WordPress database error: [Expression #1 of ORDER BY clause is not in GROUP BY clause and contains nonaggregated column 'oldsite_dcvwp.wp_posts.post_date' which is not functionally dependent on columns in GROUP BY clause; this is incompatible with sql_mode=only_full_group_by]
SELECT YEAR(post_date) AS `year`, MONTH(post_date) AS `month`, count(ID) as posts FROM wp_posts WHERE post_type = 'post' AND post_status = 'publish' GROUP BY YEAR(post_date), MONTH(post_date) ORDER BY post_date DESC

 
|

Hiệp Định Paris, một bản án tử hình?

Hiệp định Paris khai mạc vào ngày 10-5-1968 dưới thời Tổng thống Johnson. Tổng thống Nixon nhậm chức đầu năm 1969 tiếp tục cuộc đàm phán cho tới bốn năm sau mới ký kết vào ngày 27-1-1973. Mới đầu Nixon tưởng cuộc hoà đàm sẽ kết thúc năm 1969 nhưng không ngờ nó kéo dài cho tới 4 năm sau. Ông kể lại trong cuốn No More Vietnams trang 126: Những năm 1965, 66, 67, 68

Lê Đức Thọ và H. Kissinger bắt tay sau khi ký kết Hiệp Định Paris

dưới thời Johnson-McNamara phong trào phản chiến ôn hoà, chỉ có biểu tình hoặc đốt thẻ trưng binh nhưng sang 1969, khi Nixon lên cầm quyền phong trào đã biến thành bạo động dữ dội. Sinh viên bắn cảnh sát, dùng dao uy hiếp ban giám đốc nhà trường, bắn súng, đốt nhà, ném bom lớp học, bạo động lan ra toàn quốc.

Năm 1970 Mỹ yểm trợ cho VNCH hành quân sang Cambodia khiến cho phong trào bạo động lan ra toàn quốc dữ dội, có đổ máu, năm 1971 hành quân sang Hạ Lào. Nixon cho biết sở dĩ ông cho hành quân đánh vào các căn cứ bên kia biên giới để phá hủy hậu cần CS, ngăn chận những đợt tấn công của họ trong năm tới để có thể rút quân và giúp VNCH bảo vệ lãnh thổ, những người phản chiến đã phá hoại chương trình của ông. Nixon cho biết vì phản chiến làm rối loạn đất nước đã khiến cho CSBV lần khân không chịu ký Hiệp định Paris, họ hy vọng nhiều vào phản chiến. Phong trào phản chiến và Quốc hội chống đối ông đã khiến cho cuộc hoà đàm bế tắc trong bốn năm liền.

Cho tới 26-10-1972, Kissinger họp báo lạc quan tuyến bố,

“Chúng ta có thể tin tưởng hoà bình đã ở trong tầm tay, chúng ta có thể tin rằng đã thấy hoà ước”

(“We believe that peace  is at hand.We believe that an agreement is within sight” – No More Vietnams, trang 154).

Cũng trong sách đã dẫn trang 142, Nixon cho biết từ năm 1969 ông đã phải đương đầu với mối nguy là Quốc Hội có thể ra luật chấm dứt chiến tranh Việt nam. Các Dân biểu, Thượng nghị sĩ  đã đưa nghị quyết  buộc Tổng thống  rút hết  quân về nước để đổi lấy tù binh Mỹ còn bị Bắc Việt giam giữ. Năm 1972  Thượng viện đã tiến hành việc này, tại Hạ Viện hội gần đủ số phiếu thuận. Nhưng vì Chính phủ đã thông báo việc rút quân khiến những người ủng hộ chiến tranh cho thấy chứng cớ hiển nhiên cuộc chiến đã suy giảm nhờ đó dự luật không thành hình, VNCH thoát chết từ năm 1972.

(Since 1969, we had been faced with the danger of Congress legislating an end to our involvement. Antiwar Senators and Congressmen had been introducing resolutions to force us to trade a total withdrawal of our troops for the return of our POWs. By 1972, the Senate was regularly passing these measures, and the votes in the House were getting close. We were able to prevent the passage of these bills only because our withdrawal announcements provided those whose support for the war was wavering with tangible evidence that our involvement was winding down).

Cuối tháng 10-1972, Kissinger gặp Tổng thống Thiệu để bàn về việc ký kết Hiệp định nhưng ông Thiệu không đồng ý, đòi sửa một số điều khoản trong đó BV phải rút quân về Bắc. TT Nixon cho ông Thiệu biết nếu miền Nam không chịu ký kết Hiệp định, gây trở  ngại cho hoà đàm thì Quốc Hội sẵn sàng ra luật chấm dứt chiến tranh tháng 1-1973, cắt đứt viện trợ bỏ rơi VNCH để đánh đổi lấy khoảng 580  tù binh Mỹ tại Hà Nội. Nixon cho biết.

“Sự tồn tại của miền nam Việt Nam không phụ thuộc vào việc quân địch còn đóng tại một số vùng dân cư thưa thớt. Nó phụ thuộc vào việc Nước Mỹ cưỡng bách thi hành Hiệp định cùng với việc tiếp tục viện trợ và với sự đe doạ trừng trị bằng vũ lực. Điều đó chỉ có được nếu Sài Gòn được Quốc Hội ủng hộ. Nếu chúng ta không giải quyết cuộc chiến nhanh chóng, Quốc Hội có thể biểu quyết đạo luật chấm dứt chiến tranh vào tháng 1. Nếu Quốc hội kết luận rằng miền Nam Việt nam gây trở ngại việc ký kết, việc này có thể khiến ta (Hành pháp) không giúp được đồng minh nếu cần. Tuy nhiên tôi cũng để cho Thiệu có thời gian suy nghĩ” – No More Vietnams trang 155.

