WordPress database error: [Expression #1 of ORDER BY clause is not in GROUP BY clause and contains nonaggregated column 'oldsite_dcvwp.wp_posts.post_date' which is not functionally dependent on columns in GROUP BY clause; this is incompatible with sql_mode=only_full_group_by]
SELECT YEAR(post_date) AS `year`, MONTH(post_date) AS `month`, count(ID) as posts FROM wp_posts WHERE post_type = 'post' AND post_status = 'publish' GROUP BY YEAR(post_date), MONTH(post_date) ORDER BY post_date DESC

 
|

Viết cho ngày 01 tháng 11

Đối với phần lớn người từ miền Bắc di cư vào Nam năm 1954 thì sự kiện ngày 01 tháng 11 năm 1963 mãi mãi là một cơn ác mộng, nhất là bản tin ngắn được phát đi vào khoảng 10 giờ sáng ngày 02 tháng 11, loan báo về cái chết của Tổng Thống Ngô Đình Diệm và cố vấn Ngô Đình Nhu đã thực sự làm suy sụp tinh thần của hầu hết đồng bào di cư, nhất là đồng bào công giáo. Đối với hầu hết người Bắc di dân thì cái chết của Tổng Thống Ngô Đình Diệm và sự cáo chung của nền Đệ Nhất Cộng Hòa là một hồi chuông báo tử cho nền cộng hòa ở miền Nam. Những giáo dân di cư, trong đó có cả ông tôi, đã mường tượng một ngày quân đội cộng sản tiến vào Sài gòn, và một cuộc “di cư” nữa để lánh nạn cộng sản sẽ diễn ra sau đó.

Suốt những ngày tiếp theo của tháng 11 kinh hoàng đó, gia đình ông bà chúng tôi cùng tất cả giáo dân, giành hầu hết thời gian đến nhà xứ để cầu nguyện cho Tổng Thống và bào đệ Ngô Đình Nhu, những đại ân nhân đã giúp cho gia đình chúng tôi cùng hơn một triệu đồng bào khác thoát được hiểm họa cộng sản ở miền Bắc, bởi sau hai năm miền Bắc cải cách ruộng đất, với chính sách tố khổ, cộng sản đã mang đến bao nỗi tang thương và kinh hoàng cho những người dân xứ Bắc.

Chắc sẽ có nhiều người đặt vấn đề rằng với thời gian 300 ngày để di cư, thì cứ tùy nghi ra đi chứ cần gì phải có ai giúp đỡ? Sự thật hoàn toàn không đúng như vậy, vì chính quyền của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, tức chính quyền cộng sản của ông Hồ Chí Minh luôn tìm mọi cách để ngăn chặn người ta di cư sang xứ tự do ở miền Nam, bằng nhiều hình thức đe dọa, bưng bít thông tin, kể cả khủng bố tinh thần và tuyên truyền xuyên tạc chính sách di cư cũng như xuyên tạc về chế độ Cộng Hòa để giảm thiểu số người di cư vào vùng tự do đến mức thấp nhất. Nhân ngày hiệp kỵ lần thứ 49 của Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, 01 tháng 11 năm 2012, như một nén hương lòng, để ghi tạc công đức của Cụ Ngô, chúng tôi xin thuật lại hành trình lánh nạn cộng sản lần thứ nhất của gia đình chúng tôi, cũng như của hơn một triệu đồng bào miền Bắc, theo nhật ký hành trình của ông tôi, nguyên là một Chánh Tổng ở Văn Giang, Hải Hưng.

Sau khi quân đội Pháp đầu hàng ở  Điện Biên Phủ, Hiệp định Genève được ký kết giữa chính phủ của Hồ Chí Minh và chính phủ Cộng Hòa Pháp, chia đôi Việt Nam thành hai miền, lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến. Từ vỹ tuyến 17 trở ra thuộc Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, tức là Cộng Sản Việt Nam. Từ Vĩ tuyến 17 đến Cà Mau thuộc Quốc Gia Việt Nam. Việc đất nước phải bị chia cắt làm hai miền với hai thể chế chính trị khác nhau là một thảm họa của dân tộc Việt Nam, mà ít nhất đã một lần xảy ra trong lịch sử của đất nước khi Trịnh – Nguyễn Phân Tranh kéo dài hơn 100 năm từ 1627 cho đến năm 1789 khi Hoàng Đế Quang Trung kéo đại binh ra Bắc đánh tan 20 vạn quân Thanh vào khuya tối mùng 5 Tết Kỷ Dậu 1789 mới hoàn toàn chấm dứt 100 năm chiến tranh giữa Chúa Trịnh và Chúa Nguyễn, mang bao nhiêu đau thương tang tóc cho dân Việt giữa hai bờ sông Gianh. Có một điều khác biệt trong lần chia cắt đất nước lần này là giới tuyến không còn là sông Gianh mà là sông Bến Hải, và “Họa trung hữu phúc”, cũng “nhờ” Hồ Chí Minh ký hiệp ước chia cắt đất nước mà ít nhất là một nửa dân tộc Việt ở bờ nam sông Bến Hải đã không phải chịu sự thống trị sắt máu của cộng sản ngót 21 năm từ 1954 cho đến 1975.

