WordPress database error: [Expression #1 of ORDER BY clause is not in GROUP BY clause and contains nonaggregated column 'oldsite_dcvwp.wp_posts.post_date' which is not functionally dependent on columns in GROUP BY clause; this is incompatible with sql_mode=only_full_group_by]
SELECT YEAR(post_date) AS `year`, MONTH(post_date) AS `month`, count(ID) as posts FROM wp_posts WHERE post_type = 'post' AND post_status = 'publish' GROUP BY YEAR(post_date), MONTH(post_date) ORDER BY post_date DESC

 
|

Nhất Linh nhà văn và Nguyễn Tường Tam nhà chính trị[1]

 

Nhất Linh

“Trong trường hợp Nhất Linh Nguyễn Trường Tam, có những lý do để e ngại rằng vẫn còn những khoảnh tranh tối, tranh sáng xung quanh cái chết của ông. Những công trình nghiên cứu, ghi chép về thân thế và sự nghiệp chưa đủ để cho lịch sử có thể phán xét thật công bằng công tội của ông, như ông muốn” (1)

(1) Trích Trần Thanh Hiệp trong bài: Để trả Nhất Linh Nguyễn Tường Tam về cho lịch sử, trích lại trong Nhất Linh- Người nghệ sĩ Người chiến sĩ, trang 128

 

Đối với một số người có quan tâm đến văn học và chính trị thì cuộc đời làm chính trị và nhất là vụ tự tử để lại chúc thư của Nhất Linh còn là một nghi án chính trị như nhận định của luật sư Trần Thanh Hiệp,-một thành viên viên sáng lập của nhóm Sáng tạo-nêu ở đầu bài viết này.

Cuộc đời ấy, cái chết ấy trở thành một công án về văn học, chính trị và lịch sử. Sự nghiên cứu, tìm hiểu ngay cả nhận định, phê phán đều là cần thiết.

Như mới đây, tôi nhận được luận án tiến sĩ của bác sĩ Mạc Văn Phước (1) được tóm lược và bổ sung của bác sĩ Đặng Ngọc Thuận. Phần bốn của luận án đã nói đến trường hợp bệnh lý của Nhất Linh- bệnh trầm cảm- Luận án này được thực hiện từ năm 1968, mang tính cách nghiên cứu hàn lâm của đại học Y khoa Sài Gòn. Luận án mang tính khách quan, khoa học. Nhờ đó, nó củng cố thêm cho những luận điểm của tôi về công án cái chết của NL. Nó giúp đánh giá lại có cơ sở việc tự tử của NL. Nó soi sáng ý nghĩa cái chết đó dựa trên tình trạng bệnh lý của NL.

(1)|Thật ra luận án đã được đăng trong số Tân Văn số 47, tháng 6/2011.

Những tài liệu sách vở viết về Nhất Linh sau 1963 không có là bao nhiêu. Những sách giáo khoa có tính cách trường ốc như của các giáo sư Lê Hữu Mục, Nguyễn Duy Diễn, Nguyễn Sỹ Tế vv.. không cho phép đào sâu, đi xa vào phạm vi nghiên cứu.

Trừ hai cuốn sách của giáo sư Phạm Thế Ngũ, giáo sư trường Pétrus Ký. Cuốn Việt Nam Văn học sử giản ước tân biên, đặc biệt tập 3 liên quan đến TLVĐ- Đây là một trong những cuốn biên khảo văn học có giá trị nhất của của miền Nam trước 1975. Ngoài ra, sau 1975, giáo sư Phạm Thế Ngũ còn viết cuốn: Tự Lực Văn Đoàn trong tiến trình văn học dân tộc in sau 1975. Những nhận định của giáo sư Phạm Thế Ngũ, xét về mặt văn học là đáng tin cậy.

Những cuốn sách của người trong gia đình như của bà Nguyễn Thị Thế, Nguyễn Tường Bách, Nguyễn Tường Thiết giúp biết được một số sự kiện có tính cách riêng tư của NL, nhưng không đủ. Ngoài ra cuốn được nhiều người nhắc nhở đến là cuốn: Chân Dung Nhất Linh của Nhật Thịnh. Tài liệu ít người được biết đến là cuốn sách của Thế Phong: Lược sử văn nghệ VN- Nhà Văn tiền chiến 19030-1945. Cuốn sách viết tản mạn, thiếu tập trung và ít nét đặc sắc. Tôi đặc biệt lưu ý đến cuốn sách của Thế Uyên: Những người đã qua, Hồi ký văn học về Nhất Linh, Thạch Lam, Hoàng Đạo (Văn Uyển xuất bản, 1968). Thế Uyên cũng viết một cuốn Chân dung Nhất Linh cùng với Nguyễn Mạnh Côn và một số người khá mà tôi xử dụng trong bài viết này. Sau này tập Những người đã qua được in lại trong Thế Kỷ 21, Cali 2004 và 2005 và Đất Đứng, Sacramento, Ca.

Về phía chính quyền trong nước hiện nay thì có Khúc Hà Linh với cuốn: Anh em Nguyễn Tường Tam- Nhất Linh- Ánh sáng và bóng tối. Tôi không được đọc.

Đặc biệt ở Hải ngoại, có một vài bài viết của Thụy Khuê viết về Thạch Lam và Nhất Linh. Những cố gắng của Thụy Khuê trong việc sưu tầm và nhận định là không chối cãi được. Phần lớn, tôi đồng ý với tác giả TK. Nhưng riêng phần phê bình cuốn truyện Bướm Trắng và truyện dài Giòng Sông Thanh Thủy cho thấy nhiều gượng ép.

Một nhà văn không kém quan trọng và cũng là người viết trong Tổng Quan Văn học- Võ Phiến- Ông đã dành một số trang”ưu đãi” không nhỏ để viết về Nhất Linh một cách khá sắc bén ..

Tờ Thế kỷ 21 ở Hải ngoại cũng làm một cố gắng được nhìn nhận như một công việc đáng hãnh diện cho cá nhân của anh PPM với cuốn: Nhất Linh, Người Nghệ sĩ- Người chiến sĩ của nhiều tác giả.

Cuốn sách đã hẳn thỏa mãn được nhiều người vốn yêu mến NL.

Nhưng nó lại không đáp ứng được lòng ham muốn tìm hiểu một số vấn đề cơ bản liên quan đến lịch sử văn học của Nhất Linh và TLVĐ mà những người như tôi mong đợi- Nói chung là những người không bằng lòng những thỏa hiệp dễ dãi chỉ chú trọng tới mặt tích cực, nhưng tránh đề cập đến mặt tiêu cực.

Trong cuốn sách ấy với thiện chí cá nhân sưu tầm phải nhận là có, nhưng vẫn còn những mặt thiếu sót sau đây mà người đọc mong mỏi được tiếp tục khai triển trong tương lai như:

- Cuốn sách không nói tới giai đoạn làm báo chí của tờ Phong Hóa và Ngày Nay. Nhất là những vấn đề tranh luận, dèm pha, bè phái, bôi nhọ các nhà văn ngoài nhóm. Giới trẻ hậu sinh sau nay không có cơ hội biết đến giai đoạn này. Ngay cả những thành phần học sinh các lớp đệ nhị thập niên 1960 nay trở thành lão ông lào bà nhiều người cũng không biết.

Đó là một thiệt thòi cần được nhìn lại và tăng bổ.

Học sinh miền Bắc giai đoạn 1954-1975 thì nhiều người không biết ngay cả cái tên Nhất Linh là ai nói chi đến những việc khác.

Việc cố ý thiếu sót đó trước sau gì cũng phải được trình bầy một cách công khai và công bằng. Việc trào phúng chế diễu này lại chính là cái làm nên danh tiếngTLVĐ, nhờ đó báo bán chạy nhất. Nhưng cũng trở thành một thứ scandal trong văn học mà sau này thiên hạ tránh nhắc tới. Tôi cũng không nhận thấy một “nhìn lại nào” của Nhất Linh trong vấn đề này. Ở đây, sự im lặng của NL và một số người cầm bút phải được diễn dịch đó là mặt tiêu cực của việc làm báo của NL. Ông có tự phê bình về các sách luận đề. Nhưng ông im lặng về mảng báo chí. Phần Thanh Lãng” hóa giải” ” gọi bằng một danh từ khá đẹp là 13 năm tranh luận văn học.

- Cuốn sách cũng không xác định vai trò và chỗ đứng của các nhà văn trong nhóm TLVĐ. Như giữa Thạch Lam, Khái Hưng và Nhất Linh, ai là nhà văn có uy tín, có giá trị văn học mà không kể đến thời tính nhất thời được ưa chuộng bởi xã hội. Nhìn lại cho đúng sẽ có vấn đề đảo lộn sắp xếp vị trí của ba nhà văn ấy. Chỉ nhắc nhở đến Nhất Linh đã là một điều thiếu công bằng đối với Khái Hưng và Thạch Lam. Đồng thời còn cần phải so sánh với các nhà văn tiền chiến cùng thời, định ra được chỗ mạnh, chỗ yếu, chỗ hơn, chỗ kém của từng người, của mỗi bên. Về mặt khuynh hướng hiện thực xã hội, khuynh hướng của các nhà văn ngoài nhóm như Nam Cao, Vũ Trọng Phụng cho thấy ngày nay giá trị nhân văn và xã hội của các nhà văn ấy được đánh giá cao như thế nào. Phải nhìn ra những “bất công” trong văn học để định vị cho công bằng.

- Cuốn sách cũng không định ra được được các mốc văn học với sự khác biệt và tiến bộ của chữ Quốc ngữ đi từ các giai đoạn Nam Phong-Phạm Quỳnh đến giai đoạn Nhất Linh-TLVĐ và giai đoạn sau 1954 với Sáng Tạo, Bách khoa, Đại Học, Quê Hương và mảng văn học miền Nam bản địa với Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc, Lê Xuyên vv.

