WordPress database error: [Expression #1 of ORDER BY clause is not in GROUP BY clause and contains nonaggregated column 'oldsite_dcvwp.wp_posts.post_date' which is not functionally dependent on columns in GROUP BY clause; this is incompatible with sql_mode=only_full_group_by]
SELECT YEAR(post_date) AS `year`, MONTH(post_date) AS `month`, count(ID) as posts FROM wp_posts WHERE post_type = 'post' AND post_status = 'publish' GROUP BY YEAR(post_date), MONTH(post_date) ORDER BY post_date DESC

 
|

Không Phải Ngày Cuối Cùng của Việt Nam: Last Days in Viet-Nam

Bốn mươi (40) năm sau cuộc thất thủ của miền Nam, nhiều người Việt còn rất cay đắng vì những lý do đưa đến sự thôn tính miền Nam của Bắc Việt. Trong số này người ta có thể kể ông Giao Chỉ – Vũ văn Lộc với bài “Sự Phản bội Cuối Cùng.” “

Đọc bài “Sự Phản bội Cuối Cùng” của ông Giao Chỉ tôi cũng ao ước ông có thể gây quỹ để làm một cuốn phim cho đích đáng và đầy đủ, cho ông thật ưng ý, chứ những bộ phim lịch sử về chiến tranh của Việt-Nam do người Mỹ thực hiện, chẳng có phim nào đầy đủ hay chính xác cho vừa lòng chiến sĩ. Chưa nói đến phim  tài liệu Last Days in Vietnam của bà Rory Kennedy (cháu của cố tổng thống John F. Kennedy và con gái của ông Bộ trưởng tư pháp tư pháp Robert Kennedy, cả hai đều bị ám sát chết).

Bà Rory Kennedy, cháu của cố tổng thống John F. Kennedy và con gái của ông Bộ trưởng tư pháp tư pháp Robert Kennedy.

Bà Rory Kennedy, cháu của cố tổng thống John F. Kennedy và con gái của ông Bộ trưởng tư pháp tư pháp Robert Kennedy.

Đúng ra nếu ông Giao Chỉ đóng vai bình luận gia quân sư viết một bài bình luận về quân binh, những trận đánh hoặc những mưu mô, manh nha chính trị thì chuyện lên án, chửi bới có lẽ lại hơn! Tuy nhiên, chê bai cuốn phim tài liệu ‘Last Days in Vietnam’ (Những Ngày Cuối cùng ở Việt-Nam) của bà Rory Kennedy một cách nặng nề và thậm tệ thật không đúng chỗ.

Riêng tôi, và có lẽ nhiều người Việt khác thì biến cố 30 tháng Tư 1975 không phải là những ngày cuối cùng. Không kể những người Việt đã nằm sâu trong lòng biển hay bụng cá, hoặc chết vào tay hải tặc vào những thập niên 70 – 80, nhiều người khác cho đến nay vẫn mong đợi một ngày mai tươi sáng cho Việt Nam. Nhiều người vẫn tìm về với những lý tưởng và mơ ước của mình. Do đó Last Days in Vietnam chỉ là một phim nói lên một giai đoạn ngắn ngủi trong lịch sử ra đi của  người Việt. Một cuốn phim 90 phút đương nhiên không thể tránh khỏi những thiếu sót, người ta đánh giá nó trên những tiêu chí chính (tình người), của nó, không phải trên mọi phương diện,  quân sự hoặc tự ái cá nhân.

