WordPress database error: [Expression #1 of ORDER BY clause is not in GROUP BY clause and contains nonaggregated column 'oldsite_dcvwp.wp_posts.post_date' which is not functionally dependent on columns in GROUP BY clause; this is incompatible with sql_mode=only_full_group_by]
SELECT YEAR(post_date) AS `year`, MONTH(post_date) AS `month`, count(ID) as posts FROM wp_posts WHERE post_type = 'post' AND post_status = 'publish' GROUP BY YEAR(post_date), MONTH(post_date) ORDER BY post_date DESC

 
|

Trước Giờ Vẫn Vậy Mà

“Có  lẽ  trên  thế giới này không  có nước nào đối xử  với  tù  binh  Mỹ  tốt  như  ở  Việt  Nam.”
Trần Trọng Duyệt – cựu trại trưởng tù binh Hoả Lò

Khi được phóng viên báo Tiền Phong hỏi về sự khác biệt trong “tư duy lễ hội của người Việt và nước ngoài,” ông Lê Trần Bạt cho hay:

Tôi đã đến lễ hội rượu nho ở xung quanh lưu vực sông Đa-nuyp, ở nước Áo, nước Đức, và một số nước khác. Lễ hội ấy nước nào cũng có, nhưng nó diễn ra khác nhau ở nhiều quốc gia.

Ví dụ ở Áo, anh có thể nếm thoải mái tất cả các loại rượu, từ rượu bằng các loại quả nho đến rượu bằng các loại hạt nho. Tôi nghĩ rằng các hình thức như vậy nó tạo ra sự đa dạng, và sự đa dạng nào cũng là đặc trưng của văn hóa.

Không phải tất cả các lễ hội của người ta đều gắn liền với vui chơi mà nó gắn liền với sản xuất và bán hàng. Chúng ta càng làm cho lễ hội gắn liền với đời sống kinh tế bao nhiêu thì chất lượng hợp lý của hiện tượng ấy càng tốt bấy nhiêu. Có lẽ nên phát triển văn hóa Việt Nam theo khuynh hướng như thế.”

Cái “khuynh hướng làm cho lễ hội gắn liền với đời sống kinh tế” mà ông Lê Trần Bạt mong muốn (e) còn phải đợi hơi lâu. Với truyền thống của một dân tộc đã từng đánh bại ba đế quốc to nên lễ hội của người Việt “chủ yếu” là để hân hoan chào mừng thắng lợi.

Tháng Tư vừa qua phố xá cờ xí rợp trời, với không khí vẫn (còn) hừng hực khí thế của Đại Thắng Mùa Xuân. Qua tháng Năm này thì cả nước lại đang tưng bừng kỷ niệm Chiến Thắng Điện Biên – không chỉ riêng Điện Biên ở Lai Châu mà còn thêm luôn “trận Điện Biên” ở (tuốt luốt) trên không nữa.

Trong bài viết (“Cuộc Sống Thường Ngày Của Tù Binh Mỹ Tại Hoả Lò Hơn Bốn Mươi Năm Trước”) hai nhà báo Đặng Vương Hưng – Nguyễn Văn tường thuật:

“Sau trận chiến lịch sử ấy, có 81 máy bay Mỹ bị bắn rơi (có 34 chiếc B52) và gần 100 phi công Mỹ bị chết và bị bắt. Và lại có thêm nhiều tù binh phi công Mỹ nhập trại Hỏa Lò, Hà Nội, nơi trước đó đang giam giữ hàng trăm phi công Mỹ.”

Bài báo thượng dẫn cũng trích dẫn lời của cựu đại tá trại trưởng, Trần Trọng Duyệt, về chính sách rộng lượng “vô biên” của Đảng và Nhà Nước đối với tù binh:

Ở Hỏa Lò hồi đó các tù binh Mỹ thường xuyên được tổ chức vui chơi giải trí. Hằng ngày, họ được ra sân phơi nắng, chơi bóng chuyền, bóng rổ, chọc bi-a, đọc  sách báo, nghe tin tức kể cả tin tức của Mỹ và phương Tây qua đài phát thanh mà trại tiếp âm, hoặc chọn những tù binh có giọng đọc tốt để đọc cho tất cả cùng nghe.