Đây là một vấn đề quan trọng nhất mà bất cứ nhà phê bình văn học nào muốn đánh giá đúng mức TLVĐ đều cần đề cập tới. Không xác định đúng mức vai trò của Nam Phong. Không định vị được những bước đi văn học có tính khai phá và giới thiệu kiến thức, tư tưởng thế giới của NP. Không đánh giá đúng mức vai trò Nam Phong- Phạm Quỳnh như người mở đường cho sự lớn mạnh của chữ quốc ngữ. Không nhận chân được vai trò truyền đạt và phổ biến nhận thức trong một thời điểm nhất định- thì khó nói đến những bước tiến thay đổi thời TLVĐ. Chưa kể là chen vào giữa Nam Phong- Phạm Quỳnh và TLVĐ còn có những khuôn mặt lớn, độc lập trong văn học không theo một nhóm nào như Phan Khôi, Trương Tửu vv

- Về hoạt động chính trị của NTT thì cuốn sách càng tỏ ra thiếu sót hơn nữa. Những người như Trương Bảo Sơn chỉ có tầm nhìn giới hạn vào một vài hoạt cảnh chống đối rồi đi tù sau này ở miền Nam VN. Hầu như không biết gì đến sinh hoạt quan trọng nhất của đảng ở miền Bắc trước 1954. Phần này, chúng tôi xin được trình bày ở phần hai. Nhất Linh- Người chiến sĩ-,

- Việc ông NTT sau khi vụ đảo chánh 1960 thất bại, ông là lãnh tụ duy nhất một mình tìm đường thoát thân, lánh nạn vào tòa Đại sứ Trung Hoa Dân Quốc. Việc này đã gây rắc rối ngoại giao cho tòa đại sứ này. Và cũng là nguyên nhân NL không bị bắt giam , ngồi tù chờ toà xử như các vị liên can khác. Chẳng những cuốn sách kể trên mà còn phần đông những cuốn sách khác viết về NL không đá động đến việc này vì nó có thể làm mất uy tín lãnh tụ.

- Và nói làm chi đến những nghi vấn đặt ra trong lãnh vực y khoa và chính trị liên quan đến việc tự tử. Việc này đáng nhẽ nên mạnh dạn đề cập đến. Cần phải nêu ra tài liệu chứng cớ y học có sẵn, tài liệu pháp lý và nhất là bằng nhiều nhân chứng để nhận định công bằng với NL và với lịch sử. Ba thứ tài liệu đó cộng lại cho phép người ta có thể đi đến kết luận NL ở trong một trạng thái tinh thần trầm cảm nên mọi hành động của ông đều không thể được coi là của một người bình thường.

- Về những người cộng tác viết cuốn sách, tôi cũng thấy thiếu vắng một cách có ý nghĩa của hai nhà văn, đồng thời là cháu ruột của Nhất Linh. Đó là Duy Lam và Thế Uyên. Tôi có liên lạc với cả hai. Những nhận xét của Thế Uyên khá trung thực và thẳng thắn cần phải được nêu ra. Riêng Duy Lam thì theo tính hay nói thật, nói thẳng của anh giúp tôi biết được nhiều sự việc. Anh cũng là người chia sẻ cho nhan đề bài viết của tôi. Một chúc thư văn học- Một cái chết định trước.

Có thể Duy Lam và Thế Uyên là những người duy nhất vừa là người gần gũi NL- trong quan hệ bác- cháu- vừa là người cộng tác trong VHNN với tư cách người trong cuộc, vừa là đồng chí trong hoạt động chính trị. Nhưng nhiều lúc, tôi có cảm tưởng Duy Lam lại giữ được cái tư thế khách quan như thể người ngoài cuộc đứng ngoài nhìn vào.

Chẳng hạn, cách đánh giá nhà văn NL “tiền chiến” và “hậu chiến”. Vì thế, tôi nghĩ rằng những nhận xét của các anh về ông Bác của mình thật là quý giá.

Riêng về cái chết của ông NL, đối với người viết bài này thì không thể đơn giản chỉ căn cứ trên cái chúc thư 71 chữ của ông, giấy trắng mực đen là xong, không cần bàn cãi nữa. Mặc dù chúc thư mang tính cách ” thiêng liêng” thế nào đi nữa của một người quyết định quyên sinh. Nhưng trong chúc thư, rõ ràng ông mong muốn để lịch sử xử! Lịch sử là ai? Nếu không phải là chúng ta bây giờ sau nửa thế kỷ?

Trong lịch sử, thật hiếm có hai cái chết như trường hợp HT Quảng Đức và NL trong một mục tiêu vừa tôn giáo, vừa chính trị. Cái chết cao trọng của nhà tu hành có gửi chung một sứ điệp của nhà chính trị không? Cái chết của nhà tu hành là tối thượng, tối ưu, đầy lòng nhân ái, một chọn lựa không có chọn lựa khác.

Nhưng một nhà chính trị chọn lựa tự tử phải chăng vì không còn chọn lựa nào khác? Nhà chính trị có thể tranh đấu bằng nhiều cách: bằng ngòi bút- bằng tham gia đảng phái- bằng mưu đồ tổ chức đảo chánh, lật đổ để chiếm chính quyền- hoặc ám sát thủ tiêu? Trong suốt 9 năm đệ nhất cộng hòa, dường như ông Nguyễn Tường Tam không sử dụng những phương tiện tranh đấu dân chủ như báo chí, dư luận, nghị trường hoặc dùng ngòi bút để tranh đấu?

Cách sử dụng mà người ta được biết rõ là ông tham gia vào âm mưu lật đổ chính quyền. Khi thất bại thì dùng việc tự tử phải chăng là kế sách thích hợp cho một nhà tranh đấu, một lãnh tụ chính trị có bản lãnh?

Hay nó chỉ thể hiện một sự tuyệt vọng đi vào bước đường cùng của một con người .. Đây là điều mà bác sĩ Phan Quang Đán khi ở trong tù, nghe tin cái chết của Nhất Linh đã đặt ra câu hỏi: Tại sao lại phải chết như- thế?

Về mặt con người mà nói, nhất là đối với một số nhà văn, nghệ sĩ, việc tự tử không có chi là lạ và xảy ra khá nhiều. Ngay cả một lối sống bạt mạng, rượu chè, nghiện hút của một số nhà văn đã là hình thức gián tiếp tự tử dần một cách cố ý. ( Suicide instantanné et intentionnel)

Còn về mặt chính trị thuần túy, nếu có dịp nhìn lại việc đảo chính năm 1960 và tiếp theo 1/11/1963 nay người ta được biết đầy đủ là đều do Mỹ giật dây và đạo diễn. Can thiệp ít và gián tiếp ở thời điểm 1960. (Dương Văn Đông đã tiết lộ trong bài viết: Binh biến 11/11/1960 rằng: Trước khi binh biến xảy ra, George Alexander Carver. Jr đã liên lạc với Hoàng Cơ Thụy và khuyến khích phe đối lập đứng lên chống đối chính quyền). Can thiệp nhiều và lộ liễu, trực tiếp vào nằm 1963 thì tất cả những ai tham gia vào quá trình các cuộc lật đổ ấy đều chỉ là những “con cờ”, những” tay sai bản xứ”!!

Những hãnh diện vào tự hào cần hạn chế lắm nếu biết được những mưu đồ đằng sau các cuộc chính biến ấy. Nói huỵch toẹt như Nguyễn Ngọc Linh (cựu Tổng giám đốc Việt Tấn Xã) trong buổi Hội Nghị 35 năm sau nhìn lại, ngày 9/10/2010 tuyên bố:

“Theo tôi thì cuộc đảo chính (1963) này đã đánh dấu cái chết của miền Nam Việt Nam trong cuộc chiến chống lại kẻ xâm lăng miền Bắc”.

Cho nên tất cả những gì người ta gán cho cuộc đảo chánh ấy, tất cả những hành vi cá nhân hy sinh ngay cả mạng sống con người đều phải được đưa lên bàn cân để cân lại. Việc tự tử ấy nhân danh chính nghĩa tranh đấu cho quyền tự do con người, tự do tôn giáo còn sót lại được bao nhiêu phần trăm ý nghĩa cao cả của nó?

Để dễ dàng cho việc tìm hiểu cuộc đời và con người NL, người ta có thể chia cuộc đời ấy ra làm hai lãnh vực: Cuộc đời làm báo, viết tiểu thuyết với tư cách là một nhà văn với bút hiệu Nhất Linh. Nửa phần kia là Nguyễn Tường Tam, con người hoạt động chính trị mà chủ yếu là hoạt động đảng phái và kết thúc bằng việc uống thuốc độc quyên sinh để phản đối chế độ Ngô Đình Diệm.

Cuộc đời làm văn học và chính trị ấy cũng cần chia ra giai đoạn tiền chiến và hậu chiến.

Giai đoạn làm báo thời ” tiền chiến” của TLVĐ và Nhất Linh

Phần đông người ta cho rằng cuộc đời làm văn học với sự thành lập TLVĐ đầu năm 1933 là một thành công lớn của TLVĐ và của cá nhân người đứng đầu là Nhất Linh. Nó cắm mốc một giai đoạn văn học phủ nhận thời kỳ “văn học khệnh khạng” Phạm Quỳnh- Nguyễn Văn Vĩnh và mở ra một thời kỳ văn học với báo chí trào phúng và tiểu thuyết.

Sự nhìn nhận ấy nói chung là chính xác và đúng vào thời kỳ đó.

Trong một bài viết của người viết bài này nhan đề: Chỗ đứng của TLVĐ trong văn học Việt Nam, đăng trên báo Tân Văn số 9 tháng tư/2008. Người viết đã trích dẫn một bài báo của ông Nguyễn Vỹ nhắc lại kỷ niệm về tờ Phong Hóa, bộ mới số 11 như sau:

“Trẻ con ôm báo Phong Hóa số 1 đi bán rong, rao inh ỏi khắp phố phường, thiên hạ tò mò mua xem, bán báo chạy như tôm tươi. Lý do: báo Phong Hóa đăng giầy những bức vẽ, những mục khôi hài, chế giễu tập tục” Phong Hóa An nam”. Công chúng bình dân từ cô sen, cậu bồi đến lớp các học sinh nam nữ đến công tư chức đều rũ ra cười khi đọc những mẩu chuyện hóm hỉnh và nhìn những bức hình vẽ rất tức cười, chế nhạo nào là ông Lý Đình Dù ở nhà quê ra tỉnh .. Ông giáo sư Lê Công Đắc bị chế diễu là con gà ba chân. Ông luật sư Lê Thăng là con đĩ đánh bồng, tiến sĩ khoa học Nguyễn Công Tiễu chữa bệnh toi gà, ông Nguyễn Văn Vĩnh bụng bự, ông Nguyễn Văn Tố gọi là ông búi tó, ông Nguyễn Tiến Lãng gọi là con ve sầu..
Nguyễn Tường Tam đã thành công với tiếng cười kích động.. Báo Phong Hóa vượt lên một số lượng phát hành vô địch . Và ông cũng nổi tiếng từ đó” .(2)

(2) Trích báo Tân Văn, số 9/2008, Nguyễn Văn Lục.

Đó là sự thành công của một nhóm nhà văn cùng chí hướng trong việc hạ bệ thế hệ Nam Phong- thế hệ đàn anh- được coi là biểu tượng của thủ cựu, nghiêm chỉnh khệnh khạng. Đả phá Nam Phong thủ cựu thì còn hiểu được. Nhưng người ta sẽ không lý giải được tại sao cần đả phá tất cả các nhà văn uy tín ngoài nhóm?

Nhưng nhóm người ấy nếu tách riêng ra thì vị tất đã bằng ai, nhưng nếu cộng chung lại thì thật khó có nhóm văn học nào sánh bằng, cho dù sau 1954. Đó là thế mạnh nhất của nhóm TLVĐ.

