WordPress database error: [Expression #1 of ORDER BY clause is not in GROUP BY clause and contains nonaggregated column 'oldsite_dcvwp.wp_posts.post_date' which is not functionally dependent on columns in GROUP BY clause; this is incompatible with sql_mode=only_full_group_by]
SELECT YEAR(post_date) AS `year`, MONTH(post_date) AS `month`, count(ID) as posts FROM wp_posts WHERE post_type = 'post' AND post_status = 'publish' GROUP BY YEAR(post_date), MONTH(post_date) ORDER BY post_date DESC

 
|

Giết người trong mộng hay nửa hồn thương đau

 

Hãy cứ tưởng tượng nếu nhạc sĩ tài hoa Phạm Đình Chương sống dậy thưởng thức nhạc phẩm “Nửa Hồn Thương Đau” hay “Giết Người Trong Mộng” của mình qua giọng ca nghẹn ngào, ray rứt của ca sĩ Ngọc Anh cùng với lối diển xuất như trút hết đam mê lên từng cung nhạc của cô thì cái chắc niềm hạnh phúc và nỗi đớn đau trong ông sẽ trỗi dậy mạnh mẽ đến ngần nào?

Xưa kia, cũng hai nhạc phẩm này, giới yêu văn nghệ cùng thế hệ với người viết chắc cũng đã từng được thưởng thức không chỉ một mà qua nhiều giọng ca. Ca sĩ Thái Thanh với tiếng hát được mệnh danh vượt thời gian của mình, ngay cả giọng ca cao sang của ca sĩ Lệ Thu hay miên man buồn của Julie cũng đã từng đóng góp. Gần hơn có giọng ca yểu điệu ý Lan, bên nam giới với giọng ca gai góc tinh luyện không lẫn vào đâu được của ca sĩ Tuấn Ngọc hay mượt mà cao vút của hai ca sĩ Đức Tuấn và Bằng Kiều v.v…. nhưng phải thú nhận, qua hai nhạc phẩm này, tiếng hát mịt mùng ray rứt của ca sĩ Ngọc Anh đã chinh phục trọn vẹn sự ngưỡng mộ của đại đa số giới thưởng ngoạn. Nói vậy, không có nghĩa là người viết phủ nhận những tiếng hát đã thành danh như đã nêu trên. Lẽ dĩ nhiên là “mỗi người mỗi vẻ” mà “vẻ” của Ngọc Anh chắc là đại đa số khán giả đắc ý nhất. Có lẽ chất giọng khàn khàn vừa nghẹn ngào vừa ray rứt cùng lối diễn xuất độc đáo của cô hạp với thể nhạc bi lụy này chăng?

Người ta vẫn không thường nói, có những ca khúc làm nên tên tuổi của ca sĩ và ngược lại đó sao! nhưng với Ngọc Anh và nhạc phẩm này thì không thể nói “lấy của thằng miền xuôi nuôi thằng mạn ngược” được mà là ngược xuôi, cả hai đều được cả.

Vâng, nếu ai đó nhận hết được nét hạnh phúc lộ rõ trên gương mặt của nhạc sĩ Lam phương trong Thúy Nga Paris By Night khi ông thưởng thức nhạc phẩm “Em Đi Rồi” của mình qua tiếng hát đầy giao động và sầu cảm dữ dội này, cho dù ông đang bị khống chế bởi chiếc xe lăn thì mới cảm hết sức cuốn hút của nó? Thiết nghĩ lời nhạc cũng như âm điệu càng bi lụy, càng ray rứt bao nhiêu, Ngọc Anh càng chứng tỏ bấy nhiêu lối nhập vai giao động quyền biến của mình mà chinh phục bao trái tim của giới thưởng ngoạn. Phải nói, đây là tiếng hát có sức cuốn hút lạ thường, tiếng hát ấy khi cất lên như ẩn chứa nhiều đam mê, nó chẳng những có khả năng khơi dậy cả một vùng trời xuyến xao trong lòng người nghe mà còn đưa giới thưởng ngoạn ngập chìm vào một không gian dạt dào xúc cảm.

Tôi cũng sẽ chẳng nghi ngờ nếu ai đó bảo rằng Ngọc Anh phải là một người đàn bà hết sức đam mê và biết yêu mãnh liệt lắm lắm mới có thể diễn đạt hết ý những nhạc phẩm bi lụy đến như vậy. Nghĩ rằng, chỉ nghe Ngọc Anh hát không chưa đủ mà phải thưởng thức Ngọc Anh diển xuất bằng mắt bằng môi và bằng cả đôi tay thon dài lúc hụt hẫng khi chới với của cô nữa thì mới thấm, nó như là điều kiện ắt có và đủ.