Để các tù binh có phương tiện chơi thể thao thường xuyên, trại phải nhờ đến sự giúp đỡ  của ông Tạ Đình Đề, người phụ trách xưởng sản xuất dụng cụ của Tổng cục Thể dục thể thao. Thậm chí để giúp một số tù binh có bệnh về mắt có thể đọc được sách báo, Ban chỉ huy trại đã phải thửa khá nhiều cặp kính thuốc của bà Thúy Hà ở cửa hàng số 48 Hàng Bài.
Đặc biệt, trong các ngày lễ, ngày Tết của Mỹ như ngày Độc Lập, ngày Lễ Tạ Ơn, Noel, Tết Dương lịch … tôn trọng tín ngưỡng của tù binh, trại còn cho mời cả mục sư Bùi Hoàng Thử đến làm lễ theo nghi thức tôn giáo cho số người theo đạo.

Thỉnh thoảng, trại cho mời các nghệ sĩ của đoàn văn công Tổng Cục Chính trị đến biểu diễn cho bộ đội và cho cả tù binh Mỹ cùng thưởng thức. Ông Duyệt còn nhớ một  lần nghệ sĩ Tường Vi đến hát bài  “Cô gái vót chông” và “Tiếng đàn ta lư”. Tới đoạn lên cao như tiếng chim hót “Pơ rô tốc… Pơ rô tốc…” Mặc dù không hiểu nghĩa cả bài hát, nhưng  tù binh Mỹ khoái  quá, vỗ tay rào rào, yêu cầu hát đi hát lại.

Đêm ấy, khi buổi văn nghệ đã tan từ lâu,  nhưng ở nhiều phòng giam, tù binh không chịu ngủ. Họ bàn tán đủ thứ chuyện về các ca sĩ Việt Nam, rồi còn bắt chước giọng Tường Vi hát “Pơ rô tốc… pơ rô tốc…” suốt đêm.

Để  thay  đổi  không  khí  cho  các  tù  binh  đã  phải  ở trong trại lâu ngày, được sự phối hợp giúp đỡ của Công an Hà Nội và An ninh Quân đội, Ban chỉ huy trại còn nhiều lần tổ  chức  cho  các  tù  binh đi  tham  quan một  số  di  tích  lịch  sử,  văn  hóa  và  danh  thắng  của  Thủ  đô  Hà  Nội  như:  Hồ Hoàn  Kiếm,  Công  viên  Lê  Nin,  Quốc  tử  giám,  chùa  Trấn  Quốc,  chùa Một  Cột,  Viện  Bảo  tàng Quân  đội  (nay  là  Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam), bệnh viện Bạch Mai… Để  bảo đảm an toàn cho những “vị khách đặc biệt” này, ta đã cho  phép  các  tù  binh  ăn  mặc  như  khách  du  lịch:  Cũng comlê, cavát, giày đen v.v… và đi theo hướng dẫn viên.

Sao mà “ta” lại “chu đáo” với giặc dữ vậy, hả Trời?

Bằng khen nữ dân quân bắt giặc lái Mỹ bằng liềm. Nguồn ảnh: giadinh.net

Bằng khen nữ dân quân bắt giặc lái Mỹ bằng liềm. Nguồn ảnh: giadinh.net

Mà Đại tá trại trưởng Trần Trọng Duyệt không có nói “xạo” đâu nha. Sự kiện trên cũng đã được “phụ hoạ” bởi một nhà văn uy tín (hàng đầu) của nhà nước CHXHCNVN:

Đêm Nôen năm nay chúng tôi lại vào Hỏa Lò chơi với giặc lái. Âu cũng thêm một phong tục thời chiến, Nôen thăm Tết tù binh. Thói quen người Mỹ, bữa ăn thịnh soạn nửa đêm có món thịt gà tây – như ta Tết ông táo cúng cá chép. Thời Pháp, Tây đem gà tây giống sang nhưng thỏ và gà tây vẫn chưa thành món quen như gà thiến, gà ta… Cũng không mấy ai nuôi gà tây. Con gà tây đốm đen, mào đỏ, người đến gần thì cau có, xõa cánh chĩa đuôi ra kêu cộ cộ.

Thế mà những năm ấy, nhiều làng hai bên sông Đuống, hợp tác xã đã chuyển ruộng cho các xóm khác, để chuyên nuôi gà tây. Đến áp Nôen, hàng đoàn xe tải số biển đỏ của quân đội về lấy gà. Gà tây đem cho tù binh Mỹ ăn tết. (Tô Hoài. i. Hà Nội: Hội Nhà Văn, 1992).

Coi: có chừng vài trăm “giặc lái” bị giam ở Hoả Lò mà “nhiều làng hai bên sông Đuống …chuyển ruộng cho các xóm khác, để chuyên nuôi gà tây” và “ áp Nôen, hàng đoàn xe tải số biển đỏ của quân đội về lấy gà. Gà tây đem cho tù binh Mỹ ăn tết.”

