WordPress database error: [Expression #1 of ORDER BY clause is not in GROUP BY clause and contains nonaggregated column 'oldsite_dcvwp.wp_posts.post_date' which is not functionally dependent on columns in GROUP BY clause; this is incompatible with sql_mode=only_full_group_by]
SELECT YEAR(post_date) AS `year`, MONTH(post_date) AS `month`, count(ID) as posts FROM wp_posts WHERE post_type = 'post' AND post_status = 'publish' GROUP BY YEAR(post_date), MONTH(post_date) ORDER BY post_date DESC

 
|

Trung Quốc và sự suy thái 8 triều đại Việt Nam

Một quốc gia suy thoái, không chỉ là suy thoái theo nghĩa thoáng qua một cách bình thường. Một cơ thể bị suy thoái là kéo theo cả lục phủ ngủ tạng trong quy trình Sinh-Thành-Hoại-Diệt. Sự suy thoái của một triều đại, thông thường là không gượng nổi, kéo theo sự sụp đổ triều đại đó, bởi một lực lượng mới, hoặc bởi một thế lực ngoại xâm, mà Việt Nam thì luôn nằm cạnh nanh vuốt của loài hổ báo. Chịu khó lướt qua lịch sử để thấy tầm vóc hiểm nguy của hai từ “suy thoái”.

1-Nhà Đinh (968-980) . Đinh Bộ Lĩnh đấu tranh với 12 sứ quân, rồi chiến thắng và thống nhất dân tộc, lập nên Nhà Đinh, ( Đinh Tiên Hoàng), hiệu nước là Đại Cồ Việt. Việt Nam khai quốc chính danh từ đây. Đinh Tiên Hoàng mất sớm, vua con lên ngôi mới 6 tuổi, Thái hậu Dương Vân Nga nhiếp chính, triều đại đi vào suy thoái. tt-ct-đđ-ls nhanh chóng. Giặc Tống từ phương Bắc (Tàu) thấy thế tràn sang xâm lược. Vì coi sự tồn vong của dân tộc là trên hết, Thái Hậu và triều đình quyết định truyền ngôi vua cho Thập Đạo Tướng Quân Lê Hoàn, để cầm quân đánh giặc.. Nhà Đinh chấm dứt sau 12 năm trị vì.

2-Nhà Tiền Lê-(980-1009). Lê Hoàng lên ngôi, cầm quân đánh tan giặc Tống, giữ được bờ cỏi. Nhà Tống nể nang, tôn trọng, quan hệ hòa bình, truyền đến đời thứ 3, là Lê Ngọa Triều thì bệ rạc, suy thoái tt-ct-đđ-ls và chấm dứt năm 1009, trị vì 29 năm.

3-Nhà Lý-(1009-1225). Lý Công Uẩn, quan đầu triều nhà Lê, có trí tuệ uyên bác, đứng ra lật đổ thối nát, chấn hưng quốc gia, lập nên nhà Lý, kéo dài 216 năm, đất nước hưng thịnh, đặt lại tên nước là Đại Việt, hai lần đánh thắng giặc Tống, giữ vững nền độc lập.(1) Đến đời vua Lý Anh Tông bắt đầu suy, kéo dài đến đời Lý Cao Tông (1210) thì suy thoái hoàn toàn về…tt-ct-đđ-ls. Sách chép : “Chơi bời vô độ, chính sự hình pháp không rõ ràng, giặc cướp nổi như ong, đói kém liền năm, cơ nghiệp nhà Lý từ ấy suy”. “Lòng dân trái lìa, đó là triệu bại vong”. Từ 1210 đến 1225 triều chính nằm trong tay đại thần Trần Thủ Độ, nhà Lý chỉ còn cô con gái nhỏ Lý Chiêu Hoàng đứng danh nghĩa. Triều đại nhà Lý cũng đến đây là chấm dứt.

