Những Thuyền Nhân Mới
Đời nhịp sầu lỡ bước, bước hoang mang rồi.
(“Thuyền viễn xứ” – Phạm Duy)
“Bà X khoảng bốn mươi tuổi, hiện đang sống với chồng và con gái trong một căn nhà do chính họ làm chủ, ở California. Bà nói thông thạo hai thứ tiếng: Anh và Việt. Phục sức giản dị, trông buồn bã và lo lắng, bà X tuy dè dặt nhưng hoàn toàn thành thật khi trả lời mọi câu hỏi được đặt ra.
Bà rời khỏi Việt Nam vào năm 1980, khi còn là một cô bé, cùng với chị và anh rể. Ghe bị cướp ba lần, trong khi lênh đênh trong vịnh Thái Lan. Chị bà X bị hãm hiếp ngay lần thứ nhất. Khi người anh của bà X xông vào cứu vợ, ông bị đập búa vào đầu và xô xuống biển. Lần thứ hai, mọi chuyện diễn tiến cũng gần như lần đầu. Riêng lần cuối, khi bỏ đi, đám hải tặc còn bắt theo theo mấy thiếu nữ trẻ nhất trên thuyền. Chị bà X là một trong những người này.
Vào trại tị nạn, bà X được sắp xếp sống ở barrack dành cho trẻ em không thân nhân (unaccompanied children barrack). Hội Hồng Thập tự mau chóng tìm ra thân nhân của bà X – gia đình của một người bác, sinh sống ở California từ năm 1975 – và bà được bảo trợ, để đi định cư ngay sau đó.
Dù trải qua những kinh nghiệm hãi hùng, và dù sống xa bố mẹ, những năm niên thiếu của bà X rất bình thường. Bà là một học sinh trung bình, có hạnh kiểm tốt, và nhiều bè bạn. Bà X chưa bao giờ thử dùng cần sa, ma túy hoặc bất cứ một chất kích thích hay gây nghiện nào.
Sau trung học, bà X tiếp tục chương trình kế toán tại một đại học cộng đồng. Bà lấy chồng sớm, vào năm 20. Ông chồng cũng là một người gốc Việt, hiện đang làm kỹ sư cho một công ty điện tử, được mô tả là ‘hiền lành và hiểu biết’. Ông bà, cùng hai con, đã nhiều lần trở lại Việt Nam thăm viếng gia đình.
Cuộc sống của bà X hoàn toàn ổn thỏa cho đến một ngày cuối tháng 1 năm 2010. Chiều hôm đó, bà X được báo tin con trai bị mất tích – khi chơi trượt sóng, ở bãi biển, gần trường. Bà X đến nơi đúng lúc xác con vừa được tìm thấy tại nơi xẩy ra tai nạn, với vết thương ở đầu vì va phải đá ngầm, ‘đầu cháu cũng bị vỡ, bên trán trái, đúng ngay vào chỗ mà hải tặc đã dùng búa đánh vào ông anh rể của tôi…’
Sau biến cố này, bà X thường xuyên bị ám ảnh bởi ác mộng (hoặc những hồi ức sống động y như thực) có liên quan đến chuyến vượt biên từ ba mươi năm trước. Cùng lúc bà X bỗng trở nên âu lo, buồn chán, lãnh đạm, hay nghi ngại, và mất hẳn niềm tin vào cuộc sống…”
Tôi liếc nhìn đồng hồ, ngưng ghi chép, và cho bà X cái hẹn tới. Tôi thường quên “khách hàng”, ngay sau khi họ bước ra khỏi cửa. Tôi cần khoảng trống cho những người kế tiếp, cũng như cho chính mình. Riêng chiều hôm đó, dù bà X đã ra về từ lâu, tôi vẫn cứ nghe (như) có tiếng sóng ở trong lòng…
Tôi chợt nhớ ra là mình cũng đã lênh đênh nhiều ngày trong vùng Vịnh Thái Lan, và cũng là nạn nhân của hải tặc. Thuyền của chúng tôi còn bị cướp cạn – vào lúc trời gần sáng, khi trôi giạt vào một làng chài – trước khi được cảnh sát đưa vào trại tị nạn Songkhla, ở miền Nam nước Thái.
