WordPress database error: [Expression #1 of ORDER BY clause is not in GROUP BY clause and contains nonaggregated column 'oldsite_dcvwp.wp_posts.post_date' which is not functionally dependent on columns in GROUP BY clause; this is incompatible with sql_mode=only_full_group_by]
SELECT YEAR(post_date) AS `year`, MONTH(post_date) AS `month`, count(ID) as posts FROM wp_posts WHERE post_type = 'post' AND post_status = 'publish' GROUP BY YEAR(post_date), MONTH(post_date) ORDER BY post_date DESC

 
|

Việt Nam của thế kỷ 21 vẫn còn có nạn kiêu binh

Một đại họa cho đất nước và cho dân tộc, cần phải tiêu diệt!

Suốt chiều dài lịch sử 4000 năm của Việt Nam cho đến 30 tháng 04 năm 1975, đất nước Việt Nam chỉ có một lần rơi vào thảm cảnh nạn kiêu binh của thời hậu Lê (1533-1789). Theo Wikipedia: “do những quân lính gốc ở Thanh – Nghệ, cậy mình có công, đã sinh thói kiêu căng, coi thường luật lệ, gây ra và làm trong và ngoài triều chính thời đó hết sức điêu đứng, khổ sở. Theo sách Việt sử tân biên, thì nạn kiêu binh này là một trong những nguyên nhân khiến cơ nghiệp Lê – Trịnh ở Việt Nam mau đổ nát”.

Những lính gốc gác vùng Thanh Nghệ vì cậy công phò chúa (chúa Trịnh), phò thái tử, vua (Lê) nên kiêu căng, sách nhiễu dân chúng. Dân chúng vô cùng khổ sở vì sực hà khắc côn đồ xem thường pháp luật của bọn binh lính kiêu binh. Bọn lính kiêu binh cậy có công phò chúa, phò vua đã ngang nhiên chiếm đoạt tài sản của dân chúng, dành các mối lợi về kinh doanh, đất đai, đầm hồ, chợ búa, bến đò, sông bải. Nói chung những gì có lợi là bọn họ và nhóm bè đảng tay chân thâu tóm, mặc cho sư ta thán của người dân.

Theo Wikipedia: “Trong sách Hoàng Lê nhất thống chí ở hồi hai và ba, có nhiều đoạn kể khá tỉ mỉ nạn kiêu binh. Nhờ tác giả là người đã sống trong thời đại hỗn loạn ấy, nên chúng có giá trị lịch sử & hiện thực cao. Trong bài giới thiệu tác phẩm này, Kiều Thu Hoạch có đoạn nói đến nạn kiêu binh như sau:

Trịnh Sâm thì hoang dâm, xa xỉ. Vua Lê Cảnh Hưng thì bù nhìn, bạc nhược. Trịnh Tông chỉ là con rối của đám kiêu binh. Còn quan lại đa phần là một phường dung tục, bất tài, chỉ rình rập cơ hội để tranh giành quyền lực, danh lợi… Dưới những vua quan như vậy, thì binh lính đương nhiên cũng không thể có kỷ cương, phép tắc gì. Những “ưu binh” đã biến thành “kiêu binh” ngang ngược, quay lại uy hiếp triều đình, quấy nhiễu dân chúng, tùy ý phá nhà, giết người, khiến mọi người đã phải gọi chúng là “quân bất trị”. Và ba chữ ấy đã trở thành nỗi khủng khiếp của một thời.”

Nạn kiêu binh của thời hậu Lê và chúa Trịnh đã suýt đẩy Việt Nam vào vòng lệ thuộc Tàu do hành động rước voi dày mả tổ của vua Lê Chiêu Thống nếu không có Vua Nguyễn Huệ với tài dùng binh kiệt xuất đánh bại lực lượng hùng hậu khoảng ba trăm ngàn quân Tàu của vua Mãn Thanh vào năm 1789.

VIỆT NAM HIỆN NAY, THẾ KỶ 21, CÓ NẠN KIÊU BINH HAY KHÔNG?

