WordPress database error: [Expression #1 of ORDER BY clause is not in GROUP BY clause and contains nonaggregated column 'oldsite_dcvwp.wp_posts.post_date' which is not functionally dependent on columns in GROUP BY clause; this is incompatible with sql_mode=only_full_group_by]
SELECT YEAR(post_date) AS `year`, MONTH(post_date) AS `month`, count(ID) as posts FROM wp_posts WHERE post_type = 'post' AND post_status = 'publish' GROUP BY YEAR(post_date), MONTH(post_date) ORDER BY post_date DESC

 
|

Thực Trạng Giáo Hội Thiên Chúa Giáo miền Bắc từ 1945-1975

Một nhà thờ tại Việt Nam trong thập niên 60s. Ảnh culturalcatholic.com

Một nhà thờ tại Việt Nam trong thập niên 60s. Ảnh culturalcatholic.com

Nhân dịp có phái đoàn Ngoại Giao Tòa Thánh Vatican do Đức ông Pietro Parolin, thứ trưởng ngoại giao sang Việt Nam từ ngày 16 đến 21-2-2009. Chúng tôi viết bài này để nhắc lại một quá khứ đen tối của giáo hội miền Bắc trước đây để nhìn rõ thực trạng ngày hôm nay. Để thấy rằng còn rất nhiều việc phải làm, nhiều điều phải đòi hỏi nhà cầm quyền cộng sản hiện nay đối với các tôn giáo.

Việc thăm viếng với tư cách phái đoàn ngoại giao cho thấy sự tiến tới việc thiết lập bang giao giữa hai bên là điều cần thiết và bình thường. Điều đã nên làm từ lâu để tránh những mối bất đồng mà chính ra là không bất đồng đối với hằng trăm các nước khác.

Người ta phải tự hỏi, tại sao tòa thánh Vatican không gặp khó khăn và bất đồng như thế đối với các nước như Thái Lan, Singapore, Nhật Bản, Đại Hàn? Nói chi đến các nước Âu Châu và ngay cả Phi Châu?

Câu trả lời là chỉ vì các nước ấy không phải là cộng sản như Việt Nam, Tàu. Cái bất đồng lớn nhất như cục bướu ung thư là chính quyền cộng sản muốn nắm đầu, muốn can thiệp, muốn kiểm soát tôn giáo, muốn một thứ “tôn giáo nhà nước”, muốn “tôn giáo quốc doanh” với sư quốc doanh, cha quốc doanh.

Cái mà ông Nguyễn Quốc Cường gọi là “Chính sách tôn giáo trước sau như một” của nhà nước cộng sản.

Cứ nhìn thực trạng tôn giáo quốc doanh ở Việt Nam bây giờ thì tương lai tôn giáo sẽ đi về đâu? Cho dù có những bất đồng lớn như thế trong quá khứ cũng như hiện tại thì đây cũng là lúc nên giải quyết bằng những phương tiện chính thức như ngoại giao? Vatican có đòi hỏi những gì “hơn”, “quá trớn” so với các nước khác không? Chắc là không và trái lại đằng khác.

Ngược lại các tôn giáo ở VN đều là nạn nhân của chế độ cộng sản.

Chẳng hạn quyền in ấn các tác phẩm tôn giáo, quyền đào tạo tu sĩ và nhất là quyền được chỉ định, tuyển bổ các chức sắc trong giáo hội. Chính quyền cs cứ khăng khăng là phải để họ duyệt xét trước đã. Nhưng căn cứ vào nguyên tắc gì để chính quyền có thể đánh giá một giám mục là tốt hay không tốt? Tốt với chính quyền có tương đồng với cái tốt của Giáo hội?

Trong khi đó chỉ là chuyện nội bộ các tôn giáo mà các chính quyền không nên can thiệp vào. Đó là thứ quyền tự do hành giáo và truyền giáo. Đó là thứ quyền không có không được.

Việc bình thường hóa quan hệ ngoại giao cũng là cơ hội mở ra để “điều chỉnh” cũng như “xét lại” những đòi hỏi thiết thực để cho một giáo hội có thể hoạt động hữu hiệu hơn giúp ích cho tôn giáo mà còn cho xã hội nói chung. Cả hai bên phải đi đến những thỏa thuận để giải quyết rất nhiều vấn đề tồn tại từ 1945 đến nay.

Tình trạng đó không nên kéo dài mãi, gây mối căng thẳng và nghi ngờ đáng nhẽ không nên có. Tất cả tùy thuộc vào thái độ hiểu biết của nhà nước.

Bởi vì tiến trình “giải băng giá” giữa chính quyền và tôn giáo xét cho cùng phải bắt đầu từ chính quyền và kết thúc cũng là do chính quyền.

Bởi vì tôn giáo nào cũng chỉ muốn được an thân để hành giáo mà thôi. Cho nên, mở ra hay khép lại trước sau tùy thuộc chính quyền cộng sản mà thôi.

Cái câu hỏi vẫn không có câu trả lời của tôi là tại sao ở xứ người, không có những xung đột tôn giáo, không có những hạn chế, cấm đoán, tịch thu như ở VN?

Đây là lần thăm viếng thứ 16 của các phái đoàn Tòa Thánh sang bàn thảo với phía VN. Dây dưa cù cưa mãi về những vấn đề cốt yếu căn bản cho sinh hoạt bình thường của một giáo hội. Và cũng là lần thứ tư của Đức Ông Parolin.

Điều đó cho thấy rằng mối liên lạc ngoại giao giữa Vatican và chính quyền VN còn nhiều vấn đề vướng mắc chưa được giải quyết trong quá khứ và ngay cả hiện tại. Những vấn đề mà đối với các nước khác trên thế giới đôi khi chỉ là vấn đề thủ tục thông thường và không gặp những rắc rối không cần thiết như thế!

Chẳng hạn vấn đề tự do bổ nhiệm các linh mục và giám mục theo nhu cầu riêng của Giáo Hội. Vấn đề trả lại tài sản của giáo hội như việc chiếm đất tòa khâm sứ, đất Thái Hà, các cơ sở học viện như Đại chủng viện Piô 10 Đà Lạt. Trong đó, xin nhắc lại Thư chung Hội Đồng Giám Mục Việt Nam về: Một số vấn đề trong hoàn cảnh hiện nay, ngày 25-9-2008 mới đây về vấn đề nhà đất, tài sản giáo hội.

Ngày 01-12-2003, Giám Mục Huỳnh Văn Nghi gửi thư tố cáo cộng sản Việt Nam vô lý về chủ quyền đất đai của Giáo Hội gởi Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam.

Chắc rằng vấn đề này còn phải nhắc lại nhiều lần, cù cưa lâu dài nữa cho đến khi nào giải quyết ổn thỏa.

Tiếp đến là vấn đề giáo hội muốn tham gia vào các công tác giáo dục, xã hội và y tế như mở trường Trung học, đại học, mở các nhà thương, viện đưỡng lão, cô nhi viện, nhà phát thuốc cho nguời nghèo.

Ngày nay, sau hơn 30 năm xã hội chủ nghĩa, xã hội VN đang trên đà tụt dốc đạo đức, luân lý đến khó hy vọng cứu vãn được. Nghĩ tới tương lai VN thì nhà nước cộng sản phải trao lại cho các tôn giáo cái quyền đào tạo con người về phương diện đạo đức và tâm linh. Không có các tôn giáo tiếp tay, xã hội VN đang đi đến thảm trạng suy đồi hầu như không còn thuốc chữa nữa.

Mặc dầu, cả hai bên đều đưa ra những nhận xét lạc quan, có tiến bộ trong các cuộc đàm phán, tôi vẫn không tin là con đường bình thường hóa ngoại giao sẽ xảy ra xuông sẻ và dễ dàng.

Bởi vì quá khứ lịch sử đau thương của các tôn giáo còn đó. Những nạn nhân vẫn còn đó.

Nhân dịp này, tôi xin trình bày rõ thực trạng giáo hội miền Bắc trước 1954 đã phải sống khốn khổ, chịu đựng như thế nào? Đã gặp môt số vấn nạn mà cho đến nay vẫn chưa giải quyết xong. Nếu chính quyền tỏ ra thiện chí thì chuyện không phải là không làm được.

Phần phía lãnh đạo tôn giáo như các vị giám mục, cần can đảm đòi hỏi những gì mà chúng ta có quyền được đòi hỏi.

Hãy chấm dứt chế độ xin cho.

Xin cho là đường đưa tới hối mại, bất công và tham nhũng. Xin cho là phương tiện hủ hóa cá nhân và tổ chức tôn giáo. Xin cho là lệ thuộc là muốn nắm đầu, nắm cổ. Người ta không thể cho những điều mà người ta không có và không cần xin những điều mà người ta vốn có sẵn.

Về vấn đề nguyên tắc, cùng lắm thì thương lượng. Đối đế thì đòi hỏi dựa theo lương tri và luật lệ nếu có.

Phải thống nhất ý chí và hành động. Không thể chỉ nhìn thấy cái lợi vật chất trước mắt. Tránh tình trạng xé lẻ, cơ hội, “đi đêm”, “phải quấy” với từng địa phương, từng trường hợp. Đừng dựa vào cái “khôn ngoan” thế gian để cân bằng đạo lý và che mắt trên trời.

Phải là một đòi hỏi chung không phải cho một cá nhân, một giáo xứ hay một địa phận. Rộng ra là cho tất cả mọi tôn giáo.

Từ đó rút ra bài học cho bây giờ, cảnh báo cho các vị lãnh đạo cần phải có đủ can đảm và khôn ngoan để đối phó với tình hình hiện tại.

Đã từ lâu, tôi nuôi ý định là phải viết về “mảng giáo hội” này, mảng giáo hội miền Bắc đã bị quên lãng vì rào che chắn của bức “màn tre” kể từ sau 1954. Không một tin tức nào lọt ra ngoài. Gần như không mấy ai biết rõ thực trạng giáo hội miền Bắc ra sao. Biết chung chung thì có. Biết cụ thể thì không. Miền Nam và miền Bắc lúc ấy như thể hai nước cắt đứt mọi quan hệ liên lạc và sau trở thành hai kẻ thù, hai chủ nghĩa đối đầu.Từ đó hình thành ở ngoài Bắc một thứ “giáo hội hầm trú” như trong các hang toại đạo thời xưa.

Tất cả miền Bắc đều chiu chung số phận. Khổ nạn này nói sao cho đủ. Nhưng riêng người theo đạo thì gấp hai lần khổ nạn. Nhiều người sống bên lề xã hội, một thứ công dân bậc hai, không có công ăn việc làm. Con cái không được vào đại học hay vào đảng.

Bài này viết lại một lần cho xong, vì những nhân chứng sống như linh mục Phạm Hân Quynh, Hồng y Phan Đình Tụng, giám mục Nguyễn Văn Sang, giám mục Lê Đắc Trọng, giám mục Chu Văn Minh, Trung Tá Thiết sẽ chẳng bao lâu sẽ không còn nữa.