Thật vậy, khoảng 140 ngàn quân CSBV chiếm đóng những vùng biên giới thuộc VNCH không phải là mối nguy sinh tử, mà sự tiếp tục viện trợ quân sự kinh tế của Quốc Hội Mỹ mới là điều then chốt. Cho dù đòi được điều kiện Cộng quân phải rút hết về miền Bắc nhưng sau đó một thời gian họ lại xâm nhập miền Nam thì cũng như bắt cóc bỏ đĩa thôi. Từ những năm 1971, 1972 Quốc Hội Mỹ nằm trong tay thành phần phản chiến, trong đó Dân chủ chiếm đa số, đường lối của họ trái ngược với Cộng Hoà.

Quốc hội phản chiến chống đối Nixon dữ dội, thúc đẩy ông phải ký kết hiệp định vào tháng 1-1973 bằng mọi giá để đem tù binh về nước, chấm dứt  chiến tranh. Nixon cho biết một sự thật phũ phàng là Quốc hội mà đa số là Dân chủ,  chống chiến tranh sẵn sàng cắt viện trợ, hy sinh VNCH và cả Đông Dương để đánh đổi lấy hoà bình và khoảng 580 tù binh Mỹ còn nằm trong tay Hà Nội nếu miền Nam gây trở ngại cho việc ký kết. Trong khoảng thời gian này tại Sàigòn báo chí cũng đã cho biết số phận miền Nam phụ thuộc vào đám tù binh Mỹ tại Hà Nội. Cương vị Tổng thống VNCH ông Thiệu cương quyết chống lại bản sơ thảo do Mỹ và BV ký kết vì tự ái dân tộc và sự sinh tồn của miền Nam là điều hợp lý nhưng Hành pháp Mỹ cũng có lý của họ.

Trong khi tỷ lệ người ủng hộ chiến tranh ngày một  giảm, số người chống ngày càng tăng: Từ đầu 1967 tới cuối 1967 giảm từ 52% xuống còn 45%, từ  đầu 1968 tới tháng 10-1968 giảm từ 42% xuống còn 37%, từ đầu 1969 tới tháng 10-1969 giảm từ 39% xuống 32%, từ đầu 1970 tới giữa 1971 giảm từ 33% xuống còn 28%… (Theo Wikipedia: Opposition to the US involvement in the Vietnam war).

Nixon cho biết chưa bao giờ nước Mỹ bị phân hoá như thế. Người ta đã quá chán cảnh sinh viên chống chiến tranh ẩu đả với cảnh sát, vệ binh quốc gia bể đầu, đổ máu ngoài đường phố từ năm nọ đến năm kia, đã đến lúc phải có hoà bình.

Ngày 9-11-1972 Nixon cử Tướng Haig sang Sài Gòn trao thư cho T.T Thiệu nói ông không thể sửa đổi bản sơ thảo gì hơn, như thế là tốt đẹp rồi. Haig nhấn mạnh với  T.T Thiệu nếu không ký kết trước phiên họp Quốc Hội vào tháng 1-1973, họ sẽ cắt viện trợ cho VNCH, ông Thiệu vẫn cương quyết bác bỏ.

Ngày 14-11, TT Nixon hứa với TT Thiệu

“Tôi xin cam kết tuyệt đối với ông nếu Hà Nội  vi phạm Hiệp định, tôi sẽ trừng trị họ nghiêm khắc ngay”

(You have my absolute assurance that if Hà Nội fails to abide by the terms of this agrement, it is my intention to take swift and severe retaliatory action - No More Vietnams, trang 156)

Ngày 20 -11-1972 tại cuộc Hoà đàm Paris, Kissinger đưa những điểm TT Thiệu đề nghị sửa lại, BV bác bỏ ngay, từ đầu tháng 12 BV tỏ ra ngoan cố không chịu đàm phán, họ trông chờ Quốc Hội Mỹ sẽ ra luật chấm dứt chiến tranh, khi ấy bất chiến tự nhiên thành. Ngày 14-12 BV bỏ họp. TT Nixon cương quyết dùng vũ lực bắt Hà Nội phải trở lại hoà đàm. Sau 12 ngày oanh tạc BV bằng B-52 từ 18 -12-1972  cho đến cuối tháng 12-1972,  BV phải trở lại bàn hội nghị.

Nixon thông báo cho Kissinger chấp nhận những điều khoản đã có từ tháng 10 để ký Hiệp Định. Ông đã cố gắng thuyết phục ông Thiệu sớm ký kết vì đã tới hạn kỳ, Quốc Hội phản chiến đã quá mệt mỏi muốn Hiệp định phải được ký kết ngay trong tháng 1-1973

Nay vấn đề trở ngại là sự đồng ý của TT Thiệu, Nixon cố gắng trấn an ông bằng  lá thư ngày 5-1-1973, ông  cam kết sẽ tiếp tục yểm trợ trong thời gian sau khi ký kết và sẽ trả đũa hết mình nếu BV vi phạm thoả hiệp.

(You have my assurance of continued assistance in the post-settlement period and that we will respond with full force should the settlement be violated by North Vietnam – Theo Wikipedia, Operation Linebacker II).