Tôi tình nguyện làm xướng ngôn viên, một thời gian khá lâu, ở trại tị nạn này. Công việc hàng ngày chấm dứt đúng vào lúc 10 giờ tối, với thông báo (cuối cùng) của ban phát thanh:
“Đồng hồ của phòng thông tin chúng tôi bây giờ là 10 giờ tối, xin mọi người vui lòng trở về lô lều của mình, và điều chỉnh mọi âm thanh vừa đủ nghe để khỏi làm phiền người bên cạnh, đang cần sự yên lặng để nghỉ ngơi. Kính chúc đồng bào một đêm an lành và ngon giấc.”
Tôi luôn luôn cảm thấy (đôi chút) ngập ngừng, trước khi bắt đầu câu nói cuối cùng: “Kính chúc đồng bào một đêm an lành và ngon giấc.” Vào thời điểm đó, suốt cả thập niên 1980, không ai trong số hàng triệu người Việt ở khắp những trại tị nạn Á Châu (kể cả những đứa bé thơ) có được một giấc ngủ bình thường – nói chi đến chuyện “an lành” hay “ngon giấc”. Ác mộng của những kẻ hốt hoảng, bồng bế dắt díu nhau bỏ chạy khỏi quê hương, đều gần giống như nhau: bị săn đuổi, bắt bớ, đánh đập, hãm hiếp, bơ vơ, lạc lõng, đói khát giữa biển trời bao la, hay bị chìm đắm giữa đại dương giông bão…
Sau mộng mị, chúng tôi thường thức giấc giữa khuya – toát đẫm mồ hôi vì sợ hãi và mệt nhọc – nằm định thần một lát rồi… thở phào nhẹ nhõm khi nhận ra rằng mình đã thoát, và (chỉ) vừa trải qua một giấc mơ thôi! Mộng dữ như thế thưa dần, với thời gian, rồi dứt hẳn nơi phần lớn những người tị nạn – sau khi cuộc sống của họ đã được ổn định nơi vùng đất mới.
Tiến trình này, tuy thế, không đồng nhất. Có một số người, thỉnh thoảng, vẫn cứ bị mộng mị và những hồi ức hãi hùng theo đuổi. Số ít hơn thì sống hoàn toàn bình thường và an lành, một thời gian khá lâu – hoặc rất lâu – rồi bỗng dưng lại bị ám ảnh bởi những hồi tưởng hay những cơn ác mộng (có liên hệ đến những chuyện khủng khiếp) mà họ đã trải qua.
Trường hợp sau, theo cẩm nang hiện dụng của khoa tâm thần học [DSM – IV – TR (Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorder, Fourth Edition. Text Revision) Washington, DC, American Psychiatric Association, 2000] có tên gọi là hội chứng Post Traumatic Stress Disorder With Delay Onset. Xin tạm dịch là “hội chứng hậu chấn thương tâm lý phát chậm”. Tôi nghi ngại là bà X rơi vào trường hợp cuối này.
Trong lần hẹn kế tiếp, bà X bớt dè dặt hơn, và khóc nhiều lần khi nhắc đến người chị (vẫn biệt vô âm tín) với niềm ân hận về sự vô tâm của mình, suốt ba mươi năm qua. Cho đến nay, vẫn không thể nào biết được có bao nhiêu thuyền nhân đã bị lâm vào hoàn cảnh (thương tâm) tương tự như thế.
Ngay vào đầu thập niên 90, khi cuộc sống mới vừa tạm ổn định, người Việt tị nạn đã thực hiện một “project” nhỏ, lấy tên là “Xin đừng quên tôi (Forget – Me – Not).” Nhóm chủ trương tin là “có nhiều bằng chứng cho thấy rằng một số thiếu nữ Việt nam bị bắt cóc trước đây hiện đang sinh sống đâu đó tại Thái Lan, Singapore và tại các vùng biên giới Mã Lai”. Do đó, họ cho phổ biến khắp nơi một lời nhắn ngắn:
“Ai có tin tức liên quan đến các cô gái bị hải tặc bắt cóc xin liên lạc với Vietnam & The World Foundation, P.O.Box 4108, Hungtington Beach, CA 92605 – 4018, USA.”