4-Nhà Trần.(1225-1400). Trần Thủ Độ, quan đầu triều, là một người mưu lược, độc ác, thanh toán các thế lực, giành ngôi và đứng ra chấn hưng đất nước. Để danh chính ngôn thuận, đưa cháu là Trần Cảnh, chồng tảo hôn với Lý Chiêu Hoàng, lên làm vua, lập nên Nhà Trần. Là một triều đại hùng mạnh kéo dài 175 năm, 3 lần lẫy lừng chống quân Nguyên Mông, để lại một trang sử vẻ vang của dân tộc Việt.(2) Nhưng đến đời vua cha của Trần Dụ Tông thì bắt đầu ăn chơi và triều đại suy thoái, đến khi Dụ Tông lên ngôi (1357) thì suy thoái càng thêm trầm trọng về… tt-ct-đđ-ls. Sách nói : “ham mê tửu sắc, bỏ bê triều chính, gian thần lộng hành, sưu cao thuế nặng”. Chí sĩ Chu Văn An dâng “Thất Điểu Trần” bị bỏ ngoài tai. (Vua trước lấy gái làng chơi, đã sẳn có bầu, đem về sinh ra Dụ Tông nên ăn chơi là cũng phải !). Suy thoái kéo dài, việc triều chính nằm trong tay đại thần Hồ Quý Ly. Đến 1400, nhà Trần chấm dứt vì Hồ Quý Ly cướp ngôi, cải tổ triều chính, nhiều sáng kiến chấn hưng, nhưng không kịp. 1406, nhà Minh tuy không hưng thịnh, nhưng thấy thế, liền kéo quân sang xâm lược, do Mộc Thạnh, Trương Phụ cầm đầu. Quý Ly chống không nổi, vì lòng dân không ủng hộ, bị giặc bắt cả vua cả tướng đem về Tàu. Giặc Minh biến Đại Việt thành Quận Giao Chỉ, (tổng cộng 21 năm), chúng thực hiện các biện pháp cai trị tàn ác, tìm mọi cách đồng hóa để xóa bỏ VN, triệt tiêu văn hóa, phong tục tập quán, xóa chữ viết, có cả việc đục văn bia( như Bắc Kinh đã sai làm vừa qua ở các chiến địa biên giới phía Bắc, sau trận xâm lăng thất bại năm 1979). Nhưng tinh thần Việt không khuất phục, ngay tử 1407 Trần Ngỗi nỗi lên cầm đầu cuộc kháng chiến, được 5 năm (1412) thì bị dập tắt, tiếp đến là cuộc chiến đấu của Lê Lợi.

5-Nhà Hậu Lê. (1418) Lê Lợi là bậc hào kiệt, cùng Nguyễn Trãi là bậc chí sĩ đã cầm đầu cuộc khởi nghĩa chống quân Minh, 10 năm kháng chiến, từ 1418 đến 1427, quét sạch giặc Minh ra khỏi bờ cỏi, khôi phục giang sơn, lên ngôi Hoàng Đế, chấn hưng đất nước, kéo dài thời hưng thịnh gần một trăm năm, đến đời vua thứ 5, Lê Uy Mục (1527) thì …suy thoái tt-ct-đđ-ls, sinh nội loạn. Mạc Đăng Dung dẹp nội loạn, chiếm ngôi nhà Lê, chấn hưng nhiều mặt, thực hiện nhiều chính sách cởi mở, có được một thời ngắn yên ổn, nhưng dưới sức ép mạnh mẽ của nhà Minh, xét thế cuộc còn chênh lệch không chọi nổi, lại vì chính nghĩa chưa tỏ rõ, lòng dânchưa thuận theo, nên Mạc Đăng Dung tự trói mình, lên cửa ải xin hàng nhà Minh,nhận tấn phong của Minh Triều chức An Nam Đô Thống, để mong giữ yên bờ cỏi. Như thế, Việt Nam không còn là một quốc gia độc lập. Hành động đối ngoại nầy của Mạc Đăng Dung còn để lại sự bàn cãi hai chiều của lịch sử.