Không nói, không viết lại bây giờ thì đã quá muộn mất rồi. Dù chỉ nói lên được một phần nhỏ như tiếng kêu trên sa mạc thì cũng phải nói.

Giai đoạn 1945-1949

Phải nói một cách công bằng là vào những năm 1945-46, có một bầu khí phấn khởi hăng say về khát vọng độc lập nơi người Thiên Chúa giáo. Việc lên nắm chính quyền của Việt Minh được nhìn nhận như một cơ hội tốt cho việc thực hiện nền độc lập ấy. Lúc ấy, người theo Thiên Chúa giáo vào khoảng 1.600.000 người với 15 giáo phận, 330 linh mục ngoại quốc và 14.000 linh mục Việt Nam phần đông đều chia sẻ tâm tình ấy. Mặc dầu trong 15 giáo phận mới có 3 giáo phận do giám mục Việt Nam đứng đầu: Bùi Chu có giám mục Hồ Ngọc Cẩn, Phát Diệm có Lê Hữu Từ và Vĩnh Long có Ngô Đình Thục.

Bernard Fall, một nhà báo rất am hiểu chế độ CSVN viết: “Il est hors de doute que l’Église catholique d’Indochine fut à un certain moment à l’avant-garde du nationalisme Vietnamien.” {Trích Bernard Fall, Le Viet Minh, trang 165, 1960, Paris}

{Điều không còn gì để nghi ngờ nữa là giáo hội Thiên Chúa giáo ở Đông Dương vào một lúc nào đó đi hàng đầu trong trong tinh thần chủ nghĩa dân tộc Việt Nam.

Bầu khí phấn khởi đó được chia sẻ ngay trong hệ thống hàng Giáo phẩm như linh mục tu sĩ và các chủng sinh cũng như về phía giáo dân làm “kinh ngạc” các thừa sai và phía chính quyền Pháp.

Về phía giám mục thì đức cha Nguyễn Bá Tòng là niên trưởng, 78 tuổi, Lê Hữu Từ 49 tuổi và người trẻ nhất là Ngô Đình Thục 42 tuổi đều ngả theo khuynh hướng chính trị chống lại người Pháp, thân thiện hoặc có cảm tình với Việt Minh. Như trong một phúc trình của Pháp, nhận xét của Đô đốc Argenlieu về giám mục Ngô Đình Thục như sau: “Ce prélat dont les sympathies pour le Viet Minh ne font pas de doute… Étant donné la personnalité agissante de Mgr Thuc et la situation politique encore troublée dans les provinces cochinchinoises, ce retour me semble prématuré” {Trích ASHAT Indo 10 H 4191: TFEO Alexandri, BR N%3219/2, Saigon le 11/11/1948. Trích lại trong Les Catholiques Vietnamiens pendant la guerre d’Inđépendance 1945-1954, Trần Thị Liên, trang 42}.
{Những cảm tình của vị giám mục này đối với Việt Minh là rõ ràng. Xét cá tính khuấy động của giám mục Thục cũng như hoàn cảnh chính trị còn rối ren của các tỉnh Nam Kỳ, việc để ông Thục trở lại Vĩnh Long là điều quá sớm {Giám mục Thục lúc đó đang ở Biên Hòa và người Pháp đã không cho phép ông trở về Vĩnh Long quản nhiệm cũng như trước đó đã ngăn cản không cho dự lễ phong chức giám mục Lê Hữu Từ ngày 28-10-1945}.

Dĩ nhiên thái độ các giám mục có khác nhau. Giám mục Thục khôn ngoan, cẩn thận, chừng mực và ôn hòa. Giám mục Lê Hữu Từ thì nhiệt tình, hăng say, chống Pháp ra mặt, ủng hộ Hồ Chí Minh.

Riêng giám mục Nguyễn Bá Tòng đã thay mặt ba giám mục Ngô Đình Thục, Hồ Ngọc Cẩn và Lê Hữu Từ viết một lá thư bày tỏ khát vọng một nền độc lập cho Việt Nam, gửi cho Giáo Hoàng Piô 12 vào ngày 23-9-1945, tóm tắt như sau: “Notre peuple bien aimée d’ Annam a demandé à ses quatres évêques d’offrir à Votre Sainteté l’hommage de son profond respect et d’implorer sa bénédiction en faveur de notre indépendance qu’il a acquise et qu’il entend maintenir à n’importe quel prix… Nous, évêques Vietnamiens, prions votre Sainteté, la cour de Rome, leurs éminences les cardinaux, leurs excellences les archevêques, les évêques et tous les catholiques du monde, et en particulier de France, de soutenir la décision prise par notre chère patrie” {Lá thư này đã được phổ biến rộng rãi trong giới Thiên Chúa giáo. Trích Bernard Fall trong Le Viet Minh, 1945-1946, Paris, Ạ Collin, trang 165}.

(Dân tộc VN yêu quý của chúng tôi đã kêu cầu 4 giám mục gửi lên Đức Thánh Cha niềm kính trọng quý mến sâu xa và khẩn cầu Đức Thánh Cha chúc lành cho nền độc lập mà chúng tôi mới có được và sẽ duy trì nền độc lập với bất cứ giá nào… 4 giám mục Việt Nam chúng tôi khẩn cầu Đức Thánh Cha, triều đình Rô ma, các vị hồng y khả kính, các vị tổng giám mục, giám mục và tất cả những Người Thiên Chúa giáo trên thế giới, và đặc biệt người Thiên Chúa giáo bên nước Pháp hãy ủng hộ quyết tâm của tổ quốc thân yêu của chúng tôi}.

Và sau đây là một phúc trình của Pháp đánh giá về vai trò người Thiên Chúa giáo liên quan đến các biến cố chính trị thời bấy giờ: “Le mouvement anti-francais suscité par le Viet Minh a pu sans peine rallier la majeure partie du clergé tonkinois ambitieux et mécontent de la situation actuelle et d’évaluer à 30% la proprtion du clergé complètement acquise au VM.” {Trích AOM INDO GG Dos 125: Note sur le clergé en Indochine, non signé et non date. Trích lại Trần Thi Liên, như trên, trang 50}

{Các phong trào chống Pháp do Việt Minh phát động đã lôi kéo không mấy khó khăn được phần đông hàng giáo sĩ ở Bắc Kỳ có tham vọng và bất mãn trong hoàn cảnh hiện nay. Và có thể có đến 30% hàng giáo sĩ đã ngả theo Việt Minh.}

Cụ thể nhất là hai chứng từ như nhân chứng của Cha giáo sư đại chủng viện Xuân Bích thời bấy giờ là cha Pierre Gastine do Trần Thị Liên phỏng vấn ngày 21-2 và 8-3-1990 và của Vũ Sinh Hiên phỏng vấn cha Phạm Hân Quynh, lúc bấy giờ là một sinh viên đại chủng viện.

Ngày nay, còn có linh mục giữ được những tấm hình ghi lại một đám lố nhố áo đen, đứng tụ tập trước nhà hát lớn Hà Nội. Riêng Cha Gastine đã ghi lại thái độ phấn khích của đám môn sinh như sau: “Le 2 septembre 1945, il y a eu un mouvement extraordinaire d’enthousiasme, dont on ne peut avoir idée aujourdh’ui {P…} C’était vraiment une explosion de joie. Des jeunes gens très patriotes ont proposé aux séminaristes de participer à la grande manifestation. Le Supérieur des Sulpiciens et l’évêque de Hanoi ont refusé. Le matin-même de la manifestation, les séminaristes se sont partagés en deux groupes: La Plupart des jeunes {“Les philophophes” car les deux premieres années du séminaire consistaient surtout dans un enseignement de Philosophie} sont allés manisfester, les plus âgés {“les théologiens”} sont restés… En fait, il y a eu à ce moment-là une atmosphère pénible de division entre les séminaristes et le corps professional. Ce qui a éte désagréable, c’est cette désobéissance aux Supérieus. On sentait bien après celà qu’ils n’avaient plus confiance dans leur professeurs. Certains jeunes séminaristes projetaient même de quitter le séminaire, et de tout casser, mais les plus anciens les en ont dissuadés et ils sont partis tranquillement en septembre 1945. {Trích phỏng vấn cha P. Pierre Gastine của Trần Thị Liên, sách dẫn trên, trang 51}

{Ngày 2-9-1945, có một cuộc vận động kỳ lạ đầy nhiệt huyết mà người ta không có được ở ngày nay… Quả đúng là một niềm vui sướng bùng lên. Những người trẻ tuổi đầy lòng yêu nước đã đề nghị với các chủng sinh tham dự vào cuộc mít tinh lớn. Cha Bề trên cũng như giám mục Hà Nội {Giám mục Hà Nội lúc bấy giờ là đức cha Chaise} từ chối không cho phép đi biểu tình. Ngay buổi sáng hôm mít tinh thì các chủng sinh chia ra hai nhóm. Phần đông nhóm sinh viên triết đi dự mít tinh. {Nhóm triết học hai năm đầu chương trình Đại chủng viện} Nhóm Thần học {học 4 năm} lớn tuổi hơn phần đông không đi dự. Thật sự bầu khí lúc ấy là một điều khổ tâm khi có sự chia rẽ giữa sinh viên và giữa sinh viên với các cha giáo. Điều khó chịu là sự bất tuân lệnh các bề trên. Người ta cảm thấy rõ điều đó không còn có sự tín nhiệm vào các cha giáo nữa. Một số chủng sinh trẻ tuổi nghĩ đến việc rời bỏ chủng viện và buông xuôi hết, nhưng các chủng sinh lớn đã khuyên can họ và cuối cùng thi họ đã rời chủng viện một cách thầm lặng vào tháng 9-1945}.

Sau khi Đại chủng viện đóng cửa thì sau đó có khoảng 700 quân Tầu đã đến chiếm ngụ tại chủng viện.

Vũ Sinh Hiên đã viết lại theo lời kể của cha Phạm Hân Quynh như sau: “Hôm ấy, ngay dưới chân lễ đài mà trên đó cụ Hồ Chí Minh đọc bản tuyên ngôn độc lập, là 180 thầy đại chủng sinh trong đồng phục áo chùng thâm, đi đầu là thầy Gioan Đỗ Tông {Sau làm cha chính xứ nhà thờ Cửa Bắc} với vóc dáng cao lớn nhất “tràng lý đoán” cầm lá cờ đỏ sao vàng. Tất cả các thầy đã hát vang một bài hát ca tụng nền độc lập của tổ quốc, do thầy Giuse Lê Đức Triệu, tức nhạc sĩ Hoài Đức thuộc nhạc đoàn Lê Bảo Tịnh vừa mới sáng tác tối hôm trước và các thầy đã tập hát ngay trong đêm, với một tâm trạng rộn rã như chưa từng có trong đời làm con dân đất Việt” {Trích bài: Thái độ của các giám mục miền Bắc đối với cộng sản từ 1945-1975 VSH gửi cho người viết}.

