WordPress database error: [Expression #1 of ORDER BY clause is not in GROUP BY clause and contains nonaggregated column 'oldsite_dcvwp.wp_posts.post_date' which is not functionally dependent on columns in GROUP BY clause; this is incompatible with sql_mode=only_full_group_by]
SELECT YEAR(post_date) AS `year`, MONTH(post_date) AS `month`, count(ID) as posts FROM wp_posts WHERE post_type = 'post' AND post_status = 'publish' GROUP BY YEAR(post_date), MONTH(post_date) ORDER BY post_date DESC

 
|

Chung quanh công hàm Phạm Văn Đồng

cong-ham-ban-nuoc-1958-cua-Pham-van-Dong-sm

Vào đầu tháng 5 vừa qua, Trung Quốc đưa giàn khoan Hải Dương 981đến đặt tại vùng biển gần đảo Tri Tôn thuộc quần đảo Hoàng Sa, mà Trung Quốc đã đánh chiếm của Việt Nam Cộng Hòa ngày-19-1-1974. Sự xuất hiện giàn khoan nầy làm rộ lên trở lại dư luận trong và ngoài nước vấn đề công hàm ngày 14-9-1958 của Phạm Văn Đồng, thủ tướng Bắc Việt Nam trước đây.

1.- TUYÊN BỐ CỦA TRUNG QUỐC

Từ 24-2 đến 29-4-1958, các thành viên Liên Hiệp Quốc (LHQ) họp tại Genève bàn về luật biển. Hội nghị ký kết bốn quy ước về luật biển. Riêng quy ước về hải phận mỗi nước, có 3 đề nghị: 3 hải lý, 12 hải lý và 200 hải lý. Không đề nghị nào hội đủ túc số 2/3, nên LHQ chưa có quyết định thống nhất. Lúc đó, Trung Quốc và hai miền Nam và Bắc Việt Nam không phải là thành viên LHQ nên không tham dự hội nghị nầy.

Trước cuộc tranh cãi về hải phận, ngày 28-6-1958, Mao Trạch Đông tuyên bố với nhóm tướng lãnh thân cận: “Ngày nay, Thái Bình Dương không yên ổn. Thái Bình Dương chỉ yên ổn khi nào chúng ta làm chủ nó.” (Jung Chang and Jon Halliday, MAO: The Unknown Story, New York: Alfred A. Knopf, 2005, tr. 426.) Tiếp đó, ngày 4-9-1958, Trung Quốc đưa ra bản tuyên bố về hải phận gồm 4 điểm, trong đó điểm 1 và điểm 4 được dịch như sau:

(1) Bề rộng lãnh hải của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc là 12 hải lý. Điều lệ nầy áp dụng cho toàn lãnh thổ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, bao gồm phần đất Trung Quốc trên đất liền và các hải đảo ngoài khơi, Đài Loan (tách biệt khỏi đất liền và các hải đảo khác bởi biển cả) và các đảo phụ cận, quần đảo Penghu, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa [Xisha tức Hoàng Sa], quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa [Nansha tức Trường Sa], và các đảo khác thuộc Trung Quốc.

. . . . . . . . . . . . . .

(4) Điều (2) và (3) bên trên cũng áp dụng cho Đài Loan và các đảo phụ cận, quần đảo Penghu [Bành Hồ], quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc… (Nguồn: <http://law.hku.hk/clsourcebook/10033.htm>).

Mục đích của bản tuyên bố ngày 4-9-1958 nhằm xác định hải phận của Trung Quốc là 12 hải lý. Tuy nhiên điểm 1 và điểm 4 của bản tuyên bố cố ý lập lại và mặc nhiên khẳng định chắc chắn rằng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (vốn của Việt Nam) thuộc chủ quyền của Trung Quốc và gọi theo tên Trung Quốc là Xisha [Tây Sa tức Hoàng Sa] và Nansha [Nam Sa tức Trường Sa].

Điểm cần chú ý là Trung Quốc lúc đó chưa phải là thành viên Liên Hiệp Quốc và không thể dùng diễn đàn của Liên Hiệp Quốc để bày tỏ quan điểm và chủ trương của mình, nên Trung Quốc đơn phương đưa ra bản tuyên bố nầy, thông báo quyết định về lãnh hải của Trung Quốc. Vì vậy các nước không nhất thiết là phải trả lời bản tuyên bố của Trung Quốc, nhưng riêng Bắc Việt Nam lại tự ý đáp ứng ngay.

2.- CÔNG HÀM CỦA BẮC VIỆT

Trước khi ký kết hiệp định Genève ngày 20-7-1954 chia hai đất nước, đảng Lao Động (tức đảng Cộng Sản Việt Nam) đã sắp đặt trước kế hoạch tiếp tục chiến tranh đánh miền Nam. Chủ trương nầy được đưa ra rõ nét tại hội nghị Liễu Châu (Liuzhou) thuộc tỉnh Quảng Tây (Guangxi), từ ngày 3 đến ngày 5-7-1954 giữa Hồ Chí Minh và Chu Ân Lai.

Sau khi đất nước bị chia hai, Bắc Việt nằm dưới chế độ cộng sản do Hồ Chí Minh và đảng Lao Động (tức đảng Cộng Sản Việt Nam) lãnh đạo. Muốn đánh miền Nam, thì Bắc Việt cần được các nước ngoài viện trợ, nhất là Liên Xô và Trung Quốc. Vì vậy, khi Trung Quốc đơn phương đưa ra bản tuyên bố về lãnh hải ngày 4-9-1958, chẳng cần tham khảo ý kiến Bắc Việt, thì “không gọi mà dạ”, Phạm Văn Đồng, thủ tướng Bắc Việt, lại hưởng ứng ngay, ký công hàm ngày 14-9-1958, tán thành quyết định về hải phận của Trung Quốc để lấy lòng chính phủ Trung Quốc.

Mở đầu bản công hàm, Phạm Văn Đồng viết: “Thưa Đồng chí Tổng lý”. Kết thúc bản công hàm là câu: “Chúng tôi xin kính gởi Đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng.” Gọi nhau đồng chí là ngôn ngữ giao thiệp giữa đảng với đảng trong cùng một hệ thống cộng sản quốc tế, khác với ngôn ngữ ngoại giao thông thường. Nội dung bản công hàm Phạm Văn Đồng nguyên văn như sau:

“Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, quyết định về hải phận của Trung Quốc.

Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc trên mặt bể.”