Tuyệt đại đai số người dân Việt quả quyết nạn kiêu binh đang lộng hành trên toàn cỏi đất nước, từ tổ dân phố đến tận trung ương! Quả thật là như vậy. Kiêu binh thời nay nó khủng khiếp hơn vào thế kỷ 18. Thử xét nghiệm lời than oán của người dân về đại nạn kiêu binh thời đại “a còng – @” của thề kỷ 21.

Tổ dân phố, phường, quận, huyện:

Người dân luôn bị kiểm soát, hạch sách bởi công an khu vực, dân phòng, công an an ninh phường quận huyện. Họ khinh thường chính luật lệ do đảng cộng sản của họ đặt ra. Dân chúng bị ép buộc “giáo dục” bởi các nhóm, tổ chức ngoại vi của đảng cộng sản có trình độ văn hóa sơ cấp, may ra chỉ có trình độ đảng viên. Hành động quản chế giáo dục các nhà trí thức, khoa học, luật sư bất đồng chính kiến tại xóm, tổ dân phố bởi các thành phần ngoại vi của đảng cộng sản với sự hiểu biết nông cạn sơ đẳng là một thí dụ. Đây là nạn kiêu binh tại cấp hạ tầng cơ sở, dựa vào quyền lực cai trị chuyên quyền của đảng cộng sản.

Chính quyền trung và cao cấp ngành cảnh sát công an:

Đây là nơi tập trung đại nạn kiêu binh. Họ ngang nhiên chà đạp đến các quyền tự do căn bản do chính đảng cộng sản của họ đặt ra và được ghi hẳn hoi vào chính bản hiến pháp của đảng cộng sản ban hành. Muốn đánh đập, hành hạ, giết bỏ dân chúng họ “tự do” làm. Muốn bỏ tù thì cứ việc đóng dấu cho cái tội tuyền truyền chống đảng, nhà nước. Thời Lê-Trịnh chỉ có một nhóm kiêu binh “Thanh Nghệ” lộng hành, nhưng thời kỳ Việt Nam định hướng tiến tới xã hội chủ nghĩa, đảng cộng sản có cả một hệ thống gần 3 triệu đảng viên ăn theo với đầy dẫy kiêu binh từ địa phương đến trung ương tác oai tác quái dân chúng.

Chính quyền địa phương, trung và cao cấp ngành hành chánh:

Tuy trên mặt ngôn từ là hai tổ chức hành chánh và an ninh phải khác nhau, nhưng tựu trung họ cũng chỉ là cùng một tổ chức của đảng cộng sản. Họ cấu kết, hợp đồng cộng tác với nhau để áp bức cướp đoạt tài sản của dân, cùng chia nhau và với các bọn lợi ích. Tại nông thôn, họ cướp đất của dân, cướp nhà cửa, cơ sở kinh doanh trao tay trục lợi. Họ đương nhiên không chừa tài nguyên quốc gia, đào xới bán xổi cho bọn Tàu anh em đồng chí. Bọn họ ngày nay giàu nhiều lần hơn những người mà cha anh của họ đã từng gán tội là tiểu tư sản, tư sản. Bọn họ nay được gọi một cách mỉa mai là bọn “tư bản đỏ”.

Thời kỳ 1975-1985 họ gán cho người dân tội hợp tác với chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, tội tư sản để ngang nhiên cướp đoạt và chia chác cho nhau nhà cửa, ruộng vườn, tài sản cơ sở kinh doanh của dân chúng miền Nam, như các chiến lợi phẩm.