6-Giai đoạnTrịnh -Nguyễn phân tranh.

Chúa Trịnh. Sự suy thoái cuối triều Lê, dẫn đến thời Mạc trở thành lệ thuộc nhà Minh trong quan hệ bang giao, nhà Lê còn tồn tại một thế lực tiếp tục chống Mạc, do võ tướng Nguyễn Kim phò tá. Kim chết, rể là Trịnh Kiểm lên thay, dần hồi tiếm quyền, một mặt mưu ám hại con cái Nguyễn Kim, một mặt lợi dụng danh nghĩa phò Lê, diệt Mạc.Trịnh diệt được Mạc, lập nên Phủ Chúa, điều khiển quốc gia dưới danh ảo Vua Lê.

Chúa Nguyễn. Nguyễn Hoàng, con Nguyễn Kim, sợ anh rễ ám hại, lập kế xin trấn giữ phương Nam, dần hồi thoát được sự kèm chế của Trịnh, lập nên chính quyền phương Nam. Từ đó đất nước chia hai miền Nam, Bắc. Chúa Nguyễn trong Nam, chúa Trịnh phía bắc. Phía Nam có công mở mang bờ cỏi. Phía Bắc, dù vẫn suy thoái nhưng giữ được biên cương, chưa bị xâm lăng, vì lúc nầy Nhà Minh (Tàu) đang suy thoái, bị chìm đắm trong nội chiến, bởi bộ tộc Mãn nổi lên chống phá, nên sức chưa đủ mạnh để dòm ngó phương Nam.

Hai miền Đại Việt phân tranh. Năm 1627 hai bên lấy sông Gianh làm giới tuyến, kéo dài hơn 200 năm. Nhân dân Việt Nam với tấm lòng bao dung và coi Tổ Quốc là trên hết, không tán thành sự hận thù chia rẽ bởi chính quyền Nam hay Bắc, với một tâm thức tinh tế, gọi chính quyền phía Nam là Đàng Trong, gọi chính quyền phía Bắc là Đàng Ngoài, thể hiện ý chí duy trì một Quốc gia duy nhất.. Cuộc giằng co đôi bên chẳng đem lại sự hưng thịnh nào cho đất nước, con dân trong tình cảnh bèo dạt mây trôi. Năm 1771, ở vùng núi non miền Trung hoang vu, thuộc tỉnh Bình Định, xuất hiện một lực lượng mới, do anh em hào kiệt Nguyễn Huệ cầm đầu, vung gươm mấy trận, dẹp sạch Đàng Trong lẫn Đàng Ngoài, cả vua Lê chúa Trịnh đều cho về vườn, lên ngôi Hoàng Đế, trực tiếp cầm quân chống giặc Mãn Thanh (Tàu), lúc nầy đã thanh toán xong nhà Minh, lập nên nhà Thanh, thế đang mạnh, hùng dũng tràn quân sang xâm lược VN. Nguyễn Huệ đánh quân Thanh một trận tan tành, gò Đống Đa còn ghi dấu tích. Trong Nam, quân Xiêm La kéo sang ăn có, chỉ một trận, nhận chìm cả đoàn quân viễn chinh ở sông Rạch Gầm. Giang sơn bắt đầu thu về một mối, khởi sự cuộc chấn hưng. Nhưng vận nước còn xui, người anh hùng bỗng dưng đột tử, mọi việc trở nên dở dang.

