ. Con cháu về sau đở xấu hổ với….Tiên ngu, hay lịch sử.

      ôi, vì…lừa để được…sướng, mà tâm hồn đau khổ…

Leave a Reply to Văn Khánh