Người viết xin kể thêm tâm tình của cha Phạm Hân Quynh lúc bấy giờ cho rõ thêm.” Những ngày đầu, người ta đã tự sáng tác những bài hát để hát lần đầu tiên. Chẳng ai hỏi Việt Minh là ai, cộng sản là gì. Ngay cả Hồ Chí Minh cũng không ai biết. Trước đây chỉ có nghe nói đến một người tên Nguyễn Ái Quốc là Cộng Sản, đang ở bên Nga. Không ai có thể nghĩ là hai tên đó lại chỉ là một người. Lẽ dĩ nhiên, chỉ sau này thì người ta mới biết rành rẽ. Nhiều chủng sinh, khoảng 40 người, phản ứng mạnh mẽ với các cha giáo người Pháp và bỏ tu. Trong số đó có Trần Tử Bình, sau này là tướng sư đoàn và làm đại sứ ở bên Tàu.

Trên thực tế, các thừa sai lúc bấy giờ đã chứng kiến nhiều cảnh kinh hoàng đáng sợ hãi của đám chủng sinh trẻ khi họ tụ tập trước mặt nhà thờ lớn Hà Nội, căng biểu ngữ, căng cờ đỏ sao vàng với khá nhiều khẩu hiệu đe dọa như: Hãy trả lại Giáo Hội cho hàng giáo phẩm Việt Nam. Hay L’Église d’Annam aux Annamites. Giáo Hội Việt Nam trả lại cho người Việt Nam…

Những nhiệt tình như thế lúc ban đầu chẳng bao lâu sau nguội tàn kể từ khi nhiều chủng sinh biết rõ rằng: Theo Việt Minh, chính là theo cộng sản.

Bernard Fall viết: “Aucun Vietnamien ne veut plus de l’occupation coloniale, et tous sont, directement ou indirectement, engagés dans la lutte. Malheureusement, le “Front de l’Indépedance” Viet Minh communiste a monopolisé la résistance. La population ne veut pas plus du communisme que du colonialisme, mais pratiquement, il n’y a pas de troisième voie” {B. Fall, trích như trên, trang 167}.

{Không một người Việt Nam nào mong muốn chế độ thuộc địa chiếm đóng nữa và mọi người trực tiếp hay gián tiếp tham gia vào cuộc chiến đấu. Nhưng bất hạnh thay, “Mặt trận dành độc lập” của Việt Minh cộng sản đã dành độc quyền cuộc kháng chiến. Dân chúng chán ghét cả chế cộng sản lẫn chế độ thực dân, nhưng thực tế, thường không có con đường thứ ba}

Và nhiều người theo đạo bị giằng xé giữa đòi hỏi yêu nước, dành độc lập phải gia nhập với những người cộng sản và những đòi hỏi gắn liền vào tự do và niềm tin tôn giáo. Đó là những thảm trạng lương tâm {Drame de consciencsce}.

Theo cha Gastine, tháng 9-1946, Đại chủng viện mở cửa lại sau khi quân Tàu rút đi. Thái độ chính trị của các thầy chủng viện đã không còn cái nhiệt tình như trước nữa.

Ngay cả dân chúng ở các xứ đạo cũng giữ một khoảng cách nghi kỵ Việt Minh là cộng sản. Chính giám mục Lê Hữu Tư đã có lần nói thẳng với Hồ Chí Minh: Tôi ủng hộ cụ trong việc giành lại độc lập đất nước, nhưng tôi sẽ chống đối đến cùng nếu cụ là cộng sản.

Ranh giới phân chia cộng sản-tôn giáo dần rõ nét.

Chẳng hạn trường hợp linh mục Trịnh Như Khuê làm phó xứ cho cha P.Paulis xứ Hàm Long, {Hàm Long thuộc quận Hoàn Kiếm, thời Pháp có tên là phố Douart de Lagrée, sau 1945 giữ tên là Hàm Long, trích Tự Điển đường phố Hà Nội, trang 85} Cha Khuê sau này lên Giám Mục, Tổng Giám Mục rồi Hồng Y địa phận Hà Nội. Linh Mục Khuê có lập trường khá cứng rắn đối với Việt Minh được coi là cộng sản. Và dưới mắt Việt Minh, cha Khuê được coi là thành phần “phản cách mạng”, chống đối Việt Minh ra mặt. Chẳng hạn không cho các thanh niên treo cờ đỏ sao vàng trong sân nhà thờ, sáng ngày chủ nhật 27-10-1946. Linh mục bắt tháo gỡ xuống hay không cho các thanh niên mượn ghế nhà thờ v.v…

Sự cứng rắn của cha Khuê, sau này là Tổng giám mục Hà Nội phải chăng cho thấy trước mối liên lạc tôn giáo-chính quyền trở thành băng lạnh và nghi kỵ?

Từ sự nghi kỵ lúc đầu dần dần đưa đến sự sợ hãi, kinh hoàng vì những hành vi giam cầm, khủng bố, ám sát, thủ tiêu và phá hủy nhà thờ của cộng sản đối với giới tu sĩ và giáo dân. Ngay Phố Nhà Chung {Con phố trước mặt nhà thờ lớn, nối tiếp Lý Quốc Sư đến phố Tràng Thi, thời Pháp còn gọi là Rue de La Mission. {Trích Tử điển đường phố Hà Nội, trang 208} bị Việt Minh đốt phá…

Cạnh đó, các thừa sai Pháp như cha Gastine bị bắt và giam ở Tây Sơn cùng với nhiều người khác, cách Hà Nội 50 km. Và rồi ở Huế, nhất là các vùng Thanh Hóa, Nghệ An, các cơ sở tôn giáo bị phá hủy bình địa: “le 19 décembre 1946, le “rideau de fer” tombait sur le Nord d’ Annam, contrôlée entìerement par le VM et depuis, c’est le silence à peu près total sur les missions de Vinh et de Thanh Hoa”. {Trích MEP, CRT de 1948, Vinh, p. 80, 81, trích lại trong Trần Thị Liên như trên, trang 140}

{Kể từ 19 tháng 12, 1946, “Bức màn sắt” rơi xuống toàn thể các tỉnh phía Bắc, Trung Phần bị VM kiểm soát hoàn toàn và kể từ đó, chỉ còn là sự im lặng hoàn toàn trên các vùng truyền giáo ở Vinh và Thanh Hóa}.

Trường học bị đóng cửa, chủng viện cũng vậy. Nhà thờ bị phá hủy, làng mạc Thiên Chúa giáo bị đốt cháy. Gần như Việt Minh có chính sách quét sạch. Và người ta cho rằng tất cả những việc phá hoại nằm trong chủ trương của chính quyền cộng sản.

Chẳng hạn như ở xứ Cao Mai, Thái Bình, người ta cho biết có 180 người theo đạo gồm đàn ông, đàn bà, trẻ con bị nhốt trong nhà thờ và bị đốt cháy. “Les arrestations en masse étaient devenues si fréquentes- écrit B. Fall, qu ‘elles étaient ouvertement admises, même par le journal officiel du gouvernement républicain. On peut lire en effet, dans Cuu Quoc {Le salut national} du 1er novembre 1946: “ Le 20 octobre, nos services de police ont arrêté, au cours d’une opération, plus de 300 personnes. Après un examen attentif, la majorité d’entre elles est restée en prison, en attendant d’être trasférée dans les camps de concentratiọn” {Trích B. Fall, như trên, trang 69}

{ Những cuộc lùng bắt tập thể trở thành như cơm bữa, ông B. Fall đã viết như thế, Và còn được công khai nhìn nhận trên tờ báo chính thức của chính quyền cộng hòa Thật vậy, người ta có thể đọc trên tờ Cứu Quốc, số ra ngày 1-11-1946 như sau :”Ngày 20-10, công an của ta đã bắt trong một cuộc càn quét hơn 300 người. Sau khi thẩm tra kỹ càng, phần đông bọn họ đều bị tống giam và chờ được đưa đi giam tại các trại tập trung {Trích B. Fall, trang 69}.

Vì vậy, khi mà chính phủ Bảo Đại dưới danh nghĩa chính quyền Quốc gia ra đời thì có vô số những người dân đủ loại thành phần, đặc biệt giới tư sản thành thị, giới trí thức, giới văn nghệ sĩ, giáo dân đã tìm đủ mọi cách trốn lánh về phía các vùng Quốc Gia.

Sau này nó trở thành phong trào “dinh tê”, về thành, tránh tất cả những nơi nào có Việt Minh cộng sản chiếm đóng.

Miền Bắc mặc nhiên chia ra hai vùng: vùng do chính phủ quốc gia và vùng kháng chiến do Việt Minh chiếm đóng. Chẳng hạn vùng Phát Diệm không bị Việt Minh cũng như Pháp chiếm đóng. Vì thế, các người dân ở các vùng như Hà Nội, Hà Đông, Phủ Lý, Nam Định kéo về. Các người ở các vùng Nghệ An, Thanh Hóa kéo ra ở đông đảo. Vào tháng 5-1947, người ta tính ra có đến 60.000 dân ở các nơi kéo về. Một cách bất ngờ, dân số Phát Diệm lên đến 120.000 người không kể các vùng chung quanh Phát Diệm với đủ các đảng phái trốn tránh sự truy lùng của Việt Minh như Việt Quốc, Dân Tộc, Duy Tân, Việt Cách, Xã Hội rôi Công giáo cứu quốc {CGCQ}.

Hàng ngàn người đã bị bắt, trong đó có đảng phái, có tôn giáo bị giam cầm. Nhưng cũng có những cuộc thanh toán giết hại Việt Minh xảy ra ở Mưỡu Giáp, Phúc Nhạc, Gia Viễn, Trì Chính, Kim Sơn.

Mối căng thẳng giữa giáo dân và Việt Minh mỗi ngày mỗi gia tăng. Nay đó là cuộc đối đầu giữa hai ý thức hệ, giữa vô thần và hữu thần.

Cho đến năm 1949, kể như chấm đứt tính cách “khu tự trị” Phát Diệm. Không còn “khu vực trái đệm” {région tampon} khi người Pháp quyết định tung ra cuộc hành quân Anthracite vào tháng 10-1949. Phát Diệm cũng mất tính cách “Trung Lập” {neutralité} mà giám mục Lê hữu Từ bằng mọi cách vẫn muốn duy trì. Và không muốn bị mang tiếng là đã về hợp tác với Pháp.

Từ nay, lằn ranh Quốc-Cộng trên khắp vùng tam giác châu thổ sông Hồng Hà đã có ranh giới rõ ràng. Chỗ nào có lá cờ Quốc Gia phất phới thì chỗ đó không có chỗ cho Việt Minh cộng sản.