7-Nhà Nguyễn. Hậu duệ của chúa Nguyễn (Đàng Trong)- Nguyễn Ánh- chiếm lại giang sơn, thống nhất nước nhà từ Nam đến Bắc, dưng lên Nhà Nguyễn, kéo dài thịnh trị mấy trăm năm. Đến đời vua Tư Đức, thời đại thế giới đã chuyển mình, phương Tây phát triển khoa học kỹ thuật,, tạo nên một nền văn minh mới. Trong khi đó, Việt Nam cũng như Tàu và cả phương Đông đang chìm trong lạc hậu với hệ tư tưởng phong kiến cũ kỷ, bị các nước phương Tây xâm chiếm và đô hô, Pháp chiếm Việt Nam, có thể lấy mốc lịch sử từ năm ký Hiệp Ước 1874, bắt đầu nhận chịu sự bảo hộ của Pháp.. Đại thần Phan Thanh Giảng tuẩn tiết khi mất 3 tỉnh miền Đông Nam bộ. Từng bước, VN rơi vào cảnh mất nước và lầm than, nhưng lực lượng kháng chiến trong nhân dân không bao giờ ngừng. Các đời vua sau cùng của Nhà Nguyễn trong chế độ bảo hộ, liên tục bị thực dân Pháp bức hại trong bóng tối, bị bắt, bị giết, bị lưu đày. Đời vua bù nhìn cuối cùng là Bảo Đại lưu vong sang Pháp, đến cuối đời chết ở đấy. Nhà Nguyễn đã hoàn toàn chấm dứt từ 1945. (1874-1945=81 năm lệ thuộc Pháp). Hẳn nhiên trong bối cảnh trượt dài trong suy thoái không gượng nổi về ..tt-ct-đđ-ls của các thế hệ cầm quyền phong kiến nhà Nguyễn. Sự suy thoái lần nầy cực kỳ trầm trọng trong so sánh với sự biến chuyển mới của thời đại. Nhà Nguyễn có nhìn mà không thấy được thời đại mới, bỏ qua một cơ hội chuyển mình của dân tộc.

Xét qua các triều đại, mỗi lần suy thoái dẫn đến kết thúc một triều đại đều để lại nhiều bài học đáng giá, bộc lộ khả năng, đức độ của tập đoàn cầm quyền về phương diện nội trị và đối ngoại..Và có thể kết luận, bộ máy Nhà Nước có thể mất, thế lực cầm quyền có thể đầu hàng, ngu trung có thể không nhìn thấy, nhưng dân tộc không bao giờ mất, nhân dân không bao giờ đầu hàng, bậc trung quân ái quốc thì luôn nhìn thấy.

8-Triều Đại Hồ Chí Minh và Đảng Lao Động Việt Nam. Từ đây, cuộc kháng chiến trong nhân dân vẫn tiếp tục, dưới sự lãnh đạo của Đảng LĐVN, với chủ thuyết XHCN, 1945-1975=30 năm chiến đấu (chống Pháp 9 năm, chống Mỹ 21 năm) với cường độ khốc liệt, một giai đoạn lịch sử vô cùng bi tráng cho dân tộc, bởi sức ép trong bối cảnh hệ tư tưởng của thời đại chia thế giới chia thành hai cực. Hiểm độc hơn nữa, lồng vào tình thế đó, là cuộc xâm lăng khi âm thầm, khi trắng trợn của TQ, dưới vỏ bọc cùng phe, cùng hệ tư tưởng XHCN. Sắp kết thúc thắng lợi cuộc chiến tranh với Mỹ, năm 1974, chúng chớp thời cơ, chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa.. Năm 1975, kết thúc cuộc chiến với Mỹ, liền sau đó, 1977, chúng bắt đầu cho quân Khơme Đỏ đánh phá biên giới Tây Nam, để tiến công qua, bị quân ta đập tan. Năm1979, chúng tiến hành công khai cuộc xâm lược, cho đại quân ào vào biên giới phía Bắc. TBT Lê Duẫn tiếp tục lãnh đạo quân dân chống xâm lăng, làm chúng thất bại nặng nề, buộc phải rút quân về nước, mộng bành trướng bị chận đứng. Nhưng sau đó,cuộc chiến đấu vẫn âm thầm tiếp tục ở quy mô nhỏ dọc biên giới. Năm 1988, chọn lúc bất ngờ, chúng tiến chiếm thêm 7 đảo đá ở Trường Sa. Từ 1975-2012 là 37 năm chưa lúc nào yên với phương bắc. Chúng không bao giờ muốn Việt Nam độc lập, luôn muốn kìm kẹp Việt Nam trong thế suy yếu. TBT Lê Duẫn, trước khi mất, căm giận không nguôi, khẳng định : “Trung Quốc là kẻ thù truyền kiếp của dân tộc Việt Nam”.