Và gần đây, trên báo Việt Tide – phát hành từ Wesminster, California – vào tháng 12 năm 2009 (tôi không còn nhớ rõ số) người ta đọc được mẩu nhắn tin “Xin giúp tìm bé Bích Hằng”:
“Khẩn cầu và xin các bạn giúp người cha và gia đình tìm lại đứa con gái bị cướp biển Thái Lan bắt và thất lạc lúc 14 tuổi, hơn 25 năm, từ 1984 đến nay. Muôn ngàn đa tạ và muôn đời mang ơn các bạn (*).”
Cuối thế kỷ trước, có người đã hỏi (khó) ông Phạm Văn Đồng như sau:
“Xin Thủ tướng cho biết ý kiến về sự kiện thuyền nhân hồi 1975, nhất là hồi 1978, 1979… Về nguyên nhân và trách nhiệm trong những sự kiện ấy, với những hiện tượng bán bãi thu vàng và khá nhiều tầu, thuyền bị hải tặc bão tố và chìm trong đại dương… Là người đứng đầu chính phủ, một trong những người lãnh đạo cao nhất của Đảng Cộng sản, Thủ tướng nhìn nhận ra sao trách nhiệm của mình trong cuộc di dân rộng lớn và bi thảm ấy?” (Bùi Tín, “Hai câu hỏi cần trả lời rõ ràng trước khi thế kỷ 20 khép lại,” Cánh Én, Feb. 1999).
Thế kỷ XX đã khép lại. Ông Phạm Văn Đồng đã lìa đời. Tuy thế, ác mộng vẫn không ngừng quấy nhiễu bà X, song thân của bé Hằng, cùng không biết bao nhiêu thuyền nhân khác nữa vì họ (không may) đã trải qua “cuộc di dân rộng lớn và bi thảm ấy”.
Và thế kỷ mới, thế kỷ XXI, đang bắt đầu với… những thuyền nhân mới! Tuy có tên gọi là nouveaux boat people nhưng họ không di chuyển bằng thuyền.
“Trong cuộc hành trình dài bằng phần nửa vòng trái đất, họ thường bám trên các xe vận tải hạng nặng xuyên qua Châu Âu. Trốn trong những thùng chứa hàng trong xe, họ phải ép xác, có khi chịu đựng không ăn uống trong nhiều ngày…“
“Năm ngoái, hải quan Pháp đã khám phá được mười mấy xác chết người Á Châu vì ngộp ở trong xe hàng, không biết có phải là Việt Nam không. Ngày nay hải quan ở Calais và ở Douvres có một phương pháp khoa học hơn, là đo lượng khí cac-bô-nic (CO2) thải ra để biết trong xe có người hay không…”
“Những mẩu chuyện xót xa thực sự trên phải ghép lại thành một cuốn phim dài, thật dài, mới nói hết những gì trong tâm tư họ và những gì đã xảy ra ở Việt Nam sau hơn ba mươi năm hòa bình và thống nhất đất nước…” (Phương Vũ Võ Tam Anh, “Người Việt khốn khổ tại Paris”).
“Ba mươi năm hòa bình và thống nhất đất nước”, xét một cách khách quan, đã mang lại nhiều đổi thay tích cực (rất đáng kể) cho những thuyền nhân mới. Họ ra đi có tổ chức, và trật tự hơn. Họ không còn bị những lời mắng nhiếc, rủa xả tàn tệ (“đồ ma cô đĩ điếm, trây lười lao động, chạy theo bơ thừa sữa cặn, ôm chân đế quốc…”) tới tấp ném theo sau, như đám thuyền nhân cũ. Cũng không còn chuyện bán bến thu vàng, một cách bừa bãi, như trước nữa.
“Một thành viên người Việt lao động cho biết hiện trong nước có nhiều những ngân hàng quảng cáo thế chấp và cho vay để đi lao động nước ngoài như Ngân hàng Chính sách Xã hội Việt Nam, Ngân hàng Phát triển Việt Nam, Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam, Ngân hàng Phát triển nhà ĐBSCL, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam, Quỹ Tín dụng Nhân dân Trung ương, Ngân hàng Quân Đội v.v.” (Huỳnh Tâm, “Dịch vụ xuất khẩu lao động theo kiểu Việt Nam ta”).