Ít nhất cũng hơn 1 triệu người Bắc chúng tôi cũng tránh được họa cộng sản trong ngần ấy năm, nhờ vào  Điều 14 phần (d) của Hiệp định Geneva cho phép người dân ở mỗi phía di cư đến phía kia và yêu cầu cơ quan quản lý tạo điều kiện cho họ di cư trong vòng 300 ngày sau thoả hiệp đình chiến, tức việc di cư sẽ chấm dứt vào ngày 19 tháng 5 năm 1955. Dân Hà Nội có 80 ngày, Hải Dương có 100 ngày, còn Hải Phòng, điểm cuối cùng tập trung để di cư có 300 ngày để di cư.

Ngày 4/6/1954, trước khi Hiệp định Geneve được ký kết 6 tuần, Pháp đã ký một Hiệp định với Quốc gia Việt Nam, công nhận Quốc gia Việt Nam hoàn toàn độc lập. Theo đó chính phủ Quốc gia Việt Nam sẽ tự chịu trách nhiệm với những hiệp định quốc tế được ký bởi Pháp trước đó nhưng có liên quan tới họ, cũng như không còn bị ràng buộc bởi bất cứ hiệp ước nào do Pháp ký sau này.

Ông Trần Văn Đỗ, trưởng đoàn đại diện của Quốc gia Việt Nam nhất quyết không ký vào Hiệp định Genève vì không chấp nhận việc chia cắt Việt Nam và đại diện phái đoàn Quốc Gia Việt Nam ra một tuyên bố riêng:

“… Chính phủ Việt Nam yêu cầu Hội nghị ghi nhận một cách chính thức rằng Việt Nam long trọng phản đối cách ký kết Hiệp định cùng những điều khoản không tôn trọng nguyện vọng sâu xa của dân Việt. Chính phủ Việt Nam yêu cầu Hội nghị ghi nhận rằng Chính phủ tự dành cho mình quyền hoàn toàn tự do hành động để bảo vệ quyền thiêng liêng của dân tộc Việt Nam trong công cuộc thực hiện Thống nhất, Độc lập, và Tự do cho xứ sở.”

Tuy vậy, lời phản kháng và đề nghị của đại diện Quốc gia Việt nam đã không được Hội nghị bàn tới. Ngoại trưởng Trần văn Đỗ từ Genève tuyên bố với báo chí như sau: “Từ khi đến Genève, phái đoàn không bao giờ được Pháp hỏi về ý kiến về điều kiện đình chiến, đường phân ranh và thời hạn Tổng tuyển cử. Tất cả những vấn đề đó đều được thảo luận ngoài Hội nghị, thành ra phái đoàn Việt Nam không làm thế nào bầy tỏ được quan niệm của mình”.

Tuy lên tiếng phản đối, nhưng sau khi hiệp định được kí kết, Chính phủ và quân đội Quốc Gia Việt Nam vẫn cùng quân Pháp tập kết về phía nam vĩ tuyến 17. Ngày 28 tháng 4 năm 1954, Uỷ Ban Bảo vệ Bắc Việt Nam của Quốc Gia Việt Nam tìm cách kêu gọi dân chúng di cư vào Nam để lánh nạn cộng sản. Một kế hoạch di cư được đặt ra và một Uỷ Ban Di Cư được thành lập. Ngày 30 tháng 7 năm 1954, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm phát biểu cổ vũ dân chúng miền Bắc di cư vào miền Nam để lánh nạn cộng sản.

Một ngày sau khi Hiệp định được ký kết, tức ngày 22 Tháng Bảy, Thủ tướng Ngô Đình Diệm ra lệnh treo cờ rũ toàn Miền Nam từ vĩ tuyến 17 trở vào để bày tỏ quan điểm chống đối sự chia đôi đất nước.

Ngày 22 tháng 7 năm 1954, Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi đồng bào cả nước: “Đấu tranh để củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập dân chủ cũng là một cuộc đấu tranh lâu dài và gian khổ”, và khẳng định: “Trung, Nam, Bắc đều là bờ cõi của nước ta, nước ta nhất định thống nhất, đồng bào cả nước nhất định được giải phóng”. Đây là lần đầu tiên, Hồ Chí Minh bày tỏ lập trường của Quốc Tế Cộng Sản về chiến lược nhuộm đỏ cả Đông Dương, và quyết tâm dùng bạo lực cách mạng, dùng máu xương của đồng bào Việt Nam trong một cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn để mở rộng quyền thống trị của Hồ Chí Minh và của chế độ cộng sản trên toàn bộ đất nước.

Sở dĩ chúng tôi phải nêu lại những sự việc trên là để quý độc giả cũng như các lãnh đạo của cộng sản Việt Nam hiện nay thấy được rằng việc chia cắt đất nước là tội ác của Hồ Chí Minh và Thực dân Pháp, chứ hoàn toàn không có sự can dự của Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam hay của Thủ Tướng Ngô Đình Diệm.

Sau đó, hậu thân của Quốc gia Việt Nam là Việt Nam Cộng hòa, với sự hậu thuẫn của Hoa Kỳ đã từ chối tổ chức tuyển cử thống nhất Việt Nam. Năm 1956, Việt Nam Cộng Hòa được thành lập trên cơ sở Quốc Gia Việt Nam. Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm tuyên bố: “Chúng tôi không từ chối nguyên tắc tuyển cử tự do để thống nhất đất nước một cách hoà bình và dân chủ” nhưng “nghi ngờ về việc có thể bảo đảm những điều kiện của cuộc bầu cử tự do ở miền Bắc”. Đây là một nhận định vô cùng sáng suốt của Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, bởi theo thể thức “đảng cử dân bầu” của cộng sản, thì chắc chắc toàn thể cử tri miền Bắc buộc phải dồn phiếu cho Hồ Chí Minh, bởi họ biết rằng chỉ có làm như thế họ mới mong được yên phận, chứ nếu chọn lựa theo lương tri của họ, để bầu cử cho chính phủ Quốc Gia Tự Do, thì chắc chắn họ sẽ bị quy kết là Việt Gian, rồi cả gia đình, họ tộc sẽ bị đấu tố bị tru diệt. Trong khi đó ở miền Nam tự do, người ta có quyền lựa chọn ngay cả việc chống đối lại chính phủ mà không bao giờ sợ phải bị trả thù, không bao giờ bị đấu tố, thì thiếu gì những thành phần thân cộng hoặc những kẻ phá thối, sẵn sàng bỏ phiếu cho Hồ Chí Minh để thủ tiêu nền Cộng Hòa còn non trẻ.