Chắc chắn bản công hàm nầy đưọc Hồ Chí Minh và Bộ chính trị đảng Lao Động (tức đảng Cộng Sản) chuẩn thuận và được gởi thẳng cho Trung Quốc mà không tham khảo ý kiến hay thông qua quốc hội Bắc Việt. Quốc hội Bắc Việt lúc đó nguyên là quốc hội được bầu ngày 6-1-1946, gọi là quốc hội Khóa I. Sau chiến tranh 1946-1954, đất nước bị chia hai. Nhà nước Bắc Việt triệu tập những dân biểu cộng sản còn sống ở Bắc Việt vào tháng 9-1955, tiếp tục hoạt động cho đến ngày 8-5-1960, Bắc Việt mới tổ chức bầu lại quốc hội khóa II, khai mạc phiên họp đầu tiên tại Hà Nội ngày 6-7-1960.

3.- TRUNG QUỐC BIỆN MINH

Khi tự động đem giàn khoan 981 đặt trong vùng biển Hoàng Sa, vi phạm lãnh hải Việt Nam, Trung Quốc liền bị dân chúng Việt Nam biểu tình phản đối mạnh mẽ và dư luận quốc tế lên án, thì nhà cầm quyền Trung Quốc cho người sử dụng công hàm Phạm Văn Đồng ngày 14-9-1958 để nói chuyện.

Cùng ngày 20-5, hai nhân vật Trung Quốc đã lên tiếng biện minh cho hành động của Trung Quốc. Dĩ nhiên họ được lệnh của nhà nước Bắc Kinh mới được quyền lên tiếng.

Thứ nhứt, đại biện lâm thời Trung Quốc ở Indonesia, ông Lưu Hồng Dương, có bài đăng trên báo Jakarta Post (Indonesia), xác định rằng quân đảo Tây Sa [tức Hoàng Sa] là lãnh thổ của Trung Quốc. Bài báo viết: “Trong tuyên bố ngày 14-9-1958, thay mặt chính phủ Việt Nam khi đó, Phạm Văn Đồng, công khai thừa nhận quần đảo Tây Sa và các đảo khác ở Nam Hải là lãnh thổ Trung Quốc.” Lưu Hồng Dương, tác giả bài báo, còn viết: “Việt Nam rõ ràng vi phạm nguyên tắc “estoppels”. [không được nói ngược].

Người thứ hai là tiến sĩ Ngô Sĩ Tồn, giám đốc Viện Nghiên cứu Nam Hải của Trung Quốc, trả lời phỏng vấn hãng tin Deutsch Welle (DW) của Đức, được đưa lên Net ngày 20-5. Ông nầy nói như sau: “Năm 1958, thủ tướng Việt Nam khi đó là Phạm Văn Đồng đã công nhận chủ quyền Trung Quốc đối với Tây Sa và Nam Sa trong công hàm gửi thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai… Hà Nội chỉ thay đổi lập trường sau khi đất nước thống nhất năm 1975. Nhưng theo nguyên tắc estoppel, Trung Quốc không tin rằng Việt Nam có thể thay đổi lập trường về vấn đề chủ quyền.”

4.- CỘNG SẢN VIỆT NAM CHỐNG CHẾ

Trả lời những cáo buộc trên đây của Trung Quốc, trong cuộc họp báo ngày 23-5-2014 tại Hà Nội, ông Trần Duy Hải, phó chủ nhiệm Ủy ban Biên giới Quốc gia, cho rằng công hàm của thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958 không có giá trị pháp lý về vấn đề chủ quyền biển đảo Việt Nam.

Ông Hải nói: “Việt Nam tôn trọng vấn đề 12 hải lý nêu trong công thư chứ không đề cập tới Hoàng Sa, TrườngS, vì thế đương nhiên không có giá trị pháp lý với Hoàng Sa và Trường Sa… Bạn không thể cho ai thứ mà bạn chưa có quyền sở hữu, quản lý được. Vậy điều đó càng khẳng định công văn của cố thủ tướng Phạm Văn Đồng không có giá trị pháp lý…”

Ngoài ra, còn có đại sứ của hai phía Trung Cộng và Việt Cộng ở Hoa Kỳ tham gia cuộc tranh cãi, lên tiếng bênh vực lập trườøng của chính phủ mình. Báo chí hai nước cũng đưa tin và bình luận cáo buộc đối phương mà trước đây ít khi thấy. Lời qua tiếng lại còn nhiều, nhưng đại khái lập trường hai bên là như vậy.

5.- HIỂU CÁCH NÀO?

Bản tuyên bố ngày 4-9-1958 của Trung Quốc đưa ra hai chủ điểm: 1) Xác định hải phận của Trung Quốc là 12 hải lý. 2) Mặc nhiên xác nhận chủ quyền của Trung Quốc trên một số quần đảo trên Biển Đông trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, vốn của Việt Nam từ lâu đời.

Dầu công hàm Phạm Văn Đồng không có chữ Hoàng Sa và Trường Sa như ông Trần Duy Hải nói, nhưng công hàm Phạm Văn Đồng “ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc”, có nghĩa là nhà nước Bắc Việt cộng sản công nhận hai chủ điểm của bản tuyên bố của Trung Quốc.

Trần Duy Hải còn nhấn mạnh rằng sau hiệp định Genève, Hoàng Sa và Trường Sa thuộc quyền quản lý của Việt Nam Cộng Hòa và “Bạn không thể cho ai thứ mà bạn chưa có quyền sở hữu, quản lý được.” Ông Hải nói chuyện lạ lùng như một người nước ngoài. Nếu Nam Việt không phải là một phần của Việt Nam, thì tại sao Bắc Việt lại đòi “Chống Mỹ cứu nước” hay “Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.”? Khi xâm lăng Nam Việt, thì Bắc Việt nhận Nam Việt là một phần của Việt Nam. Khi cần xin viện trợ thì Bắc Việt bảo rằng đó là của Nam Việt, rồi Bắc Việt dùng để trao đổi với nước ngoài? (Một giải thích lạ lùng hơn nữa là bà Nguyễn Thị Thụy Nga (Bảy Vân), vợ Lê Duẫn, trả lời trong cuộc phỏng vấn năm 2008 của đài BBC rằng “ngụy nó đóng ở đó nên giao cho Trung Quốc quản lý Hoàng Sa.” (CTV Danlambao – danlambaovn.blogspot.com)

Một nhà nghiên cứu trong nước còn nói rằng công hàm Phạm Văn Đồng không thông qua quốc hội nên không có giá trị pháp lý trong bang giao quốc tế. (BBC Tiếng Việt 21-5-2014, “Hoàn cảnh lịch sử công hàm 1958”).

