Nhà nước pháp quyền
Ở Việt Nam, người ta hay nói đến chữ “nhà nước pháp quyền”. Người sử dùng chữ này nhiều nhất không chừng là bà Nguyễn Phương Nga, phát ngôn viên của Bộ Ngoại Giao. Hình như bất cứ khi nào bị phóng viên ngoại quốc hạch hỏi về tình trạng vi phạm nhân quyền trầm trọng ở Việt Nam là bà lại xào lại món ăn cũ: “Việt Nam là một nhà nước pháp quyền!” Tôi đã có dịp chuyện trò với một số phóng viên ngoại quốc từng làm việc ở Việt Nam. Hỏi cảm tưởng của họ khi nghe những câu trả lời như thế, ai cũng cười. Và người Việt Nam chúng ta cũng cười, dĩ nhiên, với ít nhiều cay đắng.
Người bộc trực cho những lời như vậy là những lời nói dối trắng trợn. Người hiền lành và nhiều thiện chí thì nghĩ có thể cách hiểu của Việt Nam về chữ pháp quyền (rule of law) khác với thế giới. Nhưng cách nghĩ như thế, thật ra, chỉ là một sự tự lừa dối. Một trong những đặc điểm lớn nhất của thời đại chúng ta là toàn cầu hóa. Một trong những khía cạnh quan trọng nhất của toàn cầu hóa là sự thống nhất của các bảng giá trị và khái niệm căn bản, trong đó có hai vấn đề chính: nhân quyền và pháp quyền. Cách đây mấy chục năm, một số lãnh tụ ở châu Á cũng từng nhân danh các giá trị truyền thống của châu Á để bẻ cong các định nghĩa về nhân quyền và pháp quyền như thế. Tuy nhiên, ngày nay, những lập luận như thế đã thưa thớt hẳn. Ai cũng thấy đó chỉ là những sự ngụy biện.
Thuật ngữ pháp quyền chỉ ra đời ở châu Âu từ thế kỷ 17 nhưng mầm mống của nó thì đã manh nha từ thời cổ đại Hy Lạp khi Aristotle quan niệm: một xã hội tốt đẹp là một xã hội được cai trị bởi luật pháp chứ không phải bởi bất cứ một cá nhân nào. Nếu một cá nhân nào đó được cử lên để nắm quyền thì người đó nên đóng vai trò của những kẻ bảo vệ và thực thi luật pháp mà thôi. Một chính khách nổi tiếng khác thời cổ đại La Mã, Cicero, cũng quan niệm như vậy: Tất cả chúng ta đều là nô lệ của luật pháp để tất cả chúng ta đều được tự do.
Cần chú ý là ngày xưa, ở Trung Hoa, cũng có tư tưởng pháp trị với những đại biểu lớn như Thân Bất Hại, Thương Ưởng và Lý Tư. Tuy nhiên, đó chỉ là pháp trị (rule by law) chứ không phải là pháp quyền (rule of law). Theo tư tưởng pháp trị cổ điển, nhà vua cần dùng luật pháp để trị dân, nhưng bản thân vua thì lại ở trên luật pháp. Tiêu biểu nhất là một câu chuyện liên quan đến Thương Ưởng, người chủ trương pháp trị.
“Có lần thái tử phạm phép nước. Thương Ưởng bảo: Mọi người chẳng kể sang hèn, đều bình đẳng về pháp luật. Nhưng thái tử sẽ kế ngôi vua, không thể bắt chịu tội, mà hai viên sư phó dạy thái tử phải chịu tội thay vì không làm tròn trách nhiệm dạy dỗ. Dân trong nước lại càng sợ lệnh của Thương Ưởng; chỉ trong mười năm của rơi ngoài đường không ai dám lượm, tại rừng núi cũng không còn trộm cướp.” (Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê, Đại Cương Triết Học Trung Quốc, quyển hạ, Cảo Thơm xuất bản tại Sài Gòn năm 1966, tr. 586.)