Chỗ nào có tháp chuông nhà thờ, chỗ đó không chấp nhận cộng sản.

Có thể Giám Mục Lê Hữu Từ muốn duy trì tính cách trung lập ấy, nhưng một số cộng sự viên của Giám Mục như cha Nguyễn Gia Đệ, cha Hoàng Quỳnh thì không. Cha Quỳnh thì đã cộng tác với Pháp về phương diện quân sự, cha Hàm là bí thư và cố vấn riêng của giám mục Từ thì đã ngả theo phía người Pháp hay giải pháp Bảo Đại. Xin trích dẫn thơ trao đổi giữa cha Hàm và một linh mục tuyên úy trong quân đội Pháp, Cha Marcel JEGO vào ngày 11-11-1949 như sau: “D’ailleurs aujourdh’ui même Mgr envoie les professeurs du grand Séminaire faire une tournée dans toute la zone récemment libérée pour expliquer aux paiens et fidèles les buts de l’arrivée des troupes de l’Union et donner des directives sur la conduite à tenir à l’égard des troupes francaises, directives toutes en faveur de celles-ci, pour éviter des attitudes regrettables comme celle du curé de Yen Binh par exemple.

Mgr vous prie de présenter au général Alexandri, quand vous aurez l’occasion de le voir, ses salutations et ses remerciements et de lui faire connaitre, ainsi qu’au commandant Mollat, que, d’après les renseignements surs que nous avons recus, les VM sont décídés à livrer combat dans le Nga Son et dans le de Niang Bac vers Nga Son et des préparatifs fébriles dans le Yen Mo. Il est donc nécessaire de prévenir à temps, de consolider les défenses et d’avoir des troupes disponibles dans ces deux régions, encore très vulnérables. Les VM savaient bien qu’il s’agissait ici d’un premier essai des opérations du nouveau style pour établir le gouvernement Bao Dai. Ils mettront tout en oeuvre pour faire échouer cet essai”. Signé RP Ham, secrétaire particulier de Mgr Le Huu Tu, évêque de Phát Diệm {Trích ASIAT INDO 10 11 170 C 1312: Général CARPENTIER, le 29-11-1949: 2ème CR sur PD, 1265? FAE/3S. Trích Trần Thị Liên, như trên, trang 185}.

{Ngay hôm nay, giám mục gửi các cha giáo sư đại chủng viện đi một lượt tất cả các vùng mới được giải phóng để cắt nghĩa cho những người không theo đạo và có đạo về mục đích sự có mặt của quân đội Pháp, những chỉ dẫn có lợi cho việc quân đội Pháp đến đây, để tránh những thái độ đáng tiếc xảy ra như trường hợp cha xứ ở Yên Bình.

Đức Giám Mục yêu cầu cha gửi lời chào mừng và lời cám ơn của ngài đến Đại tướng Alexandri khi cha có dịp gặp đại tướng cũng như thiếu tá Mollat mà theo những tin tức thu thập được một cách chính xác mà chúng tôi đã nhận được cho hay VM đã quyết định mở những trận đánh trong vùng Nga Sơn và trong vùng Niang Bac về hướng Nga Sơn và những chuẩn bị tấp nập trong khu vực Yên Mô.

Đã đến lúc cần chuẩn bị kịp thời, củng cố lực lượng phòng thủ và có những đội quân trừ bị sẵn sàng ở trong hai vùng đó còn rất là yếu. VM biết chắc đây là một cuộc hành quân thí nghiệm đầu tiên, một cách hành quân mới mẻ để ta có thể thiết lập được chính quyền Bảo Đại. Họ phải bằng mọi cách phá hoại cuộc thí nghiệm này.}

Lá thư trao đổi này khá quan trọng, nhưng không biết chắc có phải là đường lối chính thức của giám mục Lê Hữu Từ hay không? Và phải chăng Giám mục Lê Hữu Từ đang đóng vai trò hai mặt {double jeu}, lợi dụng cả hai bên: Việt Minh lẫn Pháp, để giữ tính cách tự trị và trung lập trước đây?

Chỉ có một điều chắc chắn là sau đó vài tháng vào năm 1950, Cha Hàm bắt buộc phải rời bỏ Phát Diệm sang Luân Đôn và không bao giờ được trở về nước nữa. Cha Hàm sau 1975 đã sang sinh sống ở vùng Ba Ngòi {Trois rivières} thuộc tỉnh Québec, Canada, sống ẩn dật và không bao giờ xuất hiện trước cộng đồng người Việt Hải Ngoại cũng như cho phỏng vấn. Người viết bài này đã có thể trao đổi bằng điện thoại với cha Nguyễn Gia Đệ, viên quản lý của giám mục Lê Hữu Từ để hỏi về tình hình Phát Diệm thời 1945-1949. Cha Đệ xác nhận có nhận sự giúp đỡ của Việt Minh lúc đầu và sau này thì nhận sự tài trợ của Bảo Đại sau khi Pháp đã ổn định xong Phát Diệm vào năm 1949. Nhưng riêng Cha Hàm, theo sự hiểu biết của người viết bài này, Cha Hàm đã giữ im lặng cho đến khi ngài qua đời. Rất tiếc là người viết đã quên hỏi cha Đệ lý do tại sao cha Hàm Phải ra đi như vậy?

Sự dứt khoát và minh bạch của hàng giáo phẩm Đông Dương đối với Việt Minh cộng sản kể từ lá thư chung sau đây.

Thư chung của các Đức giám mục Đông Dương. Họp tại Hà Nội ngày 5 đến 10 tháng 11 năm 1951.

Danh sách các vị ký thư chung

Gioan Dooley, khâm sứ tòa thánh tại Đông Dương
Gioan Batixita Chabalier, giám Mục Nam Vang
Phê rô Ngô Đình Thục, giám mục Vĩnh Long
Gioan Cassaigne Sanh, giám mục Sài Gòn
Marcello Piquet Lợi, giám mục Quy Nhơn
Gioan Maria Mazé Kim, giám mục Hưng Hóa
Anselmô Lê Hữu Từ, giám mục Phát Diệm
Gioan Baotixita Urrutia Thi, giám Mục Huế
Phê rô Maria Phạm Ngọc Chi, giám mục Bùi Chu
Dominicô Hoàng Văn Đoàn, giám mục Bắc Ninh
Giu se Maria Trịnh Như Khuê, giám Mục Hà Nội
Fr. Fêlicê Perez Hiển, nhiếp chính Hải Phòng
Fr. Bernadô Liobera, tổng quản Thái Bình
Và cha Phêrô Renaud Ái, nhiếp chính Kontum.

Xin trích dẫn đoạn quan trọng nhất liên quan đến chế độ cộng sản.

“Vì tinh thần trách nhiệm quan trọng trước Thiên Chúa, vì mối tình tha thiết yêu quý anh em, chúng tôi thấy có bổn phận của chúng tôi phải loan báo cho anh chị em biết để đề phòng nạn cộng sản vô thần, một trong hiểm nguy lớn của thời đại chúng ta. Chủ nghĩa cộng sản phủ nhận Thiên Chúa, phủ nhận mọi tôn giáo, phủ nhận một linh hồn hằng sống, phủ nhận các quyền của con người và của gia đình. Chủ nghĩa cộng sản xung khắc tuyệt đối với công giáo đến nỗi Đức Thánh Cha đã phải tuyên bố là tuyệt đối không thể cùng một lúc vừa là cộng sản vừa là Thiên Chúa giáo và tất cả những ai là người theo đạo mà gia nhập đảng Cộng Sản thì coi như đã tách rời ra khỏi Giáo Hội. Chẳng những ngăn cấm không cho gia nhập đảng cộng sản, mà còn không được hợp tác và làm bất cứ điều gì để có thể đưa đảng cộng sản lên cầm quyền. Nỗi nguy cơ cộng sản rất là quan trọng và những hậu quả có thể rất là khủng khiếp mà chúng tôi cảm thấy bắt buộc cảnh giác anh chị em về những sự xảo quyệt và mưu mẹo của cộng sản nhằm đánh lừa người dân, sự xảo quyệt chỉ có cộng sản mới dám dùng để đạt tới đích. {Trích Bản tiếng Việt trong: Hàng Giáo phẩm công giáo Việt Nam 1995, trang 93}

Lá thư chung của các giám mục Đông Dương phải được đặt trong bối cảnh lịch sử và chính trị của thập niên 1950 cho thấy tình hình thế giới phân chia lưỡng cực, đối đầu một mất một còn. Nó có thể đúng trước đây, nhưng không còn thích hợp hoàn toàn với hoàn cảnh chính trị hiện nay.

Hoàn cảnh Việt Nam và đặc biệt giáo hội VN đã rơi vào tình huống bi kịch ấy mà bất hạnh thay, đất nước chúng ta đã du nhập chủ nghĩa ấy. Và mặc dù ngày nay không có lời cảnh cáo của các giám mục Đông Dương đi nữa thì hiện nay thực tế vẫn cho thấy rằng chủ nghĩa cộng sản vẫn là mối đe dọa không phải chỉ cho đạo Thiên Chúa mà thôi và hiểm nguy cho những ai dính chặt máu mủ vào chủ nghĩa ấy.

Kể từ khi chủ nghĩa cộng sản thống trị trên đất nước này thì chưa có lúc nào dân tộc Việt Nam được sống yên ổn, ấm no và hạnh phúc. Chưa lúc nào và có thể không bao giờ.

Riêng giáo hội miền Bắc đã chịu những hệ lụy đắng cay mà vẫn phải sống nhẫn nhục và im lặng.

Bức màn tre sau 1954

Cô Trần Thị Liên, tiến sĩ sử học tại Pháp có phổ biến một tập tài liệu quý giá của phái đoàn tôn giáo BaLan, vào năm 1954. Tài liệu có tựa đề: “Vấn đề công giáo miền Bắc Việt Nam qua tư liệu lưu trữ Ba Lan {1954-1956} được phổ biến trên Thời Đại Mới, số 4, tháng 3/2005.

Phái đoàn tôn giáo Ba Lan sang Việt Nam do lời mời của chính phủ Hồ Chí Minh để cố vấn chính phủ về các vấn đề liên quan đến tôn giáo trong đó khuyến cáo các địa phận công giáo nên ở lại và hợp tác với chính quyền cộng sản như ở Ba Lan. Tài liệu Ba Lan cho biết vào những năm 1945-1947, có sự liên minh, hợp tác giữa người Thiên Chúa giáo và Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh có cả một chính sách “công giáo vận” mà tài liệu còn cất giữ được tại thư khố quân đội ở Vincennes bên Pháp. Thật vậy, khi thành lập chính phủ, ông Hồ đã chọn Nguyễn Mạnh Hà, một trí thức ở Pháp về làm bộ trưởng bộ kinh tế. Trong phái đoàn tham dư hội nghị Fontainebleau, ông Hồ đề cử Nguyễn Đệ tham gia phái đoàn. Ông Đệ có nhiều liên hệ tốt với Pháp và giới ngân hàng Đông Dương. Trong buổi lễ tấn phong giám mục Lê Hữu Từ, cùng một lúc có buổi lễ thành lập Liên đoàn công giáo {liên đoàn công giáo không nằm trong hệ thống Liên đoàn của Việt Minh} vào tháng 10-1945. Trong dịp này có phái đoàn cao cấp chính phủ gồm Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp về dự, đồng thời cũng cử tân giám mục Lê Hữu Từ làm cố vấn tối cao của chính phủ Hồ Chí Minh.