Tôi cũng không hiểu ông đại sứ Graham Martin có tiên liệu trước là miền Nam sẽ mất vào tay Cộng sản Bắc Việt hay không, hoặc giả ông vẫn còn chờ đợi một giải pháp trung lập thứ ba nào. Nhưng theo những nhân vật  trong phim tài liệu này thì ông Martin vẫn tin tưởng vào miền Nam ‘sẽ không mất’ nên không chịu dự tính một phương án di tản. Trong khi đó thì ông Giao Chỉ, dẫn chứng sách “Tears before the Rain” của Giáo sư Larry Engelman, nói về thương lượng của ông Henry Kissinger với Brezhnev đề nghị 2 tuần cho Mỹ rút lui (lúc đó chỉ còn từ 5.000 đến 7.000 người Mỹ ở Việt Nam. Ông Giao chỉ trích: “Đầu tháng 4, đại sứ Graham Martin “muốn chắc ăn đã gửi đại tá Harry Summers đi theo chuyến bay của ủy hội quốc tế ra Hà Nội nói chuyện trực tiếp.”

Tuy có bàn qua sự triệt thoái của quân đội Hoa Kỳ và những lý do – như không viện trợ hay cung cấp vũ khí, thay thế những thứ bị hư hại đưa đến sự thất thủ của miền Nam, cuốn phim tài liệu này không nhằm chú trọng đến chuyện quân sự hay chính trị. Bà Kennedy chỉ dùng chúng như những bối cảnh cho thấy những nỗ lực đáng kể của nhiều người Mỹ trong những tình huống nguy cơ và cấp bách để nói lên sự dũng cảm của họ.

Rory Kenedy 2

Có lẽ bà Rory Kennedy, dưới nhãn quang của một người Mỹ – đã cưu mang nhiều oan khuất vì cái chết bất đắc kỳ tử của bác và cha mình, cũng như những bất cập của Hoa Kỳ trong cuộc tham chiến ở Việt-Nam – nên đã dựng lại phim tài liệu này kể lại cuộc di tản tang thương và khó xử  đó. Trong cuốn phim này, đại ý cho thấy sự nhân bản của các nhân vật trong tòa Đại sứ Mỹ cũng như trong quân đội Hoa kỳ đã tìm cách đưa những người Việt ra đi bất kể lệnh trên.

Không hiểu ông Vũ văn Lộc có hiểu đại ý cuốn phim tài liệu này không? Ông Kissinger không phải là tài tử (phim tài liệu không có tài tử) bình luận, hay là nhân vật chính trong cuốn phim tài liệu này, tuy rằng ông là người đã giữ vai trò cốt yếu trong cuộc hoà đàm với Bắc Việt dẫn tới chuyện Ngụy Ước Paris 73 (1).  Ông Kissinger, ông Nixon, cũng như ông Ford (tuy rằng ông Kissinger là người duy nhất trong 3 người vẫn còn sống đến ngày nay nên đã được mời góp ý trong cuộn phim) đều là những người thứ phụ trong phim này, sự hiện diện của họ chỉ làm sáng tỏ những tiết yếu và diễn tiến của những ngày cuối cùng nhằm minh họa cuốn phim.

Những nhân vật chính trong phim này là đại úy bộ binh Stuart Herrington (có thể coi là bình luận viên (narrator), Juan Valdez sĩ quan Thủy quân Lục chiến), Frank Snepp (CIA), Đại sứ Graham Martin, Richard Armitage (Cố vấn quân sự), Gerry Berry, (Phi công trực thăng), người di tản cả ngàn người Việt, Paul Jacobs (thuyền trưởng tàu Kirk) Phía người Vịệt gồm có: Đại úy Đổ Kiểm, Bình Phó (sinh viên), Đại úy Hải quân Phạm Hữu Đàm, Nguyễn Miki, con trai ông phi công trực thăng Chinook, người đã biễu diễn một màn thoát hiểm ngoạn mục trên tàu Kirk)

Bà Rory Kennedy dù sao cũng là một người Mỹ, trong phần Q&A khi khai trương cuốn phim hồi tháng 10, đối với cuộc chiến khá phức tạp của Việt Nam khi hỏi về bài học mà cuộc chiến Việt Nam đã mang lại, bà đã trả lời, đại ý rằng ktrước khi tham chiến vào một quốc gia nào thì Hoa kỳ phải tính đến hậu quả (cũng như lối ra ý nghĩa hơn là cắt đức và bỏ chạy (?).

