Cuộc di tản bất thành
Giữa tháng tư năm bảy mươi lăm, từ vĩ tuyến mười bảy trở vô, miền trung đã hòan tòan thất thủ rã ngũ tan hàng. Tỉnh Quảng Trị, cố đô Huế, thành phố Đà Nẵng, Quy Nhơn, Tuy Hòa… và các căn cứ Không quân Hải quân ở Nha Trang đều đã bị cộng sản chiếm đóng khiến người dân kinh hòang hỗn lọan, ồ ạt di tản, dẫm đạp lên nhau bỏ của chạy lấy người ùn ùn kéo nhau vào miền nam lánh nạn. Trong lúc đó thì ở miền nam, từ dân, quân, cán, chính, phần lớn ai nấy cũng đã liệu đóan được tình hình, có linh cảm rằng đất nước đã đến hồi mạt vận lâm chung nên người nào cũng nhấp nha nhấp nhỏm như ngồi trên đống lửa, ai ai cũng thủ sẵn một túi hành trang tùy thân phòng hờ nếu có cơ hội chạy được thì chạy dông ra nước ngòai để tránh họa cộng sản. Bề ngòai của Hòn ngọc viễn đông Saigon vẫn lấp lánh hào quang, vẫn tưng bừng náo nhiệt theo nhịp sống hằng ngày nhưng kỳ thực trong lòng ai cũng phập phồng băn khoăn, rắp ranh toan tính làm cách nào để thóat khỏi cơn trốt xóay ghê rợn đang cuồn cuộn tiến về phương nam, một miền đất phì nhiêu béo bở mà bọn cộng quân đã hằng bấy lâu bất chấp mọi thủ đọan chực chờ xâm chiếm.
Là một thầy giáo dạy Anh văn trung học cấp hai, thầy Thanh mỗi tối sau khi chấm bài xong, thầy thường nghe radio đài VOA để trau dồi thêm Anh ngữ và theo dõi tin tức thế giới hằng ngày cũng như tình hình chiến sự miền nam. Nhận thấy phen này Hoa kỳ sẽ bỏ miền nam Việt Nam, sẽ không can thiệp vào kế hoạch thôn tính miền nam của bọn cộng sản Bắc Việt như trong cuộc tổng tấn công năm Mậu thân 68, cho nên, ngày 16/4/75, từ quê vợ ở một tỉnh miền tây sông Hậu, thầy Thanh đã đem gia đình lên Saigon ở nhờ nhà một người chị bà con bên vợ để tìm cơ hội thóat thân. Ngày nào thầy cũng chạy ngược chạy xuôi tìm lại những người bạn Mỹ hoặc các giáo sư đại học khi xưa mong gặp họ để vấn kế. Nhưng tất cả những người mà thầy đặt kỳ vọng đều đã trả nhà về nước từ đầu tháng tư khi bàn cờ chiến sự đã sắp ngã ngũ, thắng bại đã được quyết định bởi một kẻ thứ ba.
Không tìm được bạn bè, thầy quay qua những người thân có chức quyền trong chính phủ. Trước nhứt là ông em rể đang giữ chức vụ thiếu tá tùy viên quân sự cho thủ tướng Trần Thiện Khiêm. Ông em rể vẫn còn rất lạc quan, nói với anh vợ là chưa cần vội, đợi giờ chót không ổn sẽ cho người báo với thầy. Đợi đâu tới ngày 28/4 thì một buổi chiều, bà mợ bên vợ tới thăm, nói cho các cháu biết gia đình bà sẽ di tản. Ông cậu nguyên là đại tá Quách Hùynh Hà, tổng trưởng công vụ lúc bấy giờ nhờ bà đem tin đến để xem có ai trong gia đình muốn tháp tùng thì ông sẽ cho quá giang. Thầy Thanh nghe như mở cờ trong bụng thấy đúng ý định của mình nên chụp ngay cơ hội lên tiếng xin theo.
Nếu thực hiện như dự tính là đi với ông cậu thì có lẽ đâu sẽ vào đó (?) nhưng ngày hôm sau 29/4, trên đường trước khi tới nơi cư ngụ của ông Quách Huỳnh Hà, thầy Thanh phải đi ngang qua Trung tâm quân báo ở đường Tô Hiến Thành. Sực nhớ là người anh ruột thứ năm của mình là Trung tá Chỉ huy trưởng trung tâm quân báo, kẻ thù ác ôn số một của cộng sản, chắc chắn anh Năm sẽ là người phải chạy trước tiên cho nên thầy đối ý, thay vì đi gặp ông cậu vợ, thầy lại ghé xe vào xin gặp ông anh. Anh Năm nói chắc ăn như bắp là đêm nay trực thăng sẽ đến rước, bảo thầy chở vợ con về nhà ông ngồi đó đợi. Đến chiều tan sở, anh Năm về bảo người giúp việc dọn cơm cho anh và vợ chồng thầy Thanh, chừng đó thầy mới biết là bà chị dâu và các cháu đã được anh đưa lên phi cơ đi cả tuần trước rồi. Sở dĩ anh Năm còn ở lại là vì muốn chờ đứa con gái đi về quê trở lên chưa kịp. Anh định chờ nó nốt đêm nay.