Ăn uống kiểu đó bội thực chắc chết, chết chắc, chớ sống gì nổi – cha nội?

Cũng bị bắt giam, vào cùng thời điểm này nhưng phần ăn của người tù Vũ Thư Hiên – so ra – có phần hơi … đạm bạc:

Có lần tôi vớ phải khúc sắn ôi trong suất cơm độn, nhựa sắn nhầy nhụa như tinh dịch. Tởm quá, giận quá, tôi quẳng nó xuống hầm trú ẩn. Thế rồi đêm đến, bụng quặn lên vì đói, chịu không nổi, tôi lại phải sờ soạng trong bóng tối tìm khúc sắn vứt đi, lấy miếng giẻ cũng chẳng sạch gì lau cái nhựa gớm ghiếc ấy đi mà nhai trệu trạo chút tinh bột lẫn đất cát. Nhai khúc sắn mà nước mắt ứa ra…” (Vũ Thư Hiên. Đêm Giữa Ban Ngày, 2nd edition. Văn Nghệ, Westminster, CA: 1997).

Kinh nghiệm ở Hoả Lò của người tù Bùi Ngọc Tấn cũng hoàn toàn khác: không có xem văn nghệ, văn gừng, chơi bóng truyền, bóng rổ, thọc bi-a, hay sách báo gì ráo trọi. Đi tham quan chỗ này, chỗ nọ, tất nhiên, cũng không luôn – đừng nói chi đến cái vụ mặc complet đeo cravate nghe (sao) thấy kỳ quá hà:

“Hắn cởi truồng nằm trong xà lim, thiếp đi vì nóng. Và choàng tỉnh vì nóng. Người hầm hập. Mồ hôi toát ra. Hắn nhỏm dậy nhìn vết mồ hôi in thẫm trên những tấm ván lim thành hình một bộ xương người. Hắn ngắm nhìn bộ xương của hắn và nghĩ đến 1úc chết. Hắn lẩm bẩm một mình.

- Xương mình to thật.

Hẳn trở dậy. Phải tắm. Phải lau đi cái mồ hôi dính nham nháp khắo người. Phải làm dịu mình một chút. Không chỉ hầm hập, ngột ngạt xà lim. Còn cháy trong người. Còn lò lửa trong óc.

Mình nghĩ đến cái bể nước nhà mình. Đến gáo nước đầy trong vắt múc lên giội từ vai hay đỉnh đầu trở xuống cho hạ nhiệt toàn thân. Thiên đường đấy.

Và mình sẻ nuởc uống trong bô ra cái ca nhôm nửa lít. Tiêu chuẩn nước tắm của mình: Nửa lít bớt ra từ khoản nước uống. Nhúng khăn mặt vào ca. Lau. Lau từ mặt xuống cổ. Lau từ cổ xuống ngực. Xuống bụng. Dấp nước khăn mặt, rồi khoanh tay đập, đập vã vào lưng. Rồi lau xuống bẹn, xuống chân, cho đến khi cái khăn mặt nóng lên vì vắt nước đi. Vắt vào cái nắp bô vệ sinh để ngừa cho khỏi bắn nước bẩn vào bô ra ngoài. Rồi mới nghiêng nắp cho nước chảy vào bô.
Cái thứ nước vắt ra ấy nâu nâu đen đen đặc nhơn nhớt. Bô đầy thì vắt nước lên tường xà lim cho nước vào tường. Cũng thấy người dễ chịu. Còn dễ chịu vì lúc tắm là lúc không để ý tới thời-gian-xà-lim. Nó qua đi mà chẳng tra tấn được mình như mọi lúc. Nhưng không bao giờ lâu đã lại hầm hập. Không thể tắm nữa. Còn phải dành nước đế uống…” (Bùi Ngọc Tấn. Chuyện Kể Năm 2000, tập I. CLB Tuổi Xanh, Westminster, CA: 2000).

Trời, sao mà Đảng lại khắt khe với đồng bào và đồng chí (đến từng giọt nước uống, đựng trong …bô) và hào phóng với kẻ thù dữ vậy cà?

Sao thì không biết nhưng dù gì thì chuyện cũng đã qua rồi. Nhắc lại chỉ thêm buồn thôi. Hơn nữa, oán thù nên cởi chứ không nên buộc. Và chuyện gì đã qua thì cho nó qua luôn đi.