Phần lớn ai đi xem ‘Last Days in VN’ cũng khó cưỡng lại kết cục làm rơi lệ, cảm thương cho số phận Việt-Nam. Trong phim, chạnh lòng nhất là câu hỏi của ông Đại úy Phạm Đàm, cựu quân nhân VN Cộng hòa, tù Cộng Sản 6 năm: “Có phải mục tiêu cuộc tham chiến Mỹ là dẫn đến cuộc di tản tang thương này…?” Rồi những lời hối hận của các chiến binh, tham tán quân vụ, ngoại giao, lo cho số phận những người VN bị bỏ rơi.

Đến lúc đèn sáng, đạo diễn, cô Rory Kennedy ra kêu gọi khán giả aỉ là người VN xin đứng dậy, khán giả cho một tràng pháo tay. Sau đó tôi là người đầu tiên đặt câu hỏi, nghẹn lời xúc động: “Đã 51 năm từ hồi bác cô, ông J. F. Kennedy là tổng thống đầu tiên gởi quân sang VN, rồi bật đèn xanh cho lật đổ ông Diệm, rốt cuộc ông Diệm bị giết 3 tuần trước ông Kennedy – VN ngày nay vẫn còn mù mịt (in limbo) dưới bóng Trung quốc…”

Ý của bà mà tôi có thể đọc được là sau nhiều năm bị gặm nhắm với những mặc cảm tội lỗi do hội chứng VN (Vietnam syndrome) nên đã có ý tìm đến góc cạnh cứu độ của những người Mỹ trong tòa đại sứ cũng như những nhân vật khác thuộc các binh chủng Hoa Kỳ, kể cả những cấp trên của họ.

Bà cũng nói thông điệp chính của ‘Last Days in Vietnam’ không chú trọng vào vấn đề chính trị mà chỉ đề cao tình người.

Rory Kenedy 3

Thiết nghĩ nếu chịu khó nghiên cứu người ta có thể đào ra vô số những yếu tố đưa đến sự thất thủ của miền Nam, nhưng không ai với một thái độ bình tĩnh và từ tốn sau khi xem phim tài liệu ‘Last Days in Vietnam’ của bà Rory Kennedy và những nỗ lực tìm đến cộng đồng Việt Nam của bà qua những dự án như: trình chiếu phim tài liệu này (có phụ đề Việt ngữ do người viết dịch) ở nhiều vùng trên nước Mỹ và hoàn toàn miễn phí, cũng như “Dự án Những Ngày Đầu” nhằm tri ân các làn sóng người Việt tị nạn bằng cách kêu gọi họ ghi âm những câu chuyện của họ và cho lưu trữ trong Thư viện quốc gia Hoa Kỳ (U.S. Library of Congress) cho các thế hệ mai sau – mà lại đồng hóa cuộn phim này với sự phản bội cuối cùng của Kissinger hay Hoa Kỳ. Tuy nhiên vì những lý do riêng tư nào đó, ông Giao Chỉ đã lên án nặng nề cuốn phim Last Days, gọi nó là một phim chết tiệt!

“Theo ý tôi, đây là một phim chết tiệt. Nên gọi là Sự phản bội cuối cùng.”

“Tôi không thích phim này, nhưng tôi biết có những người rất thích và có lý do để thích. Việt cộng.” 

“Phim đã chẳng ra làm sao, tài tử bình luận chính lại là Kissinger đóng vai nhà chính khách nhân đạo, thương yêu Việt Nam hết sức.” (Vũ văn Lộc)

Người ta có thể lên án Bắc Việt một cách chính đáng đã vi phạm trắng trợn hiệp định Ba-lê năm 73 mà họ đã ký kết. Một cách chính đáng người ta cũng nguyền rủa ông Kissinger đã cố tình bán đứng miền Nam qua hiệp định này, vì ngoài những hậu ý ám chỉ chuyện nhân nhượng của Hoa Kỳ trong các giao tế ngoại giao, chấp nhận sự hỏa mù của Lê Đức Thọ trong việc thương lượng, Kissinger đã mặc nhiên cho phép Bắc Việt để lại tại miền Nam hơn 130.000 quân đội chính quy của họ. ̉Người ta cũng có thể một cách chính đáng buộc tội Quốc hội Hoa Kỳ, đã buông rơi miền Nam, cắt đứt mọi mặt viện trợ cho miền Nam trong những ngày tháng cuối cùng của cuộc chiến phòng thủ Sàigòn của ông Thiệu.