Nhưng ở đời, một khi cơ hội đến mà không biết nắm bắt ngay thì e rằng sẽ không còn cơ hội lần nữa. Nếu đã chưa kịp sẵn sàng thì sẽ không bao giờ còn kịp vì trong thời buổi giặc giã lọan lạc tư bề, đường sá bị gài mìn, đắp mô, các quốc lộ đều bị đứt đọan, cầu cống nhiều nơi sụp đổ, phương tiện lưu thông rất là nan giải. Ông anh đã biết vậy mà vì thương con, ông vẫn nán chờ để rồi sau đó phải nuốt hận đút đầu vào gông, tra chân vào cùm mười năm trong ngục tù miền bắc (thật tội cho anh Năm, vợ con đã đi hết chẳng còn ai thăm nuôi trong những tháng năm tù đày khốn khổ nơi địa ngục trần gian). Đêm ấy là một đêm trắng mắt dài vô tận. Trực thăng từng đòan, từng đòan cứ xoay tít vần vần trên đầu, chở dân di tản ra đệ thất hạm đội rồi lại trở vào bốc thêm người, đã bao nhiêu lượt bay ngang qua sân thượng nhà anh Năm nhưng anh đã không cho tín hiệu đáp lại vì còn mãi chờ con! Cho đến rạng sáng ngày 30/4, trực thăng mới im tiếng và khuất dạng hẳn ngòai khơi.
Đến nước này, thầy Thanh cũng chưa chịu bỏ cuộc, vẫn còn hy vọng dù rất mong manh. Thầy bàn với anh Năm qua nhà ông em rể tính coi sao nhưng anh Năm nằng nặc ở lại chờ tin con dù hậu quả có ra sao. Không thuyết phục được ông anh, thầy vội vã đưa vợ con đi tìm ông em rể thiếu tá. Bây giờ thì ông em mới sáng mắt ra nói chỉ còn cách là đến gặp Chú hai Huyền tức là ông cựu chủ tịch thượng nghị viện Nguyễn Văn Huyền vừa nhậm chức phó tổng thống mấy ngày. Tới nhà riêng của ông Huyền thì hai anh em thấy bên ngòai có một dọc xe jeep trang bị đầy vũ khí và những anh binh sĩ đang đứng gác. Tư gia của ông rất xềnh xòang như nhà một phó thường dân vì suốt thời kỳ làm chủ tịch thượng nghị viện, ông quá thanh liêm nên cảnh nhà rất thanh bạch. Trông thấy hai thằng cháu, ông giựt mình hỏi sao giờ này tụi con còn ở đây. Hai anh em nói thì cũng vì vậy cho nên mới tới đây cầu cứu với chú Hai. Ông chú nói hiện giờ cả thành phố đã bị giới nghiêm, không thể nào xông ra ngoài chạy lung tung đầu này đầu nọ được nữa. Do đó ông mới bảo tài xế lấy xe riêng của phó tổng thống chở hai anh em về nhà rước vợ con rồi đưa vào nhà dòng Saint Paul của các bà Soeurs ở đường Cường Để tụ họp ở đó, đợi đến chín giờ sẽ có hai chiếc trực thăng dành riêng cho phó tổng thống đến rước đi.
Nhưng rốt cuộc, mưu sự tại nhân mà thành sự tại thiên. Người tính không qua trời tính. Quá chín giờ, ông chú bảo ông cháu rể gọi điện vào tổng tham mưu coi tình hình thế nào mà trực thăng mãi đến giờ vẫn chưa thấy đến. Đầu dây bên kia một ông sĩ quan trực điện thọai trả lời rằng hai viên phi công thấy Việt cộng lố nhố ngòai vòng đai đông như kiến lửa đã hỏang kinh mạn phép cướp trực thăng bay tuốt luốt, chẳng dám quay đầu lại bốc người. Nghe tin, cả đám người bị bỏ lại nghe như sét đánh ngang đầu. Ai nấy cũng lộ vẻ thất thần ra mặt lo lắng cho số phận mình không biết rồi đây sẽ ra sao dưới tai ách bạo tàn của cộng sản. Tâm trạng ấy chắc hẳn một triệu người miền bắc di cư hồi năm mươi tư đã kinh nghiệm rõ ràng và thấu hiểu hơn bất cứ người nào.