Tú Mỡ đứng một mình chỉ làm được thơ diễu. Thơ Thế Lữ không thể so sánh với Tản Đà. Văn tùy bút của Thạch Lam còn ảnh hưởng nặng nề văn học Pháp không qua mặt được Nguyễn Tuân. Những bài biện luận khô khan của Hoàng Đạo có thể không ai đọc.

Trong khi đó, ngoài TLVĐ những nhà văn như Tô Hoài, Vũ Trọng Phụng, Trần Tiêu, Nam Cao, mỗi người một thế giới văn chương khó tìm thấy nơi TLVĐ.

Nhưng nếu nó cộng chung tất cả những nhà văn ấy lại thì như một tổng hợp hóa chất, nó tạo ra một khối nhà văn tiêu biểu nhất của một thời kỳ văn học. Thời kỳ TLVĐ. Nào là những chuyện ngắn đầy tính nghệ thuật của Thạch Lam. Chính các nhà văn trong TLVĐ đều xếp “chú sáu” là một trong những nhà văn sáng giá nhất của nhóm. Tính cách lãng mạn, nhưng hiện thực xã hội như Thoát Ly, Thừa Tự của Khái Hưng được coi như cây bút hàng đầu của TLVĐ ngay từ cuốn truyện đầu tiên là cuốn Hồn Bướm mơ tiên. Tính cách lý tưởng và tranh đấu đầy hứng khởi trong Đoạn Tuyệt ..Tất cả làm nên một cái toàn thể ..TLVĐ. Và giá trị hay nhất về truyện ngắn phải kể đến truyện ngắn: Anh phải sống, viết chung giữa Nhất Linh và Khái Hưng.

Và người ta phải nhìn nhận kể từ sau Nam Phong của Phạm Quỳnh, lần đầu tiên tiếng Việt mới thực sự trở thành thứ ngôn ngữ văn chương, ngôn ngữ của nghệ thuật.

Nó đúng như sự nhận xét của Tú Mỡ:

Ôi, TLVĐ nay đã thuộc về dĩ vãng. Nhiều anh em đã đã là người thiên cổ, chỉ còn sót lại ba chúng tôi. Tú Mỡ, Thế Lữ và Xuân Diệu. Anh em đã có những đóng góp đáng kể vào văn học Việt Nam, tạo cho đoàn một tiếng tăm vang dội một thời, một thành tích mà các văn đoàn khác ra đời sau không đạt được, một chân giá trị riêng trong một giai đoạn nhất định mà giới văn học ngày nay và ngày mai phải công nhận”(3)

(3) Trích Tú Mỡ bài: Trong bếp núc TLVĐ, trích lại trong Nhất Linh, nhiều tác giả, trang 109

Sự thành công ấy cũng được chính Nhất Linh nhìn nhận trong chúc thư văn học như sau:..
Những lúc ngoảnh về quá khứ, kiểm điểm việc mình đã làm, tôi thấy rõ ràng công việc tốt đẹp lâu bền và có ích nhất của đời tôi là sự thành lập Tự Lực Văn Đoàn và công việc sáng tác”.

Nhưng sự thành công ấy nay nhìn lại một phần do sự chế diễu, hạ bệ những nhà văn khác ngoài nhóm trên Phong Hóa và Ngày Nay.

Báo bán chạy nhiều người đọc. Đồng ý. Nhưng về đường dài, sự thành công phải căn cứ trên những tác phẩm thì TLVĐ cũng chỉ đạt được một nửa như sẽ có nhận xét sau này trong bài viết của tôi. Phải chăng tiêu biểu hai câu thơ diễu sau đây trở thành hai câu vè tiêu biểu của người đường phố:

Nước Nam có hai người tài
Thứ nhứt sừ Ĩnh, thứ hai sừ Uỳnh.

Sau này văn học sử cũng như chương trình việt văn tú tài 1 ở miền Nam sau 1954 chỉ nhắc tới Nhất Linh nhà văn với 20 tác phẩm mà điển hình là các tiểu thuyết Đoạn Tuyệt, Lạnh Lùng và Bướm Trắng vv.. mà quên còn một Nhất Linh làm báo.

Bài viết này muốn bổ túc thêm cái mặt bị bỏ quên cũng có thể là một góc tối của TLVĐ.
Trước TLVĐ, không khí làm báo là nghiêm chỉnh, là nghị luận, là phổ biến kiến thức phần lớn bằng dịch thuật. Đọc báo Nam Phong là một cách đi học “hàm thụ” để mở mang kiến thức chứ không phải để giải trí, để đùa.

Sự nghiêm chỉnh ấy sau này bị chế diễu là khệnh khạng mà thực ra nó chỉ thể hiện tính hàn lâm của Nam Phong.

Có thể nói Phạm Quỳnh làm báo chú trọng vào khai trí, mở mang kiến thức nên ông chú trong tới Dịch Thuật, Biên Khảo. TLVĐ chú trọng vào Sáng tác truyện ngắn, truyện dài.
Ông Nhất Linh làm báo với Hoàng Đạo, Khái Hưng ngay cả Thạch Lam và nhất là Thế Lữ, bút hiệu khác là Lê Ta đã đồng loạt có chủ trương phải ” bề hội đồng” các nhà văn ngoài nhóm và báo chí ngoài nhóm bằng trào phúng. Có nhiều mức độ trào phúng. Có mực độ có thể chấp nhận được và có mức độ trào phúng không thể chấp nhận được. Một số lớn sự trào phúng của nhóm TLVĐ vượt ranh giới được phép và không được phép. Cái không được phép khi nó xúc phạm đến nhân cách nhà văn và với một chủ đích hiểm độc.

Có nhiều mục như: “Từ cao đến thấp” nói về người. ” Từ nhỏ tới lớn” nói về việc . ” Bàn Ngang” nói ngược mà hiểu xuôi , Mục ” vui cười” , Mục “Những Hạt đậu dọn”, Mục các “Cuộc điểm báo” vv..

Nhiều nhà văn, nhà thơ ngoài nhóm TLVĐ như Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu cho đến những tên tuổi cựu trào, lớn nhỏ như Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Hy Tống, Nguyễn Trọng Thuật, Nguyễn Công Hoan, Tam Lang, Trương Tửu, Nguyễn văn Tố, Dương Bá Trạc, Lê Văn Phúc, Phan Trần Chúc, Lãng Nhân Phùng Tất Đắc , Tchya Đái Đức Tuấn trở thành mục tiêu chế diễu nằm trong tầm bắn của TLVĐ.vv…

Từ năm 1935-1945, theo Vũ Ngọc Phan có một nhóm đội lốt phê bình, điểm sách để bôi nhọ đời tư, cả đến vợ con người có sách với những nhan đề: ” Qua hàng sách” “Dạo qua hàng sách”, ” Đó đây”, ” Trước đèn” . Người ta thường đề cao một quyển sách hay dìm một quyển sách vì lợi ích riêng. Trong đó TLVĐ vừa là nạn nhân vừa là kẻ trong cuộc.

Vũ Ngọc Phan kết luận:

Thời gian 1935-1945, có một nhóm đội lốt phê bình văn học ở nhà xuất bản Hàn Thuyên. Do cạnh tranh với nhà xuất bản Đời Nay. Họ đăng bài báo để dìm TLVĐ xuống đất đen..(..)Ngoài ra cũng phải kể đến một số bài điểm sách hết sức thiên vị và bè phái của Lê Ta và Thượng Sĩ đăng trên các báo Phong Hóa, Ngày Nay, Việt báo, Tiểu thuyết thứ năm, Hà nội báo”.(4)

(4) Trích Những năm tháng ấy, Vũ Ngọc Phan, trang 233

Nhà văn Tchya đã bị nhóm TLVĐ chế diễu qua ngòi bút của Thế Lữ, tức Lê ta như sau:
“Ông Tchya- cái tên khó đọc ghê- Ông Tchya có lúc chẳng cười cợt tý nào cả. Ông ta có lúc tự nhận : “Tôi một tiểu thuyết gia tầm thường”. Câu này thì ông ấy không nói đùa. Ông ấy chỉ nói khoác”. (4)

(4) Trích 13 năm tranh luận văn học tập 3, Thanh Lãng, trang 299

Vậy mà sau 1954 vào miền Nam, ông Tchya là một trong những cây bút viết phiếm rất đạt với bút hiệu Mai Nguyệt cùng với những cây bút tên tuổi khác quy tụ chung quanh tờ báo Tự Do của Phạm Việt Tuyền như Hà Thượng Nhân, Tam Lang, Hiếu Chân, Vũ Bình, Như Phong và Bùi Xuân Uyên.

Và hầu như TLVĐ khai chiến với hầu hết các tờ báo bằng tiếng Việt và tiếng Pháp lúc bấy giờ. Hoàng Đạo trong một bài viết nhan đề: Ngày nay khai chiến với hết thảy các báo ở Đông Pháp. Tôi đếm cả thảy có 67 tờ báo bị hài tên ra. Có những tờ báo chuyên biệt như Y Khoa tạp chí, Nông Công Thương Việt Báo, Thương mại, Tiến hành công giáo, Khoa học phổ thông, Đuốc Tuệ, Khoa Học vv. không hiểu vì lý do gì cũng nằm trong danh sách bị lên giàn phóng của tờ Ngày Nay.

Thanh Lãng trong 13 năm tranh luận Văn học, tập III đã dành cả chương Năm, từ trang 263 đến trang 623 ghi lại những bài tranh luận mà một số lớn bài chỉ là những bài báo “chửi bới” nặng nhẹ tùy trường hợp. Tôi ” đếm dối” cũng có đến 41 bài TLVĐ đả kích các báo khác.

Chẳng hạn một bài viết được coi là đả kích nặng nhất, tiêu biểu nhất là bài: Báo Tân Việt Nam và thái độ hèn nhát của Phan Trần Chúc, Nguyễn Tường Lân. (5)

(5) Bài viết của Nguyễn Tường Lân đăng trong Ngày Nay, số 212, ngày 15-61940, tr 6. trích lại trong 13 năm tranh luận văn Học, tập III, Thanh Lãng, trang 472

Trong bấy nhiêu nhà văn, có một vài người may mắn lắm thoát hiểm vì được nhà văn Thạch Lam khen ngợi. Đó là trường hợp nhà văn Nguyễn Tuân, tác giả Vang Bóng Một Thời. Và người thứ hai là Tản Đà tương đối được TLVĐ đối xử nhẹ tay.

