WordPress database error: [Expression #1 of ORDER BY clause is not in GROUP BY clause and contains nonaggregated column 'oldsite_dcvwp.wp_posts.post_date' which is not functionally dependent on columns in GROUP BY clause; this is incompatible with sql_mode=only_full_group_by]
SELECT YEAR(post_date) AS `year`, MONTH(post_date) AS `month`, count(ID) as posts FROM wp_posts WHERE post_type = 'post' AND post_status = 'publish' GROUP BY YEAR(post_date), MONTH(post_date) ORDER BY post_date DESC

 
|

Siết cổ miền Nam

Khúc quành cuộc chiến

Kissinger nói về việc Quốc hội Mỹ bỏ rơi miền nam Việt Nam trong Years of Renewal, trang 479. Ông đã dùng từ ngữ gợi hình “siết cổ” và cho biết Tướng Bắc Việt Văn Tiến Dũng, người chỉ huy giai đoạn Tổng tấn công cuối cùng tại miền nam VN kể lại họ đã đưa một khối lượng lớn xe tăng, thiết giáp, hỏa tiễn, đại bác, phòng không vào Nam. Sự vận chuyển dễ dàng nhờ hệ thống đường xâm nhập chằng chịt, kỳ diệu mà Dũng ví như những sợi dây thừng to quấn quanh cổ, chân, tay của con quỉ từng ngày một, đợi lệnh xiết chặt kết liễu đời nó.

Ông cũng nói trong khi miền nam VN dần dần bị siết cổ, Hoa Thịnh Đốn không để ý tới nó vì chia rẽ nội bộ. Nhưng hơn bao giờ hết Hoa Thịnh Đốn đã chán vấn đề VN (Washington had grown tired of Vietnam). Trang 471, Kissinger nói Quốc hội cắt giảm viện trợ cho miền nam VN từ 1973 mỗi năm khoảng 50%, trong khi Hà Nội gia tăng xâm nhập cùng với xe tăng đại bác vào miền nam VN sau ngày ký Hiệp định Paris. Hoa Kỳ đã xiết cổ miền nam VN và làm tê liệt khả năng tự vệ của họ. Người ta không lấy làm ngạc nhiên tấn thảm kịch kết thúc với toàn bộ quân đội BV tràn ngập miền nam VN trong khi Hoa Kỳ đứng nhìn, tê liệt vì chia rẽ nội bộ.

Như mọi người đều biết, sau Hiệp định Paris Quốc Hội Mỹ cắt giảm viện trợ quân sự VNCH dần dần khiến cho khả năng tự vệ của ta không còn và sụp đổ vào ngày 30/4/1975.

Ngược dòng thời gian, trận Mậu Thân 1968 trở thành một khúc quành quan trọng của cuộc chiến tranh VN cũng như cho cả Đông Dương. Mặc dù miền nam thắng lớn về quân sự, tài liệu Bộ Tổng tham mưu Quân đội VNCH cho biết BV đưa vào tổng cộng 84 ngàn cán binh vào trận đánh, 58 ngàn người bị giết, hơn 9 ngàn bị bắt, chạy thoát 16 ngàn tên, chưa tới 20%, tổn thất CS gấp hơn mười lần VNCH, cơ sở nằm vùng bị bại lộ. Tuy nhiên CSBV lại thắng lớn về chính trị, họ được món quà vô giá: Mẫu thân đã đẩy mạnh phong trào phản chiến lên cao, người Mỹ không còn ủng hộ cuộc chiến VN. Cuộc Tổng công kích đã khiến cho nhóm nghiên cứu của Bộ quốc phòng Mỹ đề nghị hạn chế can thiệp vào VN để thay thế bằng VN hóa chiến tranh
Nhiều nhà bình luận phía Mỹ cũng như VN đã nhìn nhận trận Mậu Thân đã khởi đầu một khúc quành bi đát cho số phận miền Nam. Phong trào phản chiến càng lên cao dữ dội hơn, hành pháp đã nghĩ tới hoà giải, Việt Nam hóa chiến tranh, rút quân về nước. … Hiển nhiên giới lãnh đạo Hà Nội đã đạt được một chiến thắng vô giá mà họ không dự định. Chúng ta đánh thắng một trận lớn nhưng ta thua cuộc chiến.

Trang 88 No More Vietnams, Nixon cho biết người dân Mỹ đã dành cho Johnson một khoảng thời gian nhất định để thắng CS tại Việt Nam. Gần bốn năm trôi qua, trận Mậu thân tháng 2/1968 đã khiến cho họ không còn kiên nhẫn vì quá mệt mỏi, người ta không cho chính phủ thêm thời gian để giải quyết cuộc chiến mà họ chỉ muốn rút bỏ Đông Dương.

Năm 1965, thời cao điểm của thuyết Domino, theo thăm dò gần 80% người dân Mỹ, các Thượng nghị sĩ, Dân biểu thế lực đều ủng hộ chính phủ đưa quân vào để cứu miền nam VN. Nhưng sau bốn năm, mặc dù quân tham chiến đã tăng hàng năm: 1965 có184,000 người, năm 1966 lên 385,000 người, năm 1967 lên 485,000 người, năm 1968 lên tới đỉnh cao 536,000 người.

Từ 1965 tới 1968, Johnson và Bộ trưởng Quốc phòng McNamara đã không thắng được CS, số lính Mỹ bị giết ngày một tăng từ 1,863 người năm 1965 lên 6,143 người năm 1966 và 11,115 người năm 1967…Người dân không còn tin vào thuyết Domino như trước. Khi ủng hộ chính phủ đưa quân cứu miền nam VN người ta nghĩ nó sẽ được cứu với cái giá “vừa phải”, nay nó đã bị vượt quá lên trên 500 ngàn quân thì số người ủng hộ tụt thang nhanh chóng.

Sau trận Mậu Thân tháng 2/1968 số người chống chiến tranh tăng vọt, ngược lại số ủng hộ tụt thang nhanh chóng, người ta không còn tin chính phủ có thể thắng được cuộc chiến tranh Đông Dương. Từ cuối 1965 tới cuối 1966 số người ủng hộ giảm từ 61% xuống còn 51%, từ đầu 1967 tới cuối 1967 giảm từ 52% xuống còn 45%, từ đầu 1968 tới tháng 10/1968 giảm từ 42% xuống còn 37%. Những người chống chiến tranh cực đoan đã hô to những khẩu hiệu “Phải rút ra khỏi Đông Dương, Việt Nam ngay”

Những sợi dây thừng

TT Nixon (No More Vietnams trang 152) cho biết suốt mấy năm đàm phán CS Hà nội đòi những khoản chính như Mỹ rút đơn phương, thành lập chính phủ Liên hiệp, TT Thiệu phải từ chức, Mỹ cắt viện trợ quân sự kinh tế cho VNCH.

TT Nixon cũng cho biết:

Từ năm 1969 chúng tôi đã phải đương đầu với nguy cơ Quốc Hội ra luật chấm dứt chiến tranh. Các Thượng nghị sĩ và dân biểu phản chiến đang làm luật bắt chúng tôi rút hết quân để đổi lấy tù binh. Năm 1972 Thượng Viện đã thông qua dự luật này, tại Hạ viện số phiếu gần đủ. Chúng tôi đã tránh cho dự luật không thành hình vì đã tuyên bố rút quân nên khiến những người ủng hộ cuộc chiến đã thay đổi tình hình vì thấy rõ chính phủ đang dần dần chấm dứt sụ can thiệp- (No More Vietnams trang 142)

(Since 1969, we had been faced with the danger of Congress legislating an end to our involvement. Antiwar Senators and Congressmen had been introducing resolutions to force us to trade a total withdrawal of our troops for the return of our POWs. By 1972, the Senate was regularly passing these measures, and the votes in the House were getting close. We were able to prevent the passage of these bills only because our withdrawal announcements provided those whose support for the war was wavering with tangible evidence that our involvement was winding down – Page 142).

Khi Quốc Hội ra luật chấm dứt chiến tranh có nghĩa là họ thỏa mãn hai yêu cầu của BV: rút quân về nước, cắt viện trợ quân sự kinh tế VNCH. Khi bị cắt viện trợ quân sự miền Nam sẽ sụp đổ rất nhanh. Tại Hoa Thịnh Đốn, ngày 2/1/1973 Ủy ban bầu cử Dân Chủ tại Hạ viện bỏ phiếu nội bộ với 154 phiếu thuận và 75 chống để cắt hết viện trợ Đông Dương để lấy về tù binh và rút hết quân về nước. Sau này Kissinger viết Quốc hội đe dọa bỏ rơi đồng minh ở Đông Dương. Quốc hội khóa 93 dự định họp hôm sau để ra quyết định ngay sau khi ép Tổng thống Mỹ chấm dứt tất cả mọi hoạt động quân sự tại tại nam VN. Ngày 4/1 Ủy ban bầu cử Dân chủ Thượng viện thông qua nội bộ dự luật giống như tại Hạ Viện với 36 phiếu thuận, 12 phiếu chống. Dự luật chấm dứt chiến tranh đang tiến hành (Larry Berman No Peace No Honor trang 221)
Như vậy những năm 69, 72… Quốc hội đã ra luật hoặc dự định ra luật chấm dứt chiến tranh, cắt viện trợ miền nam VN để đổi lấy 580 tù binh còn bị Hà Nội giam giữ . Cuối tháng 11/1972, Tòa Bạch Ốc tiếp ông Nguyễn Phú Đức đại điện TT Thiệu, Nixon nói cho NP Đức biết ông đã bị các vị trưởng ban Thượng viện gồm John Stennis, Barry Goldwater và Gerald Ford … lưu ý nếu miền nam VN gây trở ngại hòa đàm, Quốc hội sẽ ra luật đổi lấy tù binh bằng rút hết quân, cắt viện trợ VNCH với tỷ lệ phiếu 2-1 tại Hạ Viện (Sách đã dẫn, trang 200).