Khái niệm nầy chỉ đúng với các nước tự do dân chủ. Trong các nước tự do dân chủ, tam quyền phân lập rõ ràng. Những quyết định của hành pháp phải được lập pháp thông qua, nhất là những hiệp ước về lãnh thổ, lãnh hải phải có sự đồng ý của quốc hội. Tuy nhiên dưới chế độ cộng sản, cộng sản không cai trị theo luật pháp, mà cộng sản thống trị theo nghị quyết của đảng cộng sản. Với cộng sản, tam quyền không phân lập mà tam quyền đồng quy vào trong tay đảng CS, nên CS chẳng cần đến quốc hội. Chủ trương nầy được đưa vào điều 4 hiến pháp cộng sản mà ai cũng biết.

Trung Quốc là một nước cộng sản từ năm 1949. Đảng Cộng Sản Trung Quốc cũng thống trị đất nước họ như đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN). Vì vậy, giữa hai nước cộng sản với nhau, Trung Quốc rất am hiểu truyền thống của nhau, am hiểu ngôn ngữ cộng sản với nhau. Chính công hàm của Phạm Văn Đồng cũng viết theo ngôn ngữ cộng sản: “Thưa Đồng chí Tổng lý”. Vì vậy, Trung Quốc hiểu công hàm Phạm Văn Đồng theo cách thống trị đất nước của nhà nước cộng sản, nghĩa là quyết định của đảng cộng sản là quyết định tối hậu, trên tất cả, chẳng cần gì phải có chuyện quốc hội phê chuẩn.

Hồ Chí Minh và đảng Lao Động (tức đảng CSVN ngày nay) ủng hộ hay không ủng hộ bản tuyên bố về hải phận của Trung Quốc, dân chúng Việt Nam không cần quan tâm. Tuy nhiên, đối với dân chúng Việt Nam, chuyện Phạm Văn Đồng cùng Hồ Chí Minh và đảng Lao Động tán thành “quần đảo Tây Sa [Hoàng Sa], …, quần đảo Nam Sa [Trường Sa], … thuộc Trung Quốc” là một hành vi bán nước và phản quốc.

6.- LIÊN MINH QUÂN SỰ?

Trước hiểm họa Trung Quốc đe dọa ngày nay, vì Việt Nam không đủ sức chống lại Trung Quốc nên có ý kiến cho rằng nhà nước CSVN cần phải liên minh với nước ngoài để chống Trung Quốc. Ví dụ liên minh với Hoa Kỳ hay với khối ASEAN chẳng hạn.

Tuy nhiên, trong cuộc họp báo tại Bắc Kinh vào ngày 25-8-2010, trung tướng Nguyễn Chí Vịnh, thứ trưởng Quốc phòng CSVN đã đưa ra chủ trương “ba không” của đảng CS và nhà nước CSVN là: Không tham gia liên minh quân sự, không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự và không cùng một nước khác chống lại nước thứ ba. (Xem Internet: chủ trương ba không của CSVN.)

Về phía Hoa Kỳ, thì vừa qua, ngày 28-5-2014, trong bài diễn văn trình bày tại lễ tốt nghiệp Học viện Quân sự West Point, New York, tổng thống Obama đưa ra nét căn bản về chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ: “Hoa Kỳ sẽ sử dụng quân đội, đơn phương nếu cần thiết, nếu cần cho lợi ích cốt lõi của chúng ta – trong trường hợp người dân chúng ta bị đe dọa, nguồn sống chúng ta gặp nguy hiểm hay an ninh của các nước đồng minh bị thách thức …” (BBC Tiếng Việt, 29-5-2014.)

Chủ trương sử dụng sức mạnh để bảo vệ lợi ích cốt lõi của nước mình không phải là chủ trương riêng của Hoa Kỳ hay của một nước nào mà là chủ trương chung của tất cả các nước trên thế giới. Nước nào cũng vì quyền lợi của nước mình mà thôi. Vậy thử hỏi Hoa Kỳ có quyền lợi gì khi giúp Việt Nam (90 triệu dân) nhằm đổi lại với việc Hoa Kỳ giao thương với Trung Quốc (hơn 1 tỷ dân)? Ngoài ra, Hoa Kỳ khó trở thành đồng minh của Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam chỉ vì một lý do đơn giản là CHXHCNVN là một nước cộng sản vi phạm nhân quyền một cách trầm trọng.

Hơn nữa, Hoa Kỳ mới liên minh trở lại với Phi Luật Tân để ngăn chận Trung Quốc từ xa. Vì Phi Luật Tân ở xa, nằm phía bên kia bờ Biển Đông phân cách Phi Luật Tân với lục địa Trung Quốc, nên an toàn hơn cho Hoa Kỳ. Vì vậy, Hoa Kỳ có cần liên minh với CSVN hay không?

Các nước trong khối ASEAN cũng không khác gì Hoa Kỳ, tập họp với nhau vì quyền lợi kinh tế của mỗi nước. Có nước chẳng ưa thích gì Việt Nam như Cambodia, Lào vì truyến thống lâu đời. Có nước chẳng có quyền lợi gì trong vấn đề Việt Nam và Biển Đông như Miến Điện, Mã Lai. Đó là chưa nói hầu như các nước ASEAN đều quan ngại thế lực của Trung Quốc về nhiều mặt và các nước ASEAN còn muốn Việt Nam luôn luôn ở thế yếu kém, bị động để đừng quay qua bắt nạt các nước láng giềng.

Như thế, chỉ là ảo tưởng nếu nghĩ rằng nhà nước CSVN có thể liên minh với bất cứ nước nào để chống Trung Quốc. Trung Quốc dư biết điều đó. Cộng sản Việt Nam phải tự mình giải quyết lấy bài toán của mình do những sai lầm của Hồ Chí Minh và đảng CSVN gây ra. Nhờ Trung Quốc đánh Pháp chẳng khác gì nhờ một tên ăn cướp đuổi một kẻ ăn trộm. Còn nhờ Trung Quốc chống Mỹ không phải là giải pháp để cứu nước mà là con đường dẫn đến mối nguy mất nước …

7.- PHẢI QUYẾT ĐỊNH

Lịch sử cho thấy từ bao đời nay, dân tộc Việt Nam luôn luôn chiến đấu để bảo vệ lãnh thổ, chống lại các cuộc xâm lăng của nước ngoài. Ngược lại, từ giữa thế kỷ 20, đảng CSVN cướp được chính quyền năm 1945, đã dùng đất đai do tổ tiên để lại như một vật trao đổi nhằm mưu cầu quyền lực, mà công hàm Phạm Văn Đồng là một ví dụ điển hình.