Nhưng lúc này đang bị Quốc hội chống đối, địa vị Nixon không cho phép ông hứa như vậy, thí dụ nếu đưa yêu cầu này ra Quốc hội thì sẽ chẳng hy vọng gì được chấp thuận. Tuy nhiên ông Thiệu vẫn không chịu, ngày 14-1-1973, TT Nixon đã cảnh cáo:

“Tôi đã nhất quyết tiến hành ký Hiệp Định vào ngày 23-1-1973.. nếu cần tôi sẽ đơn phương ký với ho ï

(I have therefore irrevocably decided to proceed to initial the agreement on January 23, 1973…I will do so, if necessary, alone – Theo Wikipedia, Operation Linebacker II).

Hiệp định cuối cùng được ký kết ngày 27-1-1973, Nixon nhìn nhận:

“Tôi biết rằng Hiệp định  có nhiều khuyết điểm. Nhưng tôi nghĩ nhìn chung cũng tốt đẹp. Và tôi biết rằng trong khi Quốc Hội đang phản đối ầm ĩ, chúng ta không thể làm gì khác hơn thế”.

(But I believed that on balance it was sound.  And I knew that, in light of the growing stridency of our opposition in Congress, we had no alternative to signing it – No More Vietnams, trang 167)

Trang 166 Nixon nói:

Hiệp định Chấm dứt chiến tranh và Phục hồi Hoà bình tại Việt Nam không được hoàn hảo lắm. Nhưng nó cũng đủ bảo đảm sự sống còn của miền nam VN – khi mà Hoa Kỳ sẵn sàng bó buộc sự thi hành các điều khoản của nó”

Nixon thừa biết BV sẽ vị phạm Hiệp định,  thực ra tại miền Nam VN, một đứa trẻ nít cũng biết CS sẽ không bao giờ chấp hành các thỏa hiệp đã ký kết. Nixon đã dự trù hai kế hoạch để giữ hoà bình bảo vệ VNCH, ông cho rằng Hoa Kỳ đã chiến đấu trên 10 năm, đã hy sinh hơn 50,000 quân nên quyết không thể để đồng minh VNCH rơi vào tay CSBV.

-Trước hết ông sẽ tiếp tục viện trợ quân sư cho VNCH để họ tự vệ chống xâm lăng.

- Kế đó sẽ trừng trị thích đáng CSBV bằng sự yểm trợ của không lực Mỹ.

Miền Nam chống lại những vi phạm nhỏ của BV, Mỹ sẽ trả đũa  những  vi phạm lớn, tóm lại oanh tạc cơ B-52 và viện trợ quân sự là hai kế hoạch chính.

Ngoài ra ông cũng dùng chính sách cây gậy và củ cà rốt (But the Paris agreement contained carrots as well as stick). Trong Hiệp định có ghi Mỹ sẽ viện trợ tái thiết cho miền Bắc, đây cũng là điều khoản rất quan trọng, BV tan nát vì bom đạn rất cần  tái thiết, viện trợ của Mỹ sẽ là động cơ thúc đẩy Hà Nội giữ hoà bình.

Nhưng mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên, khôn tới mấy cũng không ai khôn hơn được Ông Trời, kế hoạch của Nixon đã bị Quốc Hội phá hỏng hết. Nixon thú nhận ông đã ước tính sai lầm tình hình:  Trước ngày  ký Hiệp định Paris 27-1-1973 ông tưởng rằng nếu đem lai hoà bình và tù binh về nước, những người phản chiến sẽ thôi chống đối nhưng họ lại càng gia tăng chống đối hơn trước

(I miscalculated how they would respond after the settlement. I thought their opposition to our policy would end with the war end. Instead, it increased – No More Vietnams,  trang  182).

Sau vấn đề chiến tranh VN, họ quay ra vụ Watergate tháng 4-1973, tiếp tục chống đối chính phủ. Ngay sau ngày ngưng bắn 27-1-1973, CSBV đưa quân xâm nhập miền Nam, Nixon định cho oanh tạc nhưng sợ ảnh hưởng đến việc BV trả tù binh cho Mỹ ngày 27-3-1973. Tại Cambodia, lực lượng Khmer đỏ do CSBV gây dựng bao vây Nam vang, Nixon cho lệnh oanh tạc Khmer đỏ để yểm trợ cho Lon Nol. Tháng 4 -1973 Nixon hăm doạ oanh tạc BV để họ đừng vi phạm và xâm nhập nhưng Quốc Hội chống đối dữ dội làm tiêu tan khả năng trả đũa của ông. Chính phủ cần tiền để tiếp tục oanh tạc tại Miên, Quốc hội không những từ chối còn bắt đầu soạn tu chính án cấm dùng mọi ngân khoản cho oanh tạc, họ nói  chính phủ phải dùng ngoại giao đàm phán chứ không thể dùng vũ lực. Mọi nỗ lực của hành pháp để ngăn chận sự chống đối của Quốc hội thất bại tháng 6-1973.

Khi tu chính án đưa lên bàn Tổng thống 27-6-1973, Nixon phủ quyết và cho biết tu chính án có thể phá hỏng mọi nỗ lực hoà bình ở Cambodia, nhóm phản chiến Quốc hội chống đối dữ hơn. Thương nghị sĩ Mansfield cho biết nếu TT không ngưng oanh tạc Miên ông sẽ bị cắt ngân sách điều hành chính phủ. Nixon miễn cưỡng ký thành luật ngày 30-6 và có hiệu lực từ 15-8-1973, theo đó chấm dứt tất cả ngân khoản trực tiếp, gián tiếp xử dụng cho việc tác chiến tại Mên, Lào, BV, Nam VN. Sự thất bại này khiến Nixon không còn thẩm quyền giữ hoà bình cho VN, Đông Dương và để cho BV tự do thao túng tại miền nam VN.