Tiến sĩ Kissinger và Tướng Haig đã nhiều lần nhắc nhở ông Thiệu coi chừng nếu không chấp nhận Hiệp định miền nam VN sẽ bị Quốc Hội cắt viện trợ để đổi tù binh. Như vậy chủ trương cắt viện trợ quân sự miền nam VN đã manh nha từ 1969, 1972 không phải tới 1974, 1975 sau này họ mới siết cổ miền nam. Nixon kể lại (No More Vietnams, trang 169-70) đầu tháng giêng 1973 ông được biết Quốc hội sẵn sàng bỏ phiếu chấm dứt chiến tranh nếu Hành pháp không ký được Hiệp định ngưng bắn, các phụ tá của ông tiên đoán sẽ có thử thách lớn nếu Quốc Hội nhóm họp trở lại . Ngày 12/1/1973 Hạ viện Dân chủ bầu nội bộ với tỷ lệ 154 thuận, 75 chống để cắt hết viện trợ mọi hoạt động quân sự ở Đông Dương sau khi rút quân và lấy tù binh về. Nixon cho đấy là một cách đầu hàng hèn hạ nhất đối với những nhu cầu cấp thiết nhất của BV.
Khi Hiệp định chưa thành hình, Quốc hội không cắt viện trợ Đông Dương và VNCH vì sợ ảnh hưởng tới sinh mạng của lính Mỹ còn đóng tại đây, nhưng sau khi ký Hiệp Định, họ trở mặt rất nhanh và bắt đầu xiết cổ miền nam VN từ từ. Hạ Viện Mỹ 1972 Dân chủ chiếm đa số 242 ghế, Cộng Hòa 192 ghế, đảng nọ phá đảng kia, Dân Chủ chống đối chiến tranh VN rất mạnh, nó nắm giữ túi tiền, họ nắm đằng chuôi. Trước hết họ cắt giảm quân viện xương tủy mỗi năm khoảng 50%: Từ 2,1 tỷ tài khóa 1973 xuống còn một tỷ tài khóa 1974 và xuống còn 700 triệu tài khoá 1975, con số này thực ra chỉ bằng 500 triệu vì dầu thô lên giá, tiền mất giá (theo Henry Kissinger, Years of Renewal trang 471).

Tại Hạ viện những năm 1968, 1970, 1972 đảng Dân chủ luôn chiếm đa số
Năm 1968 Dân chủ 243 ghế (55.9%), Cộng Hòa 192 ghế (44.1%)
Năm 1970 Dân chủ 255 ghế (58.6%), Cộng Hòa 180 ghế (41.4%).
Năm 1972 Dân chủ 242 ghế (55.6%), Cộng Hòa 192 ghế (44.2%)
Dân chủ có chính sách đối lập với Cộng Hòa hiện đang làm chủ Tòa Bạch Ốc từ năm 1969, họ chống chiến tranh ngày càng mạnh hơn và được phong trào phản chiến ủng hộ rất nhiều.

Chính phủ Nixon ngày một yếu hơn vì bị Quốc hội chống đối, theo Kissinger (Years of Renewal trang 469) Nixon cho đường lối Dân chủ lật đỏ chính phủ đồng minh là không có đạo đức trong khi phong trào phản chiến cho Nixon là trở ngại hòa bình.
Trước ngày 27/1/1973, Nixon nghĩ nếu ông mang lại hòa bình, đem quân về nước và lấy lại được tù binh thì phong trào phản chiến sẽ không chống đối. Trái với niềm mong đợi, sau khi ký Hiệp định họ lại chống đối mạnh hơn trước
(I thought their opposition to our policy would end with the war end. Instead, it increased- No More Vietnams, p. 182).

Hết chống chiến tranh nay họ quay ra chống thi hành cưỡng bách Hiệp định và chống Nixon qua vụ Watergate, ông thú nhận ngay từ năm 1973 bị bất lực trước áp lực của Quốc hội

Khả năng trừng phạt Bắc Việt tiêu tan thành mây khói cuối tháng tư 1973. Không phải tôi nản chí, tôi muốn trả đũa, nhưng sự ủng hộ của quốc hội ngày một yếu. Mỗi lần tôi đề cập tới trả đũa thì một làn sóng phản đối nổi lên tại Quốc hội, mỗi lần nhắc lại thì họ còn phản đối mạnh hơn nữa.

Tháng 5, tôi không còn đủ khả năng kiếm đủ số phiếu để yểm trợ cho những lời hăm doạ của tôi bằng vũ lực và Quốc hội trong bất cứ trường hợp nào đã tước đoạt quyền hạn để hành động của tôi.”
No More Vietnams, trang 178

Từ tháng 4/1973 vụ Watergate ngày càng nặng hơn, Quốc hội thù nghịch, phong trào phản chiến, đảng Dân chủ…đều nhận thức Nixon là trở ngại cho hòa bình mặc dù đã ký kết Hiệp định. Họ thừa biết Nixon và Kissinger đã chuẩn bị kế hoạch đối phó với sự vi phạm của Hà Nội, sẽ trả đũa nặng nề bằng sức mạnh của không lực Mỹ cũng như sự tiếp tục ủng hộ giúp đỡ Đông Dương . Nếu còn Nixon thì không thể có hòa bình thực sự.

Hòa bình theo chủ trương của Dân chủ, của Quốc hội thù nghịch và phong trào phản chiến có nghĩa là chấm dứt mọi sự yểm trợ quân sự cho Đông Dương bao gồm cắt viện trợ, không cưỡng bách thi hành Hiệp định. Rõ ràng là đường lối của họ bỏ rơi Đông Dương đấu hàng Cộng Sản như Kissinger nói trong Years of Renewal, trang 471

“Không trừng phạt vi phạm thì thỏa hiệp ngưng bắn chỉ là đầu hàng trá hình
(Without a penalty for violations, a cease-fire turns into a subterfuge for surrender)”

Nixon cũng nói tương tự

Ngày 2 /1/1973 khối Dân chủ Hạ viện bầu nội bộ với tỷ lệ 154-75 để cắt hêt viện trợ cho mọi hoạt động quân sự ở Đông Dương vừa khi đã đưa quân về nước và lấy lại tù binh. Đó có thể là cách đầu hàng hèn hạ nhất đối với nhu cầu cấp thiết nhất của BV. Hai ngày sau, bầu cử nội bộ Dân Chủ Thượng Viện cũng thông qua dự luật tương tự tỷ lệ 36-12”

No More Vietnams trang 168

Tháng 6/1973 Quốc hội từ chối cấp ngân khoản cho Nixon mở chiến dịch oanh tạc Khmer đỏ để yểm trợ chính quyền Lon Nol, họ còn bắt đầu soạn tu chính án cấm mọi ngân khoản dành cho việc xử dụng không quân cũng như các hoạt động quân sự khác tại Đông Dương. Nixon miễn cưỡng phải ký thành luật ngày 30/6, có hiệu lực ngày 15/8/1973. Theo đó nay không còn ngân khoản nào dùng trực tiếp và gián tiếp cho các hoạt động quân sự tại Mên, Lào, Bắc và Nam VN hay ngoài khơi Mên, Lào, Bắc, Nam VN. Nixon coi như thực sự không còn quyền hạn để gìn giữ hoà bình tại VN.
Ngoài ra tháng 11/1973 Quốc hội lại ban hành luật War Powers Act, tên chính thức là War Powers Resolution để hạn chế quyền Tổng thống, nó qui định Tổng thống phải tham khảo ý kiến Quốc hội trước khi tham chiến.

Trong vụ đặt máy nghe lén đảng Dân chủ tại khách sạn Watergate Nixon bị báo chí, Quốc hội chống đối dữ dội. Giữa năm 1974 Hạ viện ra những điều khoản để tố cáo, đàn hạch Tổng thống như cản trổ Công lý, lạm dụng Quyền lực. Ngày 8/8/1974, lần đầu tiên trong lịch sử Mỹ Tổng thống Richard Nixon tuyên bố từ chức.

Vụ tai tiếng Watergate đã mang lại thắng lớn cho đảng Dân chủ tại cuộc bầu cử Hạ Viện ngày 4/1/1974, họ lấy thêm được 49 ghế, trong đó 48 ghế là của đảng Cộng Hòa và làm tăng thêm khối đa số của họ lên hơn hai phần ba tổng số Hạ Viện.

Nay Dân chủ tại Hạ Viện chiếm 291 ghế hay 66.9%, Cộng Hòa chỉ còn 144 ghế hay 33.1%. Cuộc bầu cử này chính là bản án tử hình cho miền nam VN, cho cả Đông Dương. Những đảng viên Dân chủ mới vào Hạ Viện kỳ này đại đa số chống chiến tranh Đông Dương hăng hái.

Kissinger nói.