Muốn thoát khỏi tấn bi kịch hiện nay, một trong những việc đầu tiên là phải vô hiệu hóa công hàm Phạm Văn Đồng, chấm dứt sự thừa nhận của Phạm Văn Đồng và đảng Lao Động tức đảng CSVN đối với tuyên bố của Trung Quốc.

Muốn vô hiệu hóa công hàm Phạm Văn Đồng thì phải vô hiệu hóa chính phủ đã ký công hàm. Phạm Văn Đồng đã chết. Chính phủ Phạm Văn Đồng không còn. Tuy nhiên, chính phủ thừa kế chính phủ Phạm Văn Đồng còn đó ở Hà Nội. Vậy chỉ còn cách giải thể nhà nước cộng sản hiện nay ở Hà Nội mới có thể vô hiệu hóa công hàm Phạm Văn Đồng. Có hai cách giải thể:

Thứ nhứt, đảng Cộng Sản Việt Nam hiện nay, hậu thân của đảng Lao Động trước đây, thừa kế chính thức của nhà nước do Phạm Văn Đồng làm thủ tướng, phải tìm cách tự lột xác như ve sầu lột xác (kim thiền thoát xác), mới phủ nhận những điều do nhà cầm quyền cũ ký kết. Trên thế giới, đã có hai đảng cộng sản theo thế kim thiền thoát xác là trường hợp Cộng sản Liên Xô với Yeltsin và cộng sản Cambodia với Hun Sen.

Vấn đề là những nhà lãnh đạo cộng sản Việt Nam hiện nay có vì sự sống còn của đất nước, có chịu hy sinh quyền lợi của đảng CS, có chịu giải thể đảng CS như Yeltsin đã làm ở Liên Xô, để cùng dân tộc tranh đấu bảo vệ non sông?

Thứ hai, nếu những nhà lãnh đạo cộng sản vẫn cương quyết bám lấy quyền lực, cương quyết duy trì đảng CSVN, thì chỉ còn con đường duy nhứt là toàn dân Việt Nam phải tranh đấu lật đổ chế độ cộng sản. Cuộc tranh đấu sẽ rất cam go, khó khăn, nhưng hiện nay đất nước chúng ta đang đứng bên bờ vực thẳm, đang lâm vào thế cùng. Cùng đường thì phải tranh đấu để biến đổi và tự cứu mình.

Vậy chỉ còn con đường duy nhứt là chấm dứt chế độ CSVN để chấm dứt công hàm Phạm Văn Đồng, đồng thời chấm dứt luôn những mật ước giữa đảng CSVN với đảng Cộng Sản Trung Quốc từ thời Hồ Chí Minh cầu viện, qua thời Thành Đô và cho đến hiện nay.

Đã đến lúc phải quyết định dứt khoát: Hoặc CSVN theo thế “ve sâu lột xác”, hoặc CSVN phải bị lật đổ mà thôi. Nếu không, hiểm họa một thời kỳ Hán thuộc mới đang chờ đợi Việt Nam.

TRẦN GIA PHỤNG

(Toronto, 5-6-2014)

© Đàn Chim Việt

 

46 Phản hồi cho “Chung quanh công hàm Phạm Văn Đồng”

  1. tonydo says:

    Nghe tên tác giả bài này nhiều lần, không nhớ ở đâu, nhưng chắc chắn là người dữ dội, nghĩa là người của công chúng. Tuy nhiên xin chia sẻ với ngài Trần Gia Phụng về câu kết của bài này: (trích).

    (Đã đến lúc phải quyết định dứt khoát: Hoặc CSVN theo thế “ve sâu lột xác”, hoặc CSVN phải bị lật đổ mà thôi. Nếu không, hiểm họa một thời kỳ Hán thuộc mới đang chờ đợi Việt Nam.) (hết trich).

    “Ve sầu lột xác” lần cuối và cũng là lần duy nhất sau khi trồi lên mặt đất thoát cảnh ấu trùng thì tuổi thọ tính từng ngày. Vậy thì CSVN có là Ve sầu lột xác hay bị lật đổ thì cũng chẳng có khác gì nhiều. Nghĩa là họ phải bị tiêu tùng.
    Thế nhưng ngài tác giả lại không cho biết là nếu NÓ tiêu rồi thì ai sẽ bênh mình để uýnh thằng Tàu-Hán.
    Độc 90 triệu nhân dân Việt Nam anh hùng dù không còn Cộng Sản đi chăng nữa thì chẳng lẽ bơi ra mà giữ đảo, hay là lấy súng Kíp ra mà bắn xe tăng?
    Lo cho 90 triệu cái miệng còn tiền đâu mà mua súng?
    Trong vụ tranh chấp quần đảo Falkland, quần đảo Nam Georgia và Nam Sandwich giữa Anh Quốc và Argentina, Tổng Thống Ronald Reagan đã tuyên bố là, cả hai nước đều là bạn với Mỹ nhưng Vương Quốc Anh là bạn lâu ngày hơn nên ông ta không thể bênh Argentina được. Và mấy quần đảo trên lại trở về với Hoàng Gia Anh.
    Phải có thằng bự con nó bênh mới được các bác ạ.
    Kính.