Mười một giờ trưa ngày 30/4/75, tổng thống Dương văn Minh tuyên bố đầu hàng. Bọn cộng sản bắc Việt và bè lũ mặt trận Giải phóng miền nam như ong rừng vỡ tổ, như một bầy quỷ dữ chui lên từ địa ngục a tì đầu trâu mặt ngựa đầy nanh vuốt hung hăng, man rợ ùa ngập vào thành phố gieo kinh khiếp hỏang lọan cho người dân hơn bất cứ một trận thiên tai tận thế nào. Thà là tận thế, mọi người có thể chết liền, chết tức khắc còn hơn là sống trong sự khủng bố tinh thần ngày này qua ngày nọ không biết đến bao giờ. Thế rồi đêm ấy, nhà dòng Saint Paul đã biến thành quán trọ qua đêm cho những kẻ không may lỡ vận, những con cá mắc cạn không còn phương vẫy vùng. Bọn họ, đa số là nghị sĩ và dân biểu quốc hội cùng các thân bằng quyến thuộc của họ và hai gia đình anh em thầy Thanh tổng cộng khỏang năm chục người. Đêm ấy, chỉ có trẻ nhỏ vô tư là ngủ được, còn những người lớn, ai cũng trằn trọc, thấp thỏm, bàng hòang với bao cơn ác mộng hãi hùng không nguôi.
Rồi đêm cũng qua cho lịch sử miền Nam nhục nhằn đi vào một giai đọan mới, giai đọan vô sản, bần cùng hóa nhân dân. Ngày mới lại bắt đầu với một ánh mặt trời đỏ rực như màu máu nhuộm đỏ cả miền nam tội tình. Không một ai muốn mở mắt ra nhưng vẫn phải thức dậy, thức dậy để đón mừng “hòa bình” về trên quê hương, Nam Bắc từ đây thống nhứt một nhà. Thức dậy để chào đón rợ Hồ sau ba mươi năm trốn chui trốn nhủi phục kích trong hang động rừng rú giờ đây đã về được đến thành đưa nước nhà đến “đỉnh cao vinh quang” xã hội chủ nghĩa. Thức dậy để đối diện với thực tại, để đương đầu với những giáo mác lưỡi lê, dầu sôi lửa bỏng, xiềng xích tù đày đang chực chờ rình rập trước mắt bởi không thể nào trốn tránh được. Mộng di tản đã không thành thì đành phải tùy cơ ứng biến. Mọi người lục đục từ giã nhau ai về nhà nấy với một tâm trạng chán nản tột độ trước một tương lai vô cùng hắc ám. Từ đây thì xuồng ai nấy chèo, hồn ai nấy liệu tới đâu hay tới đó chớ biết làm sao hơn. Thua keo này thì bày keo khác, đối với đám chó điên thì phải ẩn nhẫn chờ thời miễn sao điều trước tiên là giữ được cái mạng bởi vì còn sống thì còn hy vọng. Một khi đã có sẵn chủ đích thì dù sớm dù muộn cũng sẽ tìm ra cơ hội để thóat thân chớ nhứt định không thể đội chung trời với bọn ma đầu gian manh bạo ngược phi nhân quyền, một chế độ độc tài đảng trị từ trên xuống dưới với một mục đích duy nhứt là vơ vét cướp giựt lương dân đến tận cùng xương tủy.