Trở về với nhạc sĩ tài hoa Phạm Đình Chương và nhạc phẩm Nửa Hồn Thương Đau, giới am tường văn nghệ không ai phủ nhận tài phổ nhạc của ông. Cho đến nay hấu hết những nhạc phẩm ông phổ từ thơ đều được xem là đạt đến đỉnh điểm của nó, nhất là những tình khúc dở dang nhiều bất trắc, nếu ai đó chịu khó đem so với những nhạc phẩm phổ thơ của những nhạc sĩ khác mà nhạc phẩm “Nửa hồn thương đau” là một điển hình. Trong những nhạc tình nổi tiếng của ông, hình như thơ có vị trí không khiêm nhường chút nào, nó như là hương là sắc và chỉ cần trang điểm thêm những thanh âm rung cảm đồng điệu thì bỗng nhiên chắp cánh, nó là cô gái lọ lem chờ lọt vào mắt xanh của hoàng tử. Có ai ngờ rằng chỉ với vỏn vẹn 2 câu “Đôi khi anh muốn tin, Ôi… những người khóc lẻ loi một mình” trong thi phẩm Lệ Đá xanh của thi sĩ Thanh Tâm Tuyền mà ông đã phổ diễn thành nhạc phẩm bất hủ “Nửa Hồn Thương Đau”. Tôi chắc rằng, nếu không có Nửa Hồn Thương Đau của Phạm Đình Chương thì mấy ai biết đến Lệ Đá xanh của Thanh Tâm Tuyền. Cũng vậy, nếu ai đó bất chợt đọc được đâu đó một bài thơ hay, đố mà người ấy nhớ được lâu những lời thơ và tên tác giả nếu không chịu khó học thuộc lòng? Phải chăng chính nhờ những thanh âm của nhạc sĩ tài hoa mà những lời thơ hay mới ăn sâu trong lòng người thưởng ngoạn. Chắc có lẽ bắt nguồn từ sự rung cảm đồng điệu giữa nhạc sĩ và thi nhân cũng nên. Cái khả năng của nó là làm cho cả hai quyện vào nhau mà cùng chắp cánh.

Giới yêu văn nghệ Sài Gòn ngày xưa làm sao có thể quên được những nhạc phẩm nổi tiếng được nhạc sĩ tài hoa Phạm Đình Chương phổ từ thơ như Đôi mắt người Sơn Tây của thi sĩ Quang Dũng qua giọng ca của Duy Trác hay Mộng dưới hoa (Tự tình dưới hoa) của thi sĩ Đinh Hùng qua giọng ca của Jo Marcel vào giữa thập niên 60, Màu kỷ Niệm của thi sĩ Nguyên Sa qua tiếng hát của Thái Thanh, Người đi qua đời tôi của Trần Dạ Từ với giọng ca của Lệ Thu. Đặc biệt gần đây, trong đêm nhạc riêng của mình ở Sài Gòn với chủ đề “Khung Trời Ý Lan” tại phòng trà Đồng Dao, cũng nhạc phẩm “Người đi qua đời tôi” này, ca sĩ Ý Lan đã mời nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9 lên đệm piano cho mình, để rồi do quá xúc động mà cả kẻ hát lẫn người đàn đều rưng rưng lệ, sau đó Nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9 đã không nén nổi cảm xúc, chia sẻ: “Cách đây 40 năm tôi đã đệm đàn cho Thái Thanh hát ca khúc này, giờ đây tôi lại được hân hạnh đệm đàn cho ái nữ của cô ấy. Đúng là duyên văn nghệ mà tôi có được trong sự nghiệp âm nhạc của mình. Ý Lan đã cho tôi sống lại những ký ức của một thời xuân trẻ”.

Câu nói “Ý Lan đã cho tôi sống lại những ký ức của một thời xuân trẻ” đủ để gợi cho ai đó cả một bầu trời thương nhớ cũ, Sài Gòn thuở xưa, Sài Gòn của những thập niên 60, giới trẻ lúc bấy giờ có cái mốt thưởng thức nhạc ở phòng trà, với cà phê, với khói thuốc với những suy tư về thân phận và song song với nó là nơi bưng biền hay những vùng ven đô, những tiếng súng bất an đang manh nha gây hấn, rồi chiến tranh lan dần và ngày thêm khốc liệt, có những vùng quê nhen nhúm màu sắc của điêu tàn, có những thị trấn đánh động nỗi bất an thì cũng là lúc nơi quân trường hàng hàng lớp lớp thanh niên đang đổ mồ hôi trong tôi luyện để chiến trường bớt đổ máu…..