Xa hơn nữa nguồn gốc của sự “đã nằm trong thiên thư” này có lẽ đã nảy mầm từ trước năm 1971 khi Nixon và Kissinger đã lót đường cho Trung hoa lục địa giao du với Hoa kỳ (và thế giới bên ngoài) đưa đến chuyện mà người ta có thể  gọi một cách chính đáng là sự phản bội của Hoa Kỳ đối với Việt-Nam Cộng-hòa. Đó là nhân chuyện đàn áp Phật giáo Hoa kỳ đã bật đèn xanh cho các tướng lãnh miền Nam lật đổ (và thủ tiêu hai ông Diệm-Nhu) từ 1 tháng 11, 1963. Tuy rằng là một chế độ gia đình trị, sự lật đổ hai ông Diệm Nhu đã giúp Hoa kỳ đưa quân đội Mỹ ồ ạt vào miền Nam. Từ đó sự tham chiến của Hoa Kỳ là con dao hai lưỡi, một mặt giúp cho Cộng sản miền Bắc lấy cớ tuyên truyền (che đây chính sự mất chính nghĩa làm tay sai cho quan thầy Trung Cộng và Nga xô của mình) ’Hoa kỳ xăm lăng’ và lũng đoạn chính quyền miền Nam, một mặt vừa khiến miền Nam ỉ lại quá đáng vào sức mạnh và sự bền bĩ của Hoa Kỳ.

Nhưng ‘Quốc gia hưng vong thất phu hữu trách’ có lẽ một cách chính đáng hơn người ta nên trách sự tồi dở của ông Thiệu và lãnh đạo miền Nam đã quá tùy thuộc vào đồng-minh-không-bền-chí Hoa Kỳ.

Tôi không bào chữa cho sự sai lầm và toan tính của Hoa Kỳ đã đưa đến những chính sách không có lợi cho miền Nam trong cuộc chiến đó (kể từ đời các tổng thống: Eisenhower, đến Kennedy, đến Johnson, đến Nixon, đến Ford).

Ngoài chuyện địa chính trị và realpolitik (chính trị thực dụng) mà miền Nam phải làm đồng minh của Mỹ –  thay vì Mỹ phải là đồng minh của VN (mới đúng), Vì đây chính là cuộc chiến của VN, có gọi là cuộc chiến ủy thác, chiến tranh lạnh trong điạ bàn quốc tế, chiến tranh Quốc-Cộng, nội chiến, hay CS Bắc Viêt gọi là Chiến Hoa Kỳ, ( ̣chống đế quốc Mỹ và tay sai) v.v.. và v.v.. Có muốn truy từ gốc ngọn cuộc chiến từ tàn dư của cuộc đô hộ của (thực dân) Pháp thì vấn đề cốt lõi mà những người VN trung chính và chân chính nào cũng nên thừa nhận: cuộc chiến vừa qua đã định đoạt vấn đề sống còn và ước vọng của một dân tộc đang đi tìm chỗ đứng và tương lai, lý tưởng và ý chí của  đất nước .

Chính ra Mỹ phải là đồng minh của VN chứ không phải VN phải làm đồng minh của Mỹ. Vì cuộc chiến trước và sau là cuộc chiến của VN, chứ không phải của Mỹ tuy rằng VN sau nền Cộng hòa thứ hai đã để cho Mỹ thao túng cuộc chiến vì chế độ quân lực và lãnh đạo yếu hèn.