Miền Nam đã thật sự sụp đổ sau hơn hai mươi năm đau thương nội chiến từng ngày. Muốn không tin cũng không được khi mà từ vị nguyên thủ quốc gia, những ông tai to mặt bự cho đến tướng lãnh, sĩ quan các cấp, kẻ thì cao bay xa chạy, người thì buông súng quy hàng theo lệnh cấp trên, những ai anh dũng cố thủ tới cùng là đồng nghiã với tự sát thì sá gì đám thường dân, thôi thì cũng đành bó tay xuôi theo mệnh nước. Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu, một trăm năm nô lệ giặc Tây nhưng giặc Tàu hay giặc Tây gì cũng không đáng sợ bằng giặc cộng sản mà theo nhạc sĩ Tô Hải, một đảng viên cộng sản gộc khi tỉnh ngộ, ý thức được chân tướng của chủ thuyết này đã viết trong “Hồi Ký Thằng Hèn”, cho đó là một tà giáo đại bịp nhứt trong lịch sử lòai người. Do vậy mà hàng hàng lớp lớp người dân lần hồi ai cũng lăm le tháo cũi xổ lồng đưa đến những cuộc băng rừng vượt biển tháo chạy tìm tự do bằng mọi cách ở khắp nơi trên quả địa cầu…
© Người Phương Nam
Chung quy lại thì ngày tàn …của chiến tranh …cách nay 37 năm không thấy thằng LIÊN XÔ -TRUNG CỌNG hoặc Thằng HOA KỲ mũi lõ nào …sát phạt , đối đầu = súng đạn đễ triệt hạ nhau một cách vô ích, mà rốt cục là các thế lực bên ngoài , bằng cách dùng những thuật ngữ … xài người là : ( dùng người Việt giết người Việt ) tuyên truyền đấu khẩu nhau ,như một hiện tượng ngông cuồng là : ” quân ta chiến thắng quân mình ” đễ rồi thù hằn ,ân hận ,khích bác nhau …Cuộc chiến tranh này theo tôi suy ngẫm lại thì chỉ có đa số dân nghèo chịu trận và con cái họ phải vào linh 2 bên đễ làm con chốt qua sông hoặc làm Dê tế thần cho cả hai phía …Vì hiện nay về lại làng quê những ngày giỗ Tộc …chúng tôi cùng ngồi trên mâm cổ mà ngẫm lại nhau rằng .Trước đây cùng là bà con làng xóm ,thời niên thiếu cùng học chung một lớp ,một trường …Khi chiến tranh bùng nỗ ,vì hoàn cảnh số phận đưa đấy những người bạn ,người thân ngày xưa trở thành kẽ thù bắn nhau khi xung trận ..Ngày trở về làng cũ nhìn lại có người đã đi xa với thế gian này cũng chỉ vì chiến tranh khi phải cầm súng cho cả hai phía .
Những người lính quèn này ,kể cả hai phía, bây giờ đều như nhau ,thuộc thành phần tự bươn chải với đời đễ kiếm sống nuôi con . Suy cho cùng thì những kẽ có cơ hội sung sướng hơn người, là những ông quan cs có quyền cao chức trọng, dùng mọi chính sách áp đặt cướp đất nhân dân làm giàu phe nhóm …mà tầng lớp nông dân là nạn nhân của chế độ cs .Còn những sĩ quan VNCH được đi ra các nước Tây phương nay cả con em họ trở về thăm quê, thì có dolla rủng rỉnh về nước có người săn đón ,thết đãi ở khách sạn sang trọng ,có mấy ông cán bộ cs cở bự đón tiếp ,và được truyền hình TT trên VTV và được vinh danh là :( VKYN ),còn những ông lính cs còn lại nghèo kiệt xác thì có ai đếm xỉa họ …Theo tôi cuộc chiến tranh vô nghĩa này, do tác động ngoại lực mà những người cầm cân nẩy mực trong nước, cũng có phần trách nhiệm tạo ra ,vì nghe lời ngoại bang tạo ra cảnh (nồi da xáo thịt ) mà bây giờ xét cho cùng cái vòng lẫn quẫn như kiểu ( quân ta chiến thắng quân mình ) …xin hỏi tại sao trong thời thế như vậy ? những người đại diện cho QG -DT không tìm hiểu học các nước khác như THÁI LAN hay phải tìm hướng đi TRUNG LẬP đễ người dân VN và cả con em họ không phải chết trận ở chiến trường …Rồi bây giờ nhân dân VN cũng nằm trong cảnh lặp lại ,bị bóc lột và áp bức ! những thành phần thấp cổ bé họng mà phần đông là nông dân !? Vì ai tạo ra cái vòng lẫn quẫn này ! đến nay vẫn lặp lại và chưa có hồi chấm dứt !? Tôi nghĩ cả hai phía đều có lỗi với DÂN TỘC VN , cho đến ngày nay thực trạng và hệ quả là minh chứng nhãn tiền !?
SD nên nhớ kỹ rằng miền Nam chỉ vì tự do dân chủ mà phải tự vệ thôi. Tất cả nguyên nhân của cuộc chiến tàn độc này và những hệ lụy bi thương, đau đớn mà chúng ta phải gánh chịu là do bọn VNCS ác ôn vâng lệnh quan thầy Liên Xô – Trung Cộng mang chủ nghĩa CS lên áp đặt cho dân tộc VN. Luôn luôn nhớ kỹ điều ấy.
Trương Thúy Sơn