Chính sách công giáo vận có đạt được điều gì cụ thể? Ung Văn Khiêm đã nghiêm cấm “mọi hành động phẫn nộ hay khiêu khích với người Thiên Chúa giáo”. Hồ Chí Minh đã ra lệnh không giới nghiêm trong đêm Giáng sinh v.v…

Thật ra chính sách tôn giáo đó chỉ có cái bề mặt của một chủ trương chiến lược, nhưng thực tế, người Thiên Chúa giáo vẫn là đối tượng nghi ngờ số một. Nhưng sang đến năm 1950-1951, mối liên hệ giữa hai bên kể như chấm dứt. Khu tự trị Phát Diệm dần trở thành một thứ tiền đồn chống Cộng Sản.

Không lạ gì, khi có cuộc di cư, khu Bùi Chu, Phát Diệm có tỉ số người di cư cao nhất trên toàn miền Bắc. Khoảng 50% dân theo đạo Thiên Chúa giáo.

Việt Minh và cả Pháp cũng không tiên liệu được số người di cư lên cao đến như thế. Tài liệu của phái đoàn tôn giáo Ba Lan đã cắt nghĩa tìm hiểu tại sao có số đông người di cư như thế và cố tình bóp méo một số sự việc. Theo họ, yếu tố chính thúc đẩy người ta di cư là vấn đề tôn giáo.

Yếu tố tôn giáo: trong bài báo cáo của đại sứ Ba Lan Tomasz Pietka, ông đã xếp yếu tố tôn giáo lên hàng đầu. Ông viết: “Vấn đề di cư của người công giáo vẫn tiếp diễn. Chính phủ và đảng đã làm đã làm tất cả những gì có thể để giảm bớt, nhưng vẫn gặp những khó khăn to lớn… Vấn đề giáo dân sẽ còn đè nặng lên chính sách nội trị của Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa {VNDCCH} trong thời gian tới đây…

Giáo phận Hà Nội với chính quyền cộng sản

Năm 1954, Đức cha Giuse Maria Trịnh Như Khuê đã quyết định ở lại Hà Nội không di cư vào Nam. Quyết định này ảnh hưởng tới một số giáo dân cũng đã chọn ở lại. Vì thế, nếu Bùi Chu, Phát Diệm có 50% giáo hữu di cư vào Nam, Hà Nội chỉ có khoảng 30%. Tuy nhiên, số linh mục chọn ở lại chưa đầy 60 linh mục mà phần lớn đã lớn tuổi. Chỉ có khoảng hơn 10 người ở lứa tuổi từ 35-40.

Số linh mục còn lại này phải phục vụ cho 135 giáo xứ và gần 500 nhà thờ. Nghĩa là mỗi linh mục phải trông coi ba giáo xứ một lúc. Piero Gheddo cũng cho rằng: “Le problème des vocations ecclésiatiques fut et reste encore aujourd’hui le point faible de l’ Église au Nord VietNam: Ce n’est pas que manquent les jeunes prêts à se consacrer au sacerdoce, ce sont les possibilités d’une formation adéquate qui n’existent plus. De 1955-1960, Il y eut 20 ordinations sacerdotales dans tout le Nord-VietNam et elles ont certainement diminue après cette date”{Trích Catholiques et Bouddhistes au Viet Nam, Piero Gheddo, trang 124}.

{Vấn đề ơn gọi trong giáo hội trước đây và bây giờ là điểm yếu của giáo hội miền Bắc. Không phải là không có những người trẻ sẵn sàng đi tu làm linh mục, vấn đề là không có phương tiện cho việc đào luyện đến nơi đến chốn nữa. Từ 1955-1960, chỉ có 20 vụ truyền chức linh mục trong toàn miền Bắc và chắc chắn nó sẽ còn giảm nữa sau này}.

Tình trạng thiếu hụt linh mục này bắt buộc Đức Cha Khuê phải mở chủng viện thánh Gioan do cha già Lợi phụ trách. Sau đó đến lượt cha Phao Lô Phạm Đình Tụng, 36 tuổi được chọn làm Giám đốc.{Cha Tụng sau này được phong lên Hồng y, vừa mới qua đời} Theo Đức cha Laurensô Chu Văn Minh, giám mục phụ tá Tổng giáo phận Hà Nội hiện nay trong bài phỏng vấn của WHĐ {Website của Hội Đồng Giám mục Việt Nam} cho biết: Tiểu chủng viện gồm có cha chính Nguyễn Văn Vinh, Cha Nguyễn Ngọc Oánh, cha Nguyễn Văn Thông, thầy Sang {Sau này là Đức cha Nguyễn Văn Sang, coi sóc giáo phận Nam Định} và một số các cha thừa sai còn ở lại.

Tháng 10-1958, các vị thừa sai bị trục xuất ra khỏi Việt Nam. Việc trục xuất này chỉ vì chính quyền cộng sản sợ tai mắt của các người ngoại quốc. Cho nên họ phải loại bỏ bất cứ ai, nhất là người ngoại quốc nhòm ngó vào sân nhà họ.

Sau 1975, họ cũng đã làm y như vậy.

Thật ra, trước đó, họ đã không được phép đi đâu cả ngoài truyện cho phép cử hành thánh lễ. Nhưng sau đó 21 thừa sai Pháp, gồm cả các bà sơ đã bị trục xuất, mặc dầu có sự can thiệp mạnh mẽ và nhiều lần của đại sứ Pháp. Chỉ trừ có hai cha dòng Chúa Cứu Thế, ở Thái Hà ấp còn được ở lai, vì mang quốc tịch Canada. {Vì Canada là một trong 3 thành viên của Ủy Hội Quốc tế kiểm soát đình chiến nên cộng sản còn phải nể}

Về phía tòa khâm sứ thì khâm sứ Dooley bệnh nặng phải được chở sang Cam Bốt chữa trị. Thư ký tòa Khâm sứ là cha O’Driscoll đã bị gọi lên ty công an và được dẫn độ chở sang biên giới Trung Hoa với tội danh hoạt động khuynh đảo. {activités subversives} {Xem thêm T.O Driscoll, Eight Jears in Viet Nam, Far East, février, 1960, trang 7-9}

Những khó khăn trong việc truyền chức linh mục và việc bổ nhiệm Giám Mục

Bức tranh tôn giáo miền Bắc là bức tranh vân cẩu nhiều tiết mục, nhiều chiêu thức, nhiều tấn tuồng bi hài kịch, nhiều tuồng thương khó, nhiều chặng đường thánh giá, nhiều con đường Ê-Mau với tiếng thở dài chán nản, thất vọng như sau:

* Trục xuất khâm sứ 1959. Bang giao chính thức với Vatican gián đọan hẳn
* Trục xuất các thừa sai để tránh tai mắt ngoại quốc dòm ngó. Trong suốt 20 năm miền Bắc, chỉ có cơ quan từ thiện của Đức là có mặt người ngoại quốc.
* Hạn chế tối đa việc di chuyển của linh mục, tu sĩ. Quản chế Giám mục Trịnh Như Khuê. Hạn chế di chuyển của TGM Trịnh Văn Căn Hà Nội. Trong 7 năm, giám mục Hải Phòng chỉ được về Bắc Ninh hai lần, năm 56 và 57.
* Xiết chặt và kiểm soát việc đào tạo như đóng cửa Tiểu và Đại chủng viện như sẽ nói sau này.
* Đưa ra đấu tố giám mục Trần Hữu Đức và tịch thu tài sản, ruộng đất của địa phận Vinh.
* Giám Mục Chu Văn Minh, giám mục phó Hà Nội, trong một bài phỏng vấn cho biết mãi đến năm 50 tuổi mới được thụ phong linh mục. Nghĩa là phải chờ hơn 25 năm. Cả cuộc đời đi tu của giám mục tóm tắt trong chữ Chờ.Trong khi chờ đợi, để kiếm sống, giám mục phải làm ngề hớt tóc sống qua ngày. Giám Mục Chu Văn Minh viết: “ Thời kỳ này ở các giáo phận chung quanh như Hưng Hóa, Bắc Ninh, Hải Phòng, Bùi Chu, Phát Diệm, Thái Bình, các giám mục thường truyền chức linh mục cách kín đáo. ChỈ trừ Hà Nội, vì Hồng Y Trịnh Như Khuê và Trịnh Văn Căn không muốn thế. Vì thế, chúng tôi đành phải âm thầm sống ơn gọi của mình {Trích bài phỏng vấn của phóng viên WHĐ{ Hội đồng Giám Mục}
*Giám mục được sắc phong phải chịu phong chức “Chui”. Đó là trường hợp cha Đinh Đức Trụ được chỉ định làm Giám mục Thái Bình. Cha Trụ phải bí mật lên Hà Nội để được Đức Cha Khuê tấn phong bí mật trong nhà nguyện riêng bên phòng ngủ

Những nạn nhân tiêu biểu của cộng sản miền Bắc:

Hồng y Trịnh Như Khuê

Hồng y Trịnh Như Khuê. Ảnh Nữ Vương Công Lý

Hồng y Trịnh Như Khuê. Ảnh Nữ Vương Công Lý

Thoạt đầu, Đức cha Khuê còn có thể đi thăm các xứ đạo, ngay cả các xứ hẻo lánh như Trình Xuyên, Vĩnh Trị, Kẻ Đại, Kẻ Chanh. Nhưng vào ngày 16-7-1957, khi đức cha Khuê đi từ Kẻ Sở về Hà Nội, đi qua Phủ Lý đến Ngã Tư Vọng thì bị chặn lại và xét giấy tờ. Họ tịch thu mọi giấy tờ. Kể từ đó, giám mục Khuê bị giam lỏng “quản chế” trong suốt 20 năm còn lại và không đi ra khỏi Hà Nội nữa.