Không ai phủ nhận là Mỹ đã bỏ rơi VN, nhưng hơn 30 năm trước khi gót giầy của quân đội Mỹ rầm rộ dẫm xuống Việt Nam (vào tháng 3 năm 65), trong thế tranh tối tranh sáng trước địa chính trị của các cường quốc, chúng ta đã chật vật lao tâm lao lực, cố vươn lên tìm lối thoát trong bối cảnh đô hộ của Pháp-Nhật, nhưng vẫn không tránh khỏi chuyện đổ máu vì những âm mưu đen tối cá nhân mượn chủ nghĩa Cộng sản làm cứu cánh cho tham vọng của mình.  Ngoài đảng Cộng sản ra, không ai có thể nói rằng Hoa Kỳ đã khởi sự của cuộc chiến VN.

Mặc dù nếu có vặn vẹo diễn dịch với những nhân tố quan yếu như geopoliticsrealpolitikCold War giữa Cộng sản Quốc tế thứ 2 , 2 rưỡi, thứ ba, thứ tư và Tư bản hay Thế giới Tự do v.v.. để đổ thừa rằng Mỹ và các thế lực thù địch đã lèo lái và đánh mất chính nghĩa của Cộng hòa cho CS. Thì câu hỏi cuối cùng mà người Việt nên hỏi là:

Có phải nước Việt Nam là của người/dân tộc VN không, hay là nói như ông Thiệu: nếu Mỹ viện trợ VN $300 triệu thì ta đánh theo 3 trăm triệu, nếu cho $700 triệu (Mỹ kim) thì ta đánh theo $700 triệu?

Một chuyện đáng xấu hổ là thay vì chấp nhận trọng trách thua cuộc của miền Nam do những thiếu sót và lỗi lầm đã nêu ra, như đã tin và tùy thuộc vào (người) Mỹ quá đáng. Đến bây giờ không nhận thức được chuyện đó lại đi bêu rêu chuyện thiếu sót của người làm phim Mỹ. Có giỏi thì chính mình tự làm nên cuốn phim của mình hà cớ gì lại bới móc chuyện người ngoại cuộc!

Oải lắm! Kin lỗi quý đọc giả khi phài viện dẫn, lý giải dài dòng như trên.

________________________________________________

(1) Xin xem bài của Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích về Hiệp định Paris 1973

http://danquyenvn.blogspot.sk/2015/01/hinh-nhu-la-hoa-binh-cach-ay-42-nam.html#more

© Nguyễn-Khoa Thái Anh

Sau đây là bản dịch Dự án của bà Kennedy và đội ngũ của bà:

Dự án Câu chuyện Những Ngày Đầu/The First Days Project Story là một sự hợp tác giữa StoryCorps và AMERICAN EXPERIENCE/KINH NGHIỆM HOA KỲ của Đài PBS, nhằm mục đích thu thập, bảo tồn, và ngợi ca những mẫu chuyện của những người tị nạn Việt-Mỹ và các cựu chiến binh Việt Nam. Dự án mong mỏi mời các thành viên trong cộng đồng người Mỹ gốc Việt và các cựu chiến binh Việt Nam có quan hệ mật thiết với cộng đồng người Việt di cư sau chiến tranh; quý vị sẽ được dành cho 40 phút không bị gián đoạn để trò chuyện với một người thân hay bạn bè, nhằm ghi lại kinh nghiệm tị nạn Việt Mỹ qua tiếng nói của những người đã kinh qua giai đoạn này.