Cách ra đi tuy khác nhưng lối đi thì không khác mấy. Lối nào thì cũng gặp những gian truân và tai hoạ y hệt như nhau. Bị trấn lột và hãm hiếp giữa đường là lẽ thường tình – vẫn theo như tường thuật của ký giả Huỳnh Tâm, trong bài phóng sự kế tiếp (thực hiện vào 10 tháng 12 năm 2009) tại rừng Grande Synthe:
“Cộng đồng người Czech, Afghanistan và Iraq trong khu rừng này là những nhóm nhập cư bất hợp vào vào đất Pháp từ lâu đời nhưng không thành công trên đường nhập cư vào Anh Quốc nên xoay qua tống tiền những người đồng cảnh ngộ để kiếm sống, nạn nhân những người Việt Nam khốn khổ. Những đám thổ phỉ này gặp người Việt Nam như trúng số lớn, họ trấn lột người Việt bằng cách đếm đầu người rồi buộc nộp mãi lộ. Những phụ nữ Việt không may bị họ bắt giữ ban ngày khi băng qua rừng một mình phải chịu hình phạt giải quyết sinh lý. Ai chống lại họ sẽ bị đàn áp dã man.”
Những thuyền nhân mới không chỉ xuất hiện ở những cánh rừng Âu Châu. Họ có mặt ở nhiều nơi, và bị xa lánh hay ngược đãi ở khắp mọi nơi. Nhân loại, xem chừng, đã oải. Người ta không thể tiếp tục mở rộng vòng tay đón chào những kẻ khốn cùng, những người rơm (không vốn liếng, không ngoại ngữ, không nghề nghiệp, không cả một mảnh giấy tùy thân) cứ đến mãi từ một xứ sở… Độc lập – Tự do – Hạnh phúc!
Trâu chậm uống nước đục.
Vì đến chậm nên những thuyền nhân mới đi lấy chồng xa nhưng không được ở nhà chồng mà phải sống trong nhà thổ, hay chỉ được sống chui (vĩnh viễn) ở quê chồng.
Vì đến chậm nên những thuyền nhân mới (muốn trở thành công nhân xuất khẩu lao động) phải nộp tiền mãi lộ mới được rời khỏi quê hương, và bị quỵt lương ở xứ người với thái độ dửng dưng của tất cả các sứ quán của nước CHXHCNVN.
Vì đến chậm nên những thuyền nhân mới (tuổi vị thành niên) thay vì được Cao ủy Tị nạn tìm cho một cơ quan bảo trợ, đã trở thành những “món đồ chơi” ở những nơi gọi là “Mecca for paedophiles” (Thánh địa ấu dâm) cho thiên hạ mua vui.
Theo Tuổi Trẻ Online, đọc được vào hôm 22 tháng 2 năm 2010, hiện nay “cả nước có 255 địa bàn trọng điểm, 89 tuyến trọng điểm về buôn bán phụ nữ và trẻ em. Đó là kết quả điều tra cơ bản, rà soát của công an các địa phương vừa được văn phòng thường trực Chương trình Quốc gia Phòng chống Buôn bán Phụ nữ, Trẻ em thống kê.
Theo đó, tình trạng buôn bán phụ nữ, trẻ em diễn ra trên cả đường bộ, đường thủy và đường hàng không. Trong đó, buôn bán phụ nữ sang Trung Quốc chiếm khoảng 65% tổng số vụ. Các nạn nhân thường bị bán với mục đích làm gái mại dâm, lấy chồng hoặc bóc lột sức lao động. Có một số trường hợp bị bán để lấy nội tạng…”
Ông Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từ trần nhưng những người kế nhiệm thì chưa. Những vị này đều đã (và sẽ) có thể hạ cánh an toàn với khối tài sản kếch xù dành cho chính mình, cũng như cho thân nhân, và dòng họ. Tuy nhiên, tội ác chất chồng của họ thì vẫn được dân tộc Việt ghi nhận cẩn thận và (chắc chắn) sẽ không bao giờ bị lãng quên.
Tưởng Năng Tiến
__________________
Chú thích
(*) Bé Bích Hằng bị thất lạc từ năm 1984 cho đến nay. Lúc mới sanh, bé có mang một đóm nâu trên đùi chân phải (a brown birth mark on top of right thigh). Nếu Bích Hằng còn sống thì năm nay được khoảng 39 tuổi. Bị cướp Thái Lan bắt khi vượt biên, lúc 14 tuổi.