Thời kỳ 1990 – nay họ quay lại họ cướp đất, cướp mồ hôi nước mắt của người dân đã từng bao che ủng hộ họ tại miền Nam, và đau đớn hơn là họ lại đối xử cạn tàu ráo máng với dân chúng tại miền Bắc, những người theo đảng từ năm 1954, cái nôi của cộng sản Việt Nam. Họ ăn cắp tài nguyên rừng biển, khoáng sản, quặng mỏ. Họ tham nhũng trong tất cả các dự án đầu tư. Họ không phải ăn cắp theo kiều ăn cắp vặt mà ăn cắp có hệ thống qui mô từ trung ương đến địa phương, hằng ngàn tỷ đồng, hằng trăm triệu USD, từ các công trình ngàn tỷ, từ các dự án viện trợ của nước ngoài, từ các dự án vay. Họ tạo ra các tập đoàn kinh tế nhà nước để thao túng nguồn vốn của quốc gia. Tất cả các tập đoàn đều thua lỗ hằng ngàn, hằng chục ngàn tỷ đồng (Vinashin, Vinalines, Điện lực Việt Nam, Than Khoáng Sản, Dầu Khí, Sông Đà, Xây Dựng, Hàng Hải, Ngân hàng…) Số tiền thua lỗ thực chất do bọn cán bộ quan chức kiêu binh ăn chận khi thực hiện các công trình ma quỷ hay mua sắm thiết bị dỏm, phế thải. Nhưng họ chỉ bị kiểm điểm, học tập trong tình đồng chí (kiêu binh), rồi được điều động sang nhiệm sở khác béo bở hơn, hay được hạ cánh an toàn!

Lính kiêu binh thời vua chúa hậu Lê-Trịnh so với tập thể kiêu binh dưới thời đảng cộng sản Việt Nam chỉ là cá chốt với cá mập. Kiêu binh thời hậu Lê-Trịnh là một nhóm binh lính. Nhưng Việt Nam của thế kỷ 21, kiêu binh không phải là binh lính (bộ đội) mà là công an, là quan chức thế hệ con cháu Bác Hồ từ địa phương đến trung ương, nói chung là đảng viên đảng cộng sản Việt Nam. Họ lấy danh nghĩa đảng cộng sản cấu kết nhau thành “tập đoàn kiêu binh”. Tập đoàn kiêu binh tại Việt Nam của thế kỷ 21 gồm tuyệt đại đa số sinh sau năm 1975 hoặc ở tuổi thiếu niên hay tuổi đôi mươi mới vào du kích địa phương (miền Nam), bộ đội (miền Bắc) vào thời điểm 1975 nay được thăng quan tiến chức trong guồng máy đảng cộng sản, nhưng hành động chống lại người dân của họ thì sắc máu và tàn độc hơn bọn quan chức thời kỳ Pháp thuộc, để lập công với nhóm kiêu binh lãnh đạo đàn anh. Tập đoàn kiêu binh “kinh tế” cấu kết với kiêu binh công an thâu gom của cải của dân, tài sản quốc gia và cùng chia chác với nhau, đẩy dân vào con đường bần hàn. Không những thế, tập đoàn kiêu binh kinh tế còn cấu kết với các nhóm lợi ích ngang nhiên bán đất, giao biển đảo cho bọn xâm lược. Vì tư lợi bằng mọi cách họ quyết thực hiện các dự án độc hại hủy hoại đất nước và ảnh hưởng đến sự tồn vong của dân tộc như dự án Bauxit, dự án điện hạt nhân, v.v… Họ sống vô tư trong nhung lụa còn hơn dân giàu có của các nước tư bản phương tây. Họ và con cái ăn xài hoang phí với sự giàu có phi nhân bất chính trong khi đó ngoài miệng thì hô hào toàn dân sống tự trọng, đạo đức, liêm chính theo chủ nghĩa “vô sản” Mác Lê và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Ngay trong hàng ngũ lãnh đạo trung ương của đảng cộng sản, nhóm kiêu binh trung ương đảng cũng chẳng xem luật đảng, tôn ti trật tự đảng ra gì. Bằng chứng cụ thể là với kết quả cuộc họp trung ương đảng kỳ 6 vào đầu tháng mười vừa qua, lãnh đạo cao nhất của đảng cộng sản Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng đã phải bó tay trước sự lộng quyền của nhóm kiêu binh trung ương đảng kết bè kết phái. Ông ta đã uất ức đến ứa nước mắt khi đọc bài diễn văn bế mạc phiên họp đặc biệt này, trong khi bọn kiêu binh trung ương đảng bên dưới lại cười khẩy đắc thắng!

Nhóm kiêu bình thời hậu Lê-Trịnh bị vua Nguyễn Huệ tiêu diệt và giúp đất nước thoát khỏi ách lệ đô hộ của bọn Tàu phương Bắc.