Trở lại với việc di cư vào Nam, gia đình chúng tôi cũng như hầu hết đồng bào Bắc phần vào thời gian đó, những vụ đấu tố trong cải cách ruộng đất bắt đầu từ năm 1953 là một ác mộng kinh hoàng, và cả những vụ khủng bố, thanh trừng của cộng sản đối với những sỹ phu yêu nước, những chính khách thuộc các đảng phái khác, luôn luôn là một nỗi ám ảnh về những cái chết oan nghiệt hãi hùng, cho nên ai cũng mong muốn được thoát khỏi ách thống trị của cộng sản, ai ai cũng muốn được vào miền Nam tự do, nhưng khốn nạn cho nhiều người Bắc chúng tôi, cơm chưa đủ ăn, áo chưa đủ mặc thì làm sao có đủ chi phí cho hành trình từ quê nhà về đến Hải Phòng để xuống tàu vào Nam, dù chuyến hành trình từ bắc vào Nam là hoàn toàn miễn phí. Cũng như vào những năm cao trào vượt biên đi tìm tự do sau năm 1975, cả dân tộc Việt Nam đều muốn bỏ nước ra đi, cả cái cột điện mà đi được thì nó cũng đã đi rồi, nhưng đâu phải ai cũng có đủ vàng đủ bạc để chi phí cho những chuyến vượt biên đi tìm tự do đó. Cho nên, chỉ có khoảng hơn một triệu người có đủ điều kiện để vào Nam trong suốt 300 ngày di cư đó. Bên cạnh cái nghèo khó cái đói rách đã ngăn chặn người miền Bắc di cư, thì chính sách tuyên truyền, xuyên tạc và khủng bố của chính quyền cộng sản cũng là một cản trở lớn. Những truyền đơn, bích chương của Liên Hiệp Quốc in ấn, phát hành để tuyên truyền, khích lệ và hướng dẫn cho dân chúng về chính sách di cư đều bị chính quyền tịch thu, không đến được tay của dân chúng, ngoài ra các cán bộ thôn xã còn đến từng nhà xuyên tạc chính sách của Liên Hiệp Quốc, cũng như đe dọa rằng những ai có ý định di cư vào Nam tức là những người có tư tưởng theo Việt gian, chống lại đảng, chống lại chính phủ của cụ Hồ, sẽ bị trừng phạt đích đáng! Nhiều gia đình có điều kiện ra đi, nhưng vì những sự đe dọa đó, họ sợ rằng nếu không đi được mà phải trở về thì chắc chắn là không còn đường sống với chính quyền cộng sản, mà đành nhắm mắt đưa chân, quyết định ở lại chung sống với cộng sản.

Do vậy mà phần lớn những người di cư vào Nam năm 1954 là những người từng là nạn nhân của cộng sản, từng bị tịch thu tài sản, nhà cửa ruộng vườn, vì bị quy vào thành phần địa chủ, phú nông hay tư sản, tiểu tư sản phản động ở các thành phố, là những người hiểu rằng họ không thể nào sống dưới chế độ cộng sản được mà phải quyết tâm bỏ lại cửa nhà để ra đi. Tuy nhiên, chính quyền cộng sản lúc bấy giờ vu cáo  rằng những người Công giáo Việt Nam đã bị chính quyền Pháp, Mỹ và thân Mỹ cưỡng bức hay “dụ dỗ di cư”. Cộng sản Bắc Việt từng lu loa rằng “các Linh mục miền Bắc giục giã giáo dân vào Nam với lời giảng rằng Đức Mẹ Đồng Trinh đã vào Nam nên họ phải đi theo” (Sic). Đó là lối tuyên truyền xuyên tạc lố bịch và trơ tráo của công sản mà thôi. Thực tế các Linh mục, các Cha xứ là người hiểu rõ hơn dân chúng về chế độ cộng sản, và các vị linh mục cũng là người nắm được đầy đủ thông tin từ Liên Hiệp Quốc về chính sách di dân, nên đã giảng giải, giúp giáo dân hiểu đích xác về vấn đề, cũng như khích lệ họ vượt qua sự sợ hãi mà mạnh dạn lên đường đi về miền tự do; đó là lý do tại sao trong số hơn một triệu người di cư vào Nam thì đã có đến 800.000 người công giáo. Đây là công lớn của các vị mục tử.

Trong khi đó, có những bằng chứng cho thấy  rằng những tờ bích chương và tờ bướm do Uỷ hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến in và trao cho hai bên phổ biến cho dân chúng biết về quyền tự do di tản thì không được chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hoà phân phát. Hơn nữa chính Uỷ hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến đã mở cuộc điều tra đơn khiếu nại của chính quyền cộng sản Bắc Việt của Hồ Chí Minh, khiếu nại về hành động cưỡng bách di cư. Trong số 25.000 người Uỷ hội tiếp xúc, không có ai nhận là họ bị “cưỡng bách di cư” hay muốn trở về Bắc cả. Thế mới thấy rõ được sự lường láo tráo trở của Hồ Chí Minh và cộng sản Việt Nam.