Địa chỉ liên lạc:
Email: chatimcon@gmail.com
Mobile Number: 714 487 4241
Other: 714 839 1587
Thà chết chớ không sống với Quỷ Đỏ Cộng sản :
Bùi Trọng Cường & Nguyễn Phục Hưng : Ðến năm 1988 vì quá mệt mỏi với số người tỵ nạn phải cưu mang trên hơn mười năm, Cao Uỷ Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc và các quốc gia có trại tạm cư đã quyết định áp dụng hệ thống thanh lọc để xác định tư cách tỵ nạn chính trị của các thuyền nhân nếu họ đến sau ngày 16-6-1988. Quyết định này cũng đã gây ra nhiều thảm cảnh rất đáng thương điển hình như dưới đây :
Ngày 20/5/1994, Lê Xuân Thọ, 28 tuổi, tự rạch bụng mình và tự thiêu. Sau đó anh đã chết vì phỏng nặng.
Ngày 26/4/1994 : Phạm Văn Châu, một cựu quân nhân, tự thiêu ở trại tị nạn Galang, Nam Dương. Hai ngày sau thì anh qua đời.
Ngày 8/12/1993: Trần Anh Dung từ trần khi lên cơn suyễn, sau khi Cao Uỷ Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc đóng cửa trạm y tế duy nhất trong trại tị nạn.
Ngày 3/5/1993 : “Tôi chết đi không phải vì tuyệt vọng, mà vì tôi muốn đem lại niềm hy vọng và sự sống cho nhiều người khác.” Vài hàng tuyệt mệnh của Nguyễn Ngọc Dung, 25 tuổi., anh đã tự đâm vào tim và chết tức khắc trước văn phòng Cao Uỷ Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc tại trại Sungei Besi, Mã Lai.
Tháng 2/1993: Lưu Thị Hồng Hạnh, một em gái 16 tuổi không người thân thích, đã tự thiêu sau khi Cao Uỷ Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc rút lại quy chế tị nạn của em.
Tháng 12/1992 : Hoàng Thị Thu Cúc, 26 tuổi. Cha cô là một nhân vật cao cấp trong một chính đảng chống cộng và đã chết trong ‘trại cải tạo’ của cộng sản. Gia đình cô bị trục xuất ra khỏi nhà, tới một trại lao động cưỡng bức. Bản thân Cúc cũng bị đuổi khỏi trường vì ‘lý lịch gia đình xấu’. Bất kể những sự kiện này, cô vẫn bị khước từ quy chế tị nạn. Khi đơn kháng cáo của cô bị bác bỏ, cô đã treo cổ tự tử, để lại bốn anh em trai ở trại Sikiew, Thái Lan.
Ngày 10/10/1992 :Trần Văn Minh, cựu Trung úy, treo cổ tự tử. Ông được cấp quy chế tị nạn chính trị, nhưng người con trai Trần Minh Khôi, 18 tuổi, đã bị rớt ‘thanh lọc’.
Ngày 27/8/1992: “Bản tường trình của luật sư đã khiến tôi phải sống trong lo sợ. Nó đã dần dần đẩy tôi vào chỗ chết.” Trịnh Anh Huy, 20 tuổi, tự thiêu ngay trước văn phòng của Cao Uỷ Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc ở Galang, Nam Dương.
Ngày 12/4/1992 : Nguyễn Văn Quang, một hạ sĩ thuộc Tiểu đoàn 1 Không vận, đã treo cổ tự tử ở trại Galang, Nam Dương, sau khi bị khước từ tư cách tị nạn chính trị, và đơn kháng cáo của anh cũng bị bác. Anh mất đi để lại vợ và ba đứa con .
Ngày 30/8/1991: Tại trại Galang, Nam Dương, cô Trịnh Kim Hương, 28 tuổi, tự thiêu sau khi bị phủ nhận tư cách tị nạn chính trị .
Tháng giêng năm 1991: Vụ tự sát của Lâm Văn Hoàng, 22 tuổi, đã gây nên một cuộc biểu tình phản đối ở trại tị nạn Pulau Bidong, Mã Lai. Anh đã lao mình từ vách đá xuống biển, sau khi bị từ chối tư cách tị nạn chính trị.