Lúc bấy giờ những quán nhỏ của sinh viên cũng được giới trẻ nhiệt tình chiếu cố, Quán Văn sau trường Đại học Văn khoa, Quán Tre của Khánh Ly  ở đường Đinh Tiên Hoàng, Quán Thằng Bờm ở đường Đề Thám, Quán Đà Lạt gần sân vận động Cộng Hoà v.v…. Những La Pagode,  Brodard hay Givral sang trọng hình như chỉ hiện diện một thiểu số giới trẻ con nhà giàu nào đó thôi. Nhân đây người viết cũng xin có đôi nét về phong trào văn nghệ Sài Gòn một thời. Sau hiệp định Geneve năm 1954, đất nước bị chia đôi, một số ca nhạc sĩ nổi tiếng Hà Nội di cư vào Nam, dù chỉ với “hai bàn tay trắng” mà họ đã làm nên “biết bao nợ nần”. Vâng, chính họ đã góp phần không nhỏ trong việc tạo cho phong trào văn nghệ Sài Gòn trở nên đa dạng với nhiều dòng nhạc dành cho mọi tầng lớp thưởng ngoạn. Thị trường âm nhạc bỗng nhiên sôi động hẳn lên cùng với đa số những ca sĩ nổi tiếng người Hà Nội góp mặt ở các phòng trà.

Thưởng thức nhạc ở phòng trà là một nét văn hóa của Sài Gòn lúc bấy giờ, phòng trà mọc lên khắp nơi, trước có Văn Cảnh, Đức Quỳnh, Anh Vũ sau có Queen Bee, Tự Do, Ritz, Maxim’s, Đêm Màu Hồng với các ban nhạc tên tuổi và các giọng ca sáng giá. Sau này có một loại phòng trà ca nhạc khác nữa là phòng trà sinh viên như đã nói trên. Trong khi các phòng trà nổi tiếng là nơi dành các khán giả có điều kiện thì phòng trà sinh viên do sinh viên mở ra nó bình dân hơn và lẽ dĩ nhiên là cũng để dành cho chính họ. Sau sự kiện 30-4-1975 cái gọi là giải phóng, các phòng trà này cũng được giải phóng nốt.

Người dân Miền Nam không thể nào quên được chuyện “kẻ chiến thắng” ra lệnh cấm và thiêu hủy những sản phẩm văn hóa của Miền Nam trong đó có sách vở, băng nhạc, phim ảnh và lẽ dĩ nhiên, những văn nghệ sĩ Miền Nam cũng đã được họ đặc biệt chiếu cố. Cả một bộ máy tuyên truyền của chế độ lên án những nhạc phẩm của Miền nam, họ cho đây là loại Nhạc Vàng đồi trụy, phản động để rồi chuyện cấm kỵ này kéo dài lây lan đến gần cả hai thập niên. Bây giờ lẽ dĩ nhiên đã khác, nghe nói mới đây đôi ca sĩ Tuấn Vũ & Hương Lan đã mang nhạc vàng Sài Gòn cũ ra chinh phục Hà Nội. Họ trình diễn tại nhà hát lớn vào đêm 16-10-2010 sau khi đại lễ Ngàn Năm Thăng Long kết thúc. Đôi song ca này đã mở đầu show diễn vào ngày 11-8-2010 và được khán giả Hà Nôi đón nhận nhiệt tình, giá vé dù có đắt, tương đương với mấy mươi đô la Mỹ nhưng mỗi show diễn đều bán sạch và kéo dài mấy tuần liền, đến nỗi nhạc sĩ Đặng Hữu Phúc phải viết một bài mang tựa đề : “ Khi Đặng Thái Sơn không thể “ địch” lại Hương Lan Tuấn Vũ” với những dòng như sau :
“Có lẽ Đặng Thái Sơn mà biểu diễn tới đêm thứ 3 ở Hà Nội bây giờ chắc cũng chẳng có mấy ai xem. Không thể “địch” lại với Hương Lan, Tuấn Vũ, Tuấn Ngọc… Hồi cuối tháng 8 vừa qua, show diễn hát theo yêu cầu của họ ở Nhà Hát Lớn giá 1 triệu rưỡi đến 1 triệu 7 cho 1 vé. Biểu diễn hàng nửa tháng trời mà vẫn kín chỗ, không có vé mà mua. Mà hình như họ ăn khách Thủ đô đến ngỡ ngàng, vượt cả sự tưởng tượng của chính họ, nên họ lại đã quảng cáo biểu diễn tiếp tại Nhà hát lớn sau Đại lễ 1000 năm”

Nhắc đến phong trào văn nghệ Sài Gòn thuở ấy là nhắc đến biết bao kỷ niệm buồn vui nhưng cũng đừng quên nhắc đến Sài Gòn cũng là  nhắc đến mưa, đến nắng đến những ánh đèn vào đêm trên những đường phố trung tâm hay những con hẻm lầy lội dưới mưa. Nhắc đến Sài Gòn thuở ấy là nhắc đến những tụ điểm ăn chơi, những tiếng rao khuya, những tiếng gõ chào mời trong đêm vắng hay những xe đẩy hàng ăn trên phố. Có một điều thú vị ít ai chú ý là cho đến nay dù là đã thay tên đổi họ, dân Sài Gòn chính tông chẳng bao giờ chịu gọi Sài Gòn là thành phố Hồ Chí Minh, thậm chí là thành phố Sài Gòn, không có từ thành phố đi chung với nó. Chỉ khi nào với hàm ý gì đó thì lại khác. Cứ hãy thử tưởng tượng vào phòng trà thưởng thức nhạc tình mà mặc áo vet đội nón cối xưng đồng chí với nhau thì tréo cẳng ngổng biết chừng nào. Thế nhưng Sài Gòn bây giờ đã khác, đâu rồi một Sài Gòn của thời xa vang bóng “nghìn năm hồ dễ mấy ai quên”.