Trại Tạm Cư Cho Người Bắc Mới Di Cư Vào Nam

Theo số liệu thống kê Uỷ hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình chiến thì ngoài những người kinh là nạn nhân của chế độ cộng sản hoặc giáo dân Công giáo thì trong số dân di cư vào Nam, còn có những người thuộc dân tộc thiểu số đã từng theo quân đội Pháp chống Việt Minh. Trong đó có khoảng 45.000 người Nùng vùng Móng Cái và 2.000 người Thái và Mèo từ Sơn La và Điện Biên cũng đã gồng gánh con cái, theo đường bộ đến Hải Phòng để xuống tàu vào Nam.

Ngày 9 tháng 8 năm 1954, chính phủ Quốc Gia Việt Nam của tân Thủ tướng Ngô Đình Diệm lập Phủ Tổng Ủy Di Cư Tỵ Nạn ở cấp một bộ trong nội các với ba nha đại diện, một ở miền Bắc, một ở miền Trung và một ở miền Nam để xúc tiến định cư. Thêm vào đó là Uỷ Ban Hỗ Trợ Định Cư, một tổ chức cứu trợ tư nhân giúp sức.

Đối với sinh viên đại học, Bộ Tư Lệnh Pháp dành 12 chuyến bay trong hai ngày 12 và 13 Tháng 8 đưa khoảng 1.200 sinh viên miền Bắc vào Nam. Ước tính chỉ khoảng 1/3 ở lại còn 2/3 chọn di cư.

Ngày 04 tháng 8 năm 1954 cầu hàng không nối phi trường Tân Sơn Nhất, Sài Gòn trong Nam với các sân bay Gia Lâm, Bạch Mai, Hà Nội và Cát Bi, Hải Phòng ngoài Bắc được thiết lập. Nỗ lực đó được coi là cầu không vận dài nhất thế giới lúc bấy giờ (khoảng 1.200 km đường chim bay). Phi cảng Tân Sơn Nhứt trở nên đông nghẹt; tính trung bình mỗi 6 phút là một máy bay hạ cánh và mỗi ngày có từ 2.000 đến 4.200 người di cư tới. Tổng kết là 4.280 lượt hạ cánh, đưa vào 213.635 người.

Ngoài ra, một hình ảnh quen thuộc với người dân tỵ nạn là “tàu há mồm”, tiếng Anh là Landing Ship Tank viết tắt là LST- đón người ở gần bờ rồi chuyển ra tàu lớn neo ngoài hải phận miền Bắc. Các tàu thủy vừa hạ xuống, hàng trăm người đã giành lên. Các tàu của Việt Nam, Pháp, Anh, Hoa Kỳ, Trung Hoa, Ba Lan… giúp được 555.037 người “vô Nam”.  Ngoài ra cũng có tới 102.861 người tự tìm đường bộ hoặc ghe thuyền và phương tiện riêng để tự túc di cư vào Nam, lánh nạn cộng sản miền Bắc.

Được sự trợ giúp tận tình của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa, những người di cư chúng tôi rất sớm ổn định cuộc sống trên quê hương mới trên nhiều tỉnh thành ở miền Nam, với những tên gọi thân quen của những làng xã, phố thị bản quán của chúng tôi ở miền bắc như Bùi Chu, Phát Diệm hoặc Tân Hoá, Tân Thanh tức Thanh Hoá mới, Tân Phát tức Phát Diệm mới, Tân Hà tức Hà Nội mới… với mong muốn bảo lưu được các nét đẹp văn hoá của quê xưa trên vùng đất mới còn tiềm ẩn nỗi nhớ quê hương bản quán, của người những người vì lý tưởng tự do mà phải xa rời nơi đó.

Biến cố 30 tháng Tư năm 1975, một lần nữa mang hiểm họa cộng sản đến cho toàn dân miền Nam, và cho cả người Bắc di cư chúng tôi, những người đã một lần phải lìa bỏ quê hương bản quán để lánh nạn cộng sản 21 năm về trước. Những tưởng chúng tôi đã vĩnh viễn thoát khỏi họa cộng sản rồi, nào ngờ đâu cái biến cố 01 tháng 11 năm 1963 lại báo hiệu cho chúng tôi về một hiểm họa cộng sản mới, và điều đó đã ứng nghiệm lời tiên liệu của ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu phát biểu trong một cuộc họp của Tổng Đoàn Thanh Niên Dân Vệ tháng 10 năm 1962 tại Trung Tâm Huấn Luyện Thi Nghè, rằng “Nếu chính phủ này bị ngoại bang và tay sai lật đổ thì 12 năm sau (tức là năm 1975) Việt Nam Cộng Hòa sẽ bị rơi vào tay cộng sản.”.  Thế là hàng triệu người Việt lại phải ra đi tìm tự do mà không có bất cứ sự sắp đặt nào của quốc tế! Những người Bắc 54 của chúng tôi lại một lần nữa phải “di cư” để lánh nạn cộng sản trong đời. Thật là ai oán! Sao chúng tôi lại phải hai lần tắm trên một dòng sông? Điểm khác biệt là lần này chúng tôi ra đi không được sự bảo trợ nào của quốc tế, mà chúng tôi phải trả chi phí cho chuyến đi bằng vàng, bằng máu và cả bằng sinh mạng nữa. Bởi người Ta đã sát hại Cụ Diệm, vị ân nhân của chúng tôi rồi… còn ai nữa đâu để chở che cho chúng tôi trên bước đường gian nan đi lánh nạn cộng sản lần thứ hai này,  trách sao chúng tôi không phải trả giá.