Ngày 16/2/1990 : “Chị thương, hôm nay em đã bị từ chối tư cách tị nạn chính trị. Rạng sáng mai, em sẽ treo cổ tự tử để thoát mọi đau khổ. Nhưng lúc nào em cũng sẽ ở bên cạnh chị để che chở cho chị và các cháu” . Thư tuyệt mệnh của anh Nguyễn Văn Hai, 27 tuổi, viết cho chị, vào buổi tối trước khi tự tử trong Trại cấm Whitehead, Hồng Kông .
Cái vụ tự tử chết ở trại Sungei Besi năm 1993 thì tôi biết. Anh này xếp hang` lãnh kết quả thanh lọc trước tôi khoảng 10 met’. Anh ta vô lãnh kết quả trước tôi, và sau đó tôi thấy lộn xộn ở văn phòng Task Force; chừng vài phút sau thì xe cứu thương chạy tới chở anh ra ngoài bệnh viện Kuala Lumpur; và chừng nửa tiếng sau thì tho^ng dịch viên trở về trại báo cho mọi người biết là anh ta đã chết. Anh ta đâm vào ngực và trúng ngay tim. Mấy tháng sau, trong tốp người xin hồi hương tôi thấy có một người mang một hũ tro về VN, họ nói đó là hài cốt của anh ta…!!! Tôi cũng bị rớt thanh lọc cùng đợt với anh ta, sau này tôi được vớt trong đợt Request (đợt 2).
Thanh lọc vô cùng bất công, Cao Uỷ và Task Force Mã Lai họ chẳng hiểu rõ về xã hội, chính trị, và cuộc so^ng’ của dân VN ra sao cả nên họ không đủ khả năng làm việc cho đúng đắn và công minh được. Họ mở ra thanh lọc với mục đích để chấm dứt vượt biên nên việc làm của họ tàn nhẫn lắm.
Khi sửa soạn vượt biển để trốn khỏi lũ Quỷ Đỏ , họ đã phải cố gắng tìm mọi cách để thoát được công an và lính biên phòng cộng sản, họ đã chấp nhận rủi ro bị bắn, hoặc nhẹ nhất là, bị bắt lại và bỏ tù. Những ai may mắn xuống được tàu thì phải ra đi trên các thuyền đánh cá mỏng manh đầy ắp người .Họ ra đi, không hề biết trước mình sẽ đi đâu, đến đâu, và chịu rủi ro bị chết đuối, chết đói, chết khát, hay chết vì tật bệnh, vì hải tặc ngoài khơi. Họ hầu như không biết số phận mình sẽ ra sao. Nay khi đến được bến bờ nước ngoài thì lại bị trả lại về Việt nam !!!!!
Thanh lọc ở Hong Kong thì lại khác 100%. Từ sau 1984, dân Bắc kỳ (chủ hyếu Hải Phòng, Quảng Ninh) vượt biển vì lý do kinh tế chả có chính trị chính em cái con mẹ gì. Bọn này chủ yếu là bọn buôn bán tem phiếu, chợ trời nên lắm mánh khóe thủ đoạn. Tôi gặp những người được định cư năm 1992 ở London, họ kể, càng nói láo giỏi bao nhiêu thì càng được LHQ tin sái cổ, khai thật là bị đuổi về. Một tên dạy trường Đại học Bách Khoa Hà nội (N. A) ăn cắp của công và vợ làm tiếp phẩm nhà bếp (N.T.M) công an HP tham ô, cả 2 bị thải hồi, vượt biên sang Hong Kong khai, giúp sinh viên phản đối chính phủ…. thế là được sang Anh. Tên Ph. làm ở tầu biển,. chuyên buôn lậu, ăn cắp vặt bị đuổi, khai với LHQ chống chính phủ nên bị thải hồi…. cho nên tỵ nạn VN (chủ yếu dân HP và QN) sau năm 1992 toàn dân …ba trợn. Sau này chúng tìm mọi cách đưa gia đình chúng sang bằng du lịch, du học, hôn thuê…. số người rơm do bọn này đưa lậu vào Anh lên đến con số vài ngàn người. Bọn náy chuyên trồng cần sa, làm nghề Nails và làm điếm. Có đứa trong vòng 10 năm đưa được 8 thân nhân sang London bằng con đường này với sự tiếp tay của nhân viên sứ quán VN cộng sản.
Người tỵ nạn chính trị ở Anh Quốc mất mặt vì bọn tỵ nạn kinh tế Bắc Kỳ này!