Đêm nay tôi đưa em về

Đường khuya sao trời lấp lánh

Đêm nay tôi đưa em về

Mắt em sao sáng long lanh

 

Đêm nay khi em đi rồi

Đường khuya riêng một mình tôi

Đêm nay khi em đi rồi

Tôi về đếm bước lẻ loi

…………………………….

Đêm mai không ai đưa về

Người ơi xin đừng hờn dỗi

Đêm nay cô đơn đi về

Xin người hãy nhớ tình tôi

 

Đây là một nhạc phẩm hay của nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9 mà một thuở người viết vẫn thường nghêu ngao hát. Cảm ơn nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9 đã dâng cho đời những cung bậc rung cảm nhẹ nhàng mà cũng đầy da diết.

Trở lại với nhạc sĩ Phạm Đình Chương, năm 1979, ông vượt biên, rồi định cư ở Hoa Kỳ, tình cờ đọc được bài thơ “Đêm, Nhớ Trăng Sài Gòn” của thi sĩ Du Tử Lê trên trang báo, không để mất cơ hội, ông chộp lấy và xuất thần chuyển vào ngôn ngữ của âm nhạc, thế là ca khúc “Đêm, Nhớ Trăng Sài Gòn” ra đời và trở thành tuyệt khúc qua tiếng hát của nữ ca sĩ Lệ Thu lúc bấy giờ.

Phải nói ở bên kia dốc đời của nhạc sĩ tài hoa Phạm Đình Chương là cả một cung nhạc thảm sầu, nó vừa là nạn nhân mà cũng vừa là tác nhân, nó vận vào ông để ông cảm tác những bài tình ca bất hủ.

Số là, vào những năm 57, 58 thì phải, giới yêu văn nghệ Sài Gòn xôn xao không ít, báo chí phải tốn nhiều giấy mực bởi phải đăng nhiều kỳ vụ ly dị giữa nhạc sĩ Phạm Đình Chương và người vợ tài sắc của ông là ca sĩ Khánh Ngọc, đến nỗi tòa phải xử dai dẳng mới đi đến kết thúc. Như đã biết, Khánh Ngọc từng được giới mộ điệu mệnh danh là “Ngọn núi lửa”. Cô vừa làm ca sĩ, vừa làm tài tử điện ảnh có một nhan sắc quyến rũ và một thân hình nóng bỏng. Tài nghệ và nhan sắc của cô đã làm say đắm bao lòng khán giả mỗi khi cô xuất hiện.

Dù nhạc sĩ Phạm Đình Chương trước khi ly dị cũng đã nghe phong phanh đâu đó vợ của mình ngoại tình nhưng ông vẫn bỏ ngoài tai vì tình yêu và tin tưởng ở tình yêu của vợ. Chỉ đến khi một số bạn thân văn nghệ làm chỉ điểm để ông bắt được tại trận ở Nhà Bè thì sự việc mới vỡ lẽ. Tin tức lan nhanh như nước lũ mùa lụt, báo chí Sài Gòn lúc bấy giờ khai thác triệt để, nhất là nhật báo Sài Gòn Mới của bà Bút Trà. Thế là vụ “ăn chè Nhà Bè” được suy diễn hơn cả mức độ “chả nem” của nó. Lẽ dĩ nhiên, nhân vật thứ 3 và cũng là thủ phạm đã được dư luận nhiệt tình chiếu cố. nhưng nói cho cùng, người đau nhất vẫn là nhạc sĩ Phạm Đình Chương và nạn nhân thứ hai là chị ruột của mình. Tuy vẫn còn yêu vợ, nhưng ông không đủ can đảm đạp lên dư luận mà đi nên đành phải gạt lệ đâm đơn li dị. Nghe nói, lúc ấy thủ phạm cũng đã từng cầu cứu đến Bộ Thông Tin, yêu cầu báo chí thôi làm ồn và cho ngưng những loạt phóng sự “Nhà Bè” này.