“Một sự thúc đẩy mới thêm vào khi đảng Dân chủ thắng lớn trong kỳ bầu cử Hạ Viện 1974. Nó đã mang một khối những dân biếu mới tới Hoa Thịnh Đốn mà Lịch Chính Trị Mỹ 1978, The Almanac of of American Politics, 1978 đã coi nó như một khu vực chính trị trong đó việc chống chiến tranh Việt Nam là động cơ áp đảo nhất.
Chỉ mới hai năm trước trong cuộc bầu cử Tổng thống năm 1972, George McGovern đã bị đại bại trong khi đối thủ thắng cử lớn thứ nhì trong lịch sử Mỹ về vấn đề Vietnam. Trong cuộc bầu cử 1974, những người ủng hộ xa xưa của ông nay đạt thắng lợi trong vấn đề Watergate và xuất hiện trên một vị thế để đảo ngược quyết định về Vietnam của những cử tri trước đây”
Years of Renewal, trang 479

Sự thất bại nhục nhã của Dân chủ trong cuộc bầu cử Tổng thống năm 1972 đã khiến họ vô cùng cay đắng. Nixon thắng 66.7% số phiếu phổ thông, hơn McGovern 18 triệu phiếu . Cộng hòa đã thắng tại 49 tiểu bang, điểm cử tri đoàn là 520 so với 17 của Dân chủ. Nixon đã đem quân về nước, lấy tù binh, không bỏ rơi đồng minh, hòa được với Nga, bang giao với Trung Cộng…

Sau khi thắng lợi qua Watergate, đánh đổ chính phủ Nixon, đảng Dân chủ thừa thắng tiến lên dành thắng lợi mới trong cuộc bầu cử Hạ Viện và có thừa điều kiện để trả thù Cộng hòa về vấn đề Việt Nam. Họ đi ngược lại hoàn toàn chính sách của Nixon, chống chiến tranh Việt Nam tới cùng, xiết cổ đồng minh dần dần không thương tiếc.

Hậu quả của cắt giảm viện trợ khiến cho Quân đội VNCH lâm vào tình trạng thiếu thốn tiếp liệu đạn dược. Ông Cao Văn Viên trong Những Ngày Cuối VNCH trang 86, 87 cho biết không quân phải giải tán 200 phi cơ các loại chiến đấu, vận tải, thám thính…nay chỉ cung ứng 50% yểm trợ hỏa lực so với giai đoạn 1973-1974. Trực thăng vận bị cắt giảm 70%, các hoạt động hải quân bị cắt giảm 50%, tại sông ngòi chỉ còn 28%, giải tán 600 giang thuyền. Từ trang 89 tới trang 94 tác giả đề cập vấn đề đạn dược tiếp liệu, từ tháng 8/1974 tới tháng 2/1975 quân đội chỉ sử dụng 19,808 tấn đạn hàng tháng chỉ bằng 27% so với 73,356 tấn dùng hàng tháng trong thời gian trước đó. Hỏa lực đã giảm 70%, trang 92 tác giả cho biết đạn tồn kho các loại súng tháng 2/1975 chỉ còn đủ xài cho một tháng.

Cuối 1974 sau trận Thượng Đức, một sĩ quan cao cấp quân đội BV cho biết quân đội miên Nam đã suy yếu rõ rệt, thiếu phi cơ vận chuyển, sĩ quan này cho biết CSBV nay mạnh hơn đối phương. Hà Nội phân tích về hậu quả của cắt giảm quân viện tại miền nam VN.

Theo Kissinger tháng 1/1975 báo Học tập cùa CS viết.

Hỏa lực và sự di động của quân Ngụy giảm mạnh trong quí ba 1974, hỏa lực pháo binh hàng tháng của quân Ngụy giảm ba phần tư (3/4) so với 1973. Số phi vụ chiến thuật hàng ngày của Ngụy giảm chỉ còn một phần năm (1/5) so với năm 1972. Số máy bay Ngụy so với thời ký chiến tranh trước đây giảm 70%, trực thăng giảm 80%…Kho bom đạn Ngụy giảm mạnh và gặp nhiều khó khăn về tiếp liệu, bảo trì, sửa chữa các loại máy bay, xe tăng, tầu thuyền, vũ khí nặng
Years of Renewal, trang 480

Dưới thời TT Nixon, chính phủ đã đề nghị Quốc hội cấp 1 tỷ 4 viện trợ quân sự cho miền nam VN, Ủy ban quốc phòng Thượng viện do Nghị sĩ John Stennis làm chủ tịch cắt bớt còn 1 tỷ, nay dưới thời TT Ford Ủy ban chuẩn chi Thượng viện do Nghị sĩ John McClellan làm chủ tịch cắt 300 triệu còn 700 triệu (Years of Renewal trang 472).

Vài tuần sau khi Ford lên nhậm chức thay Nixon, ông Thiệu cử Tổng trưởng ngoại giao Vương Văn Bắc đi Hoa Kỳ hạ tuần tháng 9/1974 để vận động xin 300 triệu quân viện bổ túc để phục hồi 1 tỷ như cựu TT Nixon đã ký trước đây.

Ngày13/12/1974 Cộng quân mở cuộc tấn công qui mô Phước Long tới ngày 7/1/1975 họ làm chủ hoàn toàn thị xã. Mấy tuần sau, ngày 24 và 25 tháng 1/1975 TT Thiệu gửi hai bức thư cho TT Ford phản đối CSBV tấn công chiếm Phước Long vi phạm trắng trợn Hiệp định Paris. Ông Thiệu diễn tả cuộc tấn công này của địch rất qui mô hùng hậu bằng hỏa lực mạnh và thiết giáp. Trái lại quân đội miền nam VN đã phải đếm từng viên đạn pháo để tiết kiệm để còn đạn sử dụng.

(He described the intensity of the North Vietnamese attacks, backed by the “massive application of fire power and armor”. By contrast, the South Vietnamese troops “had to count every single shell they fired in order to make the ammunition last” – Years of Renewal, p. 490)”.

Mặc dù ban tham mưu tòa Bạch Ốc chống đối việc xin viện trợ này nhưng TT Ford và Kissinger vẫn tiếp tục chính sách của Nixon ủng hộ đồng minh VNCH. Theo lời kể của Kissinger trang 490 sách kể trên, bức thư của ông Thiệu đã khiến TT Ford vượt qua chống đối của ban Tham mưu, ông đã họp với các vị Trưởng ban Quốc hội ngày 28/1/1975 cho họ biết BV nay rất mạnh trong khi miền nam VN thiếu thốn nhiều về đạn dược tiếp liệu. Ông nói cho Quốc hội biết ông đã nói với VNCH nước Mỹ chỉ có thể gửi các phương tiện chiến đấu để họ tự vệ như đã ghi trong Hiệp định.

TT Ford cũng cho Nội các và nhiều viên chức thân cận biết đã lập hồ sơ đưa Hạ Viện để xin quân viện bổ túc cho Đông Dương, ông cho biết chính phủ Hoa Kỳ mạnh dạn yểm trợ yêu cầu này. Ford cũng yêu cầu các cộng sự viên của ông hãy ủng hộ khoản viện trợ này vì nó là vấn đề sinh tử và hợp lý .

Với các vị trưởng ban tại Quốc hội, Hành pháp nhấn mạnh nếu ta không làm đầy đủ thì coi như chẳng làm gì cả. Chẳng lẽ ta từ bỏ tất cả những hy sinh ta đã làm trước đây, ta đã hy sinh hơn 55 ngàn người, hy sinh tiền của để rồi không cấp đủ phương tiện cho họ tự vệ. VNCH đồng ý chiến đâu một mình trên căn bản ta cung cấp cho họ phương tiện chiến đấu, họ vẫn còn cơ hội, họ phụ thuộc vào sự giúp đỡ của Hoa Kỳ.
Lá bài duy nhất để cứu miền nam là xin viện trợ bổ túc nếu không Sài Gòn sẽ sụp đổ, nhưng nếu viện trợ bổ túc kéo dài cũng không cứu vãn tình hình được. Ai cũng biết con số 300 triệu không đủ nhưng nó tránh được các thủ tục vì nay chỉ xin lại khoản đã bị Ủy ban chuẩn chi Hạ viện cắt mà thôi.

Quốc hội lãnh đạm với những lời kêu gọi của TT Ford do Kissinger biên soạn. Thượng nghị sĩ trưởng khối đa số Mansfield giải thích rằng ông bỏ phiếu chống viện trợ vì bạn (tức lính chiến) của chúng ta hiện ở đây, không còn ở Á đông. Phát ngôn viên Hạ Viện Carl Albert trước đây hay ủng hộ chính phủ nay phát biểu:

“Tôi không nói tôi sẽ làm gì nhưng khi tất cả mọi người ở đây chống lại ông thì ông làm gì được?” (Years of Renewal trang 491).

Thượng nghị sĩ Jackson cho biết năm ngoái ông bỏ phiếu cắt 300 triệu này và năm nay ông không ủng hộ việc trả lại khoản này. Vấn đề cuộc chiến VN không thể giải quyết bằng cấp thêm 300 triệu về đạn dược.

Hố cách biệt giữa Quốc Hội và Hành pháp khó mà bắc cầu qua được. Khoản viện trợ này cần phải được chấp thuận từ tháng 3/1975, chậm trễ sẽ khiến Quân đội VNCH mất tinh thần vì thiếu thốn tiếp liệu đạn dược, tử thương lên cao. Khi Quốc hội tỏ ra thờ ơ với khoản viện trợ bổ túc, Hà Nội biết là chắc ăn trong chiến dịch tổng tấn công sắp tới. Quốc hội càng xa lánh VN, Sài Gòn ngày càng mất tinh thần, Sài Gòn càng yếu thì Quốc hội càng chống đối và nhấn mạnh ở việc chấm dứt chiến tranh, đó là cách nói bóng bẩy thực ra chỉ là “xiết cổ đồng minh” của chúng ta.