Loạn kiêu binh thời đại toàn cầu hóa tại Việt Nam tuy tinh vi, ác độc và đôi khi không còn nhân tính nhưng vẫn có thể bị khuất phục và loại bỏ. Đó là cơ chế và chế độ mà nó đang bám vào như cây chùm gởi. Bọn kiêu binh công an và kinh tế sở dĩ lộng hành vì có sự bao che của cơ chế độc quyền độc đảng lỗi thời, của chế độc độc tài. Một khi chế độ chuyên chính độc đảng được thay thế bởi một cơ chế đa đảng, tam quyền phân lập, nhân quyền và quyền tư do của toàn dân được bảo vệ thì bọn kiêu binh tự nó sẽ bị tiêu trừ. Một bằng chứng cụ thể là với chế độ độc tài quân phiệt Miến Điện, khi được thay thế trong ôn hòa bởi một thể chế tự do dân chủ thì bọn kiêu binh công an và quan chức tại Miến Điện đã nhanh chóng bị hóa giải.

Nhóm lãnh đạo cao cấp của đảng cộng sản Việt Nam hiện nay nếu thật sự yêu nước, lo cho tiền đồ và tương lai của dân tộc của đất nước, hãy nhanh chóng từ bỏ cơ chế kiêu binh, độc tài chuyên chính lạc hậu và thực hiện một thể chế đa nguyên đa đảng bình đẳng, tam quyền phân lập.

Chỉ có con đường thay đổi chế độ sang một thể chế đa nguyên đa đảng mà tuyệt đại đa số các nước trên thế giới áp dụng, trong số đó Miến Điện là quốc gia mới nhất vừa dứt khoát đoạn tuyệt với chế độ độc tài quân phiệt, thì đại họa kiêu binh đang hủy hoại tổ quốc và dân tộc mới được giải trừ. Khi đó Việt Nam mới thật sự là quốc gia tự do dân chủ, và kỷ cương quốc pháp mới được tái lập.

© Nguyễn Hùng, Trần Hoài Nam

Nguồn: danlambao

_________________________________________________________

* Tài liệu tham khảo:

- Nạn kiêu binh

http://vi.wikipedia.org/wiki/N%E1%BA%A1n_ki%C3%AAu_binh

- Cưỡng chế đất Văn Giang – Nông dân Phụng Công

- Công An dã mang đàn áp, đánh đập người dân trong vụ cưỡng chế đất Văn Giang

- 2 mẹ con ‘lõa thể’ để giữ đất không được thêm bồi thường

http://vnexpress.net/gl/xa-hoi/2012/05/2-me-con-loa-the-de-giu-dat-khong-duoc-them-boi-thuong/

- Công an đã hiện nguyên hình là những tên mafia tấn công dân lành

http://www.boxitvn.net/bai/42833

- Nhiều tập đoàn lỗ nặng

http://nld.com.vn/20121120112827388p0c1002/nhieu-tap-doan-lo-nang.htm

http://tuoitre.vn/Chinh-tri-Xa-hoi/521402/Tap-doan-Dau-khi-dung-dau-bang-no.html

http://www.thanhnien.com.vn/pages/20121120/tap-doan-lon-lo-lon.aspx

- ‘Đống sắt’ hơn 26 triệu USD (500 tỷ) của Vinalines

http://vnexpress.net/gl/kinh-doanh/2012/05/dong-sat-hon-26-trieu-usd-cua-vinalines/

http://laodong.com.vn/Kinh-doanh/Vinalines-mua-tau-nhu-choi-chung-khoan/65417.bld

- Chuyến công du lịch sử của Tổng thống Hoa Kỳ sang Miến Điện

http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/obama-s-visit-to-burma-11192012233542.html

Tổng Thống Obama xuống phi trường Yangon, Miến Điện

Tuổi Trẻ: Tập đoàn Dầu khí đứng đầu bảng nợ: 287.000 tỷ đồng

http://tuoitre.vn/Chinh-tri-Xa-hoi/521402/Tap-doan-Dau-khi-dung-dau-bang-no.html

1 Phản hồi cho “Việt Nam của thế kỷ 21 vẫn còn có nạn kiêu binh”

  1. lam chan tho says:

    Đinh ươc QT vê Viêt Nam , môt giải pháp cho Việt Nam ?
    Lâm Chấn Thọ
    Bài toán ở Việt Nam sẽ có thể được giải quyết bằng một trong hai phương thức sau đây: 1.- Thứ nhất: Tình trạng độc tài tại Việt Nam sẽ tiếp tục cho đến khi lực lượng dân chủ quốc nội đủ mạnh, lợi dụng một biến động nào đó (ví dụ một vụ đàn áp tôn giáo hoặc một cuộc khủng hoảng kinh tế trầm trọng. . .), nổi dậy lật đổ chính quyền cộng sản, giải tán quốc hội và thiết lập một chính phủ lâm thời, mà nhiệm vụ tiên quyết là tổ chức bầu cử quốc hội lập hiến. Vấn đề nan giải lúc ấy là chỗ đứng của cộng sản Việt Nam. Đảng cộng sản Việt Nam có còn được tiếp tục hoạt động hợp pháp hay không?. Nếu được thì với những điều kiện nào, ví dụ về tiền bạc (mà đảng đã tiêu lòn ra hải ngoại), vũ khí. . . Phương thức này khó tránh khỏi những xáo trộn xã hội. Đồng thời những thế lực quốc tế sẽ lợi dụng cơ hội ấy để nhảy vào trục lợi. 2.- Thứ hai: Nhóm cộng sản tiến bộ thức tỉnh nắm lấy quyền lợi trong đảng, bằng lòng cho các khuynh hướng chính trị khác trong xã hội được tham gia. Lúc đó có hai giải pháp để giải quyết: ạ) Giải pháp thứ nhất: Bỏ điều 4 hiến pháp hiện hành của CSVN, cho phép các thành phần không cộng sản được tham gia bầu cử. – Nhưng khi tham gia bầu cử, các thành phần này vô tình mặc nhiên công nhận hiến pháp cộng sản. Những người quốc gia có chấp nhận giải pháp ấy không? – Một vấn đề cần soi sáng là luật bầu cử do ai soạn? Luật bầu cử do quốc hội của CSVN hiện nay soạn? Điều này không thể chấp nhận được, vì những kinh nghiệm đau thương mà những thành phần không cộng sản đã gánh chịu do những trò gian trá xảo quyệt của cộng sản, không cho phép họ phiêu lưu một lần nữa. – Vậy cơ quan nào có đủ tín nhiệm của các thành phần trong xã hội đảm nhận việc này. Đó là bế tắc khó vượt qua của giải pháp thứ nhất. b.) Giải pháp thứ nhì:
    Để giải quyết bế tắc của giải pháp thứ nhất nêu trên, chúng tôi nhận thấy chúng ta có một cách hay nhất là trở về với hiệp định Paris, bằng cách phuc hoat chính phủ lưu liên tuc công quyên của Việt nam Cộng Hòa. Chính phủ ấy sẽ thảo luận với chính quyền cộng sản hiện nay và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, đi đến việc soạn thảo luật bầu cử dưới sự giám sát của Liên Hiệp Quốc – Tại sao phải phuc hoat chính phủ VNCH ? Xin thưa vì VNCH là một trong những thành phần đã ký hiệp định Ba Lê. Không có VNCH thì khó mà áp dụng hiệp định ấy được. Vì không có một tổ chức nào ở hải ngoại hoặc quốc nội có đủ tầm vóc để được các thành phần không cộng sản tín nhiệm. Chính phủ lưu vong là chất keo kết nạp tất cả các tổ chức không cộng sản lại. Chúng ta nên nhớ miền Nam Việt Nam bị cưỡng chiếm chứ nền đệ nhị cộng hòa không bị giải thể (Xin xem bài Exposé de Mr Vũ Quốc Thúc, Président du Comité des Juristes Vietnamiens pour la remise en vigueur des Accords de Paris de 1973) Ta vẫn còn quốc hội mặc dầu các thành viên, một số bị tù đày, một số di tản, một số đã qua đời, nhưng quốc hội miền Nam Việt Nam chưa bị giải tán. Thế thì nếu không có gì trở ngại, quốc hội của chúng ta vẫn có thể họp lại để phuc hoat chính phủ liên tuc công quyên VNCH với sự tham dự của nôi các cuôi cung hop pháp hop hiên và các tổ chức chính trị ở hải ngoại cũng như quốc nộị – Sự đầu