Sau khi li dị, nhạc sĩ Phạm Đình Chương phải chịu cảnh gà trống nuôi con, sau một thời gian ông đã cố gắng duy trì cuộc sống trở lại bình thường sau đó ông đã hát và sáng tác trở lại. Một đêm, tình cờ trên một sân khấu đại nhạc hội, không hẹn mà gặp và ông đã bị từ chối khi ngỏ ý muốn đưa người cũ của mình về nhà vì trời đang mưa. Quá đắng cay, ông lặng lẽ về căn nhà với chập chùng kỷ niệm, nhìn mưa rơi mà lòng tan nát, tủi thương cho thân phận, ý định tìm chết bỗng chớm trong ông, nhưng tiếng khóc của trẻ thơ đã làm ông bừng tỉnh mà níu ông lại! Nhạc phẩm “Nửa hồn thương đau” được ra đời cũng vào cái đêm mưa hôm đó.

Tôi lan man viết lại chuyện tình buồn này của nhạc sĩ Phạm Đình Chương như một chia sẻ mà cũng là để lòng tri ân đến ông cùng những nhạc sĩ khác, những người chỉ vì một bất hạnh nào đó trong đời sống tình cảm để rồi sự đáp trả của họ là dâng cho đời những tình khúc bất hủ.

Tôi trân trọng những tác phẩm nghệ thuật có giá trị cho dù cá nhân người nghệ sĩ sáng tác ấy dưới mắt một số người thậm chí nhiều người là có những khuyết điểm. Chúng ta vẫn không thường nói “nhân vô thập toàn” đó sao? Tâm hồn chúng ta vốn dĩ đã nghèo nàn thì dại gì phải để nó lâm vào cảnh túng thiếu khi mà chỉ vì không chấp nhận tư cách cá nhân của một người nghệ sĩ tài hoa nào đó để rồi phải loại ra những tác phẩm nghệ thuật có giá trị mà họ đã dâng cho đời.

Viết đến đây tôi chợt nhận ra có một ưu điểm mà thế hệ chúng tôi được thừa hưởng ở miền nam đó là sự trưởng thành trong văn hóa ứng xử. Nhờ đó mà người nghệ sĩ tài năng ở giai đoạn này luôn có được thuận lợi trong sáng tác cũng như phổ biến những đứa con tinh thần của mình, quyền tự do tư tưởng ít ra cũng được tôn trọng cho dù người nghệ sĩ tài năng đó có như thế nào? màu sắc “chính trị” có ra sao? thường thì họ vẫn có chỗ đứng và được quần chúng chấp nhận thậm chí còn được bảo bọc và lẽ dĩ nhiên giới cầm quyền ít nhất cũng phải tôn trọng. Nghĩ rằng, lối ứng xử này cần phải củng cố mà tạo thành tập quán, nhất là cho thế hệ tiếp nối, cho dù bạo quyền CS ngày nay có tàn ác đến đâu, có bất nhân đến mấy… rồi cũng qua đi, nhưng nếu dân tộc đánh mất đi cái tính tối thiểu của tự do dân chủ, cái tình tối thiểu của lòng nhân ái, đánh mất đi cái giềng mối đạo đức căn bản của con người thì khó mà phục hồi được?

 

© Sông Lô

© Đàn Chim Việt

 

33 Phản hồi cho “Giết người trong mộng hay nửa hồn thương đau”

  1. Trần Minh says:

    Tác giả Sông Lô viết,

    Hãy cứ tưởng tượng nếu nhạc sĩ tài hoa Phạm Đình Chương sống dậy thưởng thức nhạc phẩm “Nửa Hồn Thương Đau” hay “Giết Người Trong Mộng” của mình qua giọng ca nghẹn ngào, ray rứt của ca sĩ Ngọc Anh cùng với lối diển xuất như trút hết đam mê lên từng cung nhạc của cô thì cái chắc niềm hạnh phúc và nỗi đớn đau trong ông sẽ trỗi dậy mạnh mẽ đến ngần nào?

    Thưa tác giả, tôi tôn trọng “khẩu vị” của ông, nhưng theo quan điểm của tôi, nếu Phạm Đình Chương mà đọc bài viết này của ông thì ông ta sẽ bảo, Sông Lô ơi xin miễn chọn ca sĩ cho nhạc của tôi, cảm ơn nhiều
    Tác giả phải đồng ý rằng, hay hay dỡ là tùy cái taste mỗi người, tuy nhiên về âm nhạc, khi số đông đã chọn lựa, thì lựa chọn đó được gọi là chính xác. Cô Ngọc Anh chỉ là một thợ hát, so với Lệ Thu Thái Thanh Khánh Ly. Cả ba ca sĩ này có phong cách riêng của họ khi hát bài này, và phải nói rằng cà ba đều đạt được một điều quan trong, đó là cả ba đều làm cho người nghe cảm xúc tận đáy lòng, tạm gọi mỗi người mỗi vẻ mười phân vẹn mười.
    Phần ca sĩ Ngọc Anh, cô ta không có chất giọng khàn tự nhiên của Lệ Thu hay Khánh Ly, cái khàn của cô Ngọc Anh là cái khàn của sự cố gắng, cố gắng làm cho giọng mình khàn. Phàm cái gì cố gắng thì chỉ là cố gắng, không thể gọi là giọng ca thiên phú, mà khi đã là không thiên phú thì khó mà đạt được tột đỉnh của sự quyến rũ và truyền cảm