Xin dẫn chứng từ về hoàn cảnh giam lỏng của đức cha Khuê: “Sau bữa ăn, tôi theo đức Hồng Y lên sân thượng của tòa nhà lớn. Sân thượng này rất rộng, lát bằng gạch tàu, có lẽ to hơn sân quần vợt. Trời mùa hè nên giờ đó còn sáng, Đức Hồng Y và tôi sánh vai đi bộ. Trong lúc đi, ngài kể cho tôi hoàn cảnh giáo hội miền Bắc và hỏi thăm về gia đình, cha mẹ anh chị em tôi… Đang đi bất chợt ngài quay lại hỏi:

-Cha có để ý thấy cái gì khác lạ trên sân thượng này không?
-Tôi ngạc nhiên trước câu hỏi đó, và nhìn quanh chẳng thấy gì nên nói:
-Con chẳng thấy gì lạ cả! Ngài mỉm cười:
-Cha phải nhìn ra xa tới cuối sân mới nhận ra được. Nhìn xuống chân không thấy đâu! Theo sự gợi ý của ngài, tôi nhìn ra xa tới cuối sân. Chợt tôi để ý thấy một đường vòng hình quả trám khổng lồ nằm giáp bề mặt sân thượng. Con đường này có màu vàng nhạt khác với mầu gạch lát trên sân như có mài rửa chà xát lên đó. Tôi nheo mắt đáp:

-Con thấy hình như có vòng tròn ai vẽ trên sân gạch. Đức Hồng y cười:
-Như thế là cha đã nhận ra rồi. Đó không phải là đường vẽ, nhưng là đường mòn trên gạch. Đó cũng là dấu tích của Đức cố Hồng y Trịnh Như Khuê. Trong hơn 20 năm bị quản chế, ngài đã đi bách bộ trên sân thượng này. Vì đi bộ nhiều năm nên những bước đi của ngài đã tạo thành đường mòn hình quả trám như cha thấy. Nghe câu chuyện này tôi quá thương cho hoàn cảnh Đức Hồng y tiên khởi của Việt Nam và cho Giáo hội công giáo miền Bắc bây giờ. {Trích bút ký Tôi phải sống, Lm Nguyễn Hữu Lễ, trang 19}

Hoàn cảnh bị giam lỏng của Đức cha Khuê là một bi kịch sống trong sợ hãi và nghi kỵ tất cả. Cô đơn trăm bề. Trách nhiệm như núi. Nào ai thấu hiểu hết được Không đi tù mà hơn đi tù. Cộng sản là như thế.

Hơn 10 năm sau XHCN, cảnh sợ hãi cô đơn vẫn còn. Năm 1967, giám mục Huessler, giám đốc Caritas của Đức có dịp viếng thăm Hà Nội 15 ngày. Nhưng chính quyền Hà Nội đã không cho phép giám mục người Đức đến thăm chính thức Tổng Giám Mục Hà Nội. Chúng ta hãy đọc đoạn sau đây về câu truyện của giám mục Huessler: “Il demanda avec insistance à voir l’archevêque, mais avec un prétexte ou un autre, on ne lui permit pas cette visite. Un matin, très tôt, Monseigneur Huessler sortit de l’hôtel et se dirrige vers la cathédrale. Il entra, et demana ou se trouvait l’archevêque; on lui indiqua un confessionnal au fond de l’église. Écartant les rideaux du confessionnal, Monseigneur Huessler se présenta et demana des nouvelles à Monseigneur Khuê Celui-ci ne voulut pas parler à un étranger, craignant peut-être quelque piège de la police et sa méfiance s’atténua à peine quand Monseigneur Huessler lui présenta son passeport et dit à l’archevêque qu’il était envoyé par le Pape. Monseigneur Khue lui dit simplement: “Saluez le Pape de ma part et dites-lui qu’il prie pour nous”, puis il ferma les rideaux. La pression et la surveillance doivent être bien rigides, pour que des faits de ce genre puissent se passer à Hà Nội”. {Trích Catholiques et Bouđhistes au Viet Nam, Chương Persécutions anti-Chrétiennes au Viet Nam, Pierre Gheddo, trang 131}
{Giám mục Huessler đã cố nài nỉ cho gặp tổng giám mục Hà Nội, nhưng lấy cớ này cớ nọ, họ đã không cho phép gặp. Một buổi sáng sớm Giám mục Huessler ra khỏi khách sạn và tiến về phía nhà thờ lớn. Ông vào nhà thờ và hỏi Đức Tổng Giám Mục ở đâu; Người ta đã chỉ cho ông một “tòa giải tội” ở phía cuối nhà thờ. Giám mục đã mở bức màn tòa giải tội, Giám mục Huessler đã gặp được Đức Cha Khuê ở trong tòa giải tội và hỏi thăm đức cha. Nhưng Đức cha Khuê đã không muốn nói chuyện với một người ngoại quốc vì sợ bị gài bẫy của công an. Nhưng sự nghi ngờ giảm đi khi Giám Mục Huessley đưa cho coi thẻ thông hành và nói rằng ông được Đức giáo hoàng phái sang VN. Giám mục Khuê chỉ trả lời vắn gọn: “Xin đức cha cho nhắn gửi lời chào Đức giáo hoàng và xin ngài cầu nguyện cho chúng tôi”. Nói xong, giám mục Khuê đã kéo bức màn che tòa giải tội. Sự canh chừng kiểm soát phải chặt chẽ lắm, một điều như vậy chỉ có thể xảy ra ở Hà Nội}.

Thương cho miền Bắc, giáo hội thầm lặng. Cả cái giáo hội bị cắt đứt hoàn toàn với thế giới, với giáo hội Thiên Chúa giáo. Piero Gheddo viết: “Coupés dans le temps et dans l’espace du mouvement général de l‘église… Une église dispersée surtout dans les campagnes, mais pas encore étouffée, comme celle de Chine. Une Église qui n’a plus aucun contact avec l’extérieur, mais qui continue à vivre dans le silence et la souffrance: Le témoignage de ces chrétiens, un jour, portera ses fruits”. {Trích Catholiques… như trên, trang 135}

{Bị cắt đứt bởi không gian và thời gian về những vận động chung của giáo hội. Một giáo hội bị phân tán, nhất là nơi những vùng quê, nhưng cũng chưa đến nỗi bị nghẹt thở như ở bên Trung Hoa. Một giáo hội không còn bất cứ tiếp xúc nào. Họ là chứng tá của những ngườ có đạo mà một ngày nào đó, nó sẽ đem lại kết quả}.

*Cha chính Nguyễn Văn Vinh {1912-1971}

Cha chính Nguyễn Văn Vinh

Cha chính Nguyễn Văn Vinh

Năm 1930, thầy Nguyễn Văn Vinh, du học năm 1930 và ghi tên học Triết đại học Sorbonne, Pháp. Về nước cùng với các cha du học khác như Đinh Lưu Nhân, Trần Trinh Khiết, Nguyễn Huy Mai, Nguyễn Văn Lý, Nguyễn Quốc Bồng vào năm 1947. Cha Vinh về làm chính xứ Nhà thờ lớn Hà Nội thì xảy ra biến cố xếp chỗ ngồi “không đúng ý” của đại tướng De Lattre de Tassigny nhân dịp tang lễ cầu hồn cho con trai đại tướng là Trung Úy Bernard De Lattre de Tassigny tử trận ở Ninh Bình. Sau đó buộc lòng Cha Vinh quay về làm giáo sư Tiểu chủng viện Piô 12, số 35 đường Hoàng Hoa Thám, đồng thời dạy thêm ở trường Chu Văn An và Đại học ở Hà Nội. Sau 1954, cha Vinh được cử làm cha chính địa phận Hà Nội. Trong dịp Noel, chính quyền Hà Nội tự động cho người đến treo đèn, kết hoa, từ đó gây ra sô sát giữa hai bên. Cha Vinh can thiệp.

Sự việc chỉ có thế thôi mà ngày 31-1-1959, tòa án nhân dân Hà Nội kết án cha Vinh và cha Trịnh Văn Căn cùng 3 giáo dân như sau: Cha Trịnh Văn Căn {sau lên Hồng Y}, 12 tháng tù treo để dằn mặt. 3 giáo dân là các ông Đáng, Chính và Nhiều, bị phạt cảnh cáo. Riêng Cha Vinh, tổng đại diện Hà Nội, 18 tháng tù ngồi với tội danh: “Vô cớ tập hợp quần chúng trái phép, phá rối trị an, có tính vu khống, xuyên tạc chế độ, gây chia rẽ trong nhân dân”.

Chỉ có 18 tháng tù ngồi mà thật ra cha Vinh đã bị giam ở Hỏa Lò, rồi chuyển lên trại tù Yên Bái kiên giam và biệt giam tại trại tù Cổng Trời, thuộc xã Quyết Tiến, huyện Quan Ba, tỉnh Hà Giang- Tuyên Quang. Sau 12 năm bị giam tù, cha Vinh đã kết thúc cuộc đời tại trại Cổng Trời.

Viết lại cuộc đời Cha Vinh- quên chưa nói cha Vinh còn là một nhạc sĩ tài ba, tốt nghiệp Conservatoire National de Paris- người đã đem bài Stille Nacht, Heilige Nacth {Phổ biến 24-12-1818} và được Hùng Lân dịch ra thành: Đêm Thánh vô cùng.

Viết lại để cho thấy gớm thay chế độ cộng sản Hà Nội! {Trích lại từ tài liệu Nhân vật công giáo Việt Nam thế kỷ 18-19-20 của Lê Ngọc Bích, xb Sàigòn 2006, 710 trang, tài liệu do Đỗ Hữu Nghiêm cung cấp}.

18 tháng tù ngồi trở thành 12 năm tù biệt giam, kiên giam và chết rũ tù. Chế độ đó nó hận ghét, hành hạ con người đến thế thì thôi.

*Cha Nguyễn Trọng Oánh

(Từ trái) Các Lm. Phạm Hân Quynh, Nguyễn Trọng Oánh, và Nguyễn Văn Thông trước khi đi du học tại Pháp (Hà Nội)

(Từ trái) Các Lm. Phạm Hân Quynh, Nguyễn Trọng Oánh, và Nguyễn Văn Thông trước khi đi du học tại Pháp (Hà Nội)

Cha Oánh sinh 10-4-19. Học trường Hoàng Nguyên rồi Louis Pasteur, Hà Nôi. Tháng 8/1944, đỗ tú tài 1, Pháp. Học 5 năm triết học và thần học tại đại chủng viện Xuân Bích St. Sulpice, Hà Nội. Du học Mỹ tháng 8/1951, học đại học Loyola, Chicago. Trang đầu luận án có ghi như sau: “ A thesis submitted to the Faculty of the Institute of social and Industrial Relations of Loyola University in Partial. Fulfillment of the Requirements for the DEGREE OF MASTER OF SOCIAL AND INDUSTRIAL RELATIONS. Tháng 6/ 1954.