hàng của tướng Dương Văn Minh có ảnh hưởng gì đến giải pháp thứ hai này không? Sự trao quyền của Tổng Thống Trần văn Hương cho tướng Dương Văn Minh là vi hiến vì trong hiến pháp đệ nhị cộng hòa không có điều khoản nào cho phép Tổng Thống Trần Văn Hương làm như thế. Trái lại, điều 56.4 của hiến pháp đã chỉ định người thay thế Tổng Thống Trần Văn Hương, đó là Chủ Tịch Thượng Viện – Nhưng sự trao quyền của Tổng Thống Trần Văn Hương cho tướng Dương Văn Minh đã được quốc hội lưỡng viện chấp thuận rồi kia mà? Quốc hội lưỡng viện lúc ấy không thể nào sửa đổi hiến pháp. Hơn nữa chúng ta nên nhớ Tổng Thống Trần Văn Hương bị Dương Văn Minh và Đại sứ Pháp Mérillon dối gạt là nếu tướng Dương Văn Minh thay thế Tổng Thống Trần Văn Hương thì cộng sản sẽ thương thuyết, tránh cho Saigon một cuộc tắm máu. Quốc hội lưỡng viện đã quyết định dựa trên tin tức sai lạc ấy. Mặt khác, trong lúc hỗn quan hỗn quân ấy, quốc hội không được triệu tập theo thể thức hiến định, không cần túc số và nhât là QH VNCH không co quyên chon lưa Tông Thông (điêu 39 cua HP VNCH ) mà quyên dó thuôt vê toàn dân chiêu theo điêu 51 và 52 HP VNCH .
    Điêu 51
    Quyên Hành Pháp đươc quôc dân uy nhiêm cho Tông Thông.
    Điêu 52
    1- Tông Thông và Phó Tông Thông cùng đưng chung môt liên danh, đươc cư tri toàn quôc bâu lên theo lôi phô thông đâu phiêu trưc tiêp và kín.
    Sự phê chuẩn không phù hop theo điêu 39, 51và 52 HP VNCH của quốc hội trong một cuộc họp bất hợp hiến, không thể nào biên cuộc trao quyền vi hiến trở thành hợp hiến được. – Giải pháp này có phát động hoặc kéo dài cuộc chiến tranh Việt Nam không? Xin thưa là không, vì đó là cách duy nhất để thật sự chấm dứt chiến tranh Việt Nam. Không thể nào kêu gọi người không cộng sản hòa hợp hòa giải với CS khi mà họ cảm thấy bị lừa gạt và hiếp đáp vì hòa ước Paris bị vi phạm vả lãnh thổ của họ bị xâm chiếm bằng bạo lực. Không thể nào yêu cầu nạn nhân tha cho hung thủ của một vụ xâm nhập gia cư bất hợp pháp khi hung thủ đó vẫn còn ở trong nhà và đang uy hiếp chủ nhà. Hung thủ cần phải rời khỏi nhà nạn nhân, đó là điều kiện tiên quyết cho mọi giải pháp hàn gắn cần phải co’. – Thời gian 37 năm có ảnh hưởng gì đến giải pháp này không? 37 năm tuy dài nhưng rất cần thiết để cho mọi sự lắng động xuống. Thời gian này đã làm dịu xuống các tình cảm quá khích như hận thù, phẫn nộ của bên thua cũng như kiêu căng, tự mãn của bên thắng. Bây giờ là lúc chúng ta phải dùng sự suy luận để giải quyết vấn đề VN và nhât là tinh hinh thê giơi hiên giơ rât thuân lơi đê áp dung điêu 7 cua Đinh Ươc cua Hôi Nghi QT vê Viêt Nam ký ngay 2/3/ 1973 ký bơi Anh, Pháp, Nga, My ,TC ,Ba Lan , Hung Gia Lơi , Indonésia và Canada . Chiêu theo điêu 7 cua Đinh ươc đê giai quyêt cac vi pham hôi nghi QT vê Viêt nam se đươc tái triêu tâp voi điêu kiên đưoc 6 trên 12 thành viên yêu câu đê giai quyêt cac vi pham như TC chiêm HS ,TS và CSVN chiêm lanh thô cua VNCH . Đó là nhưng hành đông vi pham các cam kêt cua điêu 2, 4 và 5 cua Đinh ươc như quyên tư quyêt cua nhân dân miên nam Viêt Nam và sư ven toàn lanh thô cua Viet Nam . Và Hôi Nghi QT vê Viet Nam khi tái hop se là cơ quan trong tài đê giai quyêt vân đê chiêm cư HS TS cua TC và se áp lưc đê CSVN phai tô chưc bâu cư cho nhân Viêt Nam. 37 năm tuy dài nhưng dư luận quốc tế không lúc nào thuận tiện hơn lúc này vi Ba Lan và Hung Gia Lơi da trơ vê vơi dân chu. Có nhiều biện pháp và thủ thuật để quốc tế không quên vấn đề VNCH, nhưng không tiện bàn nơi đâỵ Đã có nhiêu nước bị chiếm đóng trong một thời gian rất dài – hơn 60 năm – đã “phục hồi” ví dụ Lettonie, Lithuanie, l’Estonie Xin nhắc lại trong công pháp quốc tế không có vấn đề thời tiêu (prescription). – Giải pháp này có ích lợi gì?