    Tôi đồng ý với một số bạn đọc, Sông Lô không có khả năng cảm nhận âm nhạc một cách sâu sắc nên bài viết của ông về âm nhạc không có giá trị lắm

  2. Trần Minh says:

    Tác giả Sông Lô viết,
    Hãy cứ tưởng tượng nếu nhạc sĩ tài hoa Phạm Đình Chương sống dậy thưởng thức nhạc phẩm “Nửa Hồn Thương Đau” hay “Giết Người Trong Mộng” của mình qua giọng ca nghẹn ngào, ray rứt của ca sĩ Ngọc Anh cùng với lối diển xuất như trút hết đam mê lên từng cung nhạc của cô thì cái chắc niềm hạnh phúc và nỗi đớn đau trong ông sẽ trỗi dậy mạnh mẽ đến ngần nào?

    Thưa tác giả, tôi tôn trọng “khẩu vị” của ông, nhưng theo quan điểm của tôi, nếu Phạm Đình Chương mà đọc bài viết này của ông thì ông ta sẽ bảo, Sông Lô ơi làm ơi đừng bình luận âm nhạc của tôi nữa, cảm ơn nhiều
    Tác giả phải đồng ý rằng, hay hay dỡ là tùy mỗi người, tuy nhiên về âm nhạc, khi số đông đã chọn thì lựa chọn đó được gọi là chính xác. Cô Ngọc Anh chỉ là một thợ hát, so với Lệ Thu Thái Thanh Khánh Ly. Cả ba người này có phong cách riêng của họ khi hát bài này và phải nói rằng cà ba đều đạt được một điều quan trong đó là cả ba đều làm cho người nghe cảm xúc tận đáy lòng. Ngọc Anh không có chất giọng khàn tự nhiên của Lệ Thu hay Khánh Ly, cái khàn của cô Ngọc Anh là cái khàn của sự cố gắng, cố gắng làm cho giọng mình khàn. Phàm cái gì cố gắng thì chỉ là cố gắng, không thể gọi là giọng ca thiên phú, cho nên không thể đạt được tột đỉnh của sự quyến rũ và truyền cảm

    Tôi đồng ý với một số bạn đọc, Sông Lô không có khả năng cảm nhận âm nhạc một cách sâu sắc nên bài viết của ông về âm nhạc không có giá trị lắm

  3. Đinh Thành says:

    Vâng, cá nhân tôi cũng cảm nhận và đồng thuận với tác giả Sông Lô, là ca sĩ Ngọc Anh hát nhạc phẩm Giết Người Trong Mộng đúng như tác giả nhận xét.
    Cám ơn Sông Lô đã nói và viết lên được cái cảm nhận rất chính xác này mà tôi không…viết được.

  4. Thích nghe nhạc chuẩn says:

    Trong thời đại này, con người đang chịu 3 sự đột biến:
    - Đột biến gen của Thực phẩm
    - Đột biến nhạc của Ban nhạc
    - Đột biến hát của Ca sĩ.

  5. Dân Chửi says:

    Vẫn biết mỗi người mỗi taste thuởng thức âm nhạc khác nhau, nhưng tôi thật hoàn toàn mất niềm tin vào khả năng thuởng thức âm nhạc của tác giả Sông Lô.

    Qua Youtube, khi tôi nghe cô ca sĩ Ngọc Anh chỉ mới mở đầu “Nhắm mắt, cho tôi tìm một thoáng huơng xưa…” là đủ cho rớt đài rồi!!! Không tin xin tác giả Sông Lô cứ nghe cho kỹ và so sánh Thái Thanh hát chỗ mở đầu đó như thế nào. Ca sĩ Ngọc Anh còn “phải cố gắng nhiều” và còn kém xa lắm so với Thái Thanh. Khi nghe Thái Thanh hát bài này, ta cứ nhắm mắt lại và nghe hồn ta tan vỡ theo lời hát. Khi dứt bài hát, hồn ta cứ chơi vơi vì những mảnh hồn vỡ vụn vẫn chưa kịp ráp nối với nhau trở lại……

    • Lâm Vũ says:

      Bạn Dân Chửi… mà khen cũng tài :-)
      Thân

    • Timsuthat says:

      Đồng ý với bác D.C.! Trong youtube version này, tôi cũng chỉ nghe một câu … và tắt! Ngọc Anh hát những bài trước 75 khá hơn phần đông các ca sĩ ở VN qua, nhưng chắc chắn trong bài NHTĐ này thì hỏng to! Cái rung động mà Thái Thanh và Lệ Thu đã mang lại trong bài này thật là không ai bằng.