Theo khuynh hướng và tinh thần hoà giải và hoà hợp dân tộc hiện nay, do Đảng và Nhà Nước chủ xướng, nên thôi ráng quên đi quá khứ để nhìn vào hiện tại. Tôi thử vô Google, gõ đại năm chữ “bị đánh đập trong tù” thì thấy (trong vòng 0.14 giây) hiện ra 128.000 kết quả. Xin ghi lại vài ba, nơi trang đầu tiên, để rộng đường dư luận:

Mục sư Nguyễn Công Chính bị đánh đập

Đỗ Thị Minh Hạnh bị đánh trong tù bị đánh đập trong tù

Nhà văn Nguyễn Văn Nghĩa bị đánh đập

Nguyễn Phương Uyên bị đánh đập trong tù

Sức khỏe chị Hồ Thị Bích Khương đáng lo ngại |

Và đây là bản tin mới nhất, đọc được vào hôm 30/04/2014, trên trang Dân Làm Báo:

“Các Tù nhân lương tâm đồng loạt tuyệt thực – Yêu cầu cán bộ trại giam thực hiện đúng trách nhiệm và tôn trọng quyền lợi của các tù nhân. Từ trại 5 Lam Sơn – Thanh Hóa, tù nhân lương tâm Đậu Văn Dương đã thực hiện chương trình tuyệt thực 7 ngày bắt đầu từ ngày 11/04/2014 đến ngày 17/04/2014 sau khi được trả lại số sách bị thu giữ trái pháp luật, anh Dương đã ngừng tuyệt thực và ăn trở lại. Hiện nay 2 tù nhân lương tâm Trần Hữu Đức và Trần Minh Nhật ở trại giam K3 – Phú Sơn 4, Tỉnh Thái Nguyên đã tuyệt thực từ thứ 6 ngày 18/04/2014 và nay vẫn đang tiếp tục.”

 

TNLT Đậu Văn Dương (trái); Trần Hữu Đức (giữa); Paul Minh Nhật (phải). Ảnh: Dân Làm Báo

TNLT Đậu Văn Dương (trái); Trần Hữu Đức (giữa); Paul Minh Nhật (phải). Ảnh: Dân Làm Báo

Té ra “hèn với giặc và ác với dân” không phải là hiện tượng mới mẻ gì. Trước giờ vẫn vậy mà. Có mới chăng chỉ là chuyện bây giờ họ còn muốn … nhận giặc làm cha thôi.

© Đàn Chim Việt

 