    Một cái lợi không nhỏ là giải pháp này giúp chúng ta đặt vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa ra trước môt cơ quan trong tai quốc tế. Việc này chính quyền CS hiện nay không làm được vì nhiêu ly do thu tuc công phap QT nhung chinh là vi lý do sau đây: Xin nhắc lại là ngày 4/9/58 Trung quốc tuyên bố nới rộng hải phận ra 12 hải lý chung quanh các đảo mà Trung quốc cho là của mình như Hoàng Sa và Trường Sa. Để trả lời, Thủ tướng cộng sản Phạm Văn Đồng (1) đã tuyên bố ngày 14/9/1958 như sau: “Nous tenons à vous informer solennellement que le gouvernement de la Republique Democratique du VN reconnait et approuve la déclaration faite le 4/9/1958 par le Gouvernement de la Republique Populaire de Chine sur sa decision prise au sujet de la mer territoriale de la Chine. Le Gouvernement de la Republique Democratique du Viet Nam respecte cette decision et donnera des instructions à ses organismes d’état responsables pour qu’ils respectent scrupuleusement en cas de contact en mer avec la Republique Populaire de Chine, la stipulation sur la largeur de la mer territoriale chinoise de 12 milles marins” (Tạm dịch: Chúng tôi xin thông báo là chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa công nhận và đồng ý tán thành lời tuyên bố ngày 4/9/1958 của chính phủ Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc về việc nới rộng hải phận của mình. Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa xin tuân theo lời tuyên bố ấy và sẽ ra lệnh cho các cơ quan chính quyền trách nhiệm tôn trọng tuyệt đối giới hạn 12 hải lý chung quanh hải phận của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc trong những cuộc gặp gỡ trên biển) Tệ hơn nữa, trong chiến tranh Việt Nam, Bắc Việt đã tuyên bố ngày 9/5/1965 chỉ trích Mỹ oanh tạc “một phần hải phận Trung Quốc chung quanh các đảo Tây Sa (tức Hoàng Sa)” (Une partie des eaux territoriales chinoises contigues aux iles Xisha de la Republique Populaire de Chine) Và liên tục nhật báo Nhân Dân năm 1969 và năm 1970 luôn luôn đề cập đến không phận Trung Quốc trên đảo Hoàng Sa. Vì những lý do nêu trên, chính phủ CS hiện thời không đủ căn bản luật pháp để đưa Trung Quốc ra tòa án quốc tế, và nhất là không đủ phương tiện để phát động một cuộc hải chiến để dành lại 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sạ Trớ trêu thay, đó là bế tắc mà chỉ có VNCH ta mới có thể gỡ rối vì VNCH luôn luôn chống đối chủ quyền của Trung Quốc trên hai quần đảo ấy. Ngày nào mà chính phủ VN không phải là một chính phủ hậu thân của VNCH thì ngày đó khó có thể tranh đấu trên căn bản luật pháp chủ quyền VN trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sạ Tác giả Frederic Lassere (2) đã viết: “Il est ironique de constater que, pour defendre ses revendications sur les Paracels et les Spratleys et prouver la continuité de l’occupation Vietnamienne, la RDV (Republique Democratique du VN) ait du prendre à son compte l’occupation de ces archipels par les garnisons Sud Vietnamiennes et les actes de