(the more congressional oppposition insisted on the need to “end the war” – its euphemism for strangling our allies – Sách kể trên, trang 493).

Những người chống viện trợ nói chính phủ tìm giải pháp chính trị hơn là quân sự nhưng thực tế cho thấy Hà Nội không bao giờ đếm xỉa tới ngoại giao mà chỉ có quân sự, nếu ta không có sức mạnh thì không thương thuyết gì với họ được. Trong khi Hà Nội chọn giải pháp chiến thắng quân sự tại miền nam, Hoa Thịnh Đốn vẫn bàn vu vơ về số tiền viện trợ 700 triệu cho VNCH, thật ra nó chỉ bằng 1/4 của năm 1973.

Ngày 20/1/1974 Bullington, viên chức ngoại giao đặc trách về VN sau khi viếng Sài Gòn cho biết 300 triệu không thấm gì, không đủ thay thế sửa chữa các cơ phận. Nếu không được cấp thêm thì miền nam không hy vọng tồn tại. Theo Kissinger khi Hà Nội tấn công Phước Long ồ ạt, Quốc hội không tỏ phản ứng, không thấy họ tỏ sự quan tâm nào về viện trợ bổ túc cũng như một hình thức giúp đỡ nào, Kissinger cũng cho biết may mà có người trong hành pháp chia xẻ quan điểm cơ bản với ông, người đó chính là TT Ford, rút lại chỉ còn Ford và Kissinger còn nghĩ tới việc yểm trợ đồng minh.

Dưới áp lực truyền thông và Ban Tham mưu khuyên nên từ bỏ VN và từ bỏ Kissinger. Ford bị các đồng viện cũ từ chối ủng hộ nhưng ông vẫn bình tĩnh và kiên quyết nhưng cả hai Ford và Kissinger đều bất lực để ngăn cản bước tiến của CSBV. Hành pháp gửi văn thư kêu gọi Moscow, Bắc Kinh, Hội đồng Bảo an và phản đối với 11 phe, nước đã ký bảo đảm Hiệp định Paris nhưng không có hiệu quả gì. Chính phủ gửi thư cho những nước tham dự hòa đàm không phải VN và bốn nước trong Ủy ban quân sự bốn bên kiểm soát đình chiến Canada, Hungary, Ba Lan, Nam Dương nhưng chỉ được vài nơi trả lời mơ hồ, họ chán chiến tranh VN, đa số thầm lặng.

Những người lớn tiếng to mồm tại Quốc hội và giới truyền thông tạo ra cuộc tranh luận và chống đối dữ dội những ý kiến đối lập. Họ chống liên hệ, chống giúp đỡ đồng minh VN, cuộc chống đối lên tới đỉnh cao, họ mở chiến dịch qui mô chống lại việc cấp phương tiện tự vệ cho các nước Đông Dương Việt, Mên Lào. Số báo Los Angeles Times ngày 6 tháng 3/1975 không những kêu gọi bỏ viện trợ bổ túc mà còn đề nghị cắt bỏ thật nhiều số viện trợ 700 triệu đã được chấp thuận từ trước.

Họ lý luận ta cần phải đặt mức độ viện trợ cho miền nam VN để khuyến khích Nguyễn Văn thiệu theo đường lối chính trị hòa giải và nhân nhượng chứ không phải để khuyến khích ông ta củng cố chế độ cá nhân của ông ấy.

Họ ngụy biện cho việc xiết cổ đồng minh đang cần giúp đỡ.

Quốc hội Mỹ trì hoãn viện trợ, thượng nghị sĩ Humphrey đề nghị cử một phái đoàn Quốc hội đi thăm Sài Gòn để được trợ giúp chính xác hơn , thực ra họ để cho Sài Gòn từ từ tắt thở. TT Ford ngờ vực đó chỉ là cách từ chối khéo. Cuối cùng một thượng nghị sĩ và bẩy dân biểu tới Sài gòn quan sát vào đầu tháng 3/1975 nói là để thẩm định tình hình trước khi khi quyết định bỏ phiếu, sự thực họ chỉ làm mất thì giờ vô ích trong khi VNCH đang ngắc ngoải. Họ rời Sài Gòn thì Cộng quân tấn công Ban Mê Thuột ngày 10/3, mấy ngày sau 13/3 khi BV chiếm được Ban Mê Thuột, Quốc hội Mỹ mà đa số là Dân chủ phản chiến đã chống mọi hình thức viện trợ cho miền nam VN.

Một ngày sau khi mất Ban Mê Thuột, TT Thiệu bay ra Cam Ranh họp các Tướng Cao Văn Viên, Trân Thiện Khiêm, Đặng Văn Quang, Phạm Văn Phú để bàn kế hoạch triệt thoái Cao nguyên rút về Tuy Hòa theo đường số 7. Cuộc triệt thoái bị Cộng quân truy kích gây thiệt hại nặng, tới cuối tháng 3/1975, một phần vì kế hoạch tái phối trí sai lầm của TT Thiệu, một phần vì hỏa lực yếu kém của VNCH do cắt giảm viện trợ đã khiến cho cả hai Quân khu tan rã trong vòng hai tuần lễ.

Siết chặt lần cuối cùng.

VNCH mất hai Quân khu Một và Hai, mất luôn hai Quân đoàn Một và Hai trong hai tuần lễ từ 14/3 tới 30/3/75. Ta mất 5 Sư đoàn bộ binh (22, 23, 1, 2, 3), 11 liên đoàn Biệt động quân, mất gần hết 2 Sư đoàn tổng trừ bị, vũ khí đạn dược coi như mất hết.
Kissinger và Ford đã cử Tướng Weyand, Tham mưu trưởng tới Sài Gòn để thẩm định tình hình quân sự trong một tuần kể từ 28/3/1975, ông trở lại Hoa Kỳ ngày 4/4/1975. Weyand đề nghị cho oanh tạc bằng B-52 trở lại và đồng thời xin viện trợ khẩn cấp722 triệu cho quân đội VNCH, điều xin tái oanh tạc sẽ trái luật, khoản viện trợ trên đây rất lớn trong khi kinh tế đang suy thoái và chỉ có một ít người tin là có thể giúp VNCH cầm cự được.

Tướng Weyand cũng như Kissinger dù không tin là Quốc hội có thể cấp cho khoản tiền lớn này nhưng cũng đề nghị TT Ford đưa ra Quốc Hội để giữ uy tín cho Hoa Kỳ trên thế giới, chứng tỏ Hoa Kỳ không bỏ rơi Đồng minh.

“Ít ngày sau dân biểu Whitten thuộc tiểu bang Mississipi đã hỏi Tướng Weyand
“Đề nghị của ông dựa trên cơ bản nào trừ việc chỉ làm cho có hình thức, khi chúng ta đều biết chắc là sắp thua rồi?.

Tướng Weyand trả lời: “Thưa ông, cái cách mà chúng ta làm hay cái hình thức như ông nói nó cũng quan trọng như thực chất của vấn đề vậy”
Walter Isaacson, Kissinger A Biography trang 641.

Kissinger phản đối đề nghị xin tái oanh tạc của Weyand vì sợ người dân chống đối, xuống đường biểu tình. Đa số cố vấn của TT Ford đều chống đối đề nghị xin viện trợ trước bầu không khí phản chiến của Lập pháp. Vả lại năm 1974, 1975 kinh tế Mỹ bị suy thoái nặng, tỷ lệ thất ghiệp cuối năm 1974 lên 7.1, đầu năm 1975 lên 8.1 càng khiến cho việc xin cấp viện trợ thật mong manh.

Bộ trưởng quốc phòng Schlesinger cũng chống xin viện trợ, ông cho là tình hình miền nam VN nay không hy vọng gì. Kissinger đồng ý tình hình không thể cứu vãn nổi nhưng cho rằng đề nghị xin Quốc hội viện trợ 722 triệu là để cứu vãn danh dự cho Hoa Kỳ. Ford đồng ý mặc dù không nhiệt tâm lắm.

Ngày 10/4/1975 Ford ra Quốc hội xin 722 triệu, Kissinger soạn diễn văn cho Tổng thống, có ý chỉ trích Quốc hội đã hủy hoại Hiệp định Paris. Tại Quốc hội không khí tiếp đón lạnh nhạt, không có có ai vỗ tay. Khi Tổng thống ngỏ lời xin viện trợ thì có hai dân biểu Dân chủ bỏ ra khỏi phòng họp. Quốc hội lẫn người dân đều không ai còn muốn ủng hộ cuộc chiến tranh VN, chỉ có TT Ford và Tiến sĩ Kissinger là hai người cuối cùng của guồng máy chính quyền còn muốn cứu miền nam VN.