4 Phản hồi cho “Trước Giờ Vẫn Vậy Mà”

  1. THƯỢNG NGÀN says:

    SÁCH LƯỢC QUỐC GIA

    Bất kỳ người giỏi giang nào nắm quyền lãnh đạo đất nước đều phải có đối sách phát triển đất nước gọi là sách lược quốc gia.
    Lãnh đạo đúng nghĩa không phải chỉ thuần túy là cầm quyền hay nắm quyền cai trị. Bởi nếu chỉ nhằm giữ quyền cho mình, nhằm ổn định trong trì trệ hay dẫm chân tại chỗ không phát triển hay phát triển quá kém, đó không mang ý nghĩa cao quý và cần thiết của lãnh đạo thực sự.
    Bởi vậy lãnh đạo đúng nghĩa chỉ hướng về tương lai mà không thỏa mãn với hiện tại hay không lùi lại để tự hào về quá khứ.
    Điều đó có nghĩa lãnh đạo trước hết là phải đào tạo mới và xây dựng mới về mọi mặt, từ hạ tầng cơ sở, đến con người, đến quốc phòng, kinh tế xã hội, văn hóa và cả ngoại giao. Bởi có như thế mới phát huy được trí tuệ và tinh hoa sức mạnh toàn dân. Chỉ có kiểu cầm quyền theo cách hành chánh, cách bảo lưu quyền hành, chỉ làm theo mọi vết mòn cũ, theo kiểu các sách vở, giáo điều, mới làm hoàn toàn ngược lại tất cả những điều đó.
    Như vậy chỉ nhìn vào tốc độ phát triển kinh tế, nhìn vào mọi mặt an sinh xã hội, nhìn vào tính cách, nội dung, mục đích của giáo dục, nhìn vào quan niệm truyền thông và văn hóa, nhìn vào tính cách phát huy tự do và dân chủ, nhìn vào các chính sách ngoại giao có gì hiệu quả, thì sẽ nhìn ra ngay tính chất lãnh đạo hay chỉ là nắm quyền, cầm quyền ở trong một nước.
    Người lãnh đạo bởi vậy phải luôn là người quên mình hay không phải vì mình. Cho nên nếu cầm quyền chỉ nhằm quyền lợi riêng tư, nếu cầm quyền chỉ nhằm người ta tôn vinh mình mọi mặt, chỉ nhằm tuyên truyền bề ngoài để củng cố vị trí, hay chỉ nhằm đào tạo các thế hệ đi sau hoàn toàn trong sự khống chế của mình, điều đó thật hoàn toàn xa hẳn hay hoàn toàn ngược lại với ý nghĩa lãnh đạo.
    Bởi người lãnh đạo đúng nghĩa luôn luôn tránh mọi tốn phí không cần thiết cho xã hội và cho dân. Bởi ý nghĩa của lãnh đạo là hiệu suất, là hiệu quả, là kết quả thật sự, không phải chỉ sự hào nhoáng về ngoài, sự ngu dân hay sự ru ngủ nào đó. Mọi sự tuyên truyền tốn kém để chỉ hướng về quá khứ, để tự hào quá khứ, để mù quáng và ru ngủ hiện tại, nếu đẩy đến mức quá quắc, giả tạo, vô bổ, đó thật trái với lãnh đạo và phi lãnh đạo về mọi mặt. Bởi quá khứ không thể bao giờ thay thế được cho hiện tại, hiện tại không thể bao giờ thay thế được cho tương lai, có quan niệm được như thế thì mới tránh được mọi sự huênh hoang suông, chỉ hoàn toàn tự hãnh diện, tự ru ngủ cho bản thân, hoặc thậm chí là đánh lừa người khác mà chẳng phải thực chất nhằm sự lãnh đạo đúng nghĩa tức chỉ toàn tâm toàn sức lo cho mọi sự phát triển và tốt đẹp đúng mức của toàn xã hội. Ở đây cũng chính là tâm lý chính trị để phân biệt ở đâu mới thực là giới lãnh đạo và ở đâu mới thực là giới cầm quyền hay nắm quyền chỉ là như thế.

    ĐỈNH NGÀN
    (10/5/14)

  2. Phan BA says:

    Bác Tưởng viết rất hay, thấm thía và chua xót; ước gì những dư lợn viên, bồi bút mang bài này về cho chủ của đọc để họ hiểu người khác và khôn thêm.

  3. Việt cộng ác với người Việt says:

    Vài trích đoạn từ bài viết của tác giả Tưởng Năng Tiến về trại giam Cổng Trời :

    Người tù Trần Nhật Kim, tác giả cuốn Cuộc Chiến Chưa Tàn cho biết thêm:

    ”Từ trại giam Cổng Trời đi đường bộ xuống Thị xã Hà Giang chừng 36 cây số. Ngược lên phía Bắc là huyện Quản Bạ nằm sát biên giới Việt Trung, chỉ cách trại khoảng 10 cây số. Cho tới nay những điều mà người ngoài biết về trại giam Cổng Trời vẫn còn rất hạn chế.”

    Và cuộc sống bên trong Cổng Trời đã được ông Nguyễn Hữu Đang tóm gọn như sau:

    “Trại này có truyền thuyết là ‘vào thì không ra’, đến đây là phải bỏ xác chớ không hy vọng gì để trở về với gia đình. Trại Cổng Trời là một lò sát sinh đầy bí mật, tàn bạo và khoa học của Hà Nội. Trại này đã bí mật chôn vùi 300 anh em tù biệt kích miền Nam và hàng ngàn tù chính trị, tu sĩ và linh mục Công giáo cũng như giới trí thức chống chủ nghĩa CS ” .

    Cái cách mà “lò sát sinh bí mật” này “chôn vùi” con người, xem chừng, cũng giản đơn thôi. Trước hết là giá rét. Hãy nghe Mặc Lâm so sánh:

    “Những trang sách trong tác phẩm Quần Đảo Ngục Tù của Aleksandr Soltzhenitsyn diễn tả cái lạnh giá mà người tù nước Nga phải chịu đựng suốt mùa đông đã đánh động con tim nhân loại bao nhiêu, thì khi nghe người tù trại giam Cổng Trời kể lại chính bản thân họ chịu đựng cái lạnh của đất trời Hà Giang sẽ khiến người nghe chạnh lòng đến rơi lệ bấy nhiêu.”