Nhiều người cho rằng chính những kẻ phản loạn và ăn cháo đái bát như Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Khánh, Dương Văn Minh, Mai Hữu Xuân, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Hữu Có, Lê Văn Nghiêm, Đỗ Mậu, Phạm Xuân Chiểu, Trần Văn Minh, Nguyễn Ngọc Thơ, Trần Văn Đôn, Tôn Thất Đính và Lê Văn Kim… là những tội đồ của dân tộc, là những kẻ phản chủ đã gián tiếp dâng miền Nam cho cộng sản để cả dân tộc phải lầm than… Riêng tôi là những người sinh sau đẻ muộn, chúng tôi không dám phán xét ai cả, mà chỉ tâm niệm rằng vì nghiệp chướng của dân tộc Việt Nam quá nặng nên đã trót sinh ra Hồ Chí Minh và những kẻ “ác ôn côn đồ đáng nguyền rủa” đó mà thôi. Vả lại, trên bước đường di tản nhọc nhằn rồi những năm tháng sống lưu vong nơi đất khách quê người vật vờ như cái bóng, những kẻ đó chắc cũng đã nhận ra tội ác và lầm lỗi của mình đối với một vị tổng thống anh minh, cũng như đối với đất nước, đối với dân tộc Việt Nam, khi vì tiền, bàn tay của họ đã vấy máu của người đã ban phát cho họ những ân huệ, bổng lộc và chức tước… Đó là sự trừng phạt không nhỏ, và chắc chắn với những ray rứt trong suốt những năm cuối đời trong kiếp sống lưu vong, khi nhắm mắt xuôi tay, trở về với đất, chắc chắn linh hồn của họ sẽ không bao giờ được siêu thoát. Nhất là lịch sử ngàn đời của dân tộc Việt sẽ phán xét họ.

Tôi viết lên bài này chỉ là để làm tròn ước nguyện của ông tôi trước khi qua đời, đó là xin được tỏ bày lòng tri ân của chúng tôi đối với NGÔ TỔNG THỐNG và Nền Để Nhất Cộng Hòa đã một lần giải thoát chúng tôi khỏi ách cộng sản vào năm 1954.

Như một nén hương lòng xin thành kính dâng lên Cụ.

© Nguyễn Thu Trâm

© Đàn Chim Việt

163 Phản hồi cho “Viết cho ngày 01 tháng 11”

  1. conmeo says:

    Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, đám ma cà rồng Mít áo chùng đen và con chiên cuồng tín vắt chân lên cổ chạy bắn khói cho kịp … tàu há mồm của thánh Cha thánh Chúa nhổ neo, bỏ cả nhà thờ và tượng Chúa, tượng bà đầm hiu quạnh tiêu điều …’vọng con chiên’ trên núi thì số lượng dân Chúa nội địa sụt giảm thấy rõ.

    Sau khi hoàn hồn trên đất người thì đám ma cà rồng Mít áo chùng đen và con chiên cuồng tín tụ tập lại theo tiếng kèn hiệu của Vatican mà lại giở thói… côn đồ bầy đàn xóm đạo cũ trên các cộng đồng tị nạn và sống trong ảo vọng về một ngày trở về … miền đất hứa theo sự dẫn dắt của Ma Chúa ở Vatican.

    Nhưng khốn nổi, đạo bịp này một khi không có chính quyền trong tay thì như giấy vệ sinh… gặp nước, lời nói của đám ma cà rồng Mít áo chùng đen không còn uy quyền như xưa, con chiên học được nếp sống văn minh sáng trí ra dần nhận ra thực chất của cái đạo bịp, máu của chúng dần có kháng thể nên nếu đám ma cà rồng Mít áo chùng đen lạng quạng hút nhầm máu có thể bị phản tỉnh như chơi.

    Thấy nguy cơ tàn tạ trước mắt nên một mặt đám ma cà rồng Mít áo chùng đen phải gấp rút móc nối với đám ma cà rồng trong nước để được tiếp máu mới thơm tho hơn vì con chiên bên ấy còn nhiều ngây thơ; mặt khác đành phải săn lùng ở các bệnh viện xem có người … lương nào hấp hối là bầu đoàn kéo nhau đến làm lễ ‘Bí Tích Mình Thánh Chúa’ chui, đánh nhanh rút lẹ cho khỏi bị thân nhân truy hô rượt đuổi… mất mặt bầu cua.

    Do đó muốn thuần hóa cái đạo bịp này thì ta phải cương quyết đừng để đám ma cà rồng áo đen Mít và con chiên cuồng tín lại mưu toan rước voi về giầy mả tổ để cướp chính quyền ở Việt Nam. Đừng bị mắc mưu các chiêu bài yêu nước, dân tộc, tự do, dân chủ …; chẳng qua toàn là hỏa mù cho các toan tính phục hồi các chế độ Ca-tô tại Việt Nam mà thôi

  2. conmeo says:

    Xóm đạo (Ca tô) ở quê nhà, vốn những cái ung nhọt nhức nhối trên thân thể mẹ Việt nam do bọn thực dân và Vatican cấy lại làm nhiễm độc xã hội của những đất nước mà bọn họ không toàn trị được và bị xua đuổi, nhất là ở Á châu.