Như vậy, tuy Thương Ưởng nổi tiếng cứng rắn, ông vẫn còn một nhân nhượng: vua, từ vua tại vị lẫn vua trong tương lai. Với ông, vua ở trên, ở ngoài và được miễn trừ bởi luật pháp. Cái gọi là “bình đẳng” trước pháp luật của ông, do đó, là một sự bình đẳng có giới hạn, áp dụng cho mọi người, trừ những người trong hoàng tộc.
Ở Tây phương ngày xưa, vua cũng được đặc quyền như thế. Bởi vậy mới có câu: “Vua là luật” (rex lex / the king is the law). Năm 1644, Samuel Rutherford (1600-1661) mới đổi lại thành: “luật là hoàng đế” (Lex, rex / the law is king). Sau đó, từ John Locke (1632-1704) đến Montesquieu (1689-1755) tiếp tục khai triển ý tưởng ấy. Ở Mỹ, năm 1776, Thomas Paine (1737-1809) viết trong cuốn Common Sense: “Ở Mỹ, luật pháp là vua” (in America, the law is king). Năm 1780, John Adams (1735 –1826) đúc kết thành công thức sau này sẽ là nguyên tắc chính của mọi nền pháp quyền: “một chính phủ của luật pháp chứ không phải của con người”.
Từ đó đến nay, quan niệm pháp quyền được giải thích theo nhiều cách khác nhau. Tựu trung, có ba quan điểm chính: một, hình thức luận (formal/thin approach): không cần biết đến nội dung, chỉ cần mọi luật lệ đều phải rõ ràng, bình đẳng, cố định và phổ quát; hai, bản chất luận (substantive/thick approach): mọi luật lệ đều nhằm bảo vệ một số hoặc toàn bộ quyền của con người; và ba, chức năng luận (functional approach): một xã hội được xem là có tính pháp quyền cao nếu nhân viên chính phủ có ít khả năng tự tung tự tác; ngược lại, sự tự tung tự tác càng cao thì tính pháp quyền càng yếu và ít.
Dù cách diễn dịch có khác nhau đến mấy thì bản chất của cái gọi là pháp quyền trên thế giới, tự bản chất, cũng giống nhau ở một số điểm căn bản:
Thứ nhất, phải có một hiến pháp và luật pháp phù hợp với những nguyên tắc căn bản về nhân quyền, trong đó hai quyền căn bản là quyền tự do và bình đẳng của mọi công dân phải được tôn trọng.
Thứ hai, không có bất cứ cá nhân nào, dù đang nắm giữ bất cứ chức vụ nào, có thể đứng trên hay đứng ngoài pháp luật.
Thứ ba, các điều khoản trong hiến pháp và luật pháp, dù có tính chát phổ quát, vẫn không quá mơ hồ để có thể bị lợi dụng (ví dụ các đuôi “theo khuôn khổ luật pháp” ở Việt Nam, trong đó, ngay cả một bản thông báo không có người ký tên – như bản thông báo cấm biểu tình ở Hà Nội ngày 18/8 vừa qua – cũng được xem là “pháp luật” để dựa theo đó công an thẳng tay đàn áp những người xuống đường chống Trung Quốc).
Những điều vừa nêu, thật ra, là những kiến thức thông thường. Điều tôi muốn nhấn mạnh trong bài viết này là:
Một, trong việc bảo vệ một nền dân chủ pháp quyền, vai trò quan trọng nhất thuộc về cơ chế: Nếu không có sự phân lập về quyền bính, chủ yếu giữa ba quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp, sự độc lập của quân đội và công an cũng như sự tự do của truyền thông, không có bất cứ một chế độ nào có thể nói được là thực sự dân chủ và pháp quyền. Bởi ở đó luôn luôn có nguy cơ con người sẽ lấn át luật pháp, sử dụng luật pháp như một công cụ để bảo vệ quyền lợi của mình mà thôi.
Hai, phải có những lãnh đạo dũng cảm và tự trọng, có tinh thần thượng tôn pháp luật, biết đặt quyền lợi của đất nước lên trên quyền lợi của cá nhân, những lợi ích lâu dài trên các lợi ích trước mắt.