Tôi đã về VN, đã ra Hà Nội, cuối 2005 để tìm hiểu giáo hội miền Bắc những năm 1954-1975, để nhìn lại những nơi mà tôi đã sống như nhà thờ Cửa Bắc, dinh Hoàng Cao Khải, khu Thái Hà Ấp, nơi những biến động đòi đất mới xảy ra gần đây. Tôi đã thất vọng không ít vì chỗ nào bây giờ cũng xây cất chật ních cả lối đi, che chắn tầm nhìn. Đó là bệnh xây cất ở VN. Nó lớn lên, phình ra, nhô cao, chiếm đoạt cùng với bệnh tham nhũng.

Tham nhũng càng lớn, xây cất càng nhiều. Nhìn xây cất biết bộ dạng của tham nhũng.

Nhưng quan trọng hơn, mong gặp các linh mục J.A Nguyễn Ngọc Oánh, Phạm Hân Quynh, những người còn sống sót sau những năm tháng trong ngục tù cộng sản, để nghe những nhân chứng sống ấy kể lại. Đồng thời muốn biết thêm về cuộc sống tù đầy của các linh mục Vinh và Thông là những người đã không còn nữa.

Thất vọng không ít. Vì ai cũng sợ nên ngại nói. Cha Oánh về Bắc lúc phong trào di cư sắp dứt điểm. Kết quả du học ở Mỹ về “đúng lúc” VN chia đôi đất nước. Về ngày 29-4-1955. Thế là có vấn đề đấy. Cha là một trong những cột trụ của giáo phận Hà Nội cùng với các cha Nguyễn Văn Vinh, Phạm Hân Quynh, Nguyễn Văn Thông, Đinh Lưu Nhân v.v.. Cha Oánh bị quản thúc tại giáo xứ Truôn Thượng từ 1961 đến 1982.

Tội gì thì tôi không biết vì chưa kịp hỏi hay không dám hỏi. Có hỏi cha cũng không dám nói tội gì mãi cho đến năm 1985 cha mới được giải quản và đi lại tự do khi về giáo xứ Hà Thao và qua đời tại đây.

Phần Cha Oánh. Tuổi đã trên 80 mà “nhát như cáy” mỗi khi tôi hỏi về truyện đi tù và quản thúc. Vừa mới hỏi là cha Oánh sửng cồ to tiếng, rồi đứng phắt dậy không nói nữa. Vậy mà nghe cô “mụ” nói lại, nghe nói được tin em người bạn cha mai về thăm là không ngủ được. Nằm nhớ bạn cũ nay đã ra người thiên cổ là rưng rưng khóc. Tôi cũng to tiếng lại. Sợ gì. Rồi cuối cùng cũng ngồi xuống làm hòa. Buổi chiều khi ra về, con đường cách Hà Nội khoảng 45 cây số, tôi bùi ngùi thương cảm cho một nhân tài của giáo hội mà tuổi đời đã chồng chất, sắp xuống lỗ {Chỉ hơn một năm sau khi tôi gặp thì Đức ông Oánh qua đời} mà còn sợ nỗi gì.

Tôi đang để trước mặt tôi đây cuốn luận án lấy bằng MA của cha Oánh về Xã Hội Học tại Hoa Kỳ vào tháng 6-1954 mà cha giúi cho tôi trước khi tôi ra về.
Nhớ về hình ảnh của cha, cả một quá khứ trước 1954 hiện trở về làm nhòe mắt.

•Cha Phạm Hân Quynh

Cha Quynh sinh năm 1926, gốc người Phát Diệm, nhưng nhập giáo phận Hà Nội Đi Pháp năm 1949, học ở Institut Catholiques de Paris, cùng lớp với người mà sau này là Hồng y Lustinger, Tổng Giám Mục Paris. LM Quynh hoạt động xã hội khuynh tả ở Pháp, thời kỳ các phong trào linh mục thợ với những nhà thần học nổi tiếng như Chenu. Giám mục Hà Nội có lẽ vì đó gọi cha về nước sớm hơn đự định vào năm 1953. Cha về làm thư ký cho giám mục Hà Nội. Và theo lời chính cha kể lại, năm 1954, chính cha Quynh đã đề nghị với giám Mục Hà Nội hai người bạn của cha là Cha Oánh và cha Thông về lại Hà Nội, thay vì ở trong Nam. Cha Quynh là người cùng với giám mục đi gặp Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Trong lần gặp gỡ này Thủ tướng Phạm Văn Đồng có đề nghị thành lập một Ủy ban làm sợi dây liên lạc giữa nhà nước và giáo hội và Thủ tướng đã chỉ định ông luật sư Nguyễn Thành Vĩnh, một người Nam tập kết làm đại diện cho phía chính quyền. Giám mục Khuê không đồng ý, muốn một người đại diện không phải là Thiên Chúa giáo.

Cuối cùng, nhà nước tự tổ chức một mình thành lập UBLLNNCGYTQYHB {Ủy ban liên lạc những người công giáo yêu tổ quốc yêu hòa bình} gồm các linh mục Vũ Xuân Kỷ, Nguyễn Tất Tiến và hai linh mục tập kết ra Bắc là Hồ Thành Biên và Võ Thành Trinh.

Chẳng ai tin tưởng vào cái ủy ban này. Cha Quynh cũng từ chối không cộng tác. Nó cũng chẳng khác gì bọn bốn tên trong nhóm Công giáo và dân tộc ở trong Nam mà mục đích là tay sai cho chính quyền. Vũ Sinh Hiên đã nhận xét cái Ủy ban này như một vật dị ứng được cấy vào cơ thể giáo hội miền Bắc, bị nghi ngờ và trở thành lạc lõng đối với cộng đồng người Thiên Chúa giáo.

Sau đó thì cha Phạm Hân Quynh bị quản thúc tại một giáo xứ ở nhà quê trong 28 năm {1960-1988}.

Cha Quynh sau đó do sự vận động của người bạn là Tổng giám mục Paris, Hồng y Lustiger, ông được sang Pháp và đi Rôme, người viết xin trích dẫn vài câu trả lời phỏng vấn của cha Quynh của tờ báo La Croix, đồng thời ông cũng viết cho tờ báo này, ký tên Pháp.

-Vous sortez, Père Phạm Hân Quynh, de vingt huit ans de résidence surveillée au Viet Nam. Pourquoi, cette action? Cha Quynh, cha bị quản chế 28 năm tại Việt Nam. Vì sao có chuyện đó?

-Abbé Phạm Hân Quynh: Mes ennuis étaient lies au problème des rapports entre “Église et le régime. En 1955, Je m’efforcais- avec des amis comme Nguyên Manh Ha- de jeter un pont direct entre l’église et le gouvernement. Sans doute n’était-il mur ni d’un côté, ni de l’autre. Le régime préfera créer, avec une quarantaine de prêtes, un “Comité des catholiques patriotes aimant la paix à travers lequel tout devait passer”. L’église y vit le germe d’une dissidence dangereuse pour son unité. Ce que l’expérience Chinoise a confirmé… Après avoir tenté, en vain, d’arranger les choses, il me fallut combattre le comité, pour limiter son influence parmi nos chrétiens. Avec succès. D’òu mes ennuis.

Cha Quynh: Vấn đề gây cho tôi bị phiền toái là do mối tương quan giữa giáo hội và chế độ. Từ 1955, tôi cùng với những người bạn như Nguyễn Mạnh Hà, Bộ trưởng kinh tế của chính phủ Hồ Chí Minh, đã cố gắng thiết lập một đầu cầu trực tiếp giữa Giáo hội và chính quyền. Chắc hẳn, bên này, bên kia chưa đủ trưởng thành. Chế độ thì muốn tạo ra một ủy ban những người Thiên Chúa giáo yêu tổ quốc, yêu hòa bình gồm 40 linh mục và mọi vấn đề phải thông qua ủy ban này. Giáo hội thì nhìn thấy mầm mống bất đồng rất là nguy hiểm cho sự thống nhất của giáo hội. Điều mà kinh nghiệm bên Tàu đã cho thấy rõ. Sau khi đã tìm cách dàn xếp mà không xong, tôi chỉ còn có cách tranh đấu chống lại ủy ban để giới hạn ảnh hưởng của ủy ban trên các giáo dân của chúng tôi. Và Thành công. Phải chăng điều đó gây ra những phiền toái cho tôi?

-La résidence forcée, qu’est-ce-que cela voulait dire, concrètement? Cụ thể, thế nào là quản chế?
-Le 12 octobre 1960, on m’a emmené à une douzaine de kilomètres d’Haiphong dans une pìece mètres carrées, gardée en permanence. C’était pire que la prison: Je n’ai pas subi de sévices, mais j’étais complètement isolé.
Ngày 12-10-1960, tôi bị họ dẫn đi cách xa Hải Phòng trong một căn phòng… {mất số mét vuông} mét vuông bị canh chừng thường trực. Còn tệ hơn nhà tù nữa. Tôi đã không bị ngược đãi gì. Nhưng tôi hoàn toàn bị cô lập.

Bài báo trên của cha Quynh đã bị ông Nguyễn Thành Vĩnh, trong Đoàn Chủ tịch Ủy Ban đoàn kết công giáo yêu nước Việt Nam đã gửi đăng một bài Nhận định, đăng trên báo Người công giáo Việt Nam. Xin đính kèm.
-
•Cha Nguyễn Văn Thông

Trong số các cha giáo sư địa phận Hà Nội, có hai người bị giam cần nặng nhất bị đưa lên trại Cổng Trời là cha Vinh và cha Thông. Cha Thông sinh 21-11-1922. Du học đại học Louvain, Bỉ. 1950-1953. 1954-1955, học Đông Phương học và Việt Nam học ở Écoles des hautes études và Collège de France. 1955, về Sàigòn cùng lượt với cha Oánh.

29-4-1955: cả hai cha Oánh và Cha Thông đã về Hà Nội.
1957: chủng viện thánh Gioan mở cửa để nhận chủng sinh và đại chủng sinh. Cha Thông được chỉ định làm giáo sư đại chủng viện.
1960: chủng viện bị đóng cửa cha Thông được cử làm phó xứ nhà thờ lớn Hà Nội.