      Điều bác nói NA phải “cố gắng nhiều” thì tôi có ý khác. Các ca sĩ VN mới – do có kỹ thuật tương đối khá – hay “cố gắng” diễn tả bản nhạc với nhiều kỹ thuật ngoạn mục, nhưng tôi thấy ít khi nó thực sự tạo được rung động sâu nếu không nói là chỉ để “biểu diễn” – điều mà các thợ hát vẫn làm.

      Vì vậy, tôi nghĩ họ cần bỏ “cố gắng” mà chỉ thực sự hát bằng tâm hồn của mình (không phải bằng tài “cổ”) – và điều này chỉ làm được nếu tâm hồn ngừng cố gắng, chỉ thật lòng để trái tim leads và kỹ thuật follows. Các ca sĩ miền Nam trước 75 đã đánh động lòng chúng ta là ở đó – họ hát rất “thật” với kỹ thuật tương đối đơn giản.
      Với bài Giết Người Trong Mộng và Mùa Thu Chết, NA đã coi như đạt được căn bản này (nhưng phần hòa âm bài MTC thì tôi lại thấy hỏng, làm mất cái da diết, nhẹ nhàng nhưng buốt lạnh mà bài này cần; bài GNTM thì theo ý tôi NA đã lột được trọn vẹn hồn nhạc, và đoạt được cái mức mà lâu nay không mấy ai đạt tới).

  6. Thích tiếng hát chuẩn says:

    Cũng muốn tò mò xem Phạm Đình Chương “…trong ông sẽ trỗi dậy mạnh mẽ đến ngần nào?” qua tiếng hát NA – vào trang web http://ngocanhsinger.info/ thì đọc được câu chúc tết:
    “Đầu năm Canh Dần, Ngọc Anh …” đúng là đến “năm Dần” (như ông cha ta từng ví von!) mà giờ chẳng có thông tin gì thêm.

  7. Lâm Vũ says:

    Tôi vốn rất thích đọc những bài viết về “Sài Gòn ngày xưa”, nhưng thú thật bài viết này với tôi ôm đồm và tạp lục quá! Chưa kể có những nhận định tôi cho là khó chấp nhận. Đặc biệt tôi phản đối quan điểm của tác giả (nếu tôi hiểu đúng) cho rằng Phạm Đình Chương làm nên những bản nhạc bất hủ vì… ông thất tình! Cách nhìn nghệ thuật này rất phổ thông nhưng, theo tôi, không có nhiều “sự thật” trong đó.

    Sở dĩ có sự hiểu lầm này vì, theo tôi, nghệ thuật luôn luôn mang dáng vẻ đời sống “thực” của người làm ra nó. Nhưng thực ra sự “đồng dạng” này chỉ ở mặt hình thức và có tính “ước lệ”, một cách người thưởng ngoạn tự làm ra để để hiểu một tác phẩm nghệ thuật.

    Sự thực nghệ thuật không phải là “phó bản” của đời sống “thực”. Nghệ thuật chính là đời sống của người tạo ra nó, nhưng là một đời sống “nội tâm”, khác với cái đời sống “thực” kia. Người “bình thường” – không phải là một “nghệ sĩ” – có nhu cầu nối kết hai thứ đời sống đó với nhau, vì nếu không sẽ không hiểu được tại sao một người có thể “thế này” đồng thời lại “thế khác”. Điều này hiểu được, nhưng tạo ra cái nhìn méo mó về tác phẩm và cả về tác giả của nó.

    Như đã nói, nghệ thuật là đời sống nội tâm và cũng rất là “thực”, có khi còn thực hơn cả cái mà chúng ta gọi là “đời sống thực”. Bởi vì “đời sống thực” của mỗi người chủ yếu phản ánh cuộc sống của xã hội chung quanh. Nói cách khác, nó nói lên điều xã hội muốn mọi người phải tuân theo. Hơn thế nữa, “đời sống thực” một phần được tạo nên bởi những nhu cầu thực tế của mổi người. Trong khi nghệ thật thiết yếu phải là cái gì riêng rẽ của mỗi người, do đó ở bên ngoài hay bên trên “xã hội”. Thí dụ, những bản nhạc “tiền chiến” (trước 1945) của Văn Cao không phản áng đời sống “thực” của Văn Cao hay của xã hội thời đó. Chúng hoàn toàn là đời sống riêng của người nghệ sĩ Văn Cao, do đó có tính nghệ thuật cao và cũng vượt thời gian và không gian. Điều này cũng là tính chất chung của các tác phẩm nghệ thuật. (Để làm rõ điều tôi muốn nói, ta có thể nhìn ngắm lại bản nhạc “Cô Thắm về làng”. Đây cũng là bản nhạc hay rất dễ thương, nhưng nó sẽ khó trường tồn với thời gian hay thích hợp với mọi hoàn cảnh của người nghe).