Và ba, theo tôi, quan trọng không kém, việc bảo vệ tính pháp quyền không hoàn toàn tùy thuộc ở cơ chế hay nhà cầm quyền mà còn tùy thuộc ở người dân. Khi người dân có ý thức và có dũng cảm đứng lên đòi hỏi nhà cầm quyền phải tôn trọng các quyền được ghi nhận trong hiến pháp và luật pháp, chính phủ mới tự hạn chế những ý định lạm dụng quyền lực của mình.
Nền dân chủ pháp quyền ở các quốc gia phát triển trên thế giới không tồn tại như một phép mầu. Những người lãnh đạo phải tự đặt vào khuôn khổ của pháp luật thường không phải vì lòng tốt mà vì bị bắt buộc. Ai bắt buộc? Trên lý thuyết: hiến pháp và luật pháp. Nhưng trên thực tế, chính là dân chúng. Dân chúng đóng vai trò kiểm tra, kiếm soát thường xuyên. Bất cứ sự vi phạm nào của giới lãnh đạo cũng đều bị phản đối ngay tức khắc. Bằng biểu tình. Bằng kiến nghị. Và quan trọng nhất, bằng lá phiếu.
Ở Việt Nam, gần đây, tôi đã thấy manh nha việc một số người dân biết sử dụng quyền công dân của mình để đòi hỏi nhà nước phải tôn trọng tính pháp quyền. Chúng thể hiện ở việc kiện đài truyền hình và truyền thanh Việt Nam xuyên tạc và bôi nhọ những người biểu tình chống Trung Quốc. Việc yêu cầu chính quyền Hà Nội phải giải thích về bản thông báo cấm biểu tình ngày 18/8. Tôi cho, ngoài 11 cuộc biểu tình ở Hà Nội từ đầu tháng 6 đến giữa tháng 8 vừa qua, những đơn khiếu nại và kiện tụng ấy là những dấu mốc rất đáng kể trong việc xây dựng một nền pháp quyền ở Việt Nam hiện nay. Xây từ dưới lên.
Nguồn: Blog Nguyễn Hưng Quốc (VOA)
PHÁP QUYỀN LÀ GÌ ?
Ý nghĩa của pháp quyền ngày nay không còn là lý thuyết nữa, mà là sự kiện thực tế. Lý thuyết này đã có từ thế kỷ 18 ở phương Tây, nên ngày nay cũng không phải bàn cãi gì thêm nhiều nữa. Còn thực tế là gì ? Đó là quyền pháp lý của toàn dân. Để thực hiện đúng đắn quyền pháp lý này, người dân phải thật sự hiểu biết ý nghĩa của pháp quyền là gì, sự đòi hỏi về nó như thế nào, và sự thực hiện nó ra sao. Pháp quyền mang ý nghĩa cốt lõi nhất, là mọi người, tức mọi cá nhân trong một xã hội hay đất nước, đều hoàn toàn bình đẳng với nhau về pháp lý trong mọi mặt. Như vậy, không bất kỳ ai nhân danh cái gì để áp đặt ý thức, hay sự hiểu biết, hoặc nguyện vọng riêng của mình lên trên mọi người khác. Cho dù mình có hay, có giỏi cách mấy, mà mọi người khác không theo ý mình, cùng đành chịu. Đó là ý nghĩa của sự dân chủ, tự do đích thực. Như vậy, muốn phát triển xã hội, phải buộc nâng cao dân trí, phải vận động toàn dân, bằng biện pháp tri thức, tình cảm cao quý, mà không thể áp đặt kiểu nô lệ. Quyền bình đẳng, cũng có nghĩa là quyền dân chủ, tự do đích thực của mọi người. Có nghĩa, chính trị phải là chính trị khoa học, chính trị trí thức, không thể là chính trị mưu mẹo, hay chính trị gian dối. Tức là, bất kỳ lý do gì, đều luôn phải tôn trọng quyền bầu cử đích thực trong dân. Mọi quyền ứng cử và bầu cử, phải đều như thế. Mỗi người dân một lá phiếu thật sự tự do, dân chủ hoàn