Quốc hội tiếp tục hạn chế quyền Tổng thống về quân sự, đó là War Power Act: Tổng thống phải thảo luận với Quốc hội trước khi tham chiến. Tổng thống có quyền tham chiến 60 ngày không cần được Quốc hội đồng ý và thêm 30 ngày gia hạn nếu chứng minh bằng văn bản xác nhận sự cần thiết để bảo đảm an ninh cho quân ta. Ngày 24-10 -1973 Nixon phủ quyết  dự luật War Power Act cho rằng nó vi hiến xâm lấn quyền Tổng thống , ngày 7-11-1973 Quốc hội phủ quyết sự phủ quyết của Nixon, như thế họ đã bật đèn xanh cho BV xâm lăng VNCH.

Ngoài ra kế hoạch cây gậy củ cà rốt của Nixon cũng bị Quốc hội dẹp luôn:

“Chẳng bao lâu các vị dân cử phản chiến cấm hết mọi hoạt động quân sự của chính phủ tại Đông Dương, họ cũng cấm viện trợ tái thiết cho BV, Quốc hội đã dẹp luôn cả gậy và cà rốt đã được ghi trong Hoà ước, như thế Hà Nội không còn lý do để chấp hành các điều khoản”- Sách đã dẫn trang 178.

Về kế hoạch viện trợ quân sự cho VNCH, ngân khoản do Nixon đề nghị đã bị Quốc hội cắt giảm liên tục  từ hai tỷ mốt (2,1 tỷ) tài khoá 1973 xuống một tỷ tư (1,4 tỷ) tài khoá 1974 và 700 triệu tài khoá 1975. Trong khi ấy BV vẫn được  CS quốc tế viện trợ dồi dào : Giai đoạn 1969-1972: 684,666 tấn hàng vũ khí, giai đoạn 1973-1975:  649,246 tấn , hai giai đoạn coi như tương đương.

Khi Hiệp định Paris được ký kết, miền Nam VN mạnh hơn miền Bắc, BV bị thiết hại nặng trong trận mùa hè đỏ lửa, khoảng từ 70 ngàn cho tới 100 ngàn cán binh bị tử trận, từ 500 cho tới 700 chiến xa bị phá hủy, VNCH thiệt hại khoảng một nửa. Sau trận oanh tạc cuối tháng 12-1972, các hạ tầng cơ sở quân sự, kho hàng, tiếp liệu, phi trường, ga xe lửa …tại miền Bắc bị tàn phá trầm trọng. Nhưng dần dần trong khi miền Bắc ngày một mạnh hơn nhờ CS quốc tế viện trợ dồi dào, miền Nam ngày một suy yếu vì Quốc hội Mỹ cắt giảm viện trợ tới xương tủy đưa tới sự sụp đổ  ngày 30-4-1975  như ta đã thấy.

Nixon đổ lỗi cho Quốc hội, ông nói:

“Chúng ta chiến thắng ở Việt Nam nhưng không giữ được hoà bình . Thành quả mà  ta đạt được  sau  mười hai năm chiến đấu đã bị vứt bỏ trong một cơn điên khùng vô trách nhiệm của Quốc hội”- Sách đã dẫn trang 165.

Nixon cũng chịu trách nhiệm trong sự sụp đổ VNCH và Đông Dương,  sự hoà hoãn  với Trung Cộng, Nga Sô do ông thực hiện được năm 1972 đã ngầm thúc đẩy Quốc hội bỏ rơi Đông Dương vì thuyết Domino không còn giá trị.

Trả lời một cuộc phỏng vấn của một tờ báo Đức tại hải ngoại, cựu TT Thiệu cũng đã xác nhận sự thất bại không phải do Cộng quân không chịu rút về Bắc mà vì VNCH không được tiếp tục viện trợ  quân sự của Hoa Kỳ cũng như  sự yểm trợ hoả lực của họ.

Như thế không phải Hiệp định Paris đã bức tử VNCH.

© Trọng Đạt

© Đàn Chim Việt

———————————————–

Tài liệu tham khảo.

Richard Nixon: No More Vietnams, Arbor House, New York 1985.

Wikipedia: Opposition to the US involvement in the Vietnam war.

English.illinois.edu/maps/vietnam/antiwar.html: Mark Barringer: The Anti-war Movement in the United States.

Radical times:The antiwar Movement of the 1960s, Politic and the Antiwar Movement.

Answer.com: Vietnam Asntiwar Movement

Lars-Klein. com: Nixon plan for ending Vietnam war.

Digital history. uh. Edu/… Nixon and Vietnam.

Kansaspress.ku.edu: Nixon’s Vietnam war

Wikipedia: Operation Linebacker II

The Hauenstein Center for Presidential: Nixon and the Christmas bombing.

www.answer.com/topic/domino-theory: Domino theory.

BBCVIETNAMESE.Com: Viện Trợ Quốc Tế Cho Miền Bắc Trong Chiến Tranh , 10-5-2006

Wikipedia: Opposition to the US involvement in the Vietnam war.