    Ngày nay ai cũng rõ là tàn dư của các chế độ Ca-tô ở miền nam Việt nam, một thời làm mưa làm gió trên sinh mạng của biết bao nhiêu sinh linh lương dân vô tội dưới hai chế độ Cộng hòa do các thế lực ngoại bang và Vatican dựng lên, và tồn tại nhờ sự viện trợ của Hoa Kỳ cho nhu cầu chiến lược trong vùng, nay đã tụ tập lực lượng ở những cộng đồng đông dân Việt, nhất là nam Cali.

    Thành phần này thường tự hào là có “đạo gốc”, nghĩa là mang giòng máu làm tay sai nhiều đời cho tây thực dân để sát hại đồng bào phi-Catô yêu nước vốn là những người quyết đánh đuổi quân cướp nước ra khỏi bờ cõi, giành lại độc lập cho tổ quốc. Dĩ nhiên khi chủ nhân ông thất bại trong việc chiếm đất và nô lệ hoá nhân dân Việt thì bọn tôi tớ phải chạy theo chủ bén gót để sống còn như những cuộc di dân năm 1954 và 1975.

    Ta không lạ gì từ đó những bộ máy tuyên truyền của thực dân và Vatican luôn kết án đối thủ cộng sản là bọn “tam vô”. Họ bị kết án vô thần, chỉ vì họ không chịu làm đầy tớ cho một ông thần Jehovah và Giê-su của Vatican, một loại thần tượng ngụy tạo nhãm nhí, mê tín, dị đoan; vô gia đình, vì họ không chiụ sống trong những gia đình “xóm đạo” với sự khống chế của những ông “trùm sò” và “các cha lãnh chúa”; vô tổ quốc vì họ chỉ biết có đất nước Việt Nam, chứ không chấp nhận tổ quốc Vatican nào khác.

    Dân Chúa hung hăng con bọ xít sống ở các xóm đạo hải ngọai này có lẽ chỉ ngưng chống Việt Nam khi nào Vatican tìm được một con dê tế thần Jehovha thứ hai giống như Ngô Đình Diệm đem về nước để giáo hội Ca-tô tiếp tục “làm cha” trên đầu trên cổ nhân dân Việt nam. Như thế thì dân “di tản buồn” vẫn còn buồn dài dài., vì ngày ấy còn mịt mờ chân mây quá đổi.

    • Thằng Mõ says:

      conmeo.
      Một “bộ óc đặc sản” do cộng sản “bào chế” !!!
      Có muốn tuyên truyền thì về viết cho mấy tờ báo mà dân Việt Nam chỉ dùng để ‘gói hàng”, và thỉnh thoảng kẹt giấy khi … đi “vệ sinh” như QĐND, SGGP, TN … !!! Đừng múa may quay cuồng ở đây làm tốn thì giờ của người khác.

  3. Vô Vi says:

    @ Việt Quốc

    Khi nói điều gì thì phải có bằng chứng
    Đừng đặt điều đổ vạ cáo gian
    Chỉ có phường ma quỉ sa tan
    Mới nói những điều điêu ngoa gian dối

    Một Cây một Bồ Đề
    Hãy trở về đừng gian dối
    Càng đặt điều, càng thêm nghiệp chướng
    Hãy mau hồi tâm, đừng nói nữa

  4. Cù Nhầy says:

    Cụ Diệm sai lầm rất là bự.

    Ấy a, nếu cụ không xài người nhà là Cụ Thục, chú Nhu, cậu Cẩn, em Xuân…

    mà khai thác xử dụng anh Trung Kiên, em Tiên Ngu, thì đâu nên nỗi, hỉ ?

  5. Trung Kiên says:

    Đọc một số bài viết mà điên cái đầu.

    Những người “trong cuộc” mà còn nói mỗi người mỗi kiểu thì “sử gia” biết căn cứ vào đâu để viết sử “trung thực”, hay sẽ bịa ra để giết sử?

    Trách gì những “sử ra” ngoại quốc (phản chiến) kể cả thế lực đen (CS), hoặc viết để ăn tiền, và cả “xử gia” Việt Nam như: Trần Gia Phụng, Vũ Ngự Chiêu và đám Giao Điểm Charlie Nguyễn, Trần Chung Ngọc, Nguyễn Ngọc Quang…cứ nhắm vào những bài viết tố cáo ông Diệm mài bút…đào thành hố rác?

    Ba vụ hạ sát: Anh em TT Diệm Anh em Đại tá Lê Quang Tung Phó Đề đốc Hồ Tân Quyền

    Đám loạn tướng, chính khách salon, và những tên đạo tặc đội lốt thầy chùa thì…”viết hồi ký” để chạy tội…đổ lỗi cho người khác!

    Thật là một lũ hèn! Có gan làm loạn nhưng không dám can đảm nhận tội và nói lên sự thật!!!

    Lãnh đạo csvn cũng thế, có gan phản quốc, bán nước chia biển cho TQ, làm tay sai cho thiên triều Bắc Kinh, nhưng lại như kiểu gái đĩ già mồm rằng…vì dân vì nước (sic).

    Kêu gọi nhân dân bảo vệ TỔ QUỐC…Nhưng hễ có người đứng lên biểu tình chống TQ xâm lược thì ngay tức khắc bị CA đánh đập, khủng bố và bị giam tù!