    • Bùi lễ says:

      Theo tôi nghĩ,
      sir Winston Churchill nói đại khái là, “Nếu chúng ta liên kết các nước cùng một thứ tiếng
      lại thì thế lực này trên thế giới không có thế lực nào đương cự nổi”. Anh là một ally của
      Mỹ thành ra Mỹ phải nghiên về Anh . Trái lại trong trường hợp Vietnam và Tàu thì khác.
      Vietnam và Tàu đối với Mỹ xem thử thằng nào có lợi đối với Mỹ thì thằng Mỹ sẽ ngã về
      phía đó. Vietnam (chính quyền) đối với thế giới được xem là một bọn “tráo trở”; Hơn nữa
      trong quá khứ, tất cã những gì đối với Vietnam và Mỹ đều qua sự quyết định của Tàu (có
      nghĩa là Vietnam không có tiếng nói cho chính mình) them vào đó thế giới không ai biết Vietnam là ai , sau này nhờ vụ “thuyền nhân” mà người ta biết đến … như vậy đâu có
      thằng bự con nào mà giúp trong khi chính bản thân của đương sự không biết là mình muốn
      thế nào (xìu xìu ểnh ểnh).
      Cứ nhìn mà thấy, Tàu quyến định tiếp thu/xâm chiếm đất VN đâu phải mới đây mà là
      vài chục năm qua thế mà mấy thằng việt cộng đám lãnh đạo VN đã làm gì ? Không làm
      gì cã (xem như là ngậm cu nín thinh) . Một đất nước mà có những lãnh đạo, tướng, quân
      đội vô tích sự như vậy thì kêu ai giúp ? Mình không thương mình thì chẳng ai thương mình cã .

      • tonydo says:

        Bác Bùi Lễ viết: (trích)
        Vietnam (chính quyền) đối với thế giới được xem là một bọn “tráo trở” (hết trích).

        Đây là cái khốn khổ cho dân ta. Không có ai tin nữa thì làm sao, về lâu về dài còn có người giúp để giữ được nước.
        Ừ thì bỏ ngoài tai cái chuyện láu cá vặt với người ngoài, thế nhưng ngay trong nhà, bảo xin ý kiến dân để sửa đổi Hiến Pháp, dân giơ tay, chưa kịp mở miệng thì đã đóng nắp quan tài cái rụp.
        Dân của mình còn không tin thì còn chơi với ai được?
        Kính quan bác.

    • Thích Nói Thật says:

      tonydo says: “Ve sầu lột xác” lần cuối và cũng là lần duy nhất sau khi trồi lên mặt đất thoát cảnh ấu trùng thì tuổi thọ tính từng ngày. Vậy thì CSVN có là Ve sầu lột xác hay bị lật đổ thì cũng chẳng có khác gì nhiều. Nghĩa là họ phải bị tiêu tùng.
      Thế nhưng ngài tác giả lại không cho biết là nếu NÓ tiêu rồi thì ai sẽ bênh mình để uýnh thằng Tàu-Hán.
      Độc 90 triệu nhân dân Việt Nam anh hùng dù không còn Cộng Sản đi chăng nữa thì chẳng lẽ bơi ra mà giữ đảo, hay là lấy súng Kíp ra mà bắn xe tăng?
      ” (hết trích)

      Theo như tôi hiểu, tác giả Trần Gia Phụng đề cập đến việc “Chung quanh công hàm Phạm Văn Đồng” để tìm một lối thoát cho VN khỏi vướng vào cái vòng nô lệ của TQ, đó là phải “Dân chủ hoá Việt Nam

      Dĩ nhiên, đây mới chỉ là điều cần thiết phải làm trước nhất mà tác giả đề cập đến. Điều cần làm tiếp theo, (lời của tonydo) sau khi “NÓ tiêu rồi” thì nhân dân VN sẽ có một chính quyền dân cử “KHÔNG CỘNG SẢN” bang giao và ký kết những hiệp ước với Hoa Kỳ và thế giới để tự bảo vệ mình, và chung lưng với quốc tế để bảo vệ hoà bình thế giới!

      Tuy nhiên, mong ước trên chỉ là viễn vọng, đòi hỏi phải có thời gian! Nhưng trong cảnh dầu sôi lửa bỏng như hiện nay, nếu TQ ra tay đánh chiếm VN thì………vô phương chống đỡ!

      Vì như bác Bùi lễ đã viết:Vietnam (chính quyền) đối với thế giới được xem là một bọn “tráo trở”

      và bác tonydo cũng xác định: “Đây là cái khốn khổ cho dân ta. Không có ai tin nữa thì làm sao, về lâu về dài còn có người giúp để giữ được nước.

      Do vậy mà Tác giả đã khẩn thiết kêu gọi:

      Đã đến lúc phải quyết định dứt khoát: Hoặc CSVN theo thế “ve sâu lột xác”, hoặc CSVN phải bị lật đổ mà thôi. Nếu không, hiểm họa một thời kỳ Hán thuộc mới đang chờ đợi Việt Nam

  2. Bùi lễ says:

    “… “Bạn không thể cho ai thứ mà bạn chưa có quyền sở hữu, quản lý được.” …”

    Dĩ nhiên là không nhưng nếu bạn có được những thứ bạn đã hứa thì bạn phải thi hành lời hứa
    vì đây là contract .

    Lê Duẫn đã thấy rỏ điều này nên đánh Tàu với mục đích để chạy làng và việt cộng này chết trước khi sự việc bùng nổ . Đáng tiếc đám việt cộng sau này toàn là một bọn bưng bô

    • Trí Phèo says:

      Khì khì, bác Bùi Lễ nói đúng đấy. Luật nhà đất có nguyên tắc “estoppel by deed”. Nếu đã hứa, hay ký hợp đồng bán nhà đất cho người mua, mà lúc đó người bán chưa có chủ quyền, sau này mới có chủ quyền, thì khi có chủ quyền rồi không được từ chối bán hay cãi bựa theo kiểu Việt Cộng, mà bắt buộc phải bán cho người mua.

      Nhưng có lẽ luật này không áp dụng được với bác Hồ bác Đồng về Hoàng Sa. Vì hai bác này đâu thèm bán nhà đất. Hai bác bán… nước. Thế mới kinh.

      Nhưng thôi, bàn về luật lệ mà làm gì? Cái điểm chính là công hàm Đồng Vẩu này làm băng đảng CS chúng nó lòi mặt chó má là lũ bán nước. Thế thôi. Những đảng viên CS còn chút lương tri còn chờ gì nữa mà không bỏ ngay cái đảng bán nước đó? Đứng trong đảng để mang nhục mãi à?

      Ngày xưa Mạc Đăng Dung bị tiếng xấu vì đã dâng đất cho Tàu. Lúc ấy ông ta mới “cướp chính quyền” từ vua Lê, tứ bề thụ địch. Quân Tàu khởi binh, sắp đánh, cho nên ông ta mới dâng đất cầu hòa để mang nhục muôn đời. Làm sao Mạc Đăng Dung giỏi bằng bác Hồ nhà mình. Bác Hồ tuy mới cướp chính quyền được mấy năm nhưng cũng đã nhanh chóng ổn định miền bắc bằng chuyện khủng bố “cải cách ruộng đất” và lập ra vài trăm trại tù cải tạo. Mỹ lại chưa thả bom miền bắc. Bọn miền nam còn loay hoay tổ chức chính quyền chẳng dám đụng đến lông chân bác. Bác Hồ chẳng bị áp lực nào, nhưng cứ thỏai mái dâng hải phận hải đảo cho Tàu để làm đéo gì không biết. Thế mới là đệ nhất nhân tài nước Nam.