Đến tháng 3-1990 thì Lãnh đạo Đảng Việt Nam sang Tàu xin hòa hoãn, tái ban giao với biên bản ký kết 16 chữ vàng ở Hội nghị Thành Đô (TQ). Quá khứ đau thương còn nóng hổi được gác lại một cách tế nhị, và được đưa vào vùng “nhạy cảm”, không được nhắc tới. Từ đó sự suy thoái ngày càng diễn tiến phức tạp.

Dưới tấm màn xảo trá 16 chữ vàng, bọn chúng âm thầm tiến hành sách lược xâm lăng theo kế sách “sức mạnh mềm” với 5 bộc lộ mà người dân bình thường cũng thấy rõ :

1* Lấy chất kết dính là CNXH để lung lạc lập trường của Lãnh đạo VN.

2* Lấy sự tồn vong của “hai” Đảng làm bản lề để gây ảnh hưởng chính trị vào chính trường VN.

3* Trói buộc vừa phá hoại nền kinh tế VN với nhiều mưu độc dưới dạng hợp tác thân thiện, hữu nghị.

4* Kèm chế quan hệ Việt Nam-Mỹ, xúi dục VN đối đầu với Mỹ bằng phương châm “diễn biến hòa bình” hòng kéo VN vào thế lệ thuộc chúng, đem khẩu hiệu nầy truyền bá, hòng làm lạc hướng nhận thức của cán bộ và nhân dân.

5* Tham vọng nuốt Biển Đông. Thập niên đầu thế kỷ 21, kinh tế TQ phát triển nhanh, quân sự được hiện đại hóa, chúng cho rằng thế và lực đủ mạnh, sự suy thoái của VN – bàn đạp quan trọng để tiến vào Đông Nam Á –đã chín mùi trong thế kẹp toàn diện của 16 chữ vàng, chúng trắng trợn thách thức thế giới, tiến hành chiến dịch thôn tính toàn Biển Đông, tuyên bố bừa rằng Hoàng Sa, Trường Sa là của chúng, công khai đe nẹt VN phải đi theo con đường “đại cuộc siêu cường” của chiến lược bành trướng, nếu không, thì bị trả thù !

Nhân dân Việt Nam đã đi suốt con đường đấu tranh không ngừng nghỉ 150 năm (81+30+37), nói riêng dưới triều đại Đảng CS và Chủ Nghĩa Xã Hội là 67 năm, để giành lại giang sơn và giữ giang sơn một cách bi tráng với tất cả phức tạp của tình hình thế giới, với tốc độ dồn dập những khoảnh khắc lóe sáng rồi chập tối của lịch sử cận đại quay cuồng mà dân tộc Việt nam phải đối phó, với những kẻ thù hùng mạnh gấp nhiều lần liên tiếp thay nhau, bạn thù tráo trở, trào lưu xoay vần : xong Pháp,Tàu, Mỹ, thì lập tức lại là Trung Quốc.