Sau này giáo sư Nguyễn Duy Duy Diễn đã nhận xét về TLVĐ trong cuốn : Tự Lực Văn Đoàn của ông như sau:

“Điều mà ai cũng phải công nhận trong khi đọc báo “Phong Hóa” và “Ngày Nay” là nhóm ” Tự Lực Văn Đoàn ” có một tinh thần “bè cánh” rất hẹp hòi. Rất ít khi TLVĐ khen những tác phẩm của các nhà văn ngoài nhóm mình (trừ trường hợp cuốn Vang Bóng Một Thời của Nguyễn Tuân thì không kể) Những bài phê bình của TLVĐ đối vớinhững sách báo bên ngoài nhóm mình, vì vậy thường chỉ là những bài bông đùa tàn ác có tính cách dìm người. “(6)

(6) Trích Chân dung Nhất Linh, Nhật Thịnh, trang 132-133

Nhận xét của giáo sư Nguyễn Duy Diễn được coi là phản ánh trung thực cung cách làm báo của nhóm TLVĐ: Chủ trương bán báo chạy và dìm người.

Và nạn nhân tiêu biểu nhất là nhà văn Vũ Trọng Phụng.

Người trực tiếp “đánh” Vũ Trọng Phụng không ai khác là Nhất Linh với bút hiệu Nhất Chi Mai.

Có thể cay đắng nói rằng VTP lận đận với giấy bút lầm than. Lúc sống bị đánh tơi bời hoa lá. Bệnh tật không có thuốc. Đói không có cái ăn. Lúc chết nghèo kiết xác không đủ ván chôn. Còn cánh TLVĐ thì giấy bút làm nên ông nên bà. Bao nhiêu tiếng thơm lẫn tiền bạc, danh giá lãnh đủ.

Trong Nam, sau 1955, hầu như không có bài phê bình chính thức nào “bênh” VTP . Tiếng nói của TLVĐ qua NL mặc dù sau này không đả động gì đến VTP vẫn có tính cách “ông Trùm” trong giới làm văn học. Tính cách bất công ấy vẫn kéo dài trong nhiều năm sau này. Giới học sinh trong chương trình học Việt văn chỉ biết đến Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thế Lữ .

Một lẽ dễ hiểu, VTP đã chết sớm ở tuổi đời 27. Kẻ không có mặt phải chăng là kẻ thua cuộc?
Với chỉ 6 năm trời vỏn vẹn, một nhà văn cho ra đời 17 tác phẩm sáng giá. Mấy ai làm hơn ông được? Vậy mà cuộc đời bị đầy đọa bất công như thế !! Ai trong số nhà văn tiền chiến đưa ông ra nghĩa địa?

Sau này, trong tinh thần đòi lại công đạo cho những nhà văn như Vũ Trọng Phụng được coi là bị thiệt thòi nhiều nhất, ông Phạm Lễ đã viết một cuốn sách với nhan đề: Trả lại chỗ đứng cho Vũ Trọng Phụng, trong nền văn học Việt Nam thời tiền chiến.

Peter Zinoman- lại phải nhờ đến người ngoài- một chuyên viên nghiên cứu về Vũ Trọng Phụng, giảng viên đại học Berkeley đã sưu tập được khoảng hai chục tài liệu quý giá của VTP tại thư viện Quốc Gia Paris trước 1945 và nay được in thành một tuyển tập có nhan đề:”Vẽ nhọ bôi hề” trong đó có một số bài đả kích TLVĐ. Peter Zinoman cũng đã không ngần ngại gọi VTP là Balzac của Việt Nam. Vấn đề là người VN gọi ông là gì?

Truyện Số Đỏ là một bản cáo trạng phê phán gián tiếp TLVĐ mà những nhân vật như Týp-phơ-nơ là phiên bản của họa sĩ Cát Tường, ông Văn Minh đóng vai nhà cải cách là ám chỉ Nhất Linh? Và đi xa hơn nữa dưới mắt VTP thì những chủ trương đổi mới của Phong Hóa chỉ nhằm mục đích thương mại? Nói chung ái gì TLVĐ làm thì gián tiếp VTP dùng tiểu thuyết để trả đũa lại.

VTP còn “đáp lễ” báo Ngày Nay bằng một bài bút chiến: “Dâm hay không dâm”!!

Phần các nhân vật của VTP đã bước ra khỏi sách và người ta thấy nhan nhản họ đi ngoài đời..Đó là cái thành công củaVTP. Có ai đẵ bắt gặp Loan-Dũng ngồi ở Givral chưa? Hay gặp cô Mùi đang lúi húi trong một bụi cây hay vườn Bách Thảo ở Sài Gòn chưa?

Ngoài Bắc sau 1954, khá hơ, đã dành một chỗ ngồi xứng đáng cho VTP, vì trên tờ Nhân Văn số 3 có bài viết: Thờ ơ với Vũ Trọng Phụng là một khuyến điểm lớn.

Nói chung tinh thần của TLVĐ thì cùng nhóm thì được khen, khác nhóm thì bị chửi và bôi đen. Tôi có ý tưởng ngộ nghĩnh là so sánh những cây viết sau 1955 như Thương Sinh, Kha Trấn Ác, Chu Tử, Hiếu Chân, Hà Thượng Nhân, Vip KK, ký giả Lô Răng, Sức Mấy, Kiều Phong, Dê Húc Càn, Hư Trúc Nguyên Sa xem ra họ còn thua TLVĐ một bậc.

Thua có nghĩa là họ hơn nhóm TLVĐ ở mức độ Nhân Bản, còn có cái tình con người, tình nhà văn với nhau.

Ở đâu trong xã hội cũng cần có luật chơi, một thứ “luật giang hồ” ngay cả thành phần du đãng. Phải chăng giữa nhà văn với nhau cũng cần có một thứ đức lý của nhà văn?
Hòn đất ném đi thì hòn chì ném lại. Những nhà văn đáp trả TLVĐ có Nguyễn Công Hoan, Lê Tràng Kiều, Lãng Nhân Phùng Tất Đắc, Vũ Trọng Phụng, Ích Hữu, Hải Triều, Hồ Xanh, Bùi Công Trừng.

Lời chế diễu, đả kích ném đi có thể còn nhẹ nhàng. Nhưng hòn chì ném lại thì nặng nề và đôi khi hằn học hơn nhiều. Nhưng phải chăng đấy chính là cái “thành công” của TLVĐ?

Có những bài báo với nhan đề: Giọng hèn nhát của báo Phong Hóa, Cái tranh ấy cũng buồn cười thật, nhưng hơi “mất dạy” một chút ..

Nhưng nói cho cùng những nhà văn bị nhóm TLVĐ đả kích thì không phảI vì thế mà họ “nhỏ đi”, chẳng những thế họ càng được “lớn lên” về tầm vóc văn học như Nam Cao, như Vũ Trong Phụng và cũng một lẽ ngược lại không phải vì thế mà TLVĐ được nhìn nhận ” lớn hơn”.

TLVĐ đã chẳng làm được điều mà họ muốn làm là hạ người khác xuống để nâng họ lên và cũng chẳng vì thế mà họ được chấp nhận như ta thấy sau này.

Lớn hay nhỏ, được chấp nhận hay không được chấp nhận tùy vào người đọc và chính tác phẩm được in ra.

Đây là điều rất quan trọng đối với văn học.

Tác phẩm lớn thì nhà văn lớn. Không ai dìm, kiểm duyệt, “bỏ tù” một tác phẩm bắt nó nhỏ được. Những xa xôi như Nguyễn Du- Dù cụ Nghè Ngô Đức Kế có lên án là dâm thư- nó vẫn lớn. Những Trần Dần, mặc dù cả đời bị đọa đầy. Và chỉ cần một bài thơ Nhất định Thắng là đủ. Trong bài thơ ấy lại chỉ cần 5,6 câu.

Trong một cuốn sách mới nhất của Thụy Khuê, cuốn Nhân Văn Giai Phẩm, bà tiết lộ cho biết : Sau 40 năm, tác phẩm của Trần Dần 2/3 bị tiêu tán mục nát, 1/3 còn lại bị kết án chung thân trong trạng thái nằm …(..) Tác phẩm chịu chung số phận với người: gần 30 tập thơ, 3 cuốn tiểu thuyết, và không biết bao nhiêu bản thảo đã bị mối mọt|”.(7)

(7) Trích Thụy Khuê, Nhân Văn Giai Phẩm, trang 238

Sự trùy dập đến thế là cùng kéo dài trong nhiều năm, nhưng cái lớn của Trần Dần vẫn không ai làm nó bé đi được.

Trong một tranh vẽ khôi hài đăng trên Nhân Văn, số 2, ký tên SN như sau. Vẽ Hoài Thanh đeo kính, tay phải túm áo ngực Trần Dần, tay trái cầm cuốn sách đề tên Hồ Phong(8) giấu sau lưng. Trần Dần tay cầm cuốn: Người người, lớp lớp.

(8) ghi chú của NVL . Hồ Phong từng phê bình đảng cộng sản Trung Quốc mà Trần Dần trong thời gian ở TQ bị coi là ảnh hưởng tư tưởng của Hồ Phong.

- Hoài Thanh: Làng nước ơi, đích thị Hồ Phong đây rồi.

- Trần Dần thưa: Thưa đồng chí vụ trưởng, quả thực tên tôi là Trần Dần, nếu không tin xem lại giấy khai sinh”..

Có phải vì sự trù dập của Hoài Thanh mà Trần Dần nhỏ đi đâu?

Thế cho nên lịch sử đôi khi cũng thật là công bằng đôi khi có thể sửa đổi những sai lầm lầm của quá khứ !!

Những Trần Đức Thảo phải “ngọng miệng” gọi Thằng Bờm là ” Cậu Bờm” nếu còn sống trên xứ người thì chỗ ngồi của ông sẽ ở bên cạnh những nhà Hiện tượng học như Husserl, như Merleau Ponty. Và nếu ông chọn vào miền Nam thay vì miền Bắc thì ông sẽ là ngôi sao Bắc đẩu trên nền trời triết học. Nhưng có phải vì thế mà ông nhỏ đâu. Ngay cả Khái Hưng và Nhất Linh dưới cái nhìn của tôi thì truyện ngắn Anh phải sống là đắt gíá nhất mặc dầu ít ai để ý tới.

Thế cho nên cuộc tranh chấp giữa TLVĐ và các nhà văn ngoài nhóm cuối cùng rất là tầm thường. Nó chẳng khác gì cảnh “kẹt xe”. Cái Pleiade TLVĐ (Họ tự cho mình giống như nhóm văn chương Pleiade ở bên Tây, tự nhận là những ngôi sao bắc đẩu trong văn học). Nhìn lại thì TLVĐ giống như cảnh những xe tải đứng chật đường không cho các xe nhỏ tiến lên được.
Sự hiện diện của các nhà văn trong chiếu văn học đã bị TLVĐ biến thành cảnh “dành chỗ”. Sự tranh dành chỗ ấy sau này chính TLVĐ bị trả giá khi nhóm Sáng Tạo ra đời năm 1956 “phủ nhận” Tiền chiến mà chủ đích nhắm vào TLVĐ ..