      Người ta vẫn vô hiệu hóa một “diplomatic note”, bằng một diplomatic note mới. Cách đây vài tuần bộ ngoại giao Việt cộng họp báo phủ nhận công hàm bán nước bác Đồng. Làm vậy cũng tạm được, nhưng vẫn phải cần một công hàm giấy trắng mực đen, xác định chủ quyền Hoàng Sa Trường Sa của VN, và phủ nhận công hàm của Đồng Vẩu.

      Còn bác Duẩn nhà mình chẳng phải chống Trung Cộng để chạy làng hay vì yêu nước đâu. Liên Xô và Trung Cộng ép bọn thái thú ở Hà Nội phải bỏ một chọn một. Hắn thấy Liên Xô đỡ đầu cho hắn rất nồng nàn cho nên ôm choàng lấy quan thầy Liên Xô để chặt đẹp mấy thằng đồng chí ôm chân Tàu (như Hoàng Văn Hoan) hay mấy thằng phân vân đứng hàng hai (như Võ Nguyên Giáp) hầu lên ngôi thái thú.

  3. Trúc Bạch says:

    Lời biện hộ cho Phạm Văn Đồng

    Xin quý vị hiểu cho rằng, trong xuốt những năm dài làm thủ tướng của Phạm Văn Đồng, ông ta chỉ là kẻ thừa hành cho các đời Chủ Tịch đảng , Bí Thư đảng,; Ông ta chỉ là thứ “thiên lôi” bảo nói sao thì nói vậy, bảo làm sao thì làm vậy ….

    Đặc biệt là trong “thời đại” Hồ Chí Minh, khi Hồ còn vừa là chủ tịch đảng, vừa là chủ tịch nước , vừa là “cha già dân tộc”- quyền uy ngút trời – thì Phạm Văn Đồng chả khác gì một “thằng đánh máy”, quyền hành thực chât còn thua cả Vũ Kỳ – thư ký riêng của Hồ Chí Minh –

    Chính vì sự đần độn, ngu xi của kẻ mang bệnh Chậm Trí (retardation) rất nặng này, mà bất cứ một tổng bí thư nào lên, cũng đều giữ ông ta lại làm thủ tướng hầu dễ sai khiến, mặt khắc lại dễ đổ vấy những “sai lầm” cho ông ta – Cho nên Phạm Văn Đồng là một thủ tướng có thời gian tại vị dài kỷ lục .

    Cái đau đớn nhất cho Phạm Văn Đồng là cả hai lần bán nước của đảng CSVN – 1/ (một) là Công Hàm Bán Nước 1958, và 2/ (hai) là Hội nghị Thành Đô 1990…ông ta đều bị đảng cho có mặt để chịu tiếng đời nguyền rủa ….

    Thật là oan ức quá !

    Cho nên cái Công Hàm Bán Nước, Cái Ngu Xuẩn Để Đời này, phải thuộc về Hồ Chí Minh – hay cũng có thế nói là của cả BCHTƯĐ lúc đó ,gồm đứng đầu là Hồ Chí Minh, sau đó là Võ Nguyên Giáp, Trường Chinh, rồi mới đến Phạm Văn Đồng .

    Và hễ nói đến Công Hàm Bán Nước, hễ nói đến đạo đức hay tư tưởng Hồ Chí Minh thì phải hiểu rằng, đó là cái tư tưởng và đạo đức của tên Bán Nước Buôn Dân tồi tệ nhất trong lịch sử VN !.

    Xin đèn Giời xoi xét !!

    Văn Tự Bán Nước

    Văn tự mua , bán Biển Đông
    Bác Hồ ra lệnh chú Đồng viết thay
    Viết rằng : “Thôi, kể từ nay.
    Tất cả thứ này, là của bác Mao !
    Còn chuyện đắt rẻ ra sao ?
    Lời lỗ, giá cả thấp cao mặc….tình .
    Biển – Đảo chẳng phải của mình
    Mình bán cũng chẳng tội tình chi mô !”
    Chú Đồng vâng theo bác Hồ
    Ký tên, đóng dấu,“phô tô” gởi liền
    .
    Để nhanh nhanh có được tiền
    Mua súng, mua đạn ưu tiên hàng đầu
    Chống Mỹ là yêu nước…Tàu
    Đại Đồng Hoa Việt đi đâu thiệt thòi ?!

    Bạch Đại Trạng .

  4. Trực Ngôn says:

    Bài viết này của tác giả Trần Gia Phụng quá hay!

    Không những nó hỗ trợ mà còn củng cố cho lập luận của tôi trong phần trao đổi với các bạn đọc có níck Mai và Hoàng.

    Cám ơn ông Trần gia Phụng, tôi đồng ý với Ông;

    Muốn vô hiệu hóa công hàm Phạm Văn Đồng thì phải vô hiệu hóa chính phủ đã ký công hàm. Phạm Văn Đồng đã chết. Chính phủ Phạm Văn Đồng không còn. Tuy nhiên, chính phủ thừa kế chính phủ Phạm Văn Đồng còn đó ở Hà Nội. Vậy chỉ còn cách giải thể nhà nước cộng sản hiện nay ở Hà Nội mới có thể vô hiệu hóa công hàm Phạm Văn Đồng“.

    Chính xác!