    Rồi đến đói khát:

    -”Ăn thì ăn đói không có gì cả. Đói điên cuồng, đói quá hóa điên. Ai trải qua rồi thì mới thấy nó khủng khiếp. Có những thanh niên không chịu được đói đập đầu vào tường để tự tử. Có người dùng mảnh chai cắt veine để cho máu chảy ra mà chết. Tôi chứng kiến nhiều trường hợp như thế, đói một cách kinh khủng.”

    - “Chúng tôi đói đến nỗi phải sàng phân mà ăn. Là vì ăn hạt bo bo của Ấn Độ, mà bo bo thì cứng lắm thanh niên như tôi mà nhai còn nhủng nhẳng thì huống chi mấy ông già, nhai kỹ bao nhiêu thì vẫn còn phân nửa. Một nửa còn lại nguyên si nó vào xong nó lại đi ra. Mà phân thì lại không có mắm muối, cá thịt gì nên không hôi thối. Do đó các người đói quá sau khi những người tù đi ngoài thì họ vào họ xúc phân đó. Những toán đi ra ngoài đồng đem xuống suối rửa sạch rồi hầm lại và ăn lại cái bo bo đó!”

    Và đòn cuối là sự cách ly:

    “Án bao nhiêu năm chẳng quan trọng, chẳng đáng kể. Không một mối liên hệ với bên ngoài, không thư từ, không thăm nom, không tiền hay quà hay lương thực gửi tới – không, anh không nhận được chút gì của bạn bè hay gia đình. Anh không có quyền nhận thăm nom, không tiếp xúc với bên ngoài. Anh chỉ sống chuyên giữa các anh với nhau, những người tù, những tù nhân chính trị. Thế giới của anh, nhân loại đối với anh là 200 người tù – không có những người đồng tổ quốc, đồng công dân; với anh, không có gì hết, chỉ có 200 người đồng ngục cùng một số phận…”

    Cổng Trời được giải toả, vào năm 1978, trước khi Trung Cộng tấn công Việt Nam. Tù nhân được chuyển về trại Thanh Cẩm. Đây là một tin vui giữa giờ tuyệt vọng – vẫn theo như ghi nhận của Mặc Lâm:

    “Cái ngày nó bị xóa sổ đến rất bất ngờ và những tù nhân trong trại chào đón tin này với một niềm hân hoan tột độ. Người tù biết rằng mặc dù họ không được trả tự do nhưng sẽ không phải tiếp tục sống trong cái địa ngục trần gian này. Hy vọng đó đã làm cho hầu hết tù nhân thắp lại niềm tin sống sót mà bao nhiêu năm qua đã tắt ngúm trong lòng họ.”

  4. VC nói láo không ngượng mõm says:

    Hai nhà báo Đặng Vương Hưng – Nguyễn Văn tường thuật:

    “Sau trận chiến lịch sử ấy, có 81 máy bay Mỹ bị bắn rơi (có 34 chiếc B52) và gần 100 phi công Mỹ bị chết và bị bắt. Và lại có thêm nhiều tù binh phi công Mỹ nhập trại Hỏa Lò, Hà Nội, nơi trước đó đang giam giữ hàng trăm phi công Mỹ.” – Tác giả: Tưởng Năng Tiến

    Đảng Cộng sản Việt Nam về ‘Trận Điện Biên Phủ trên không‘ hôm 14/02/2004 viết:

    “Qua 12 ngày đêm chiến đấu kiên cường (từ 18 đến 30-12-1972) quân và dân ta đã đánh bại cuộc tập kích chiến lược bằng không quân của Mỹ, bắn rơi 81 máy bay các loại, trong đó có 34 máy bay B-52,”

    Nhưng trong một bài đăng năm 2012, Báo Đảng Cộng sản Việt Nam viết:

    “Trong 12 ngày đêm từ 18-12-1972 đến 29-12-1972, quân dân Hà Nội đã lập một kỳ tích lịch sử: bắn rơi 23 máy bay B-52, bắt sống nhiều phi công Mỹ.”

    Một trong số bài viết gần đây nhất, của Rebecca Grant trên trang mạng Airforce Magazine tháng 12/2012 mô tả:

    Bà Rebecca Grant trích sử gia không quân Walter J. Boyne nói có tám phi công Mỹ “bị giế́t khi tham chiến hoặc chết vì vết thương, 25 mất tích, 33 bị bắt làm tù binh chiến tranh, và chỉ có 26 được cứu thoát trước khi rơi bị bắt sống”, và con số B-52 bị bắn hạ, theo nguồn tin này là 15.

Phản hồi