Phần đọc thêm: Trong thời gian ở Hà Nội, cha Thông có quen cụ Cao Xuân Huy trong đó có một giai thoại nên viết ra đây cho mọi người như gia đình con trai, con gái cụ, đặc biệt gia đình cố giáo sư Cao Xuân Hạo, gia đình bà Tôn Nữ Thị Cơ, học trò Văn Khoa Hà Nội và văn giới biết như ông Nguyễn Huệ Chi, các ông Đỗ Xuân Vượng, Chu Quang Tòng, Nguyễn Sĩ An {Học trò cha Thông ở ngoài Bắc}… Cụ Cao Xuân Huy là cháu ruột cụ Cao Xuân Dục, tác giả bộ sách quý hiếm Quốc Triều Hương Khoa Lục. Phần cụ Cao Xuân Huy, giáo sư triết học Đông Phương Hà Nội, tác giả bộ sách: Tư Tưởng Phương Đông, Gợi những điểm nhìn tham chiếu… Trong sách của cụ phần giới thiệu có viết như sau: “Ngày ngày, ông đến nhà thờ Lớn đàm đạo với cha cố và đọc sách rất chăm chỉ. Ông đang cần bổ túc nốt phần trí thức Thiên Chúa giáo mà mình còn thiếu. Ông tuyệt nhiên không quan tâm đến những điều Phiền Phức có thể xảy đến với mình, kể cả cái thái độ có vẻ kỳ quặc là ngày ngày lững thững đến nhà thờ. (Trích Tư Tưởng Phương Đông. Gợi những điểm nhìn tham chiếu, Cao Xuân Huy, trang 65}

Chúng ta nên suy nghĩ về đoạn văn trên, để thấy cái kỳ quặc không phải của cụ Huy mà trong phán đoán của người Hà Nội để thấy cộng sản ghét và nghi kỵ tôn giáo như thế nào? Nếu việc làm của cụ Cao Xuân Huy xảy ra ở trong Nam thì có cần phải viết như thế không?

Cũng trong tinh thần tìm hiểu, người viết trích dẫn tâm sự của con trai cụ, giáo sư Cao Xuân Hạo nghĩ về cha mình như sau: “Cha tôi trong những ngày gần chết chỉ đọc “Imitation de Jésus Christ” {Sống theo gương Chúa} Trong suốt đời cụ theo Lão Trang, chê Mác… Có lúc tôi đã đâm hoảng ông cụ mà mời cha cố đến rửa tội cho thì mình cũng phải chiếu cố chứ biết sao. Nhưng thiên hạ sẽ hiểu thế nào chưa biết, ông cụ tôi qua đời, bà cô sư bà Diệu Không vào đây hạ lệnh không ai dám cãi là phải chôn ông cụ theo nghi thức Phật Giáo. {Trích Nhật ký Nguyễn Ngọc Lan, Tin Paris, 1995, trang 18}

Cũng mời đọc đoạn văn trên để suy nghĩ thêm.

Cả ông Nguyễn Huệ Chi và ngay con cụ là Cao Xuân Hạo đã không nắm rõ về cụ Cao Xuân Huy. Người mà cụ Cao Xuân Huy hay vào thăm ở nhà thờ Lớn Hà Nội, không ai khác, chính là cha Nguyễn Văn Thông. Vào đấy, không hẳn là để tìm học đạo như ông Nguyễn Huệ Chi viết. Nhưng là để đàm đạo Triết học Lão Trang mà cụ Cao Xuân Huy và cha Nguyễn Văn Thông đều mê thích. Theo lời kể lại của cha Thông hai tháng cuối trước khi chết. Cụ Cao Xuân Huy và cha là những người bạn đi trên những đoạn đường khác nhau, nhưng lại hội tụ về một điểm Oméga: Một người theo Lão Trang suốt đời thì lại trên hành trình đi tìm đạo Chúa và một người hiến thân cho Chúa đến ngay cả đời sống, chịu tù đầy thì lại đi tìm lẽ hòa đồng trong đạo Lão.

Hai tâm hồn lớn gặp nhau.

Và tôi xin khẳng định một điều là: mối lo “tôi đã đâm hoảng” của ông Cao Xuân Hạo là có căn cơ, mối lo đó đã không xảy ra vì cụ đã làm rồi chỉ không nói ra thôi. Ở thời điểm ấy, Cụ phải dấu.
Theo cha Thông kể lại, không phải chỉ có cụ Huy đến thăm cha Thông để đàm đạo mà chính cha Thông cũng đến thăm cụ Huy, ở đường Hàng Chiếu. Cha Thông coi cụ Huy là bậc thánh nhân. Còn cụ Huy thì nhận xét cha Thông là: Beaucoup de hauteurs d’âme. Một tâm hồn cao thượng.

Và cuối cùng thì cụ Huy đã xin được rửa tội do Đức cha Khuê chủ lễ với sự chứng giám của cha Thông.

Dĩ nhiên một cách kín đáo. Lúc ấy chỉ có ba người biết: Cha Thông, Đức cha Khuê và cụ Huy. Tôi không hiểu còn có ai biết chuyện cụ Huy theo đạo dấu kín cho đến lúc chết?

Ngày 12-10-1964: Hồi 7 giờ sáng, cha Thông bị đưa ra tòa án thành phố nghe lệnh bắt giữ, rồi bị tống giam vào Hỏa Lò, được yêu cầu trao chìa khóa để khám xét phòng từ 8 giờ sáng đến 5 giờ chiều.

Phiên tòa được xử công khai, có loa phóng thanh ra ngoài. Trong phiên xử, họ đưa ra một số người dùng để tố cáo với nhiều tội danh, trong số đó có một số sinh viên, gốc Vinh, Nghệ Tĩnh theo học Giáo lý Cha Thông vào các tối Thứ hai. Họ bị bắt trước ngày xử cha và họ sẽ có bổn phận tố cáo cha Thông trước tòa. Sau này, có một vài sinh viên trên đã vượt tuyến và kể lại như vậy. Tội trạng của cha Thông là tàng trữ sách khiêu dâm {Chắc là Playboy}, tài liệu sách báo ngoại quốc v.v.. Nhưng tội nặng nhất là làm gián điệp cho Mỹ.

Cha bị tuyên án 13 năm tù ở và 3 năm quản chế.

Họ cũng có đưa một cô mụ {dì phước} tên Hương ra làm chứng. {Năm 2005, tôi ra Hà Nội có gặp cô Hương}, cô cũng bị bắt giam với vụ cha Thông vì tội liên quan hoạt động gián điệp. Kể ra CIA Mỹ gài người hay thiệt. Sau đó cha Thông bị giam ở Hỏa Lò 4 năm rồi bị đưa lên trại Cổng Trời, Hà Giang, rồi lại bị chuyển về Lào Cai. Sau đó lại quay về Cổng Trời một lần nữa. Tôi có hỏi thi sĩ Nguyễn Chí Thiện, cũng bị giam trên Cổng Trời, nhưng rất tiếc họ đã không biết nhau. Cuối cùng bị đưa về Hỏa Lò giam 12 tháng nữa.

Sau đó, cha Thông mãn hạn tù và bị đem về quản chế ở làng Thọ Cách, huyện Ý Uyên, tỉnh Nam Định từ lễ Noel năm 1976 đến tháng Tư 1987. Cha ở trong một túp lều nhỏ, xa làng mạc bà con trong làng.

Cộng chung tất cả là 23 năm tù. Cộng chung một phần ba đời người. Cha Thông cho biết trong những năm tháng ấy, có ba bốn lần hấp hối tưởng chết, rồi lại sống, chết đi sống lại mà không lần nào chết hẳn.

Lần thử thách cuối cùng là khi bị đưa về quản chế, họ đã bố trí một người đàn bà để săn sóc ông trong thời gian bị quản thúc. Ông đã vượt qua thử thách ấy.
Ngày 4-9-1987, cha về đến Nhà Chung Hà Nội. Xin nhớ cho, thời điểm này là thời điểm cởi trói của TBT Nguyễn Văn Linh.

Một làn gió mới thổi qua làm nhẹ bớt bầu khí ngột ngạt của những năm sau 1975.

Năm 1990 được phép vào thăm gia đình tại Sàigòn. Được mấy tháng sau thì qua đời ngày 23-2-1991.

Vừa hết trọn một đời người. Cho đến khi chết, linh mục Thông chỉ có một tâm niệm: “Con chỉ muốn làm linh mục của Chúa”.

Điều đó đã không thực hiện trọn vẹn khi còn ở trong tù và ngay cả khi ra tù của mấy năm còn lại cuộc đời. Khi về 40 Nhà Chung Hà Nội, ông bị cấm không được cử hành thánh lễ? Lệnh ở đâu không biết?

Viết những dòng này, tôi cũng nhìn lại một vài hình ảnh của cha Thông lúc còn đi du học- chững chạc, trí thức, dấu hiệu tài hoa và đạo hạnh. Nét chữ viết như chử in lúc viết lúc 30 tuổi và lúc sắp chết. Gần như vẫn là một. Chỉ có thân xác là tàn tạ.

Ôi cả một cuộc đời tuổi trẻ vạch rõ nét những chữ Lý tưởng, Hy sinh Và Phục vụ.

Tôi nghi ngờ cuộc đàm phán ngoại giao sẽ đi về đâu? Với một quá khứ lịch sử giáo hội đen tối, một chữ ký có hy vọng giải quyết được gì?

Đôi lời kết

Những nạn nhân của cộng sản nêu trên gồm các linh mục ưu tú của Giáo phận Hà Nội mà hầu hết đã qua đời và không còn có dịp gì để nói nữa. Và không biết bao nhiêu những người giáo dân vô danh, vô tội đã chết một cách oan ức trong các nhà tù của Cộng Sản ở ngoài Bắc như các ông Trùm, ông Quản bị đưa lên Trại Cổng Trời. Trong cái tinh thần đó, tôi nghĩ rằng có những lúc trong đời sống, có những thời kỳ oan nghiệt mà im lặng trở thành một điều tội lỗi, đáng xấu hổ. Và lên tiếng trở thành một bó buộc đạo đức {Obligation morale}.

Một bó buộc tinh thần hay một thách thức, một thử thách? Đó là sức mạnh của lương tri. Đó là sức mạnh của tư tưởng.

Trong trường hợp này, tôi muốn cất lên tiếng nói cho những người phải làm thinh. Đất nước này còn cần biết bao tiếng nói cất lên cho những người vì cách này cách kia đã phải làm thinh.

© Nguyễn Văn Lục
© Đàn Chim Việt

4 Phản hồi cho “Thực Trạng Giáo Hội Thiên Chúa Giáo miền Bắc từ 1945-1975”

  1. Ben Nguyen says:

    Cha Phạm Văn Hàm là anh trai của ông chánh Phạm Văn Hải trước 75 ở Bảo Lộc. Trước khi cha Hàm qua đời, gia đình có sang Canada thăm đôi ba lần. Lúc ấy ngài còn rất minh mẩn, nhớ tên từng đưá cháu, dù mới chỉ gặp lần đầu.

  2. Đất Thép 01 says:

    Bài báo lại chạm vào nỗi đau phản phúc (theo tiếng gọi của chúa) của các tồng pào ’54 rùi!

  3. NGUOI NEW ENGLAND says:

    Thế mà thời điểm cuộc chiến VN Vatican không lên án CS Bắc Việt mà lại lên án Mỹ. Giáo dân VNCH lại không có tiếng phản đối gì đối với Đức giáo Hoàng mà lại nghe lệnh Vatican một cách mù quáng

    • Hồng Lĩnh says:

      Tôn giáo và chính trị là 2 lãnh vực khác nhau.
      Mù quáng là người không nhìn ra sự khác biệt này .

Leave a Reply to Ben Nguyen