Nguyễn Kỳ Phong: Vũng Lầy Của Bạch Ốc, Người Mỹ Và Chiến Tranh Việt Nam 1945-1975, Tiếng Quê Hương 2006.

Nguyễn Đức Phương: Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập, 1963-1975, Làng Văn 2001.

Nguyễn Đức Phương: Những Trận Đánh Lịch Sử Trong Chiến Tranh Việt Nam, 1963-1975, Đại Nam.

Cao Văn Viên: Những Ngày Cuối Của Việt Nam Cộng Hoà, Vietnambibliography, 2003.

Nguyễn Tiến Hưng: Khi Đồng Minh Tháo Chạy, Hứa Chấn Minh 2005

Đặng Phong: 5 Đường Mòn Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Trí Thức, Hà Nội 2008

12 Phản hồi cho “Hiệp Định Paris, một bản án tử hình?”

  1. anhhungvn says:

    Bài viết trên và những bình luận càng làm rõ thêm một điều: Những chính quyền tay sai cho Mỹ không chóng thì chầy sẽ sụp đổ nhục nhã như chính quyền Ngụy sài gòn mà thôi. Các bài viết trên đã giúp cho thế hệ những người trẻ tuổi của việt nam chạy ra hải ngoại thấy rõ bộ mặt thật của Đế quốc Mỹ – tên sen đàm quốc tế và bọn tay sai của chúng, qua đó đồng bào mình nên đoàn kết nhau lại để chống lại âm mưu xâm lược của Mỹ trên toàn thế giới. Không lúc nào thuận lợi như hiện nay khi mình lọt được vào nước Mỹ để chống Mỹ.

    • HÀO says:

      Anh cứ ráng mà qua Mỹ để chống Mỹ ! Hoang tưởng ! Sao không về VN mà xem thằng lãnh đạo CS nó BÁN NƯỚC cho Tàu, thử mà đi chống Tàu nghe thực tế hơn . Hay cứ mang thân ra làm BIA THỊT cho Tàu mà hô hóan cái sự anh hùng …rơm !

      Xin mời xem : https://chauxuannguyen.wordpress.com/2012/07/31/bon-tau-cong-hay-giet-chet-bon-giac-viet-nam-de-lam-vat-te-co-cho-tran-chien-nam-sa/

    • nô lệ says:

      Nhất trí với bạn. Vô sản toàn thế giới đoàn kết lại. Đấu tranh này là trận cuối cùng!

      Vùng lên hỡi các nô lệ ở thế gian!
      Vùng lên hỡi ai cực khổ bần hàn!
      Sục sôi nhiệt huyết trong tâm đầy chứa rồi.
      Quyết phen này sống chết mà thôi.

      Đi ta đi giải phóng miền Nam. Ngụy quyền miền Nam đã sụp đổ.
      Đi ta đi giải phóng miền Nam Hàn… Ngụy quyền bù nhìn Nam Hàn sẽ sụp đổ.

      Chờ đợi gì nữa!
      Vùng lên hỡi các nô lệ ở thế gian!
      Vùng lên hỡi ai cực khổ bần hàn!

  2. Greg Pham says:

    Mọi người bàn luận về Hiệp Định Paris quá nhiều rồi. Nhưng mấu chốt quan trọng nhất không ai nói tới, hoặc không muốn nói tới, đó chính là tù binh Mỹ đang vị cộng sản Bắc Việt giam giữ. Mỹ đưa quân vào VN, muốn rút lúc nào thì rút, như ở Iraq, hay ở Afghanistan…… vì ở đây Mỹ không có quân nhân bị đối phương bắt giữ. Ở Việt nam thì khác, Mỹ cần đưa các tù binh bị cộng sản bắt giữ về. Cộng sản Việt Nam cũng rất rõ điều này nên bắt chẹt Mỹ, nên Mỹ đã hy sinh Đồng Minh Việt Nam Cộng Hòa. Đó cũng là lý do tại sao, ngày nay Mỹ dùng rất nhiều phi cơ không người lái trong các phi vụ, không phải chỉ riêng cho việc thám thính mà còn xử dụng trong các công tác oanh tạc nữa (tuy không phải là lý do chính, nhưng cũng là một lý do không kém quan trọng). Iran đang bắt giữ một phi cơ không người lái của Hoa Kỳ, nhưng nếu Iran bắt được một phi công Hoa Kỳ, thì Chính Phủ Mỹ sẽ phải quan tâm nhiều hơn. Trong Hiệp định Paris, các tù binh Mỹ bị bắt tại Hạ Lào, Mỹ cũng đòi cộng sản trao trả, nhưng quân nhân VNCH bị bắt tại Hạ Lào, thì Mỹ không quan tâm, nên có nhiều quân nhân VNCH còn bị giữ lại sau Hiệp định Paris.