toàn, không phân biệt nguồn gốc, hiện trạng, hay triển vọng của bất kỳ ai. Đó mới thật sự là pháp quyền. Cho nên, bầu cử gian lận, phản, hay phi dân chủ và phản tự do đích thực, thực chất, thì đó là phi pháp quyền và phản pháp quyền. Các Mác là người đầu tiên trong lịch sử nhân loại cho rằng xã hội trước lý thuyết của ông ta đều là xã hội tư sản, đều là xã hội phản động. Chỉ có xã hội làm theo lý thuyết của ông mới là xã hội cách mạng, tức xã hội phi tư sản, hay xã hội vô sản, tức xã hội cộng sản. Bởi vậy Các Mác chỉ trương độc tài giai cấp, hay chuyên chính vô sản. Học thuyết Mác thật sự chỉ là học thuyết phản thực tế, phản khoa học, một học thuyết nhân danh giai cấp một cách giả tạo, phi khoa học. Thậm chí có thể nói học thuyết Mác là một học thuyết phản động (vì nó trái lại với quy luất và ý nghĩa phát triển của xã hội nhân loại). Nhưng học thuyết Mác thật ra chỉ mới có trên lý thuyết, sách vở. Về sau đó, chính Lênin là người căn cứ theo thuyết chuyên chính đó, mà lập nên nhà nước độc tài ở Nga, tức nhà nước Liên xô. Và kể từ năm 1917, cho đến các thập niên 1980, tức chỉ khoảng 70 năm sau, là nhà nước Liên xô cũ đã hoàn toàn tan rã và sụp đổ. Điều đó cho thấy mặt lý thuyết và mặc thực tế, học thuyết Mác đã sai về căn bản. Có nghĩa, học thuyết của Mác là học thuyết chống pháp quyền đầu tiên toàn diện nhất trên thế giới. Ông ta đã mạo nhận pháp quyền khi nêu cao chuyên chính, nêu cao pháp quyền cộng sản giả tạo để thủ tiêu, chống lại pháp quyền tự do dân chủ khách quan, thật sự của nhân dân. Tư tưởng Mác đúng là tư tưởng điên loạn của nhân loại, bởi thế, nên sau này người ta mới phải xét lại, và phải đổi mới là như vậy. Chỉ rất tiếc, hàng ngủ trí thức phải là hàng ngủ bảo vệ pháp quyền chính đáng cho xã hội, phải tiên phong hướng dẫn xã hội, nâng cao nhận thức người dân, lại vì sợ hãi quyền lực độc đoán, đã nhu nhược ca ngợi lý thuyết Mác được đem giảng dạy theo cách áp đặt trong các trường đại học, như là lương tâm của thời đại, như là đỉnh cao của trí tuệ loài người, như là chân lý duy nhất đúng, như là quy luật tất yếu của lịch sử v.v… và v.v… trong suốt một thời kỳ rất dài ở các nước. Sự phản pháp quyền, sự độc tài độc đoán, không những là tội lỗi của Các Mác suốt gần một thế kỷ đối với nhân loại trên toàn thế giới, mà đó cũng là tội lỗi của bao nhiêu trí thức hùa theo một cách mù quáng và khiếp nhược, đối với các dân tộc và đối với nhân loại nói chung ở khắp mọi nơi trên trái đất này.
Võ Hưng Thanh
(21/9/11)
“Pháp quyền” kiểu gì mà công-an-tự-làm-luật, các cơ quan cuả chính phủ tự ban hành các thông tư, chỉ thị, nghị định và …”tự diễn biến thành luật, thi hành”; không cần qua QUỐC-HỘI-BÙ-NHÌN chi cho mất công, tốn thời gian !”Những-Con-Vẹt-Ba-Đình” những tưởng màn tuyên truyền lưà phỉnh ấy luôn có tác dụng, nào ngờ với phương tiện truyền thông hiện đại, chúng trở thành trò hề đầy lố bịch trước nhân dân và lương tâm nhân loại !