Trong tình hình mới hiện nay, Hệ tư tưởng đối lập mang tính toàn cầu chia đôi thế giới của thời chiến tranh lạnh, ngày nay không còn nữa, thay vào đó là sự khác biệt về hai cơ chế quản lý và điều hành xã hôi, một mang tên là cơ chế “dân chủ”,và một, mang tên là cơ chế “dân chủ gấp triệu lần”(lời bà PCT Nước, GS-TS Nguyễn Thị Doan)! Đó là bối cảnh tư tưởng cực kỳ hủ bại, lạc nhịp của một bên..Tại thời điểm hôm nay, và cả thế kỷ 21, tai họa lớn nhất đối với nền hòa bình thế giới là chủ nghĩa bành trướng hiếu chiến Bắc Kinh, đồng thời là kẻ thù trực diện, nham hiểm nhất đối với Việt Nam. Chúng bảo Việt Nam: “Muốn ổn định phải đổi đất”. (báo Hoàn Cầu). Ý chúng dọa nạt ai, và điều gì ? Đổi đất, tức là cắt giang sơn và để yên các Đảo và Biển Đông cho chúng, và ổn định là ổn định vai trò cầm quyền độc tôn của Đảng CSVN nếu theo chúng ?

Tuy nhiên, giang sơn không thể cắt bớt. Đất liền, biển, đảo đã được giữ gìn qua bao triều đại. Lại càng không có sự “ổn định” nào có giá trị hơn Độc Lập, Tự Do, không có sự “tồn tại” có giá trị của bất cứ đảng phái nào, khi không giữ được toàn vẹn lãnh thổ.

Trong 20 năm qua, từ hội nghị Thành Đô đến nay, ĐCS VN đã suy thoái và đang tiếp tục suy thoái, như Nghị Quyết 5 đã nêu: “ Sự suy thoái về Tư Tưởng, Chính Trị, Đạo Đức, Lối Sống” lên tới đỉnh điểm, chạm với “sự tồn vong” của Đảng. Nhưng đáng nói hơn, và đúng hơn, chính là sự tồn vong của đất nước. Chúng ta biết rằng, sự suy thoái không bắt đầu trong một đêm và không thể chấm dứt trong một ngày. Nó có nguyên nhân cốt lõi và kéo dài không chỉ 20 năm, mà có thể đến mấy đời vua, hay cả nửa thế kỷ, như lịch sử đã cho thấy. Sự suy thoái là quá trình tự hủy hoại nhiều mặt. Chúng ta biết lối sống là biểu hiện của nền tảng đạo đức và giáo dục. Suy đồi đạo đức là biều hiện của một nền cai trị không tốt. Cái gốc vấn đề chính là tư tưởng-chính trị, nó luôn ở vai trò nguyên nhân chủ đạo, mà tư tưởng là cốt lõi, vì tư tưởng có nhìn ra được trào lưu của thời đại hay không ? thấy rõ loại nào là đề án phát triển dân tộc nhắm đến văn minh, nhân bản, dân chủ, tiến bộ; và loại nào là đề án kìm hãm dân tộc trong độc tài, dã man, tụt hậu; để từ đó xác định hướng đi và chỉ rõ kẻ thù ? Nhân dân Việt Nam thấy rõ ai đang chỉa súng, lưỡi lê, giáo mác vào ta , ai đang trừng mắt và sĩ nhục dân ta mỗi ngày ở đất liền, ở biển Đông ? Suy thoái lần nầy phải chăng có gắn liền với đặc điểm kiệt quệ về sức sống , thiếu vắng niềm tự tin của dân tộc, hay kiệt quệ về khả năng tư duy của cả dân tộc ? và đặc biệt của lãnh đạo đương thời?

Lướt qua bối cảnh suy thoái gắn liền với ngoại xâm của 7 triều đại và triều đại hôm nay, chúng ta thấy rõ sự suy thoái hay hưng thịnh của một chế độ, là vai trò của kẻ làm quan của triều đại đó, đặc biệt là các Quan Đại Thần, về chính sách nội trị đối với nhân dân, và khả năng tư duy về thời đại, tư duy về học thuyết .Trong bối cảnh đó, ta nghĩ về tác hại của tư tưởng Ngu Trung .