  5. BIỂN NGÀN says:

    CÁI TỆ HẠI CỦA TRUNG QUỐC

    Thực chất TQ biết rất rõ từ xưa đến nay địa phận của đất nước họ chỉ tới có đảo Hải Nam.
    Tức họ dư sức biết các đảo Hoàng Sa, Trường Sa là hoàn toàn thuộc lãnh thổ VN đã từ lâu.
    Như vậy cho dù họ có đơn phương tuyên bố hải phận họ 12 hải lý vào thời điểm 1958, đó cũng chỉ là lời đơn phương. Và dù giá trị nó thế nào đối với họ, về sự thật khách quan nó cũng không thể biến HS-TS thành lãnh thổ của họ được. Vì đó là thực thể đã có trước của VN, không lý gì một lời tuyên bố đơn phương của họ đến sau mà lại thành bao hàm cả cái gì trước đó vốn có sẳn của người khác vào trong đó được. Trừ khi ý đồ của họ thực sự ngay từ đầu là đã muốn gài bẫy đồng chí của họ, tức dẫn dụ hay áp lực chính phủ miền Bắc lúc đó để có được Công hàm của PVĐ nhằm vô tình hay cố ý bán cái cả hai biển đảo của Tổ quốc cho chính “đồng chí” TQ vỹ đại của mình.
    Nếu họ đã cố tình gài bẫy, đó chí là cái hố to của miền Bắc lúc đó, vì không bao giờ TQ coi miền Bắc là đồng chí cả. Bởi đã coi là tình đồng chí thân thương thì không thể nào có chuyện đó. TQ đã không coi là đồng chí, tức họ chỉ là “cộng sản” giả dạng, thế mà chính phủ miền Bắc lúc đó tưởng họ là “cộng sản” thật, thì đó là do cái tơ lơ mơ về “ý hệ CS” mà chính ông PVĐ lúc đó là người tiêu biểu lộ liễu ra nhất.
    Còn nếu lúc đó họ là “đồng chí” thật, thì ngày nay dù không còn là đồng chí hoàn toàn với nhau nữa, họ cũng phải nên coi hay buộc phải coi lời tuyên bố qua Công Hàm của ông PVĐ lúc đó chỉ là tình huống nhất thời về mặt hình thức, nó không tạo dựng ra cái gì mới mẽ về thực tế cả. Đã biết vậy mà ngày nay họ vẫn cứ nại cái “Công hàm” đó như là đã giao đứt HS-TS cho họ, là nay không thể nói ngược lại được, thì quả thật rõ ràng tính chất của họ chính là một sự lừa đảo trơ trẽn hoàn toàn vô đạo đức thật sự.
    Đấy cái tệ hại của TQ chính là như thế. Dầu lý luận hay nhận thức bề nào, họ thật sự đều không thay đổi về ý nghĩa trong cái bản tính hay cái bản chất xấu xa, quẹo quặt, không ngay thẳng hay dối gạt của họ.
    Đã thế mà sau đó vẫn dẫn đến các cam kết ở Thành Đô giữa hai bên, chứng tỏ giới lãnh đạo CSVN trước sau vẫn còn lầm lẫn ý nghĩa thật của ý thức hệ CS lẫn ý nghĩa thật của người “đồng chí” TQ cho tới nay. Điều đó có nghĩa nếu vẫn tiếp tục chưa thức tỉnh trước mọi diễn tiến thực tế đã thấy, thì cho thấy vẫn còn lấy chủ nghĩa cá nhân hoặc sự ảo vọng nào đó thay thế hẳn cho trách nhiệm đối với đất nước, cũng như thay hẳn cho chính lòng yêu nước thực tế và chân chính nhất mà bất kỳ mọi con người chân chính, đúng đắn nào đều cần phải có.

    NON NGÀN
    (07/6/14)

  6. TRĂNG NGÀN says:

    BÉ CÁI LẦM

    Tưởng ông yêu nước thế nào
    Hóa ông yêu nước để lòi cái đuôi !
    Tên ông là Phạm Văn Đồng
    Công Hàm 58 để đời về sau !
    Ở tù giặc Pháp bao năm
    Vì làm Cộng sản có hơn chút nào !
    Nếu ông yêu nước tại sao
    Công hàm ông ký ối dào ông ơi ?
    Một vì ông sợ Anh hai
    Hai vì ông muốn thành công cho mình !
    Nếu như yêu nước thật tình
    Có ai lại ký Công hàm như ông !
    Bây giờ ông đã thành công
    Nước nhà nghiêng ngã ông còn nói chi ?
    Liên xô Anh cả còn gì
    Anh Hai bóp cổ tịt ngòi ông luôn !
    Buồn thay đất nước qua truông
    Biết qua có khỏi nỗi buồn do ông !
    Ông tên là Phạm Văn Đồng
    Nói đi nói lại khiến càng buồn thêm !
    Ông say sưa Mác – Lênin
    Hoàng Sa đâu đáng để lòng ông lo !
    Bây giờ lật ngữa ván bài
    Hóa ra ông chỉ nằm mơ giữa đời !
    Ở tù giặc Pháp ông ơi
    Vì làm Cộng sản nay đời biết ông !

    GIÓ NGÀN
    (07/6/14)

  7. Người SANYO says:

    Chết là ở những dòng sau đây:
    “Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, quyết định về hải phận của Trung Quốc”.
    Khốn khổ vì bút sa gà chết, gái đĩ già mồm cải làm sao cho được…Thôi thì CS nên cúi đầu nhận lỗi để mà cùng dân nghĩ cách cứu nước, còn cải chày cải cối cái mẹ gì nữa.

  8. Nguoi Saigon says:

    Trong tuyên bố của Trung Quốc về lảnh hải có 2 đoạn ghi Sishan (Hoàng Sa) và Nansha (Trường Sa) là những đảo thuộc Trung Quốc. Công hàm Phạm văn Đồng ngày 14/9/58 công nhận bản tuyen bố, tức công nhận Sishan (Hoàng Sa) và Nansha (Trường Sa) là những đảo thuộc Trung Quốc.
    Nhưng sự công nhân nầy vô hiệu vì vật thể không có thật, nghĩa là vì Hoang Sa thuộc chủ quyền và sự quản lý của nước Việt Nam Công Hòa, một quốc gia chính danh theo công phap quốc tế, Nhà nước CHXHCNVN giải thich loanh quanh vì kẹt vấn đề “Giai Phong Miên Nam”

    Công hàm Phạm Văn Đồng chỉ có giá trị hành chánh, có thể đính chánh hay hủy bỏ bằng một công hàm do một thủ tướng ký (nêu lý do nào đó như lầm lẫn, ngu dốt, v.v…). Tôi nghĩ công hàm PVĐ có thể dịch là communiqué diplomatique.

    • vb says:

      Không thể tùy tiện nói như một số “học giả” cuả chế độ và… “Ngươi Saigon” là : ” sự công nhận những tuyên bố cuả Trung cộng cuả VNDCCH qua Công Hàm PVĐ là vô hiệu vì lý do Hoàng Sa không thuộc thẩm quyền quản lý cuả VNDCCH”.