TT Ford yêu cầu Quốc hội chấp thuận ngân khoản 722 triệu và ấn định thời hạn 10 ngày để Quốc hội biểu quyết vì tình hình cấp bách của VNCH. Như Kissinger đã nói, việc đưa ra Quốc hội ngân khoản này chỉ để cứu vớt chút uy tín cho Hoa Kỳ, chứng tỏ cho thế giới biết người Mỹ vẫn hết lòng để cứu Đồng minh. Chính Kissinger cũng như Ford đều đã biết rõ thực trạng tình hình chống chiến tranh VN của Lập pháp.
Ngày 18/4/1975 ngân khoản viện trợ khẩn cấp 722 triệu Mỹ kim đã bị Quốc hội bác bỏ, Sư đoàn 18 rút bỏ Xuân lộc ngày 20/4. Hôm sau 21/4 /1975, TT Thiệu từ chức. Cộng quân dốc toàn lực gần 20 Sư đoàn bao vây Sài Gòn với hỏa lực áp đảo . Quân đội VNCH thiếu hụt nhân sự, đạn dược tiếp liệu kiệt quệ hầu như bất lực trước sức tấn công của địch và sụp đổ ngày 30/4/1975.

Nhiều người Mỹ và cả người Việt Quốc gia cho rằng TT Thiệu sai lầm trong kế hoạch tái phối trí lực lượng để mất miền Nam, thậm chí một vị Tổng thống Hoa Kỳ gần đây còn cho rằng VNCH thua trận vì họ không chịu đánh chỉ chờ Mỹ đánh dùm!! Sự sai lầm của ông Thiệu khiến nhiều người Mỹ nhân cơ hội đổ trách nhiệm cho miền Nam đã gây lên tấn thảm kịch 30/4/1975.

Nay sự thật đã rõ ràng, sự sai lầm của TT Thiệu chỉ là nguyên nhấn gần, thực ra như đã nói ở trên ngay từ 1969, 1972 Lập Pháp Mỹ đã quấn dây thừng định xiết cổ Đông Dương nhưng chưa thực hiện được. Dần dần đảng Dân chủ phản chiến ngày càng củng cố quyền lực tại Quốc hội, họ ngày càng thắt chặt sợi dây thừng quấn quanh chân tay, mình nạn nhân từ 1973 bằng biện pháp cắt giảm quân viện dần dần.

Theo bản tin của BBC.com ngày 10/5/2006 một buổi hội thảo qui mô tổng kết cuộc chiến tranh Việt Nam đã được tổ chức tại Sài Gòn trong hai ngày 14 và 15/4/2006. Trong số các bài đọc ở hội thảo, tác giả Trần Tiến Hoạt và Lê Quang Lạng thuộc Viện Lịch sử Quân sự Cộng sản Việt Nam có bài tham luận về nguồn chi viện của Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa dành cho miền Bắc trong cuộc chiến. Giai đoạn 1969-1972 BV được Nga, Trung Cộng viện trợ 684,666 tấn vũ khí trang bị kỹ thuật. Giai đoạn 1972-1975 họ nhận được 649,246 tấn hàng vũ khí, số lượng hàng viện trợ của hai giai đoạn tương đương nhau.

Theo Kissinger (Years of Renewal trang 481) CSBV đã xin được viện trợ của Sô viết tăng gấp bội. Thàng 12/1974, một viên chức cao cấp Nga viếng Hà Nội. Tổng tham mưu trưởng Nga Viktor Kulikov tới tham dự họp chiến lược với Bộ chính trị BV, sau đó Sô Viết đã chở vũ khí viện trợ quân sự cho Hà Nội tăng gấp 4 lần trong những tháng kế tiếp. Nga khuyến khích BV gây hấn.

Tại chính trường cũng như trên toàn nước Mỹ trước ngày TT Nixon từ chức 8/8/1974, số người ủng hộ cuộc chiến chỉ còn đếm trên đầu ngón tay ngoài Nixon, Kissinger và một vài một vài phụ tá thân cận. Vào những ngày cuối cùng của miền nam VN, khi mà người Mỹ đã chán ngấy cuộc chiến sa lầy, chỉ còn hai người có chút tình với sự tồn tại của người bạn đồng minh, quanh quẩn chỉ có Ford và Kissinger. Ngay cả Nội các, Cố vấn, Phụ tá… cũng đã can ngăn Tổng thống đừng dính dáng vào cuộc chiến VN.

Quốc hội đã biết rõ lực lượng CSBV rất hùng hậu nhưng họ vẫn cắt giảm viện trợ miền Nam cho tới khi bị đối phương đè bẹp. Những sợi dây thừng quấn quanh cổ miền nam VN từ 1973, 1974 không phải của Văn Tiến Dũng, của Hà Nội mà chính của Lập pháp Hoa Kỳ. Từ sau Hiệp định Paris, sợi dây thừng trói chân tay miền nam VN dần dần xiết chặt qua các đợt cắt giảm quân viện 1973, 1974, 1975, cuối cùng qua bác bỏ các khoản viện bổ túc tháng 3/1975, viện trợ khẩn cấp tháng 4/1975.

Khi ấy sợi dây thừng đã siết cổ xong nước Việt Nam Cộng Hòa

© Trọng Đạt

© Đàn Chim Việt

—————————————

Tài Liệu Tham Khảo

Henry Kissinger: Years of Renewal- Simon & Schuster 1999
Walter Isaacson: Kissinger A Biography Simon & Schuster 1992.
Larry Berman: No Peace No Honor, Nixon, Kissinger and Betrayal in Vietnam-The Free press 2001
Richard Nixon: No More Vietnams, Arbor House, New York 1985
Marvin Kalb and Bernard Kalb: Kissinger; Little, Brown and company 1974
Robert Dallek: Partners In Power, Nixon and Kissinger – Harper Collins publishers 2007
The Word Almanac Of The Vietnam War: John S. Bowman – General Editor, A Bison-book 1985
Stanley Karnow: Vietnam, A History, A Penguin Books 1991
Wikipedia: Opposition to the US involvement in the Vietnam war

Cao Văn viên: Những Ngày Cuối Của Việt Nam Cộng Hoà, Vietnambibliography 2003
Nguyễn Đức Phương: Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập, 1963-1975, Làng Văn 2001.
Nguyễn Kỳ Phong: Vũng Lầy Của Bạch Ốc, Người Mỹ Và Chiến Tranh Việt Nam 1945-1975, Tiếng Quê Hương 2006

 

 

34 Phản hồi cho “Siết cổ miền Nam”

  1. Timsuthat says:

    BS LMC: You won’t like what I have to say, but maybe someone … somewhere can benefit!

    Trích: “tôi chả theo phe nào khi phê phán, bởi tôi lấy dân làm gốc”! … Khi phê phán thì đương nhiên cần phải có thái độ không thiên vị, lấy công bằng làm căn bản, nhưng không thể không có một chọn lựa để đưa tới một kết luận, dù kết luận ấy là “huề cả làng” hoặc “không có giải pháp”. BS lấy dân làm gốc, thì tôi xin lấy “con người” làm gốc, vì tuy VN có những đặc thái riêng, vấn đề “con người” của dân VN cũng không khác gì vấn đề “con người” của nhiều dân tộc khác trên thế giới mấy, trừ khi cho rằng dân VN, dân Tàu, dân Triều Tiên “không giống con người” tí nào!

    Và trong chiến tranh VN, ý thức hệ Tự Do-CS là yếu tố chính, quan trọng nhất, do đó không thể có kết luận “huề cả làng” được nếu ông tin rằng CNCS đã là một lựa chọn quá sai lầm cho VN (một cách nói tử tế nhất; và tôi cho là đây vẫn là chính kiến của ông)! Xin hãy xác định, đây là vấn đề triết lý về chính trị, kinh tế, nhân quyền, v.v.. tức là ý thức hệ, không phải vấn đề phe “người này”, phe “người kia”; Dân chủ không chỉ là “xu thế thời đại” thịnh hành hơn CS xưa mà người ta cần theo, nhưng vì tính chất khoa học xã hội có ích lợi của nó.

    Vì vậy, khi ông nói “Tôi xin phép khước từ đứng về phía quốc hay cộng này…” thì tôi xin hiểu là ông nói về phe nhóm, tập thể. Khổ nỗi BS ạ, con người qua đi (BS thấy hàng ngày ?) nhưng tư tưởng là cái tồn tại, nó sống trong văn hóa và nó định đoạt hưng suy của tập thể đó. BS có thể muốn bày tỏ lòng rộng lượng cho rằng cả 2 phía đều đã bị thiệt hại, chẳng ai thắng – đúng, và là một thái độ đáng tôn trọng, giống như khi một bệnh nhân tới cần cấp cứu, lương y không cần biết là họ đã là tự gây cho họ hoặc do người khác gây ra và vẫn làm bổn phận của mình. Nhưng ở đây không thể có người lương y vô tư chữa cho bệnh nhân, mà chỉ có chính người trong cuộc – 2 bệnh nhân – cần phải tự chữa cho họ; không những thế, 2 bệnh nhân này đều không chấp nhận người ngoài cuộc chữa cho họ, vì chính người ngoài cuộc cũng sẽ có định kiến về vấn đề ý thức hệ nếu họ làm người chủ động trong giải pháp!

    Vì do là, bất cứ một tập thể nào cũng sẽ phải có một hình thể chính trị để giúp nó phát triển; một tình trạng vô chính thể (anarchy) không thể hiện hữu nếu tập thể đó còn muốn sinh tồn. Do đó dù muốn hay không, ông – hay bất cứ người VN nào trong đất VN – cũng phải chọn lựa một chính thể để xây dựng cuộc đời mình, hoặc người khác sẽ chọn cho ông (như cha mẹ, hoặc những người lãnh đạo trong tập thể đó). Sự chọn lựa do đó có ý thức rõ rệt, đầy đủ hoặc hoàn toàn vô tình, chấp nhận kẻ khác quyết định cho mình năm 54 vẫn là một chọn lựa, kể cả việc chọn chạy qua Thái, Miên hay nước nào khác để sinh sống! (Đời không có “tự do tuyệt đối” vì thế, khi một người càng ý thức càng bị mang nhiều trách nhiệm tự chọn lựa. Các giải pháp dân chủ cũng không có “dân chủ tuyệt đối”, do sự tham gia chính trị bởi mọi công dân trong mọi vấn đề không thực tiễn – và do đó phải có người được ủy quyền thay mặt cho họ.)