    Trên đây là vài suy tư bộc phát sau khi đọc qua bài viết. Có lẽ chủ đích của bài viết không thực sự bàn về nghệ thuật (trong âm nhạc của PĐC), do đó tôi cũng xin có lời xin lỗi tác giả Sông Lô, nếu ông cảm thấy đang “bị” phê bình moi móc. Nhưng ý của tôi chỉ là đưa ra một lối nhìn khác về tân nhạc Việt Nam mà thôi.

    LV
    TB. Người ta thường “gán ghép” bài Nửa Hồn Thương Đau của PĐC và bài thơ Lệ Đá Xanh của TTT với nhau. Điều này vừa có thể đúng vừa có thể sai. Nhưng vấn để trước tiên là: có phải bản nhạc “hay” nhờ bài thơ hay ngược lại bài thơ được coi là hay là nhờ được PĐC phổ nhạc (giới thiệu)? Câu trả lời của tôi là “không”, dù hẳn nhiên PĐC lấy ngẫu hứng cho bản nhạc từ bài thơ đó, nhưng bản nhạc tự nó là một sáng tạo của người nhạc sĩ. Ngẫu hứng này có thể từ một cái gì khác, một câu chuyện tình PĐC biết được hay một tâm trạng riêng của mình, không quan trọng. Quan trọng chính là bản nhạc, bằng chứng là có mấy ai khi mới nghe bản nhạc mà biết nó có mấy “câu kết” lấy từ bài thơ của TTT, nhưng họ vẫn thích. Cũng thế, bài thơ Lệ Đá Xanh (trọn bài được Cung Tiến phổ nhạc đúng nghĩa) vốn dĩ là một trong những bài thơ tuyệt tác của TTT, tiêu biểu cho đặc tính phá ước lệ nhưng vẫn trữ tình cùa “thơ Tự Do”.

    (Nghe bản Lệ Đá Xanh, Cung Tiến phổ nhạc http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=jMu9BScjl0)

  8. Fan says:

    Tiếng hát NA chỉ hợp với nhửng bản nhạc vàng trữ tình thôi , khi ra hải ngoại tiếng hát mới được vút cao , chứ còn ở trong nước hát ba cái nhạc đỏ của mí chú VC chẳng ra làm thao cả , tên tuổi tiếng hát càng mất dần . VC chủ yếu đào tạo ca sỉ cốt chỉ để đi thi thôi cho nên rất mang nặng về phần kỷ thuật

    Nghe NA ca nửa hồn thương đau , mùa thu chết , chiếc lá cuối cùng , giết người trong mộng , nghe rất đã và sướng cái lổ tai , hiện tại bây giờ chắc không có ca sỉ nào hát làm cho người ta có cãm giác như vậy , Nam củng như Nử . Trong củng như ở ngoài nước ! Ca sỉ hay không có nghĩa là bài hát nào họ cũng hát được ! Giống như thưởng thức một món ăn ngon , nó cho ta nhiều cãm giác thú vị , rất hợp với khẩu vị , ăn xong rồi mà vẩn còn thèm :\)

    Đó chỉ là khẩu vị của mỗi người thôi , biết đâu một hay hai thế hệ sau sẽ có một ca sỉ nào đó hát rất hay nhửng bài ca này . Nhửng cái thực tại xảy ra bây giờ mới đáng nói quan tâm , chứ quá khứ thì đã có thời của nó rồi , còn ngày mai thì hảy chờ xem sao đã !!!

  9. Trương Phi says:

    Ông thích NA là ý của ông, không phải của số đông. Số đông là bao nhiêu, thăm dò bằng cách gì? Ý của tôi là có một số ca sĩ đã “phá nát” nhiều bản nhạc thật hay, thí dụ ca sĩ NA đã “phá nát” bản “nửa hồn thương đau”. Còn nữa và nhiều nữa. Đặc biệt ca sĩ TP (vẫn theo ý tôi) mỗi khi hát nhạc TCS thì thật tội nghiệp cho nhạc sĩ tài hoa TCS và là một sự tra tấn thính giả, cho nên trong trường hợp ấy tôi tắt máy.

  10. Le Binh says:

    Những bài tình ca được phổ từ thơ của Phạm đình Chương là những tuyệt tác, những nốt nhạc ông viết đã đưa những lời thơ thấm vào trong tâm hồn để chúng ta xúc cảm, đau đớn, cảm thông cho cuộc tình đã mất. Ông quả là một thiên tài cuả nền âm nhạc VN.
    Định mệnh đời ông có lẽ đã được định sẵn như câu hát cuối cùng trong bài hát Người đi qua đời tôi, “Em đi qua đời anh, không nhớ gì sao em”.

Leave a Reply to Trần Minh