    • Trường Sơn usa says:

      Đúng , ” Điên cái đầu là phải ,Vì các việc này nên Phó thác cho Chúa”
      mà ông là con Chiên ,nhỏ bé hèn mọn,sức lực có hạn ,gánh vác , mà luôn ra tay ,Bảo vệ ông Chủ Ngô đình Diệm ,và luôn công việc của Chúa nửa ?
      Mấy ông Giao điểm ,Sách hiếm có viết gì sai đâu ? chỉ phiên dịch COPY các trang báo Mỉ ,Nobles bookstores cũng như Thư viên Công giáo (Vietcatholic) vào tham khảo , so với phiên bản chính Tác giả Mỉ ,Ngoại quốc ra sao ? Và ta quyết định Phê bình ?
      Chúc ông định tâm ,sáng suốt ,Ơn trên gia hộ
      Amen

  6. Trung Kiên says:

    Tất cả các tài liệu dẩn chứng những cái xấu xa, sai lầm của chế độ Diệm đã được phơi bầy, gồm những nhận đinh của những yếu nhân ngoại quốc có, quốc nội có, trí thức văn nghệ sĩ có, dân thường có, tướng lãnh có vậy thi các anh hoài Ngô lấy tài liệu gì để biện hộ cho nhà Ngô?” (Chưng Sơn)

    Chưng Sơn nên mở mắt đọc những bài viết khác để có được nhận định khách quan hơn, đừng chúi đầu vào thùng rác…để bị nhuốm mùi ô uế, hôi hám, rồi tưởng ai cũng hôi như mình và thùng rác kia!

    Cái kim bọc giẻ lâu ngày cũng sẽ bị lòi ra. Những điều vu khống bịa đặt lúc đầu có thể lừa gạt được nhiều người…Nhưng rồi sự thật được phanh phui thì họ sẽ khinh thường và phỉ nhổ chúng!

    Vì vậy xin có lời khuyên chân thành với Chưng Sơn: Hãy động não suy nghĩ…để có được nhận định đúng đắn và trở thành con người lương thiện!

    Những câu nói để đời

    Nếu quả thực ông Diệm tàn ác thì kẻ ám sát ông ở Ban Mê Thuột (Phan Văn Điền) và cả Nguyễn Trường Tam đã không thể tồn tại.

    Hãy đọc Trần Gia Phụng đoạn này…”Tuy không bị bắt giam và chỉ bị gọi ra tòa xét xử, Nguyễn Tường Tam uống thuốc độc tự tử ngày 7-7-1963. Trước khi quyên sinh, Nhất Linh đã để lại những dòng tuyệt mệnh như sau: “Đời tôi để lịch sử xử, tôi không chịu để ai xử cả…”
    ( hãy bấm vào đọc)

    :LÝ DO CUỘC ĐẢO CHÁNH NGÀY 1-11-1963

    Nguyễn Tường Tam cũng đã “bị mù loà trí não” khi viết…”Sự bắt bớ và xử tội tất cả các phần tử Đối lập Quốc Gia là một tội nặng sẽ làm cho nước mất về tay Cộng sản. Tôi chống đối sự đó và tự hủy mình cũng như Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu để cảnh cáo những người chà đạp mọi thứ tự do“.

    Hu hu hu…Sự thật đã chứng minh, phần lớn “các phần tử Đối lập Quốc Gia” mà Nhất Linh nói ở trên lại là VC nằm vùng, đạo tặc đội lốt “tôn giáo” để phá hoại VNCH, và vụ Thượng Toạ Thích Quảng Đức mà ông Tam, ông Phụng gọi là “tự thiêu” đã được chứng minh là ngài Quảng Đức đã bị lạm dụng và bị chúng “nướng” như dưới đây:

    Thich Quang Duc Self-Immolation

    Hãy mở to mắt để thấy “TỰ THIỆU” hay bị “NƯỚNG” ?

    Lũ súc sanh này đã đặt điều vu oan gán hoạ cho ông Diệm để đánh lừa thầy Quảng Đức, khơi dậy trong ngài sự hy sinh, hiến thân…”bảo vệ Phật pháp” rồi đem ngài đi đốt!

    Đúng là lũ người khốn kiếp…lũ súc vật!

    • Trực Ngôn says:

      Người ta phản hồi Chừng Sơn tử tế, có văn hoá. Ngược lại, Chưng Sơn há miệng ra là thú 4 chân, con người với nhau mà coi như thú vật, chó với cừu rồi dùng những từ ngữ vô văn hoá như chó sủa. Chưng Sơn đúng là kẻ LIỆT NÃO thật rồi!

    • VIỆT ANH says:

      Tên này đi 2 chân mà não THÚ – Đỉnh cao trí tuệ loài vượn. Tuy đi 2 chân nhưng vưỡn là THÚ như thường.

    • Trung Kiên says:

      Trung Kiên không bao giờ…

      KHÔNG, KHÔNG BAO GIỜ… coi Chưng Sơn hay bất cứ ai là con “thú 4 chân” cả, mà chính Chưng Sơn đã tự thú nhận khi Quốc Việt, Nguyễn Mạnh Quang, Trần Chung Ngọc “đút” cho thứ gì thì Chưng Sơn nuốt tuốt tuần tuột thứ đó, không cần biết đúng sai, tốt hay xấu, ngon hay dở!

      Đó là điều thật đáng tiếc cho Chưng Sơn, một con người có học, biết cầm bút viết nhưng thiếu nhân tính để trở thành kẻ “đi 2 chân mà não THÚ” …

      …như bạn VIỆT ANH đã góp ý ở trên!