  3. Minh Đức says:

    Việc miền Nam nhận sự giúp đỡ của Mỹ cũng là vấn đề muôn thưở trong sự hợp tác. Nguyên tắc là sự hợp tác, giúp đỡ không phải là mãi mãi mà chỉ trong một giai đoạn nào đó khi hai bên cần nhau. Trong giai đoạn đó nếu có thể lợi dụng sự hợp tác cho mình thì sự hợp tác đó có lợi. Đến lúc nào đó hoàn cảnh thay đổi thì sự hợp tác đó chấm dứt. Giả sử Mỹ hoàn toàn không dính gì đến Việt Nam thì Pháp một mình phải đối phó với CSVN được Trung Quốc giúp thì cũng đến lúc Pháp phải rút đi để CSVN chiếm toàn thể Việt Nam từ 1954. Sau Hiệp Định Genève, nếu Mỹ không giúp miền Nam thì miền Nam không thể nào chống lại miền Bắc với sự trợ giúp của một nước lớn như Trung Quốc, lại thêm một nước lớn đã công nghiệp hóa như Liên Xô. Lúc đó, dù cho chính quyền, quân đội miền Nam không tham nhũng, ai cũng can đảm chiến đấu thì cũng vẫn không giữ được mền Nam trước sức tấn công của toàn thể khối CS bao gồm cả miền Bắc lẫn tiềm lực của Đông Âu và Trung Quốc vì súng đạn đâu mà đánh nhau? Miền Nam có tự chế tạo được khẩu súng nào đâu trong khi thì Nga, TQ chở súng đạn sang cho miền Bắc. Thời nhà Nguyễn lúc đầu người dân Việt cũng can đảm chống Pháp nhưng cuối cùng vẫn bị thua vì Pháp có súng ống tối tân hơn. Việc Mỹ rút khỏi Đông Dương là do hoàn cảnh của Mỹ, cũng như việc Liên Xô cắt viện trợ cho VN vào thập niên 80 là do hoàn cảnh Liên xô. Giả sử Liên Xô bị khủng hoảng vào thập niên 70 mà không phải là thập niên 80 và Trung Quốc cũng lo đổi mới mà cắt viện trợ từ 1970 thì miền Bắc sẽ phải ngưng đánh nhau. Hai miền sẽ là ai ở đâu thì ở đấy giống như Nam Bắc Hàn ngày nay. Chỉ là do thời thế mà thôi.

  4. LẠI MẠNH CƯỜNG says:

    Thưa tác giả thân mến,

    Với tôi hiệp ước hòa bình Paris 1973 là BẢN ÁN TỬ HÌNH cho VNCH.

    Bởi đó là cái cớ chính đáng cho Mỹ rút lui trong “danh dự” khỏi bãi lầy VN, để mặc cho VNCH chiến đấu đơn độc một mình với bày lang sói là, CS Bắc Việt với khối Cộng quốc tế yểm trợ hết mình sau lưng.
    Cũng như bọn cò mồi, bù nhìn Mặt trận Phỏng giái của CS miền Bắc, được chính thức công khai là một thành phần trong những hội nghị quốc tế gọi là bốn bên !

    Bọn Mặt trận Phỏng giái này chả khác gì hai cái đảng Dân Chủ và Xã Hội ở ngoài Bắc hồi thập niên 50 và 80, nghiã là toàn là người của bọn CSVN cho mượn gài vào thôi, ngoại trừ vài ông ở cấp trung ương ở hai đảng trên

    Chính vì thế mà Lê Đức Thọ đã không thèm nhận nửa giải Nobel Hoà Bình, trong khi Henry Kissinger hí hửng đến nhận nửa giải. Bởi Thọ biết rõ rằng, y sẽ tiếp tục tấn công chiếm trọn miền Nam. Còn thằng Mỹ gốc Do Thái Kít cần đéo gì hậu sự sau khi rút chân khỏi chiến trường Đông Dương.

    Đó là UN MISSION ACCOMPLI, một công tác được hoàn tất mỹ mãn, mà hệ quả nối tiếp sau đó chính là phát súng ân huệ “coup de grâce” vào đầu tử từ VNCH, qua cái gọi là “Đại Thắng Mùa Xuân 1975″ của Cộng quân tại chiến trường VN.

    Các ông mà luận bàn thế sự như bài viết quả thực không thông thời thế thế giới chút nào cả. Nên biết Thiệu cũng như Kỳ, Khiêm … là tay sai cắc ké của Mỹ, biết gì mà thưa với thốt.
    Cứ nghe Thiệu đọc diễn văn ứng khẩu mà cười té đái trong quần luôn !

    Lão Ngoan Đồng

    ==============

    WIKIPEDIA:
    Đảng Xã hội Việt Nam là chính đảng của giới trí thức Việt Nam.
    Đảng Xã hội Việt Nam được thành lập ngày 22 tháng 7 năm 1946, dưới ngọn cờ của Mặt trận Việt Minh và Đảng Cộng sản Đông Dương nhằm mục đích “tập hợp, đoàn kết mọi trí thức yêu nước và dân chủ”. Ngay sau đó Đảng Xã hội đã gia nhập Mặt trận Việt Minh. Trong Đảng Xã hội có một số đảng viên đồng thời là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.
    Cùng với Đảng Dân chủ, Đảng Xã hội đã tham gia Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
    Khi trào lưu đa nguyên đa đảng bắt đầu nảy nở ở một số nước cộng sản Đông Âu, với lý do đã kết thúc sứ mạng lịch sử, Đại hội đại biểu Đảng Xã hội họp từ ngày 21 đến ngày 22 tháng 7 năm 1988 đã ra tuyên bố giải thể Đảng.
    Một số nhà lãnh đạo chủ chốt của Đảng: Nguyễn Xiển, Phó Tổng thư ký từ năm 1946, Tổng thư ký từ năm 1956 đến khi Đảng giải thể (1988). Hoàng Minh Giám, Phó Tổng thư ký (1956-1988).