Chắc là còn nhiều việc phải làm, để khôi phục lại một giai đoạn văn học mà một số nhà văn bị đánh giá thấp, bị trù dập một cách oan uổng. Sau này, Hà Nội đã bắt đầu “rộng lượng” cho in lại cuốn truyện đầu tay Gió Đầu Mùa của Thạch Lam, nxb Văn Học, 1982. Và nay hẳn nhiều cuốn truyện khác của TLVĐ đã có mặt. Cũng một cách thức như thế, cần nhiều nỗ lực để phục hoạt cho các nhà văn trong nhóm TLVĐ và tất cả các nhà văn, nhà thơ của miền Nam trên dưới 200 người sau 1975 đã bị chính quyền cộng sản “Xóa sổ”.

Cùng lắm TLVĐ chỉ muốn dành chỗ của các nhà văn khác, còn cộng sản thì muốn các nhà văn miền Nam sau 1975 phải biến mất.

Hiện nay, chuyện của VTP được chuyển dịch sang tiếng Mỹ và được đánh giá cao trên văn đàn thế giới.

(Còn nữa)

© Nguyễn Văn Lục

© Đàn Chim Việt

22 Phản hồi cho “Nhất Linh nhà văn và Nguyễn Tường Tam nhà chính trị[1]”

  1. Dao Cong Khai says:

    Tôi là dân, tôi đã đọc nhiều sách vở và họ ca ngợi cả 3 trường hợp tự tử đó và coi những người đó là vĩ nhân của đất nước. Nhưng tôi thấy trong 3 trường hợp you vừa kể trên, tôi chỉ thấy cái chết tự sát của Trung Tá Long là có ý nghĩa nhất. Lý do là vì ông ta phục vụ cho một chế độ tự do dân chủ và chiến đấu để bảo vệ tự do hạnh phúc của nhân dân miền Nam, ông ta phải tự tử vì đúng là ông ta phải đối diện với đường cùng. Ông ta biết nếu VC nó đến thì ông ta cũng sẽ bị giết, hoặc ít nhất ông ta sẽ phải sống tủi nhục, nịnh bợ và nô lệ cho VC để tiếp tục sống còn. Cứ hỏi những sĩ quan VNCH trốn cải tạo và đi cải tạo trong tù VC thì you sẽ biết.

    Trường hợp ông Phan Thanh Giản thì xứng đáng hơn Nhất Linh, nhưng Phan Thanh Giản thiệt thòi hơn Nhất Linh là ở chỗ ông ta bị xuất thân trong chế độ phong kiến VN, mà nói trắng ra thì chính chế độ phong kiến đó cũng còn tàn ác với dân VN hơn cả thực dân Pháp. Phan Thanh Giản tự tử là vì ông ta thấy nhục khi phải đi sứ sang Pháp xin chuộc 3 tỉnh Nam Kỳ cho triều đình Huế bị thất bại. Từ sự nhục nhã phát xuất từ lòng yêu nước nên ông ta tự tử. Trong khi Trung Tá Long tự tử vì yêu nước và vì không thể sống chung với VC.. Còn cái nhục của Phan Thanh Giản gây ra do triều đình Huế. Phải nói rằng trước khi ông ta đi sang Pháp làm chuyện đó thì đã cảm thấy nhục rồi. Triều đình Huế hủ lậu, phong kiến và bế quan toả cảng, không biết ngoại giao tốt đẹp với Pháp; bách hại người công giáo nên dẫn đến mất nước. Trong giai đoạn đó chỉ có hành động của nhóm Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh và Nguyễn Thái Học là xứng đáng cho hậu thế noi gương nhất. Những hành động ái quốc khác hầu hết đều quá lỗi thời. (Chế độ phong kiến VN hồi đó chiến đấu không phải để bảo vệ cho dân mà để bảo vệ cho hoàng tộc và vị trí cai trị, bóc lột dân của giai cấp nho sĩ lỗi thời).

    Về Nhất Linh thì lịch sử đã phê phán ông ta rồi đó. “phê phán” bằng sự thắc mắc và im lặng không ý kiến để tìm hiểu những bí ẩn thêm chung quanh vụ tự tử đó. Nhưng có gì hơn ngoài những sự cổ võ ca ngợi và tuyên truyền của những người trong đảng VNQDĐ của ông ta. Lịch sử VNCH sau năm 63 đã nói lên thành quả của Nhất Linh trong việc chống “chế độ độc tài”, đó là thành quả của một chế độ quân phiệt và được lèo lái từ Washington. Tôi thấy chế độ TT Diệm không độc tài với dân hay PG, nhưng có độc tài với mấy ông đảng phái loại như Nhất Linh. Và tôi cũng thấy TT Diệm đã hành động đúng khi ông ta chọn dân để phục vụ chứ không chia quyền cho mấy ông đảng phái chuyên môn có đầu óc tranh giành ganh tị như họ đã phô bày sau khi TT Diệm và chế độ Đệ I Cộng Hoà bị họ lật đổ. Họ là những người QG chuyên chia rẽ và tranh giành quyền lợi, không còn xứng đáng là đàn em của anh hùng Nguyễn Thái Học trước kia nữa.

    Trước khi Việt Minh chiếm được miền Bắc, mấy ông đảng phái quốc gia đó có uy tín với dân hơn là Hồ Chí Minh, nhưng chỉ tại họ chia rẽ chống phá lẫn nhau nên họ đã bị Việt Minh đánh đuổi họ phải chạy sang Tàu, và Việt Minh giành mất uy tín của QG trong nhiều nông thôn ở VN (gây khó khăn cho VNCH sau này, đọc hồi ký Nguyễn Tường Bách, em ruột của Nhất Linh sẽ thấy họ bị thua VM và chạy sang Tàu nhục nhã như thế nào). TT Diệm có trách nhiệm với dân miền Nam nên ông ta phải làm mọi cách để cản trở ý đồ tham quyền và gây xáo trộn QG của mấy ông đảng phái đó. Những gì mà đảng phái của Nhất Linh đã làm ở VN (và cả hải ngoại) từ sau năm 63 cho tới ngày nay, có bảo đảm được họ sẽ giúp VNCH tốt đẹp hơn nếu TT Diệm đồng ý chia cho họ những chức bộ trưởng, tỉnh trưởng thời Đệ Nhất Cộng Hoà không? Đảng Đại Việt còn đòi TT Diệm giao miền Trung cho họ toàn quyền cai trị; vì không được nên họ lập chiến khu Ba Lòng ở Quảng Ngãi chống TT Diệm, sau 63 họ về SG bỏ chiến khu lại cho VC chiếm, thử hỏi quý vị điều đó có chính đáng không? Tới năm 1966, PG ngoài đó cũng ủng hộ Nguyễn Chánh Thi tách vùng I miền Trung ra khỏi VNCH để tự trị. Người QG với nhau mà còn chia rẽ như vậy thì làm sao ông Diệm dám tản quyền cho bọn phản dân hại nước và làm lợi cho CS như thế? Ông Diệm có trách nhiệm chịu 2 chữ độc tài đó đối với đám đảng phái, nhưng ông ta phải hy sinh điều đó để hoàn thành trách nhiệm chính đáng hơn là bảo vệ người dân và chính nghĩa QG.

    Ai cũng thích cách chống cộng “độc tài” tương tự như thế của ông Kỳ đối với những kẻ núp sau lưng tôn giáo để phá hoại an ninh đất nước hồi năm 1966, chỉ có người Mỹ họ không thích mà thôi. Và ông Kỳ cũng bị loại vì muốn Bắc Tiến, vì dám hành động thẳng tay như thế nên người Mỹ không ủng hộ ông ta nữa.

    Tôi, hầu hết người dân không tin mấy ông đảng phái có khả năng ổn định được an ninh của VNCH như thời TT Diệm. Do đó cái chết của Nhất Linh là vô nghĩa. Ai dám nói trong đám tang rất lớn của Nhất Linh, biến thành một cuộc biểu tình chống TT Diệm mà trong đó không có cán bộ VC trong đó? Họ lật đổ TT Diệm để tiêu diệt hệ thống an ninh công an miền Trung rất hữu hiệu của Ngô Đình Cẩn; và đưa 2 người điều hành hệ thống đó là Ngô Đình Cẩn và Phan Quang Đông ra xử tử năm 63 ở khám Chí Hoà. Trong khi đó, họ thả tất cả VC trong tù ở Huế và miền trung nói chung ra cho chúng phá hoại an ninh VNCH. Và chính vì thế nên Đệ Nhị Cộng Hoà không bao giờ có an ninh trong thành phố như thời TT Diệm. VC được thả ra tụi nó trà trộn đầy trong Huế rồi thì làm sao mà yên ổn được? Cuộc đấu tranh của Nhất Linh chống TT Diệm, dẫn tới hậu quả sau 63 là giải tán công an miền Trung của VNCH và thả hết VC ra. Thử hỏi điều đó là công hay tội?

    • ĐẠI NGÀN says:

      LUẬN SỬ

      Hoàng Diệu, Nguyễn Tri Phương, Phan Thanh Giản … là ba trong những nhân vật lịch sử được biết đến như những người tuẩn tiết vì dân, vì nước. Đó là những tấm gương bất tử muôn đời không bất kỳ lý do nào có thể chê trách được. Việt Nam lúc đó có vua triều Nguyễn, do dầu tình hình xã hội thế nào chăng nữa, đang bị thực dân Pháp đe dọa chăng nữa, vua Nguyễn vẫn là hình ảnh của quốc gia, biểu tượng cho đất nước, linh hồn của dân tộc, chết vì vua theo quan điểm lúc đó là hoàn toàn hữu lý. Sau năm 1954, Việt Nam bị chia cắt làm hai. Miền Bắc là chế độ CS, miền Nam là chế độ không CS. Nguyên tắc của miền Bắc là chủ nghĩa quốc tế vô sản, chỉ có ý nghĩa chính là đấu tranh giai cấp, quốc tế cũng như quốc nội, không có tính cách quốc gia, ái quốc, dân tộc bị coi là quan điểm tư sản hay dân tộc hẹp hòi. Miền Bắc tuyên truyền miền Nam là Mỹ Diệm. Miền Nam ngược lại cho miền Bắc là tam vô. Miền Bắc chưởi rủa ông Ngô Dình Diệm là tay sai Mỹ. Miền Nam chưởi ông Hồ Chí Minh là tay sai Nga Tàu. Miền Bắc không công nhận các đảng phái miền Nam vì họ đều ghép chung vào các đảng phái tư sản. Miền Nam nhiều lắm là độc tài cá nhân của ông Diệm và những người thân cận ông Diện. Miền Bắc theo kiểu độc tài ý thức hệ, nguyên cả hệ thống xã hội, không còn các đảng phái khác ngoài đảng CS. Do đó miền Bắc không có hiện trạng chính trị chao đảo như trong miền Nam. Ở đây dân ngu bị tuyên truyền của hai bên thì không nói. Nhưng dân hiểu biết, trí thức, thì chỉ có ở miền Nam là có được tiếng nói theo cách này hay cách khác. Miền Bắc trái lại không thể có tiếng nói gì khác tiếng nói của nhà nước. Đó là trường hợp của vụ án Nhân Văn mà ai cũng rõ. Ở miền Nam trừ trường hợp của một số ít hay nhiều trí thức nói và nghĩ theo giọng điệu miền Bắc, thì ở miền Bắc không hề có hiện tượng mang tính cách quái dị đó. Trong bối cảnh như thế, Nhất Linh là người đầu tiên ở miền Nam thể hiện tinh thần chống ông Diệm công khai bằng chính trị theo cách không phải của miền Bắc. Còn mọi cán bộ CS hay của miền Bắc chống ông Diệm theo kiểu không phải của Nhất Linh thì chẳng có ý nghĩa gì đáng nói. Như vậy có nghĩa Nhất Linh đã độc lập tự tách mình ra khỏi bối cảnh chung đối đầu Bắc Nam giữa ông Hồ Chí Minh và ông Ngô Đình Diệm. Quan điểm chính trị của Nhất Linh có thể là quan điểm của Quốc dân đảng mà ông theo đuổi lúc đó. Nhưng về sau, các phong trào chống ông Diệm ở miền Nam hoặc là có màu sắc tôn giáo, hoặc là có màu sắc ủng hộ ông Hồ thì chẳng có gì đặc sắc để được bàn cãi cả. Vậy cái chính đáng hay không chính đáng của Nhất Linh khi chống ông Diệm quả thật cũng rất khó phân tích cho chính xác. Đương nhiên Nhất Linh không ủng hộ ông Hồ như những người khunh tả hay các cán bộ CS. Nhưng khi Nhất Linh chống ông Diệm cũng có nghĩa là làm lợi cho ông Hồ. Vậy thì Nhất Linh vì cá nhân hay vì đại cục, đó là điều đáng nói nhất. Có nghĩa Nhất Linh nghĩ rằng mình chống ông Diệm là để tạo điều kiện chống ông Hồ tốt hơn. Không bao giờ có ý nghĩa Nhất Linh chống ông Diệm vì ông Hồ như Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh Tấn Phát, Trương Như Tảng v.v… cả. Có nghĩa phải chăng Nhất Linh quá tự cao, quá tự tin, nghĩ rằng mình hơn ông Diệm, nên giải pháp loại Diệm để loại Hồ trở nên như một điều mạo hiểm, ngông cuồng, phiêu lưu, hay bốc đồng thiếu suy xét, của chính bản thân và các đồng đội, đồng chí của Nhất Linh chăng ? Đó chính là tình trạng phân tán ý thức dân tộc, ý thức quốc gia, nếu không nói là sự phá sản, sự suy thoái của các ý thức đó, kể cả ý thức tôn quân chính đáng hay không chính đáng của nhân dân Việt Nam trong suốt thời kỳ dài 40 năm qua hai cuộc chiến tranh đầy phức tạp mọi chiều kích từ 1945 đến 1975 mà mọi người trong nước cũng như khắp nơi trên thế giới đều biết, chỉ trừ ra những loài quần chúng ù ù cạc cạc hoàn toàn bị động hoặc nạn nhân của mọi tình huống, hay những loại cán bộ chỉ thuần túy tuân hành mà không hề có chút chính kiến riêng và ai ai cũng rõ.

      Non Ngàn Võ Hưng Thanh
      (04/3/12)

      • Dao Cong Khai says:

        Tôi hoàn toàn đồng ý với you. Thời VNCH thì tôi còn nhỏ, là học sinh thôi, nhưng vì thanh niên chúng tôi phải đối diện với chiến tranh và với thời sự chính trị nên cũng rất quan tâm đến chính trị hồi đó. Tôi không đối diện với xã hội thời TT Diệm chỉ biết qua gia đình và sách vở cùng những người thầy dạy của tôi họ luyến tiếc thời Đệ I Cộng Hoà thôi; họ cũng là phật tử, nhưng tôi thấy họ có cái tâm với đất nước và trung thực với học sinh, họ luyến tiếc TT Diệm. Khác hẳn với báo chí Mỹ, Tây Phương và sách báo của VNCH thời mấy ông “Cách Mạng” 63 vừa lên. Tôi còn nhớ cả 1 phong trào chống TT Diệm cực độ vẫn lan rộng sau 63, tiêu diệt hệ thống công an VNCH miền Trung, tấn công đốt phá cả những xứ đạo công giáo (ở Quảng Ngãi), đốt phá toà báo Xây Dựng và bao vây tấn công trường Nguyễn Bá Tòng (nay là trường Bùi Thị Xuân) hồi đó của Công Giáo. Cả một làn không khí sợ hãi của dân công giáo đối với chính quyền “Cách Mạng”. Từ chỗ đó họ lặng lẽ tổ chức lực lượng chuẩn bị chiến đấu (vì sắp sửa có chiến tranh tôn giáo), dân công giáo Hố Nai mang gậy gộc, dao búa kéo vào SG biểu dương lực lượng, giải vây cho trường Nguyễn Bá Tòng, cho tới thời ông Kỳ lên mới hết. Ông Kỳ và ông Hương cũng là phật tử nhưng người công giáo ủng hộ họ là vì họ thực sự là người chống cộng. Còn đám sinh viên chống TT Diệm thời Nhất Linh thì họ chống hết cả 2 ông đó và chống hết mọi nhân vật QG chống cộng (tôi nói sinh viên ám chỉ mấy phong trào được thành lập để chống TT Diệm chứ không ám chỉ tất cả SV tham gia biểu tình chống TT Diệm). Sau 75, mấy phong trào đó đã lòi mặt chuột, toàn là VC thứ thiệt.

        Thời VNCH tôi cũng có tư tưởng ghét Đệ II Cộng Hoà giống như Nhất Linh chống TT Diệm vậy, nhưng vì còn nhỏ nên chưa có hành động gì thôi. Có thể lớn hơn tôi nghĩ khác, vì lúc đó tôi cũng ghét VNCH tham nhũng và theo Mỹ nên giảm sút đối kháng và tăng gia tư tưởng thân cộng hơn. Đó là sai lầm của tuổi trẻ VN, giới sinh viên học sinh như thôi, vì thế họ theo Nhất Linh và biến đám tang của Nhất Linh thành cuộc biểu tình lớn ở SG gây khó khăn về an ninh và chính trị cho VNCH. Tôi đỡ hơn Nhất Linh là vì tôi là đứa con nít và mới chỉ có tư tưởng chứ chưa gây hành động phương hại đến quốc gia dân tộc. Nhưng sau 75, gặp những đứa học sinh trong lớp nó ra mặt vỗ ngực nó là CS nằm vùng, huyên hoang chửi chế độ cũ và làm những chức vụ trong hội Liên Hiệp Thanh Niên ở trường thì tôi bắt đầu đặt lại con người chính trị của Nhất Linh. Ông ta dù sao lúc đó cũng đã có tên tuổi trong nền văn học VN rồi, đã lão thành trong chính trị rồi, tôi tin ông ta có chí khí và lý tưởng nhưng hành động sai lầm của ông ta (có thể chỉ vì đảng phái) đã kéo theo hàng triệu sinh viên học sinh chúng tôi vào con đường đối nghịch với chính quyền, tay sai cho VC và phá hoại an ninh QG, bắn sau lưng chiến sĩ, mở đường cho VC nhuộm đỏ VNCH.

        Vấn đề là Nhất Linh có ý thức rằng đảng phái ông ta làm lợi cho CS hay không? QG dân tộc là quan trọng hay đảng phái là quan trọng. Bởi vì ông là nhà văn lớn nên trách nhiệm cũng lớn, phong trào chính trị thời Nhất Linh đó đã gây phân hoá trong guồng máy chính trị và xã hội VNCH và người QG với nhau cho đến ngày nay. Đó là sự nối tiếp tan rã của VNQDĐ trước năm 1954 ở miền Bắc khi họ đối diện với Việt Minh.

    • Trung Kiên says:

      Đồng tình với nhận định và phân tích của bạn Đao Công Khải.

  2. kbc 3505 says:

    Theo tôi, Nhất Linh Nguyễn Tường Tam. Về khía cạnh văn học: Không ai phủ nhận ông là một nhà văn lớn trong nền văn học VN với những tác phẩm cách mạng đổi mới thời bấy giờ.

    Nhất Linh Nguyễn Tường Tam. Về khía cạnh chính trị: Ông hoạt động chính trị để lật đổ một chế độ hợp hiến hợp pháp do dân bầu tức là phản lại nhân dân. Chế độ đó (Đệ nhất cộng hoà) lại được lòng dân, hoàn toàn do dân, vì dân vì quốc gia dân tộc mà ông chống tức ông đã phản lại tự do của dân tộc VN.

    Bị bắt, thay vì đợi chờ xét xử công khai để mọi người thấy ông có công hay tội, ông lại chọn cái chết bằng cách tự tử để kết tội chính phủ đương thời rồi để di chúc “Đời tôi để lịch sử xét xử, tôi không chịu để ai xét xử.” Hành động chính trị của ông nếu chống lại thực dân Pháp như Nguyễn Thái Học hay chống chính quyền CSVN như bao nhà ái quốc khác hay chống lại sư xâm lăng của Tàu cộng như Việt Khang… thì cái chết và tiếng tốt của ông đã vang dậy khắp non sông. Đàng này ông chống lại một chính quyền tự do dân chủ do dân bầu thì di chúc của ông chỉ là một sự chạy tội với đất nước và dân tộc.

    kbc3505

    • NGÀN KHƠI says:

      CÓ HƠI QUÁ BỐC

      Tôi cũng là người Quảng Nam như ông Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, song tôi thấy nhà văn danh tiếng này nói một câu không chuẩn lắm : “Đời tôi để lịch sử xét xử, tôi không chịu để ai xét xử.” Nói như vậy là có hơi quá, có hơi sốc nỗi hay cương đại trong tư cách mình là nhà văn lớn. Bởi làm chính trị cũng giống như một cuộc cờ, được và thua, thua và được đều công minh, sòng phẳng nhau trước bàn dân thiên hạ, không dễ gì lấp lững, chẳng cần gì phải tự cãi chính trước lịch sử. Bởi tất cả đều đứng trong, đứng dưới, không ai đứng trên, đứng ngoài hay đứng trước lịch sử cả. Thế thì có gì phải thật sự bức xúc để nói lên như vậy, nói lên điều chẳng đáng nói, chẳng gì cần thiết cả. Được làm vua, thua là giặc. Câu đó người bình dân trong thiên hạ cũng đã biết rõ rồi. Cứ để lịch sử phán xét, không ai có thể tự phán xét hay kết luận gì về mình được. Bởi vì đó không phải việc của mình mà là việc của mọi người. Cứ có gan làm, có gan chịu. Có gan làm, có mục đích mình thấy tốt thấy cần như thế nào để để làm, vậy là đủ rồi. Mọi sự còn lại cứ để lịch sử và công luận hạ hồi phân giải. Sân khấu là của khán giả phê bình, chẳng phải là việc tự vẽ bùa đeo của diễn viên, bất cứ diễn viên nào hay thời nào, ở đâu cũng vậy. Vậy nên câu nói đời tôi để lịch sử xét xử, câu nói ấy là thừa. Lại nói tôi không chịu để ai xét xử, câu nói đó hoàn toàn vô lý. Làm sao không chịu được khi mình đã bị người ta bắt nhốt. Đó là cái quyền chí ít của kẻ mạnh hơn mình. Còn việc có đáng xét xử không, hay xử đúng sai thế nào lại là việc khác. Nên nói chung lại, tình huống cụ thể của nhà văn Nhất Linh như vậy là có hơi bốc. Có khi khôn ba năm nhưng chỉ chễnh mảng, bất cẩn một phút, một giây chính là như thế. Nhà văn làm chính trị cũng chỉ là chuyện thường, nếu nhà văn đó đặt chính trị cao hơn ý nghĩa, giá trị hay sứ mạng văn học. Nhà triết học, nhà tôn giáo làm chính trị cũng là thường, nếu khi nhà triết học, nhà tôn giáo lại đặt chính trị cao hơn triết học. Người thường thì chỉ thấy chính trị là tột đỉnh. Nhưng người có hiểu biết, sâu sắc, thường thì nấc thang giá trị cao thấp ở đời đối với họ chính là : đời thường (kinh tế, chính trị), nghệ thuật thẩm mỹ (hay văn hóa, trong đó có văn học, thi ca), khoa học (trong đó có kỹ thuật sáng tạo), cuối cùng là triết học và tôn giáo. Do đó người thật tài hay chân tài ở mức độ trên, đẳng cấp trên, không nên hành động ngược lại với ý nghĩa hay giá trị đẳng cấp thường hằng đó. Nhất Linh là nhà văn có chân tài, sự nghiệp này hữu ích hơn sự nghiệp chính trị của ông nhiều. Vì làm chính trị có thể thất bại hay thành công, song làm văn hóa nghệ thuật có tài năng, chỉ có thành công mà không có thất bại. Chính trị là môi trường hổn độn, người làm chính trị theo kiểu tầm thường hay thường tình chẳng có gì hay cả. Bởi thế những nhà khoa học chân tài, những nhà tư tường, triết học chân tài, những nhà tôn giáo có sứ mệnh thật sự, không nên dẫn thân hay dấn thân vào khu vực chính trị thường tình của bàn dân thiên hạ. Vì như vậy là tréo ngoe, là đảo lộn chân giá trị. Người tầm thường hay thủ đoạn kích động có thể chụp mũ họ là tháp ngà, là lý thuyết suông, để lôi kéo họ theo hướng tầm thường của mình, nhưng nếu họ tự đánh giá chân tài thật sự, họ không được quyền bỏ cái cao để theo cái thấp. Người xưa nói làm thầy thuộc tồi giết chết một vài người, làm chính trị tồi giết chết cả thế hệ, làm giáo dục tồi giết chết cả đất nước, còn làm văn hóa tư tưởng tồi, có thể giết chết cả muôn đời. Đấy sự khác biệt giữa chính trị thường nhật và nguyên lý cao cả là như thế. Nói có vẻ hơi nhiều, hơi lạm ngôn, nhưng cho thấy Nhất Linh quả thật vẫn có chỗ sốc nỗi và cảm xúc, thành ra đã hi sinh sự nghiệp nhà văn lý tưởng cho giấc mơ chính trị chưa chắc đã là thiết yếu. Từ hành động nông nỗi cũng đã dẫn đến lời nói nông nỗi như đã thấy. Tất nhiên nhắc lại như thế không nhằm chê trách ông, vì dù sao ông vẫn là người có chí khí, có tâm huyết, có ý thức, có nguyện vọng đối với xã hội, với đất nước. Chẳng qua chỉ là do ông không hoàn toàn tự chủ động được chính tình huống chung có liên quan tới bản thân riêng của mình mà thôi.

      ĐẠI NGÀN
      (04/3/12)

      • Nguyenha says:

        Nhất-Linh có tài về Viết-Văn.Bất tài về Chính-trị./

      • TRÙNG KHƠI says:

        THAN ÔI

        Than ôi một kiếp văn gia
        Lở làm chính trị người ta chê cười
        Hoan hô đả đảo ở đời
        Sướng gì lãnh tụ một thời rồi qua
        Trong sân cuốc lại tưởng gà
        Gà rồi hóa cuốc cũng là xưa nay !

        NON NGÀN

  3. swan42 says:

    Ông Nguyễn văn Lục sao không ưu tiên đăng bài này ở nhà ông ấy là dcvonline.net mà lại sang danchimviet.in fo?

  4. Phan BA says:

    Bài viết dài tôi không đọc, chỉ nhìn hình của Nhất Linh; tôi cũng đọc, học văn của nhóm TLVĐ. Phải nói họ là tinh hoa của dân Việt. Thông minh, đẹp, sang; chả bì với lũ đười ươi vô sản, thất học và hung ác.

    Hình ông nguyễn tất thành, nhìn kỹ ông giống như con khỉ. Còn đám vô sản, mặt mũi ngu đần, kém thông minh.

    Người ta chười mà chúng cũng không hiểu; mặt thật dày.

  5. luc le says:

    Sau Luc Lai Viet tam phao Bai Viet Phan Bien Cua Nguyen tuong Thiet Da vach ro nhung Gian doi Bia dat Cua Sau luc ,Sao ong Ta cu buoi Mai chuyen Nhat Linh ..Ra va Them ong Trung kien Nhay vao Keo theo HT Quang Duc .,..That dam an khg ngoi roi ba hoa chich choe tren mang ..that het muon vao doc/.

  6. Dao Cong Khai says:

    Hồi năm đó đi thi Tú Tài 1, đề thi môn Việt Văn tôi còn nhớ là phải viết một bài essay giải thích sự khác biệt giữa tiểu thuyết lý tưởng và tiểu thuyết luận đề trong văn học VN, và cuốn đoạn tuyệt của Nhất linh là loại tiểu thuyết nào, tại sao? Ai cũng biết rõ, sau thời 63 thì Nhất Linh được lăng xê ở miền Nam dữ lắm.

    Tuy nhiên Tự Lực Văn Đoàn nói chung và Nhất Linh nói riêng vẫn có chỗ đứng to lớn trong văn học VN. Nếu Nhất linh đừng dính vô chính trị vào lúc cuối đời thì chắc chắn hậu thế sẽ kính phục ông ta hơn.

    “Đời tôi để cho lịch sử phê phán”. Cho đến nay đã gần nửa thế kỷ, mặc dù người ta vẫn còn thắc mắc nhiều về cái chết của Nhất Linh, nhưng có lẽ lịch sử đã đủ khả năng phê phán ông ta rồi. Lịch sử sau khi TT Diệm chết thì người dân miền Nam cũng có thể phê phán Nhất Linh từ lúc đó. Câu trả lời cho Nhất Linh thì có lẽ người ta có thể trả lời lâu rồi, sau năm 63 và sau 75; quá đủ để trả lời cho ông ta. Ở bên đó, ông ta cũng có dịp gặp thượng toạ Thích Thiện Minh sau đó, cái chết trong tù CS của thượng toạ Thích Thiện Minh cũng đủ trả lời cho ông ta rồi.

    Tiếc cho Nhất Linh là ông ta dính vô chính trị nên uy tín của ông bị ảnh hưởng. Có nhiều người lại mang uy tín của Nhất Linh ra để phê phán chế độ Ngô Đình Diệm… Tôi nghĩ không chỉ riêng cá nhân Nhất Linh, cả đảng VNQD đảng cũng không thể so sánh với một chính thể chính trị Đệ I Cộng Hoà ở VN đâu. Quốc Dân Đảng thời Nguyễn Thái Học chỉ gây được tiếng vang, tạo khí thế cho các thệ hệ sau noi gương, nhưng họ chưa giành được độc lập cho dân tộc; thế nhưng Đệ Nhất Cộng Hoà đã làm được điều ước muốn đó của VNQDĐ. Do đó không thể nhắm mắt lý luận rằng vì Nhất Linh là một nhà văn giỏi, ông ta có uy tín nên những hành động chính trị của ông phải đáng tin cậy và không sai lầm. Tôi có thể nói nguyên cả cái đảng của ông ta phục vụ cũng chưa nhằm nhò gì với những gì Đệ Nhất Cộng Hoà đã mang lại cho người dân miền Nam (tôi không kể những đảng phái QG).

  7. Trương Phi says:

    Thái độ của ông Lục trong bài viết này quả thật là hằn học có tính cách cá nhân. Ông chưa có phong thái của một nhà viết sử như ông mong muốn. Có đúng đây là mục đích bài viết của ông không: “Bài viết này muốn bổ túc thêm cái mặt bị bỏ quên cũng có thể là một góc tối của TLVĐ.” ??
    Ông thật là, xin lỗi, nông cạn khi đem so sánh hai thi sĩ với nhau: Tản Đà và Thế Lữ. So sánh cái gì, trọng lượng chăng? Chiều cao chăng?
    Cách ông nói nhóm Sáng tạo phủ nhân TLVD là cái giá mà TLVD và Nhất Linh phải trả cho việc phê bình các nhà văn ngoài TLVD là chính ông gán cho nhóm Sáng tạo chứ tôi không nghĩ là ông Trần Thanh Hiệp hay ông Mai Thảo có ý như vậy. Và chính ở đây người ta thấy rõ tâm địa của ông đối với TLVD và Nhất Linh.

  8. Trung Kiên says:

    Trích bài chủ…”Trong lịch sử, thật hiếm có hai cái chết như trường hợp HT Quảng Đức và NL trong một mục tiêu vừa tôn giáo, vừa chính trị. Cái chết cao trọng của nhà tu hành có gửi chung một sứ điệp của nhà chính trị không? …“.

    Câu hỏi của tác giả Nguyễn Văn Lục cũng là khắc khoải, thắc mắc của rất nhiều người! Cái chết của HT Thích Quảng Đức thì đã rõ như ban ngày…

    Đấy không phải là “tự thiêu” do chính ngài QĐ chủ động hiến thân vì “pháp nạn” (sic)…mà ngài BỊ THIÊU do những tên đạo tặc đội lốt tôn giáo giàn dựng cho một mưu đồ chính trị!