    Tôi dài dòng trong vấn đề chọn lựa trên là vì HCM và nhóm lãnh tụ ĐCSVN đã chọn CNCS để áp dụng cho VN trong nhiều mục đích lẫn lộn, nhưng CNCS vẫn là một sự bất biến qua các giai đoạn, dù dưới nhiều tên đảng khác nhau.

    Và qua lý thuyết lẫn lịch sử, CNCS đã được chứng minh về cái sai lầm và tai hại của nó ra sao rồi, khỏi phải lập lại ở đây. Do đó, về yếu tố phe người quốc cộng, khi ông tuyên bố “không theo phe nào” thì tôi thấy có 2 vấn đề:

    1.
    Đối với người CS, ông có một sự lầm lẫn giữa sự cảm thông cần có về hoàn cảnh của dân Bắc thời đó (kể cả các đảng viên ĐCS), và sự có tội (hay lỗi) qua những gì họ đã làm.

    Dựa vào căn bản triết lý trong pháp luật phổ thông về việc này: Hành động và hậu quả của sự việc vẫn là căn bản để phê phán nó tốt hay xấu, còn mức độ tội của người gây ra sự việc tùy thuộc trong những yếu tố như sự chủ ý và hoàn cảnh (intent, motive, willfulness or recklessness, v.v.). Thế giới này thiếu gì những người yêu gia đình nhưng phạm tội ác để kiếm tiền nuôi vợ con, hay những người không chủ ý nhưng vẫn gây ra tai nạn chết người!

    HCM và tập đoàn lãnh đạo ĐCS là những người chủ tâm mang CNCS vào và đặt chính thể này cho VN qua thuyết phục hoặc áp bức, đặt quyền lực hoàn toàn trong tay đảng CS, lãnh đạo mọi chính sách và công cuộc chiến tranh, và do đó họ là tội phạm lớn nhất. Các đảng viên đều có lỗi với dân VN vì họ đã là đồng lõa; dù với một chế độ tuyên truyền tẩy não, bưng bít thông tin và che giấu sự thật, công lý sẽ đòi hỏi ít nhất là sự thay đổi trong ý thức của họ.

    Với thái độ đứng giữa hay đứng ngoài của ông, làm sao ông có thể mong người CS thức tỉnh và thay đổi trong hòa bình, nếu ông không cho người phạm tội biết họ phạm tội? Khi ông không đứng về phía VNCH, hẳn ông đã công nhận ĐCS không sai lầm khi tấn công chiếm miền Nam?

    Đối với những người CS tự nhận thức được và từ bỏ CS, thì đương nhiên không cần ranh giới “quốc cộng”; còn những người trong đảng hoặc ngoài đảng nhưng đã bị nhồi sọ lâu nay thì sao?

    Do đó tôi thấy một điều rất không ổn ở đây giữa thái độ “không theo phe nào” và đòi lật đổ ĐCS trong các comment trước đây! Quả là một paradox khó hiểu.

    2.
    Hãy tạm cho là ông không muốn liên hệ tới VNCH nữa, vì ông cho nó cũng là một sai lầm lớn.

    Vậy đó là một sự tách rời vì ý thức hay vì những cảm tính như thù hận phe nhóm, tự ái của kẻ trong hàng ngũ thua, hay quá tự ti về những lỗi lầm của miền Nam mà đáng nhẽ phải được đánh giá cho chính xác hơn, v.v.?

    Nếu cách biệt giữa hai ý thức hệ của 2 miền không đủ thuyết phục ông là CNCS và ĐCS cần phải được chống lại, ngăn cản bằng mọi cách – như qua thể chế VNCH – thì tôi không còn tin tưởng gì về ý thức của ông trong vấn đề dân chủ tự do cho VN, vì tôi nghĩ các nguyên tắc cho dân chủ thì VNCH có đủ cả; sự thất bại của nó là do vấn đề đối phó với xâm lăng của CSBV và bất trung của Mỹ, không ở trong căn bản thiếu dân chủ tự do! Tôi cam đoan một chế độ dân chủ cho VN trong tương lai cũng có nhiều nguyên tắc tương tự như VNCH – giống như các thể chế dân chủ khác trên thế giới.

    Dưới đây là những biện luận chống lại VNCH mà tôi thường nghe từ phía CS hay cựu-CS, nhưng cũng cả từ những người VNCH cay cú (hoặc cả thành phần thứ ba “lạ” nữa). Nhưng trước hết, tôi xin xác định từ “chính danh” ở đây là “legitimacy”, trái lại với “ngụy” (puppet government) hoặc “đạo tặc” hay “giả mạo” (rogue government).

    – Ngụy:
    Dù không ít những ý kiến bất đồng, cả hai miền đều đã có chính phủ chính danh đại diện cho hai chính thể khác nhau khi được công nhận bởi các đồng minh (hay các quốc gia trung lập) trong chính trường quốc tế; hai chính thể khác biệt được dựng lên bởi chọn lựa của khối lãnh đạo và người dân. Chính phủ VNCH chưa hề là “ngụy” vì ngoại trừ gián đoạn sau biến cố 63, chính phủ VNCH là đều do dân bầu; ít hay nhiều ý thức, dân chúng đã bỏ phiếu chọn lựa. Sự can thiệp bất trung của Mỹ trong biến cố 63 và hiệp định 73 chứng tỏ sự độc lập trong ý chí về tự trị; những loạn tướng chủ mưu trong vụ lật đổ ông Diệm đã không làm được gì và phải nhường chỗ cho những người chịu mang trách nhiệm cho VNCH II.

    – Không có dân chủ:
    Chính thể VNCH đã được lập với một hiến pháp tam quyền phân lập, đa đảng, tự do báo chí, ngôn luận, v.v.. – những căn bản mà các chế độ dân chủ đều phải có. VNCH do đó là một thể chế dân chủ tự do thực sự trên căn bản lý thuyết, và được thực hành tương đối nghiêm chỉnh trong giới hạn của hoàn cảnh. Nên nhớ, một hiến pháp dân chủ của bất cứ nước nào cũng chỉ là một văn kiện – nó chỉ có giá trị khi người dân tin vào, và cố gắng thực hành các nguyên tắc được viết ra, và điều này cần thời gian để trưởng thành. Không dân chủ thì làm sao mà các dân biểu thiên tả (hay về sau được biết rõ là đảng viên ĐCS) đã từng được bầu vào QH trong VNCH II? Giỏi hay kém an ninh tình báo, họ đã được chính người dân chọn!

    – Độc tài:
    Liên hệ đến vấn đề trên, những cáo buộc về sự độc tài của VNCH cả I và II đều vô căn cứ! Hiến pháp được viết với mục đích tạo an bình – không để tạo chiến tranh – và sự an bình là điều kiện tình trạng bình thường cho sự thực hành hiến pháp để phát triển xã hội, bảo đảm tự do. NHƯNG MIỀN NAM KHÔNG ĐƯỢC CÓ SỰ BÌNH THƯỜNG ĐÓ do sự xâm lăng, phá hoại của ĐCS gây ra! Trong chiến tranh, các điều kiện sống bình thường phải bắt buộc bị giới hạn vì những đòi hỏi của chiến tranh. Tôi cho rằng vì miền Nam không đủ “độc tài” (hay đúng ra là disciplined, iron-ruled regime) mà ĐCS lộng hành đưa tới tình thế thua cuộc! Do đó tôi ủng hộ một chính thể sát cánh với hệ thống quân sự để ngăn chặn CS bằng mọi giá – điều ông cho là “quân phiệt”!

    Xin cho một thí dụ: nước Mỹ sau gần 100 năm thành lập nền dân chủ, TT Abraham Lincoln – một TT người Mỹ cho là vĩ đại nhất của họ – đã có nhiều biện pháp mà ngày nay các luật gia cho là có thể đủ cớ mang ra tòa tối cao để truất phế – chỉ vì ông ta dùng các biện pháp đó để thắng miền Nam trong cuộc nội chiến! Trích: “ … there were a lot of things that Lincoln did during his presidency, in order to win the Civil War, that could be called into question.” (http://www.npr.org/2012/07/07/156212913/abraham-lincoln-impeached-wait-what)

    Tôi rất thất vọng những so sánh của ông (cũng như của nhiều thành phần cấp đàn anh nhưng đã mang nặng nhiều thành kiến chống đối trước đây) giữa VN và Nam Hàn, Đài Loan, v.v. – rất không công bằng cho VNCH và thiếu sót trong các lý luận! Hầu hết các kết án về “độc tài” đều đã là bẫy của CS để phá miền Nam, và của Mỹ khi họ đòi đóng quân ở VN trong chủ thuyết Domino – một điều mà đáng lý ra đã nên được giải quyết có thuận lợi cho cả VN và Mỹ, không cần đưa đến đảo chánh.