Nguồn: Hà Đình Nguyên (Quê Choa)

 

2 Phản hồi cho “Trung Quốc và sự suy thái 8 triều đại Việt Nam”

  1. Võ Hưng Thanh says:

    QUAN ĐIỂM VỀ DÂN TỘC VÀ ĐẤT NƯỚC

    Dân tộc là quần thể người cùng nguồn gốc, lịch sử, cư ngụ, sinh sống trên một lãnh thổ cụ thể. Đất nước là lãnh thổ làm môi trường, điều kiện tất yếu để cho một dân tộc cùng cư ngụ hay sống trên đó. Tính cách giai cấp của dân tộc là yếu tố tự nhiên, khách quan, chuyển biến và phát triển tùy theo điều kiện xã hội, hoàn cảnh địa lý, sự diễn tiến của nền kinh tế cụ thể nơi dân tộc đó. Sự phát triển lịch sử của dân tộc, xã hội trên một đất nước là ý nghĩa tự nhiên, qua thời gian có thể lớn mạnh hoặc suy thoái, tùy theo mối quan hệ với các dân tộc, đất nước chung quanh, hoặc tùy theo hoàn cảnh chuyển biến nội bộ trong lòng chính nó. Đó là quy luật lịch sử của mỗi nước, mỗi dân tộc, hay toàn thể nhân loại nói chung cũng chỉ diễn ra xưa nay đều như thế.
    Dân chủ thực chất là quyền làm chủ tự nhiên của nhân dân, hay của dân tộc, xã hội đó đối với đất nước. Thời phong kiến, quân chủ, dân thật sự không làm chủ mà luôn có đấng quân vương hay nhà vua làm chủ. Quan điểm vua thay trời trị dân chính là như thế. Vương quyền được thần thánh hóa để giữ sự ổn định chung của xã hội là như thế. Bởi mọi giai cấp chỉ là mối quan hệ hay tương quan kinh tế xã hội tự nhiên trong lòng quốc gia hoặc đất nước đó. Song triều đình của nhà vua thay mặt nhà vua, đại diện nhà vua, tuân thủ mệnh lệnh tối cao của nhà vua để quản lý hết cả. Quân quyền cũng là quyền tự trị hay quyền độc lập của quốc gia liên quan đó. Đó cũng là ý nghĩa của quan niệm trung quân ái quốc mà chế độ quân chủ, phong kiến thường hay có. Nước còn thì quyền vua còn, nước mất thì quyền vua mất. Đó chính là tình trạng mất nước hay bị đô hộ ngoại bang của dân tộc VN dưới thời kỳ cả ngàn năm Bắc thuộc hay gần trăm năm nô lệ thực dân Pháp.
    Song khi nền dân chủ tiến bộ của phương Tây ra đời, cụ thể là thời đại Ánh sáng vào cuối thế kỷ 18 của Châu Âu, ý nghĩa dân làm chủ trực tiếp thay thế cho vương quyền cũ xưa bằng một chính phủ cấu thành bởi các nhân sự do dân bầu cử tự do bằng phổ thông đầu phiếu để tạo lập ra các có quan lập pháp, hành pháp, tư pháp hoàn toàn độc lập, là bước tiến vượt bực và hiện đại nhất mà cho tới ngày nay đều được mọi người thừa nhận.