    Thế còn cái chết của Nhất Linh?

    T/g Nguyễn Văn Lục viết…”Nhưng một nhà chính trị chọn lựa tự tử phải chăng vì không còn chọn lựa nào khác? Nhà chính trị có thể tranh đấu bằng nhiều cách: bằng ngòi bút- bằng tham gia đảng phái- bằng mưu đồ tổ chức đảo chánh, lật đổ để chiếm chính quyền- hoặc ám sát thủ tiêu? Trong suốt 9 năm đệ nhất cộng hòa, dường như ông Nguyễn Tường Tam không sử dụng những phương tiện tranh đấu dân chủ như báo chí, dư luận, nghị trường hoặc dùng ngòi bút để tranh đấu?

    Thắc mắc trên đây của tác giả tự nó đã có câu trả lời với những dòng tiếp theo:…”Cách sử dụng mà người ta được biết rõ là ông tham gia vào âm mưu lật đổ chính quyền. Khi thất bại thì dùng việc tự tử phải chăng là kế sách thích hợp cho một nhà tranh đấu, một lãnh tụ chính trị có bản lãnh?

    Tôi cũng đặt câu hỏi như tác giả…”Quyên sinh” phải chăng là cung cách của một lãnh tụ chính trị có bản lĩnh và trách nhiệm?

    Hay đấy chỉ là cách trốn chạy sự thật, đổ vấy lỗi cho ai đó, rồi viết di chúc…”Đời tôi để lịch sử xử. Tôi không chịu để ai xử tôi cả…Thế là sẽ “nổi tiếng” và thanh thản ra đi về bên kia thế giới?

    Câu nói trên của ông Nhất Linh phải được “lịch sử” mổ xẻ, đánh giá và phân xử công bình!

  9. vungu says:

    Ông THÍCH-QUÃNG-ĐỨC bị đổ xăng bật quẹt lửa đốt ! nhửng hình ảnh còn lưu trử muôn đời !! mà nói tự thiêu…, trí thức còn mù quán ! nói chi người dân mê tính . Bị thiêu và Tự thiêu cùng nghỉa không ?,gian ác! .

    • PHONG DIEN says:

      Thầy Thích Quảng Đúc có bị trói tay chân đâu mà bị thiêu. ?

      • vungu says:

        Kính lạy Ông TRỜI,Đức PHẬT THÍCH-CA,Đức CHÚA và Nhửng Đấng Cực Thánh…xin cho con không tin nhửng ngôn từ của các Tu Sỉ , biết tâm lý của nhửng người ” mê tính ” ! họ biết phải rao giảng , thuyết pháp nhửng lời gì..để đánh động tâm tình hầu đem nhiều ích lợi cho riêng cá nhân và đoàn thể,tôn giáo mà họ đang ….! .

      • Trung Kiên says:

        Cũng đừng nên thất vọng quá BẠN mình ơi!

        Tu sĩ thì cũng là người
        Có vị vì ĐẠO, kẻ đời lợi danh
        Đi đạo TIN ĐẠO mới thành
        Đừng tin tu sĩ, tành banh cõi lòng!

        Nhiều người bị “tu sỉ” (sỉ dấu hỏi) lừa dối rồi đâm ra oán Đạo, bỏ đạo!

        PHONG DIEN says: “Thầy Thích Quảng Đúc có bị trói tay chân đâu mà bị thiêu. ?

        Hừm!

        Tự thiêu = tự mình tẩm xăng và châm lửa
        Bị Thiêu = Để cho (hoặc bị) người khác tưới xăng và châm chửa đốt cháy!

        Tự thiêu = Tự hiến thân cho mục đích cao đẹp, đạo pháp
        Bị Thiêu = ??? (cho một mưu đồ chính trị) ?

  10. ĐẠI NGÀN says:

    MỘT VẤN NẠN NHỎ VỀ TRƯỜNG HỢP NHÀ VĂN NHẤT LINH

    Vấn đề đặt ra ở đây cũng giống như một câu hỏi nhỏ, một thắc mắc nhỏ, một suy nghĩ nhỏ, hay một vấn nạn nhỏ. Nhất Linh là nhà văn tên tuổi, là lãnh tụ của nhóm Tự Lực Văn Đoàn, hay cả của Báo Phong hóa, là một khuynh hướng văn học mới, cách tân, lãng mạn, của thời cải cách phong hóa lúc đó để nhằm phát triển xã hội. Trong thời kỳ đô hộ thực dân, một bầu khí tư tưởng tự do, một hoạt động báo chí phong phú như thế, quả thật là một ưu điểm không thể phủ nhận. Khuynh hướng chính yếu ở đây chính là khuynh hướng xã hội tự do, trong phong thái ý thức hệ tiểu tư sản, có một phần trung thành với truyền thống dân tộc nói chung, còn một phần hiện đại hóa xã hội theo yếu tố phát triển của phương Tây, mà cụ thể là văn học cũng như xã hội nước Pháp lúc đó. Trong một ý nghĩa nào đó, đây đúng là khuynh hướng phát triển tích cực, hoàn toàn thuần túy văn học, mà không phải chính trị, hay nói khác, chỉ mang tính văn hóa xã hội và hoạt động văn học, mới là chính yếu. Tuy vậy, Nhất Linh còn là một người yêu nước tích cực, ngoài ra, còn là người có tư tưởng, hay theo khuynh hướng chính trị Quốc dân đảng, tức ngược lại với khuynh hướng những người mác xít đương thời. Chính điều này cho thấy rõ ông đã không đứng vào hàng ngũ những người mác xít, không đứng vào phía cuộc cách mạng cộng sản, không ở lại miền Bắc hay vô khu như những người Việt Minh khi đó nói chung, nhưng ngược lại, ông đã chuyển vào miền Nam và trong thời gian dài, để lặng lẽ ở đó, khi cuộc đương đầu giữa hai bên miền Nam và miền Bắc Việt Nam khi ấy đang gay gắt diễn ra. Thế nhưng, trong tình thế đó, Nhất Linh đã tham gia cuộc đảo chánh để nhằm lật đổ Chính phủ Ngô Đình Diệm. Có nghĩa, trong mắt Nhất Linh khi ấy, chế độ Diệm phải như một tệ trạng, một điều gây bất mãn cho ông, hay như một trở ngại lớn cho quan điểm chính trị xã hội lý tưởng nào đó của chính Nhất Linh. Có nghĩa, nếu không kể lý tưởng của yêu cầu chính trị Quốc dân đảng, Nhất Linh hẳn phải đã cưu mang một sách lược về chính trị xã hội riêng tư nào đó, mà đến lúc ấy còn chưa được thi thố, hay chưa được dịp nói ra công khai. Nhưng kết cục cuộc đảo chính đó đã hoàn toàn thất bại. Nhất Linh tuy vậy đã đào thoát được. Song về sau, cuối cùng thì ông đã lại tự tử. Khiến cho vấn đề được đặt ra ở đây, Nhất Linh cũng vừa là nhà văn học, vừa là người có tư tưởng chính trị, là người hoạt động chính trị, hay nói chung là một nhà chính trị, một chính khách tự do và độc lập. Dĩ nhiên, một cuộc đảo chính vốn cần phải được chuẩn bị thật sự kỹ lưỡng và hoàn chỉnh. Bởi chuẩn bị kỹ lưỡng là yếu tố thành công cho đảo chính, nhất là cả việc chuẩn bị công việc sẽ tiến hành sau khi đảo chính đã thành công, hay chuẩn bị tốt các sách lược chính trị, hay cương lĩnh kinh tế xã hội, để phát triển kinh tế, phát triển đất nước, sau khi đã lên vị trí cầm quyền. Không biết các tư tưởng, hay lý tưởng hàm ẩn nhất thiết này, Nhất Linh đã làm chín muồi tới đâu, cùng với các cộng sự của ông. Nhưng thực tế ông đã thất bại, vì cuộc đảo chính đã hoàn toàn thất bại. Một phép thử không thành công như vậy, dĩ nhiên có thể đã bị vướng mắc bởi nhiều yếu tố chủ quan lẫn khách quan, trong tư duy cũng như thực tế hành động. Song điều đó cũng vẫn chưa phải hoàn toàn đáng nói. Bởi vì, lúc ấy Nhất Linh vẫn còn được sống tự do, chưa có gì gọi là bế tắt, hay hoàn toàn phải chấm dứt cả. Vậy mà, ông lại tự tử như một hành động thật sự hết sức tiêu cực. Có gì đã đe dọa ông không ? Có gì làm ông bức xúc quá đáng không ? Để đến nỗi không có đường nào lui được nữa, mà buộc ông phải đành chọn cách thức tiêu cực nhất là tự tử như thế. Nhất Linh lúc đó, chắc chắn không thể không biết rõ bàn cờ quốc tế và quốc nội đang giăng ra cho cả miền Bắc, lẫn cả miền Nam Việt Nam. Nếu bảo Nhất Linh vì quá ức tức Ngô Đình Diệm mà phải tự tử, thì như vậy, hoặc Nhất Linh đã đặt quá cao, hay đặt quá thấp ông Diệm, trong tương quan bản ngã riêng với chính bản thân của Nhất Linh. Còn nếu Nhất Linh tham gia đảo chánh vốn chỉ như một khuynh hướng chính trị cảm tính bốc đồng, để nhằm thỏa mãn tính chất lãng mạn riêng tư nhất thời, lại càng không thể chấp nhận được. Nhất là sau khi thất bại, nhưng không gặp nguy hiểm gì, vì vẫn còn có lỗi thoát như mọi người đã biết, vậy tại sao ông lại tự tử ? Làm chính trị thất bại mà lại tự tử, thì quả thật quá tiêu cực, nông nỗi và đáng tiếc. Còn nếu vì ông chỉ phẩn uất cá nhân ông Diệm, nhằm làm chính trị, rồi khi thất bại, để phải tự tử, thật sự chỉ lại mang đầy tính cách phiêu lưu, chủ quan và nông cạn. Lúc ấy, rõ ràng đang còn có ông Hồ Chí Minh ở miền Bắc. Như vậy, thì quả thật sự chống đối ông Diệm để đi đến đảo chính, bị thất bại, sau đó một thời gian lại tự tử, quả thật chính Nhất Linh chắc chắn cũng đã phải để lại trong lòng ông Diệm và cả trong lòng ông Hồ lúc đó, những dấu hỏi hay điều thắc mắc to tướng, cũng giống như để lại trong lòng mọi người khác dù đồng ý hay phản đối những hành động đó của Nhất Linh, một nhà văn tên tuổi, lẫn nhà chính trị được kính nễ, một sự băn khoăn, tiếc nuối, hay là những vấn nạn khó giải thích, hoặc cứ vẫn còn uẩn khúc, như trên đây đã nói.

    NGÀN KHƠI
    (02/3/12)

Phản hồi