VỀ DỰ ÁN CÂU CHUYỆN NHỮNG NGÀY ĐẦU

First Days Story Project/Dự án Câu chuyện Những Ngày Đầu là một phần sáng kiến của bộ phim tài liệu Last Days in Vietnam/Những Ngày Cuối cùng tại Việt Nam, khởi xướng việc tiếp cận và nối vòng tay lớn với cộng đồng Việt. Được sản xuất bởi KINH NGHIỆM HOA KỲ của Đài PBS, Những ngày cuối cùng ở Việt Nam thuật lại bằng hình ảnh những ngày hỗn loạn cuối cùng trong cuộc chiến tranh Việt Nam và nói lên câu chuyện thương tâm về lòng dũng cảm và khả năng sống còn của người dân vượt biên miền Nam, và các nhân viên quân lực Hoa kỳ, trong nhiều trường hợp, đã không tuân lệnh cấp trên để nỗ lực cứu trợ người Việt di tản. Bộ phim soi rọi nhiều tình huống trong những ngày cuối cùng đó. Bốn mươi năm sau, Dự án Câu chuyện Những Ngày Đầu hy vọng sẽ ghi lại những mẫu chuyện của cộng đồng Việt-Mỹ và cựu chiến binh Việt Nam trong những ngày đầu của họ tại Hoa Kỳ sau cuộc chiến. Kết quả nội dung của các mẫu chuyện này sẽ được chia sẻ trên một trang mạng truyền thông đa dạng và sẽ được lưu trữ tại Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ. Đây là những câu chuyện đã tạo nên một phần quan trọng lịch sử quốc gia của chúng ta, và chúng tôi muốn lưu giữ chúng cho các thế hệ mai sau.

CÁCH LÊN LỊCH PHỎNG VẤN

Các mẫu chuyện sẽ được thu thập vào đầu năm 2015 thông qua các quan hệ đối tác ở các thành phố sau đây:

· San Jose, CA

· Westminster, CA

· Houston, TX

· Seattle, WA

· Boston, MA

· Falls Church, VA

Quý vị có thắc mắc về dự án và lịch trình, xin vui lòng liên lạc với cô Vũ Ngọc-Trân tại: tran_vu@wgbh.org

VỀ STORYCORPS

StoryCorps là một tổ chức phi lợi nhuận Hoa kỳ có sứ mệnh cung cấp cho người dân thuộc mọi tầng lớp và đức tin khác nhau cơ hội để ghi âm, chia sẻ và lưu giữ những câu chuyện về cuộc sống của tất cả chúng ta. Kể từ năm 2003, gần một trăm ngàn người thường dân đã ghi âm câu chuyện của họ với StoryCorps. Ngoài việc là một trong những dự án lớn nhất lịch sử truyền khẩu thuộc thể loại này, hàng triệu người nghe StoryCorps phát thanh hàng tuần qua chương trình Buổi Sáng/Morning Edition của NPR.

VỀ KINH NGHIỆM HOA KỲ/AMERICAN EXPERIENCE

Trên hai mươi lăm năm nay, American Experience/Kinh nghiệm Hoa Kỳ là một chương trình truyền hình về lịch sử được xem nhiều nhất trên vô tuyến, và đã mang lại sức sống cho những nhân vật có tên tuổi, chính những câu chuyện sử thi này đã định hình được quá khứ và hiện tại của Hoa Kỳ. (Thái-Anh dịch)

Vũ Ngọc-Trân

Điều phối viên dự án

Những Ngày Cuối cùng ở Việt Nam

Kinh nghiệm Hoa Kỳ

WGBH Boston

tran_vu@wgbh.org

617.300.5963

53 Phản hồi cho “Không Phải Ngày Cuối Cùng của Việt Nam: Last Days in Viet-Nam”

  1. Trần Huy Bách says:

    Tôi không biết tác giả Nguyễn Khoa Thái Anh này là ai. Nhưng một điều chắc chắn ông ta không phải là lính và chưa hề đứng trong hàng ngũ những người chiến đấu giữ miền Nam lúc ấy. Ông chẳng hiểu gì về cuộc chiến ấy cả, nói như con vẹt. Ai cũng biết Đỗ Kiểm là Đại Tá HQ, ông viết là Đại Úy! ( chắc ông thấy viết là Captain!). Chán quá, cũng chỉ là một anh mù rờ voi, mà lúc nào cũng cho mình là một nhà thông thái!
    THB

  2. Nói Toẹt Móng Heo says:

    Trích: “Chính ra Mỹ phải là đồng minh của VN chứ không phải VN phải làm đồng minh của Mỹ.