    revendication et d’annexion emis par Saigon, un gouvernement qu’elle ne reconnaissait pas et dont elle combattait l’armée” Lời dịch: “Trớ trêu thay, để chứng minh chủ quyền của mình trên 2 quần đảo, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (chính quyền CS) phải nhờ đến những hành động của VNCH, một chính quyền mà họ không công nhận và đã chống đối bằng vũ lực”. Tác giả Monique CHEMILLIER – GENDREAU (3) đã viết: “Il n’en demeure pas moins que ce moment particulier dans l’histoire de la division du VN brouille la position Vietnamienne. Le Vietnam aujourd’hui réunifié (par la victoire du Nord) doit choisir à qui il succède sur ce point. La logique territoriale renforce une succession aux droits et actions du Sud Vietnam, seul competent d’une point de vue géographique” Tạm dịch: “Nói cho cùng vì sự chia đôi Việt Nam đã làm lu mờ đi cái thế của VN. Việt Nam ngày nay thống nhất bởi sự thắng trận của miền Bắc phải chọn lựa coi mình là hậu thân của ai trên điểm này. Theo lô-gích thì phải là hậu thân của VNCH, chính phủ duy nhất có thẩm quyền chiếu về mặt địa dư”. Vì vậy muốn tranh đấu hữu hiệu trên mặt pháp lý cho chủ quyền VN trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa chính quyền VN phải có sự hiện diện của hậu thân VNCH. Sự có mặt ấy chỉ có thể có sau khi hiệp định Paris được thực thi một cách đứng đắn tức là sau một cuộc tổng tuyển cử dưới sự giám sát của quốc tế như đã được định trong hiệp dịnh Paris. Muốn được như thế, người không cộng sản cũng như chính quyền CS hiện giờ cần đến sự có mặt của chính phủ liên tuc công quyên VNCH. Đê có thêm chi tiêt xin đoc bài « Môt giai pháp hoà bình theo Đinh ươc QT năm 1973 vê HS TS và biên đông » cua tác gia Tâm Viêt (6) đăng trên website cua VNCH foundation . PS: (a) Chỉ cần một phần lãnh thổ cũ, chính phủ VNCH sẽ không còn là một chính phủ De Jure không lãnh thổ. (b) Chung quanh Hoàng Sa và Trường Sa có khoảng 196 tỷ thùng dầu thô trị giá 5880 tỷ USD tính theo giá 30 USD mỗi thùng (4) (5) (1) Beijing Review, 1980 : 21; Chang Teh-Kuang, 1991 : 417 Cộng sản VN có cố gắng bào chữa nói rằng lời tuyên bố của Phạm Văn Đồng chỉ nhắm vào việc nới rộng hải phận ra 12 hải lý mà thôi. Theo Viet Nam Courrier “The Hoang Sa and Truong Sa archipelagoes (Paracels and Spratly)” Ha Noi 9/1981: 46 (2) “Le dragon et la mer”, Stratégies geopolitiques chinoises en mer de Chine du Sud,
    Frederic Lasserre, Editon l’Harmattan inc, p.101 (3) “La souveraineté sur les archipels Paracels et Spartleys”, Monique CHEMILLIER – GENDREAU edition l’Harmattan, p. 123 (4) “China’s Push through the South China Sea. The interaction of bureaucratic and national interests” Garver John W. The China quartely 1992 p.999 sq (5) “China’s Position towards territorial disputes. The case of the South China Sea Islands”, Chi Kim Lo, London Rontledge, 1989, p 125 sq.
    (6) “Nguoi Viêt Hai Ngoai và vân đê biên đông: chung ta da góp đươc gì cho môt giai pháp ’’ , Tâm Viêt , Viêtvungvinh 2010

Phản hồi