      Chưng Sơn hỡi
      Hãy mau quay đầu lại
      Rút đầu ra khỏi thùng rác (giáo điểm)
      Để làm người lương thiện

    • Thằng Mõ says:

      Đọc văn biết người. Chưng Sơn đến bây giờ vẫn còn chứng tỏ là một đảng viên chung kiên với một bộ óc “đặc sệt bã đậu + những giáo điều do csVN nhồi sọ” !!! Chúng ta không nên “đối thoại” với “đầu gối”.

      • Chưng Sơn says:

        Đến là buồn cười các con le chien vừa tếu lại vừa ngu, thành ra gọi các anh là Hai Ngù cũng đúng, các anh là thân le chien, đây là cái danh đã chết (Bolt vào thân các anh) dí với các anh do các “Bề Trên” của các anh tặng, (thằng Alệch Dâm ĐểLộ Alexandre de Rhodes , Thằng BíNgô Dụ BéHiền (Pigneau du Béhaine), thằng Bùi Ghẻ Nhơ (Puguiniez) chúng đặt cho các anh cách nay cả mầy trăm năm nay rồi, vã lại các anh vẫn gọi nhau là con chien, vậy con chien là con gì??? Ấy là con cầy, con chó đi 4 chân các anh hiểu chửa??? Thành ra cái danh này dành riêng cho các anh, các anh hiểu chửa??? Các anh không thể gán ghép cho ai được nữa, và vì vậy khi các anh gọi bất cứ ai là thú thì các anh cúi xuống thấy mình đang đứng trên 4 chân, hiểu chửa???

  7. CoiThu says:

    Loại thú rợ hán này hoăc bọn tay sai CSVN vừa ác ôn vừa mất dạy. Làm gì mà chúng biết tôn trọng sự thật biết đối thoại. Người khôn ai lại đi đối thoại với bọn này. Chúng chỉ có biết sợ roi quất vào đít mà thôi. Người ngay, người có liêm sĩ chỉ cần nói nhẹ một câu cũng đã cảm thấy rất đau.

    Sự tồn vong của VN đang bị đe dọa bởi bọn rợ hán:

    Chúng đã chiếm biển Đông và và nhiều cứ điểm chiến lược cùa VN.
    Chúng hầu như đã khống chế được CSVN, QĐ và CA.
    Chúng đang đầu độc giết dần NDVN qua nhiều cách thức, đặc biệt bằng ngộ độc thức ăn.
    Cũng như ở Tây Tạng và Tân Cương, chúng đang thực hiện chính sách di dân thay thế dân VN bằng bọn rợ hán. Bọn rợ hán nếu chịu di dân sẽ có một số đặc quyền đặc lợi.

    Cho nên hiện nay, ác ôn gây hiềm khích gây chia rẽ giữa các tôn giáo giữa người VN do đó chỉ có bọn súc vật rợ hán hoặc là đám tay sai của chúng là đám súc vật CSVN.

    Chúng tưởng rằng chúng đã chiến thắng, nhưng không ngày đền tội ngày diệt vong cũa chúng cũng như đám tay sai CSVN thực sự đang bắt đầu, sẽ không còn bao xa. Trong tương lai bọn súc rợ hán chỉ cần ngoan cố giữ tên rợ hán của chúng là sẽ không còn có đất sống.

  8. MiPha says:

    Cuộc đảo chính 1.11.63 không đổ máu vì đâu có tên tướng nào dám chống lại lệnh của CIA tức chống lại ông chủ Mỹ và đồng USD. Cả đám tướng tá xuất thân hoàn toàn do Pháp đào tạo và làm tay sai cho Pháp khi Pháp yếu thế thì nhảy qua bám Mỹ hất cẳng Pháp đi. Khi ông chủ Mỹ không còn Ok gia đình Diệm thì bỏ Diệm phò chủ mới. Cuộc đảo chính không đổ máu, vì chỉ có máu của 2 ông hôm qua là chủ của cả đám hôm nay phải đổ để đổi lấy USD, lấy quan quyền bổng lộc.

    • nguyen quoc viet says:

      Mù Văn hóa !!! .

      • Thích Nói Thật says:

        Rất tiếc phải nói thẳng, nói thật!

        Kẻ “Mù Văn hóa” chính là nguyen quoc viet !!!
        Hãy đọc nhiều để mở mang trí tuệ ông ơi.

  9. D.Nhật Lệ says:

    Cái ý kiến “trật đường rầy” trên đây đã chứng minh điều gì ?
    Đó là bài viết nói về TT.NĐD.nhưng không góp ý về cách cai trị dưới
    thời Đệ Nhất CH.mà lại cố ý đá qua tôn giáo.
    Điều này chứng tỏ rằng đây là nạn nhân của những luận điệu bài xích
    đạo CG.trước 1975 nhằm gây chia rẽ dân tộc và chúng đã thành công
    trong việc lật đổ NĐD.nhưng nay ông ta vẫn còn sân si thế này thì đúng
    là bị nhồi sọ… qúa cỡ thợ mộc !
    Xét cho cùng,CV.càng lộ bộ mặt bán nước thì những luận điệu mạt sát
    cũ càng được kích động để lấp liếm tội phản nước hại dân của CV.

  10. Choi Song Djong says:

    Phun ra được những luận điệu như thế này hẳn ông VQ cũng không phải tay vừa mà là một tay khốn nạn nhất trong cái đám khốn nạn mạt hạng.Ông căm thù gia đình họ Ngô thì tùy ông,sao ông lại đi phỉ báng tôn giáo của chúng tôi ?

Leave a Reply to Choi Song Djong