    – Tham nhũng:
    Thời gian mới đi tị nạn và nhiều năm sau đó, tôi cũng tin là tham nhũng đã là yếu tố gây đổ vỡ ở miền Nam, nhưng sau nhiều năm tìm hiểu, tôi nhận ra rằng ảnh hưởng tiêu cực trong kinh tế của nó không đáng kể so với GDP, và thiệt hại lớn nhất của nó là những mất mát về sự tin cậy trong sinh hoạt xã hội và chính trị. Những sự không công bằng và mất tin cậy này có tác động xấu và vẫn cần chỉnh đốn, nhưng tự nó không có đủ ảnh hưởng quân sự để gây ra sụp đổ trong biến cố 75! Nghe nhiều nhất về những chỉ trích này là từ báo chí, sách Mỹ (phản chiến), hoặc chính phủ Mỹ (khi họ muốn thay đổi chính sách với VNCH) vì họ muốn biện minh cho cuộc rút lui. Tôi chưa hề, từ 75 đến nay, nghe nói về hay gặp một cựu tướng tá VNCH nào sống trong giàu có (có thể vẫn có, nhưng quá hiếm)! Có chăng là một số thương gia miền Nam đã làm giàu nhờ hối lộ – nhưng tiền của họ cũng tiêu thụ trong miền Nam là chính!

    Ngay cả trong tình trạng hiện nay ở VN, nếu ai nghĩ chỉ vấn đề tham nhũng cũng đủ làm chế độ XHCN (và ĐCSVN) sụp đổ thì họ sẽ rất thất vọng. Tất cả các chế độ tham nhũng đều sống rất lâu – càng độc tài, cá nhân họ càng sống lâu trong chức vị (so với lãnh đạo ở các nước dân chủ). Các cách mạng ở Trung Đông không do tham nhũng mà khiến dân nổi lên. Iraq từ khi Mỹ đến và đi vẫn nổi tiếng là tham nhũng rất cao, họ vẫn vững như chại. Tàu từ khi đổi mới đến nay vẫn tham nhũng kinh khủng nhưng vẫn phát triển cả 30 năm liền! Do đó nếu ai chửi VNCH sụp đổ vì tham nhũng thì quả là một sai lầm to!

    – Quân đội yếu kém:
    Đây chỉ là xuyên tạc từ phía CS tự cao về khả năng của họ, và Mỹ khi biện hộ cho việc rút lui. Chính phủ VNCH tuy đã không xuất sắc trong nhiệm vụ, nhưng theo tôi nhận xét về các chiến binh, QL VNCH đã rất có tinh thần, đắc lực, và có đủ tài năng để chiến đấu chống CS. Nhưng lý do đưa tới sự thua cuộc của QĐ VNCH không ở trong tay của QĐ, khi giải pháp chính trị do Mỹ lèo lái là nguyên nhân của nó – mà bài viết về việc “siết cổ” trong trang này trình bày rõ ràng!

    * Kết: Xin nhắc lại, vì VNCH là một thể chế dân chủ, nền pháp trị thuộc về mọi công dân và không ở trong chính quyền, quân đội hay đảng phái nào. Lý tưởng của VNCH không thể được hiểu là gắn liền với cá nhân một lãnh đạo nào (như người VN thường định giá trị các triều đại vua xưa) dù họ có bỏ chạy trước. Ý thức về quyền làm chủ đó là ở mỗi người dân, cho dù bây giờ nó chỉ là trong ký ức, nhưng bài học vẫn có thể được rút ra.

    Đối với VNCH, tôi cho là ông chưa bao giờ thực sự có tin tưởng vào chính thể VNCH dù đã là BS quân y (đó chỉ là sự lựa chọn tốt nhất trong hoàn cảnh bị động viên). Ông cũng không ý thức về vấn đề CS trước đó và chỉ trở nên căm hận CS khi bị đi tù cải tạo! Xem ra, tôi tin là những nhận xét của ông do đó là dựa trên cảm tính nhiều hơn là lý lẽ thuyết phục.

    Câu nói “tôi không theo phe nào hết” do đó phải được hiểu là “tôi chống cả hai” thì chính xác hơn. Tôi sẽ mong được hiểu một chính thể dân chủ mới cho VN nó sẽ có hình dạng ra sao, nhất là từ ông. Tôi e là một người đã từng sống trong chế độ dân chủ mà không nhận ra nó thì mai này cũng sẽ rất thất vọng với thực tế khi những điều mong mỏi tưởng như đã được thực hiện – giả dụ rằng đó vẫn là ông vẫn thành tâm ước muốn!

    Mỗi người có quyền có ý riêng, không được buộc ai phải theo họ … Ít ra tôi nghĩ đã xác định được phần nào về BS LMC. Và dầu sao, nếu đã đọc được dòng này thì tôi cũng cám ơn ông đọc những trình bày này, và cũng hy vọng có những điều rút ra tích cực và ích lợi hơn.

  2. Lamson72 says:

    Hổm rày vắng bóng Đào Cốc Lục Tiên cũng hơi buồn. Hôm nay vui trở lại vì có Đào Cốc Huy Tiên lên tiếng. Đọc Tiếu Ngạo Giang Hồ ai cũng khoái Đào Cốc Lục tiên. Nghe họ tung hứng cười muốn đứt kẻ bàng quang.

    Tội nghiệp Đào Cốc Huy Tiên quá. Huy Tiên nhà ta oán hận chính phủ Hoa Kỳ đã đem chiến tranh vào VN. Lại Cười Nữa (Lại nhưng không phải Lại Mạnh Cường nhá. Đã Mạnh rồi mà còn Cường dương thì chịu sao thấu )

    Mỹ nào đem chiến tranh vào VN làm đất nước của Huy Tiên tan nát dzậy cà? Thời nay, 2012, mà cứ chui rút trong hang Pắc Bó rồi dùng sự hiễu biết và ngôn ngữ của thời cải cách ruộng đất, thứ ngôn ngữ đã bị bào mòn trên từng cây số.Thứ ngôn ngữ của dối trá, thù hận. Thứ ngôn ngữ của đấu tố, của bần cố nông, của chết chóc kinh hoàng, của một thời đã qua không ai muốn nhắc tới.

    Chiến lược của Mỹ là gì? Là ngăn chận làn sóng đỏ. Chổ nào có chiến tranh thì mới ngăn chận chứ mang chiến tranh tới VN là sao hả? Đảng ta tài tình sáng tạo lập ra Mặt trận phỏng dế Miền Nam năm 1960 trước khi Quân đội Hoa Kỳ “mang chiến tranh đến VN” những 5 năm. Cùng năm 1960 bộ đội ta diệt gọn một Trung Đoàn Ngụy tại Tây Ninh rồi năm 1964 giải phóng Tiểu Đoàn số 4 Lính Thủy Đánh Bộ tại Bình Giả. Mẹ ơi mãi đến năm 1965 Quân Đội Mỹ mới đến ngăn chận làn sóng đỏ. Chậm chân ơi là chậm. Rồi Quân Mỹ xâm lược rút chạy ra sao hè?

    Quân Mỹ thật là đểu giả. Chúng nó chia khối cộng ra làm hai năm 1971 bằng cú đi đêm của Kissinger qua Tàu. Thế là xong. làn sóng đỏ bi đứt chến. Mỹ Tàu bắt tay và làn sóng đỏ tiêu tán thoòn đâu cần ngăn chận gì nữa. Phe Mỹ bèn hồi hương năm 1973.Khi Mỹ rút chạy thì phe ta đang ở đâu? Đang chui rút trong các rừng già , mật khu. Trốn chui trốn nhủi bên Miên bên Lào. Đại quân ta mà ló mặt ra là ăn bom Daisy Cutter chết không còn một mống.

    Ngu đần là tính trời cho. Nhưng lạm dụng sự ngu đần hoài là điều không thể tha thứ được . Bớ Đào Cốc Huy Tiên

  3. QUAN SÁT says:

    “Những sợi dây thừng quấn quanh cổ miền nam VN từ 1973, 1974 không phải của Văn Tiến Dũng, của Hà Nội mà chính của Lập pháp Hoa Kỳ. ”
    ” Đúng là các sách vở cua giới trí thức Hoa kỳ cũng đề công nhận như thế. Đúng là không chối cãi . ” Nhưng chưa hết…
    Các nuớc chia đôi như Đức , Triều Tiên và hòn đảo nhỏ Đài Loan lại sao không như thế? Có cần đào sâu và tìm ra câu trả lời không ? Chính quyền Hpa kỳ chắc biết nhưng ta có lẽ thì chưa …
    Câu trả lời cho biến cố đó mới là cần thiết …

  4. fg says:

    Mỹ vào miền Nam là để chận CS, nhưng thấy CS chơi trò “đánh Mỹ cho tới người VN cuối cùng” hay “còn cái lai quần cũng đánh” ….nó thấy sợ quá nên nó cút giò chạy, hổng dám chơi cái trò thí cho tới người dân cuối cùng.
    Cũng tại bọn Mỹ mà miền Nam đã mất 20 năm quý báo không đựơc Cách Mạng giải phóng sớm hơn.

  5. huy says:

    Tôi thật sự oán hận chính phủ Hoa Kỳ, đem cuộc chiến vào VN làm đất nước tôi tan nát rồi rút chạy như một thằng hèn!!!!!!!!!!!!