  5. lotxac says:

    Qua nhiều kinh nghiệm; chúng tôi làm việc với Mỹ; hay làm việc cho Mỹ từ trong nước,và đến nước Mỹ; mình càng thấm thía Mỹ hơn. Càng hiểu Mỹ; mình càng rõ bộ mặt Mỹ nhiều: Được thì họ dùng mình. Ngược lại; thì mình là nạn nhân bị bỏ rơi không một lời hối tiếc.
    Không phải con người bị Mỹ bỏ rơi; mà CON CHÓ; con MÈO nó nuôi trong nhà; ai đụng tới CHÓ;MÈO của nó là nó đưa ra TÒA. Nhưng vì ăn chơi; đi Vacation somewhere; thì nó để cho CHÓ;MÈO chết nó không thèm đếm xỉa; hoặc cho ăn.
    Trong Sở làm dù sở TƯ hay sở CÔNG; nếu nó thấy mình không còn vắt chanh được nữa; thì nó cũng kiếm chuyện đuổi ngay; không một lời luyến tiếc… mình tự an ủi lấy mình: THÔI ĐỪNG BUỒN.
    Xét ra; nước Mỹ là do những người đi tìm đất mới; do những người bỏ nguồn bỏ gốc; do những người bị đi đày; do những kẻ DU-MỤC họ tập trung lại dưới sự chỉ huy của George Washington đánh đuổi thực dân Anh ra để giành độc lập cho HỢP CHỦNG QUỐC; họ là người không có GỐC; hay nói một cách khác là loại VONG BẢN; nên ai TIN vào Mỹ lâu dài là người ấy DẠI,
    VNCH là một anh ngáo; chỉ biết Mỹ,và TIN vào Mỹ cho nên bị Mỹ bỏ là tự buông súng đầu hàng CS để tìm cái CHẾT đau buồn. Nếu không nhờ anh chàng TÙ BINH John Mc Cain thông cảm cứu SỈ-Quan VNCH ra khỏi tử thần ;coi như đến nay đã làm phân cho cỏ dại; cho đồng ruộng xanh màu cho chúng xơi.
    Tôi chỉ tiếc, VNCH có nhiều cơ hội để nhờ các thế lực quốc-Tế; theo sau lính MŨ-XANH như Căm-Bốt kia… trở về CHIẾM LẠI MIỀN NAM trước ngày Mỹ giúp cho CSVN bị lún lầy tại xứ Khmer.
    Nhưng tiếc thay: CHÚNG TA KHÔNG CÓ CHÍNH PHỦ LƯU VONG; như trường hợp hoàng thân Shianoute.
    Cái NGỐ của NGUYỄN VĂN THIỆU là biết Mỹ bán miền Nam cho CSBV trước và sau hiệp định Paris; mà không biết xoay sở… để cuối cùng giao cho ông già mù; chống gậy đi không nổi là Cụ TVH ; rồi thoát chạy vơí́ gia đình để mặc cho anh em QUÂN NHÂN buông súng !!!.

  6. Tong Vo says:

    “Trả lời một cuộc phỏng vấn của một tờ báo Đức tại hải ngoại, cựu TT Thiệu cũng đã xác nhận sự thất bại không phải do Cộng quân không chịu rút về Bắc mà vì VNCH không được tiếp tục viện trợ quân sự của Hoa Kỳ cũng như sự yểm trợ hoả lực của họ.

    Như thế không phải Hiệp định Paris đã bức tử VNCH.

    © Trọng Đạt” —->>> Ly do tai sao VNCH khong duoc Hoa Ky vien tro tiep tuc, nhieu cau tra loi hơn la 1 cau tra loi chac nịch cua TT Thieu:

    -Hoa Ky vien tro cho VNCH de chong lai CS BV , khong phai vien trợ cho lanh dao VNCH de tham nhung, cat xén va buon lau cho ca nhan cac lanh dao VNCH . Tướng lãnh dduoc đào tạo là đe cam quan chong giac an dân, giu gìn đất nước, chỉ có tuong lãnh VNCH la dduoc đào tạo đe đảo chánh, tranh dành quyền lợi cá nhan: nguyen chanh thi, nguyen cao ky, nguyen van thieu, duong van minh, ton that dinh,..? Hoa Ky vien trợ cho VNCH de cac vị tuong lanh lam chuyen ay ???
    Tai sao Hoa Ky khong cat vien tro Tay Duc, Nam Han ???
    Den bay gio mà van chua rut ra bai hoc kinh nghiem va tot de day do cho cac the he sau này duoc tot hon . Tai sao VNCH cung ta chi thich do thừa va do thừa ? Khong le đay la ban chat cua nguoi VietNam nô lệ ? dan toc nô lệ la dan toc khong dám nhan lay trach nhiem cho viec minh lam sai mà chi biet đỗ thừa va đỗ thừa.

    • Sigma says:

      Thoi do Nam han,Dai loan,Phi luat tan,Ma lai, Nam duong,Kampuchia, Laos, nuoc nao chang co tham nhung nhung muc do khong kinh khung nhu VN ngay nay va thoi do o the gioi cong san thi chang co tham nhung ma chi co an cuop thoi.
      “Tai sao Hoa Ky khong cat vien tro Tay Duc, Nam Han ???”
      O nhung nuoc nay dau co xung dot bang vo luc. ( co le ho hoi bi ngu nen khong thich mau lua nhu ta)
      Nam han phat trien duoc nhu ngay nay la nho di tien phong pha bo che do doc tai xay nhung dan chu nen duoc phuong Tay ho tro rat nhieu luc do tat ca cac hang hoa gia cong deu do don ve Nam han vi ho co trinh do(tu My,Nhat) va gia re…..toi thap nien 80 thi cong nghe nang cung bat dau do vao nuoc nay vi da duoc Au My tin tuong.Nho dan chu 100% nen tham nhung bi tieu diet ma chang can mot uy ban nao chong ca.