      1) Dưới quan điểm cuà Trung Cộng và Việt Cộng (VNDCCH) thì chỉ có một nước Việt Nam mà VNDCCH là “chủ nhân ông” duy nhất. Đối với VNDCCH thì khi xảy ra “tình huống PVĐ” thì HP 1946 còn hiệu lực, có nghĩa là chỉ có họ mới là chính quyền đại diện cho VN, vì khi thành lập VNDCCH và bản HP ra đời thì vua Bảo Đại đã thoái vị, nội các Trần Trọng Kim không còn. Đối với Trung Cộng và VNDCCH thì theo Hiệp Định Genève, không hề có hai nước, ranh giới (vĩ tuyến 17) chỉ dành cho việc tập kết các lực lượng quân sự cuả các bên tham chiến nhằm tạo nên một cuộc đình chiến để lập lại hoà bình mà không hề có tính cách lãnh thổ hay chính trị( hai quốc gia riêng biệt). Vả lại, Hội Nghị Genève được triệu tập cho toàn Đông Dưong, nhằm giải quyết v/đ cuả BA NƯỚC ĐÔNG DƯƠNG một trong những nội dung chính là các nước tham dự Hội Nghị bàn thảo về hoà bình cuả BA NƯỚC ĐÔNG DƯƠNG (Việt Nam, Lào và Cam Bốt) và các nước tham dự Hội Nghị cam kết tôn trong độc lập, chủ quyền và TOÀN VẸN LÃNH THỔ cuả BA nước Việt, Miên, Lào (chứ không phải là BỐN nước).

      Việc Quốc Gia Việt Nam thành lập nước VNCH vào năm1956 là rất chính danh và quốc tế không thể bác bỏ hay phản đối vì QGVN không công nhận Hiệp Định Genève, phản đối chia đôi đất nước và KHÔNG KÝ vào Hiệp Định, do đó không bị ràng buộc bởi bất cứ điều khoản nào cuả HĐ Genève. Ngày 22 tháng 7 năm 1954, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm còn ra lệnh treo cờ rũ toàn miền Nam để phản đối chia đôi đất nước. Trước đó các đại diện cuả Quốc Gia VN đã phản đối kịch liệt những áp đặt cuả các cường quốc tham dự Hội Nghị về việc chia cắt VN. (Hoa Kỳ tuy tham dự Hội Nghị nhưng KHÔNG KÝ vào Hiệp Định nên sau này có lý do giúp Quốc Gia VN dù HCM có vin vào các điều khoản cuả HĐ đê phản đối nhưng đều vô hiệu) . HP 1956 cuả VNCH ghi rõ ràng tại điều 1:” Việt Nam là nước cộng hoà, độc lập, THỐNG NHẤT, lãnh thổ BẤT KHẢ PHÂN”.

      Như vậy, cả hai, VNCH và VNDCCH trong HIẾN PHÁP và trong các tuyên bố thì đều cho mình là CHÍNH QUYỀN DUY NHẤT đại diện cho nước VN, làm chủ toàn lãnh thổ VN. Vì thế mà sau này một quốc gia đệ tam, đã công nhận VNCH thì không công nhận VNDCCH và ngược lại hễ đã ‘chơi” với VNDCCH thì “nghỉ chơi” với VNCH. Nếu định ‘bắt cá hai tay” thì họ đều bị hoặc VNCH hoặc VNDCCH phản đối và chấm dứt giao hảo.

      Nếu VNDCCH cả trong HP lẫn trong các tuyên bố cho mình là chủ nhân ông cuả toàn cõi VN thì tại sao lại từ chối trách nhiệm và nói thác là Hoàng Sa thuộc “chủ quyền” cuả VNCH nên không thể “bán những gì mình không có”?

      Rõ ràng là cả Trung Cộng và Việt Cộng đều HIỂU rằng chỉ có VNDCCH mới là chủ nhân đích thực cuả nước VN nên khi PVĐ ký Công Hàm thừa nhận tuyên bố cuả Trung Cộng về chủ quyền HS và TS thì cả hai phiá Việt Cộng và Trung Cộng đều coi đó là HỢP PHÁP. VC không dám đưa TC ra toà, và TC thản nhiên hành xử với Hoàng Sa, rồi Trường Sa như “lãnh thổ” cuả mình. Và cũng tại sao đến thời điểm này, sau khi không còn cách nào chối tội, ĐCSVN, chính quyền VN qua Nguyễn Tấn Dũng mới ‘công nhận’ VNCH là một thực thể có tính cách một Quốc Gia (nắm giữ chủ quyền HS, TS), cái mà từ trước đến nay bị cho là “Nguỵ”, là giả. Đã là Ngụy, là không chính danh thì làm gì có quyền “quản lý” đất nước, kể cả những hòn đảo…chim ỉa?

      2) “Công Hàm PVĐ chỉ có giá trị hành chánh…”(trích). Thế nào là hành chánh? Tại sao chỉ có giá trị hành chánh?

      Không phải Công Hàm là “VĂN THƯ NGOẠI GIAO”, mà nước này gửi cho nước kia để nói về một v/d có liên hệ giữa hai bên ư? Tại sao từ trước đến nay ĐCSVN, nhà nước, chính quyền VN hễ có dịp nói đến văn kiện PVĐ gửi cho Chu Ân Lai đều gọi đó là CÔNG HÀM, mà mấy lúc gần đây lại gọi là “Công Thư” một từ chưa hề có trong từ điển lẫn trong báo chí hay được hiểu rộng rãi trong cả nước ? Tại sao lại làm giảm nhẹ “giá trị” cuả CÔNG HÀM bằng một từ mới “công thư” nếu nó chỉ có ‘giá tri hành chánh” và …”vô hiệu quả”?

  9. Bạch Đại Trạng says:

    ha ha ha …

    Bắc thang lên hỏi ông Trời
    Công Hàm Bán nước lỡ rồi, làm sao ?
    Trời rằng : Hỏi chuyện Tào Lao
    Chơi với thằng Chệt, chính tao cũng bị …lừa !

    *****
    Bắc thang lên hỏi ông Trời
    Công Hàm ký rồi, cãi cối được không ?
    Trời rằng : Hỏi chuyện Viễn Vông
    Đã ký cho Hán(g) nó khó lòng rút ra
    Muốn kiện đòi Hoàng-Trường Sa
    VNCH – Thừa kế đứng tên !

  10. dan viet says:

    Nhin mat trong thay ham roi !!!!!

Leave a Reply to BIỂN NGÀN