    • Timsuthat says:

      Ông Huy muốn oán hận chính phủ Hoa Kỳ về cái gì khác thì có thể được, nhưng oán vì “đem cuộc chiến vào VN” thì trật đường rầy rồi:

      - Chính HCM là thủ phạm đem cuộc chiến “giải phóng” vào miền Nam mà gây ra mọi đau khổ thêm cho VN. Cuộc chiến với Pháp ít ra nó còn có mục đích đúng (vì mọi người dân VN đều mong và đều tìm) là chấm dứt chế độ thuộc địa của Pháp, tuy rằng lẽ ra, không cần gây chiến và chỉ cách mạng bất bạo động như Gandhi thì cũng đã thắng được dễ dàng vì Pháp lúc đó đang lệ thuộc vào Mỹ giúp họ gầy dựng lại sau WWII, mà Mỹ thì không ủng hộ chính sách thuộc địa của Anh và Pháp. Có điều xui là HCM theo CS quốc tế, nên Mỹ lại giúp Pháp trong vụ Điện Biên Phủ. Có lẽ vì thế mà HCM thù Mỹ nên sau khi chia đôi VN (vì không phải ai cũng theo Việt Minh) mà HCM cũng quyết tâm “giải phóng” miền Nam – một chính thể dân chủ tự do Mỹ giúp xây dựng giống như Nam Hàn thời đó.

      - Hay đúng ra, ông nên oán hận rằng HCM đã lấy CNCS để mang vào VN, vì thực ra, nếu đã không có chia đôi và ĐCS lấy được cả VN, thì không có chiến tranh Nam Bắc VN, nhưng sẽ lại có chiến tranh với các nước chung quanh Đông Nam Á, hoặc các nước gần CS khác! Và VN nếu có an bình thì cũng giống như Triều Tiên bây giờ mà thôi (và Tàu cũng thế nếu Mỹ không bắt tay với họ)! Ông bạn thấy Triều Tiên có “mê” không?

      Muốn oán hận xa hơn nữa không?

      Hãy oán là tại sao Pháp tới đô hộ VN (trong khi Mỹ thì lại chỉ đòi Nhật mở cửa trao đổi mậu dịch với họ và khiến họ phát triển)?

      Hãy oán nhà Nguyễn đã nhờ chính tay Pháp để đánh vua Quang Trung?
      Hãy oán là văn hóa cổ hủ Tàu đã thấm vào VN ta nên các lãnh chúa cứ tranh dành ngôi vị để “được làm vua”, không có truyền thống quân tử vững bền như Nhật, và cũng không có viễn quang để canh tân đất nước, học từ Âu Châu (các nước đến buôn với VN), để cho dân giàu nước mạnh, và rồi cũng như họ, bị thực dân tới đô hộ?

      Hãy oán văn hóa thực dân Âu Châu, không bằng lòng an cư trong vùng đất họ có mà đi chinh phục gần hết cả thế giới?

      Hãy oán ông Trời tại sao sinh ra con người, không bằng lòng với những gì mình có, lại còn kiêu căng luôn bành trướng lãnh thổ hay ảnh hưởng của họ, hoặc luôn tìm bạo lực để thỏa mối hận thù vì những bất công họ đã bị?

      Đúng chứ???

      Cái hèn của Mỹ thì tôi sẽ không bàn ở đây. Nhưng cho tôi nói về cái “hèn” của VNCH:
      http://old.danchimviet.info/archives/42030/comment-page-1#comment-71085

  6. Lamson72 says:

    Ông BS mả mẹ LMC hùng hồn tuyên bố : ông ta không theo Quốc mà cũng chẳng theo cộng. Người Miền Nam hay chữ thì gọi ông ta là phi cầm phi thú. Giới bình dân thì gọi ông ta là dân cẳng giữa hay là GAY hay là bê đê.
    Ông lớn tiếng chửi bọn Quốc, Cộng là bọn độc tài thối nát,phản dân hại nước. Tại kẹt ở Miền Nam nên bị lệ thuộc vào phe Miền Nam. Lại Chửi Nữa tức là Lại Mạnh Cường. Mở mồm là chửi. Nhỏng đít mà chửi. BS cẳng giữa rất tồi. Ông ta có sự lựa chọn. Ông ta có thể trốn qua Miên như một số Sĩ Quan và dân của VNCH đã làm sau đó xin tỵ nạn bên Pháp . nhưng hèn, vì ghét bọn Quốc gia mà cứ sống dấm dúi sống hèn mọn lại chui đầu vào trường Y Khoa của chúng để bị chúng nhồi sọ để kiếm miếng đỉnh chung.

    Ông ta cực lực phản đối khi cho rằng nhờ sống ở Miền Nam mà ông ta mới được ăn học tử tế. Hãy cho tui biết số phận của BS cẳng giữa nếu sống ở Miền Bắc? Không chừng đã chết dấm dúi ở Lào, ở Miên hay phơi xác đâu đó trên rừng Trường Sơn. Chết mà suốt đời cứ mang ơn người đã gây ra cái chết cho mình.VC chỉ cần BS RỜ (cục R) BS mả mẹ khẳng định sự thành công là do gia đình và chính đương sự. Nói láo lếu như thế mà cũng nói. Xây cái trường Y khoa tốn bao nhiêu tiền , đào tạo một người thành BS tốn bao nhiêu tiền? Tiền ở đâu? Dám nói là của Mỹ. Ghét Mỹ ghét Quốc gia mà sao nhận những hàm ân đó dzậy cha nội. Đâu có ai tự dưng sáng thức dzậy thành BS. Ngô Bảo Châu hay Đặng Thái Sơn mà không có Liên Xô hay Pháp thì cũng chỉ là những anh chạy xe ôm kiếm sống hay chỉ là một anh chi chơi dương cầm độ nhật qua ngày hay trở thành một anh giáo dạy toán trong nền giáo dục băng hoại của nước CHXHCNVN. Bài học Lê Bá Khánh Trình còn đấy. Còn như Nguyễn Chí Thiện ổng tù mút chỉ cà tha ổng chưa từng sống dù chỉ một ngày ở Miền Nam thì ổng đâu biết những người lính QLVNCH đã chiến đấu can trường, đã hy sinh vô bờ bến để cho BS mả mẹ an toàn đi học để thành BS , cho nên mới có những than van trách móc. Những lời lẻ trách móc đó trật lất mà đem làm dẫn chứng thì… tức cười quá cha

    BS mả mẹ nguyền rủa tận tình Diệm Nhu độc tài gia đình trị. Bây giờ tại thời điểm 2012, an toàn sung sướng phê bình chế độ “Diệm Nhu” gia đình trị. Thời 1955 vừa độc lập nền dân chủ còn quá non trẻ. Mới về nước chấp chánh thì phải sử dụng ngưỜi thân tín. Ai mưu lược , thông thái hơn ông cố vấn Ngô Đình Nhu. Ai có khả năng trấn áp bọn CS tại Huế hơn Ngô Đình Cẩn. Nhưng bao nhiêu người trong gia đình họ Ngô tham chánh mà bảo là gia đình trị. TT Diệm bị giết không phải vì gia đình trị mà chỉ vì ông không muốn Quân Đội Hoa Kỳ tham chiến tại VN. TT John Kennedy có em là Robert và Ted Kennedy giúp sức sau không gọi là gia đình trị. Lấy con mắt của năm 2012 để đánh giá chính trị thời 1955 thì chỉ có BS khùng mới làm chuyện đó.

    Chánh quyền quân phiệt là chính quyền nào dzậy ta? Sau khi lật đổ TT Diệm thì mấy anh Tướng đảo chánh có biết làm gì đâu mà gọi là chính trị. Năm 1965 khi chính phủ dân sự Phan Huy Quát không thể điều hành đất nước mới trao lại cho quân đội đảm nhiệm. Tướng Thiệu , Tướng Thi không dám nhận chỉ có Tướng Kỳ chơi bạo nhận lấy điều hành trong hai năm đến năm 1967 thì đâu còn Tướng tá nào nữa mà gọi là quân phiệt. Trung Tướng Thiệu và Thiếu Tướng Kỳ đã giải ngủ trước khi đảm nhiệm chức vụ Tổng Thống và Phó Tổng Thống. Quân phiệt gì cha. Lảnh đạo tồi, mà chống lại cả khối CS quốc tế đến khi hết đạn mới thua. Thế là tồi à?

    Trong quân trường các SVSQ được dạy bài mưu sinh thoát hiểm. Không ai dạy cho khóa sinh ở lại để bị giặc bắt cầm tù. Khi đã tan hàng thì phải chạy. Ở lại để bị bọn CS hành hạ, nhục ma ích lợi gì. Nhờ những người thoát đi được mà đã tạo một cộng đồng mạnh giúp đở những người qua sau. Không chạy được rồi nhỏng đít chửi. Đó là thái độ của kẻ vô loài. Có người tự sát có người chiến đấu đến viên đạn cuối cùng rồi vào tù chia sẻ nhọc nhằn tủi hổ của kẻ thất trận. Những người theo đạo Thiên Chúa họ không tự sát thì họ dông hoặc vào tù. Ở trong tù tui đã từng tức tối : “Niên trưởng ơi sao không dzọt ở lại làm chi mà để cho chúng nó hành hạ hạ nhục như thế nây.”

    Ý thức kém cỏi , lòng ganh tỵ sự mặc cảm đã làm nên một loại ngưỜi phi cầm phi thú. Chửi, chửi và chửi

    Hãy chửi nữa đi cưng. Lịch sử vẫn là lịch sử. Lịch sử không dành riêng cho bọn cẳng giữa

Leave a Reply to Timsuthat