      • Tong Vo says:

        Tham nhũng 1 đồng va tham nhũng 1 triệu đồng đều có tội voi đất nước và người dân như nhau ! Khong the so sanh tham nhung nước nao cũng bị hay ít nhiều.
        Chắc chắn ting trạng xã hoi va kinh te, dat nước VN ngày nay như cái giẻ rách rồi, vô phương cuu chửa. Thật tiếc là VN bỏ mât’ cơ hội toàn cau hóa hoi nhap cua the gioi đe trở thành 1 nưo’c mạnh và phú cường . Ngày xua các nuoc nghèo làm sao được tu do mậu dich buon bán voi các nuoc giàu ( protectionism ), ngay xua khoa hoc ky thuat dau tien bo nhanh nhu hom nay đe giup kinh tế phat trien nhanh với nguồn vốn đầu tư ít !… VN bỏ mất quá nhiều cơ hội .
        Nam Hàn khong nhồi da xáo thịt ? vay chien tranh Trieu Tien nam 1953 la gi ? Tay Duc va Dong Duc khong chiến tranh ? vay còn “cầu không van” va ” Buc tuong Ba Linh” la gi ??? Ngay cả Hoa Kỳ : cuoc Nội chiến và giai phong no lệ ngưoi Da Đen khong là nhồi da nấu thịt cua 1 dân tộc ? nhưng Hoa kỳ biet sưa sai va tự nhận lấy trách nhiệm và đứng lên làm cho tot hơn .
        Nuoc nào, dan toc nao cung có cái bi ai va tủi nhục nhưng các dân tốc kia họ biết nhận lay trach nhiem, nhan lay sai làm để sửa sai va dạy cho the he tiep nói điều đúng nen làm, điều sai làm bai học kinh nghiem . Còn VN chi biet đổ thừa cho kẻ khác va ung dung sống thoai mái .
        Buồn mãi 2 chử Viet Nam của máu và lệ .

    • lotxac says:

      Thiệu là tên ma đầu THỪA CƠ HỘI. KHÔNG CÓ TIỀN HÔ HẬU ỦNG. KHÔNG CÓ TƯỚNG PHỤC.KHÔNG CÓ KHẨU PHỤC. TÊN QN ĐỘC TÀI, theo bên cạnh là những tên THAM QUAN;BÁN CHỨC; BẤT TÀI. VÔ CHÍNH TṚI; CHỈ BIẾT BÁM MỸ.
      Thiệu không được lòng DÂN; không được LÒNG QUÂN; lại KHÔNG Ý THỨC ĐƯỢC LÒNG YÊU NƯỚC và nhiều lý do khác đưa đến mất nước một cách nhanh chóng.
      Về mặt TUYÊN TRUYỀN,và NGOẠI GIAO lại giao cho Cháu mình là HOÀNG Đ. NHÃ một tên tiếng VIỆT không rành; thì nói làm sao với NHÂN DÂN THẾ GIỚI ?.
      Chúng tôi có dip tiếp xúc với một số TƯỚNG LÃNH PHÁP trước đây; họ đã nói cho chúng tôi rằng: Nếu Ông Thiệu; hay Ông Kỳ; hay Ông Big Minh kéo quân xuống vùng IV đánh cầm chừng,và liên lạc với chúng tôi giúp đỡ; vì lấy CỚ 6 TĨNH THUỘC ĐỊA PHÁP của chúng tôi; chúng tôi tiếp tế: TÀU CHIẾN; CHIẾN CỤ vào CĂM BỐT và MIỀN NAM; chắc chắn các anh có thể đẩy LUI VI-CI ra tới NHA TRANG làm gianh giới.
      Do Thiệu sợ chết; vì anh em Q.N/VNCH đã hận Thiệu lừa anh em trước khi ĐÀO TẨU; nên Thiệu đã không thành lập được; hay nói một cách khác Thiệu không dám thành lập CHÁNH PHỦ LƯU VONG để nhờ Quốc-Tế yểm trợ tiến về tái chiếm MIỀN NAM; sau khi khối CSNS sụp đổ; và TQ chuyển mình. CSVN lún lầy tại Khmer,và nước VN lúc ấy như cái GIẺ RÁCH; nhưng có nhiều con CHÓ nhai GIẺ ĐỂ SỐNG.
      Bây giờ thì; chúng ta AN PHẬN; vì Mỹ đã nói chuyện,và làm việc với CSVN. Chứ không phải họ làm việc với chúng ta.

    • Nguyễn Mãi Quốc says:

      “…Tai sao Hoa Ky khong cat vien tro Tay Duc, Nam Han ???”

      Đức và Hàn Quốc đã may mắn không có Lãnh Tụ Dzĩ Đại như Hồ chí minh, Lê Duẩn. Sẵn sàng đốt cháy cả Trường Sơn, hy sinh nhiều thế hệ vào cuộc chiến xâm lăng miền Nam bằng mọi giá. Nếu Hồ chí minh là người Đức, hay Đại Hàn, thì nước họ cũng sẽ khốn nạn như VN chúng ta hiện nay.

Leave a Reply to Nguyễn Mãi Quốc