    Thế nhưng một thế kỷ sau đó, Các Mác lại đưa ra lý thuyết chối bỏ nhà nước, chối bỏ dân tộc, chỉ nhìn thấy có giai cấp vô sản mà ông ta cho là giai cấp tiên phong cho sự phát triển lịch sử và đảng CS mác xít tự cho mình là đảng tiên phong của giai cấp tiên phong đó. Đó là ý nghĩa của đấu tranh giai cấp của Mác chủ trương để tiến tới chủ nghĩa quốc tế vô sản hay xã hội đại đồng không giai cấp mà mọi người đều nghe nói. Song học thuyết của Mác thực chất hoàn toàn không có cơ sở khoa học khách quan, chỉ mang tính cách thêu dệt, huyền hoặc, đầy tính tưởng tượng, do vậy mọi sự áp đặt giả tạo của nó cuối cùng đã thất bại sau cuộc thử nghiệm nhà nước Liên Xô từ cuộc cách mạng vô sản đầu tiên 1917 sau gần bảy mươi năm đã hoàn toàn sụp đổ, tan rã, dẫn theo sự tan rã, sụp đổ nguyên cả khối các nước XHCN trên toàn thế giới. Sự ra đời của cuộc cách mạng vô sản đã kéo theo nó bao nhiêu hệ lụy, tốn kém, phi lý của toàn nhân loại, đó là cái thường được những con người cuồng tín, lý thuyết sách vở vẫn mệnh danh là nền dân chủ gấp cả triệu lần so với nền dân chủ phương Tây khach quan, chính đáng, nhưng Mác lại cho rằng đó là kiểu dân chủ tư sản. Đấy ý nghĩa vô sản của Các Mác chính là như thế, và sự thất bại trong nguyên lý nơi học thuyết của ông ta cũng chính là như thế.
    Ngày nay, Trung Quốc và VN là hai trong bốn nước đi theo đường lối quốc tế vô sản trước kia vẫn còn tồn tại. Song từ lâu rồi, xu hướng bá quyền và bánh trướng của TQ ra các nước chung quanh, mà cụ thể nhất là Việt Nam đã hoàn toàn thấy rõ. Có nghĩa khi học thuyết Mác đã cho thấy sự sai lạc về mặt lý luận và sự phản khách quan về mặt thực tế, thì mọi sự tương ứng hay đấu tranh giữa các đất nước, các dân tộc trong cuộc sống khách quan là hoàn toàn tự nhiên, đúng đắn. Có nghĩa chỉ có chính nghĩa khi các nước hòa hợp, hòa bình, hợp tác, tôn trọng lẫn nhau. Và không có chính nghĩa khi xảy ra bất kỳ cuộc xâm lăng, chiến tranh bành trướng nào, dù có nhân danh hay viện dẫn bất kỳ các lý do tà mị, gian giảo trên cơ sở hay mục đích nào. Nên nói chung lại, trong mọi trường hợp khách quan, cụ thể, chỉ có ý nghĩa dân tộc, đất nước một cách chính đáng là cơ sở khách quan, thực tiển ngàn đời nhất. Trái lại bất kỳ những học thuyết quái dị nào, những ý hệ giả tạo nào, cho dù người ta có bơm phồng nó lên một cách giả tạo, gian dối ra sao, cuối cùng đó vẫn chỉ là những điều phi lý, tai hại, vì nó đi lại mọi ý nghĩa, giá trị, chân lý khách quan hoàn toàn thực tiển mà ngay từ đầu trên kia chúng ta đã nói. Nói khác đi, điều chính nghĩa duy nhất của Việt Nam ngày nay không ngoài là nền dân chủ, tự do đúng nghĩa, cũng như tinh thần dân tộc, lòng yêu nước chân chính, tự nhiên đúng nghĩa để bảo vệ quê hương, đất nước, đó chính là giá trị chân lý duy nhất và cao tột nhất, mà không thể là bất cứ một điều gì hoàn toàn giả tạo khác.

    ĐẠI NGÀN
    (16/8/12)

  2. Daditcongsan says:

    Trich tác giả cần dẫn nguồn khách quan khi đề cao Lê Duẫn. Thực ra tên này là một trong những tội đồ của dân tộc khi hắn đã làm tay sai cho Cộng sản Nga mấy chục năm để tiến hành cuộc chiến tranh tương tàn tại miền nam.

Phản hồi