    Mỹ là “đồng minh” của VNCH hay ngược lại?

    Sự thật đau lòng nhưng phải nói toạc móng lợn ra rằng; cho đến cuối tháng 10/1963 thì Mỹ là “đồng Minh” của VNCH. Nhưng từ khi Mỹ giật giây, kích động cho đám ngu tướng sát hại vị lãnh đạo quốc gia là Tổng Thống Diệm, thì từ ngày ấy các “phản tướng” trở thành những tên tay sai, VNCH cũng từ đấy trở thành “đồng minh” của Mỹ.

    Do vậy, tôi đồng ý rằng; “Vì cuộc chiến trước và sau là cuộc chiến của VN, chứ không phải của Mỹ tuy rằng VN sau nền Cộng hòa thứ hai đã để cho Mỹ thao túng cuộc chiến vì chế độ quân lực và lãnh đạo yếu hèn“!

    Tuy rằng, những tướng tá ngu muội ở miền Nam làm tay sai cho Mỹ, nhưng họ không bán nước như đám lãnh đạo CSVN.

    Nhân dân VN bị CSVN lạm dụng và lừa dối, hãy nghe Lê Duẩn tuyên bố: “Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc, cho các nước xã hội chủ nghĩa và cả nhân loại”. Phạm Văn Đồng thì dâng biển đảo Hoàng Sa, Trường Sa cho TQ qua công hàm 1958.

    Buồn quá mẹ VN ơi!
    Phiá Nam có những đứa con phản bội
    Còn miền Bắc thì cả một lũ bán nước hại dân
    Gia tài của mẹ là nước Việt buồn!

  3. noileo says:

    Trích: “Có giỏi thì chính mình tự làm nên cuốn phim của mình hà cớ gì lại bới móc chuyện người ngoại cuộc!”

    NKTA nhắc người ta nhớ đến mấy tên công an cộng sản Hồ chí Minh & công an cộng sản Nguyễn Phú Trọng & Nguyễn thế Thứ & Phạm quang Nghị & Lê Thanh Hải khi chúng thách thức người biểu tình chống quân Trung cộng xâm lược: “có giỏi thì vào bộ đội ra HS & TS mà đánh, đừng ở đây gây rối trật tự công cộng”

    Thiển nghĩ, bất cứ ai, khán giả & thính giả & độc giả nào… cũng đều có thể, cũng đều có quyền có những cảm nhận, nhận định , phê phán, khen chê một quyển sách, một bài thơ, một bức tranh, một cuốn phim, một công trình kiến trúc, một pho tượng, một nhà độc tài, một “chínhkhasc”, một “trí thức”… mà không cần phải là “ca sĩ & nhạc sĩ & văn sĩ & thi sĩ & đạo diễn & tài tử, chính khách…, không cần phải đã từng sáng tác “thơ ca hò vè”, đã từng viết “bài chủ”…

    (dĩ nhiên những “khen/chê” ấy là đúng hay sai, lại là chuyện khác, lại sẽ đuọc những nguời khác, không cần thiết phải là “ca sĩ & nhạc sĩ & văn sĩ & thi sĩ & đạo diễn & tài tử… tặng cho những khen/chê khác…)

  4. Di Linh says:

    Tôi lớn lên sau cuộc chiến. Đọc lại tôi thấy các anh lính Cộng Hoà giữ được miền Nam đến 20 năm thì cũng đáng kể là tài. Lần đọc cuốn sách của tướng Viên tôi mới biết miền Nam thực sự đã hết đường “binh” từ trận Phước Long mấy năm trước 75. Tướng Đống trong buổi họp xin TTM yểm trợ một sư đoàn để lấy lại Phước Long nhưng miền Nam không còn sư đoàn nào… rảnh, cuối cùng đành đưa Liên Đoàn 81 vào – biệt kích mà phải đánh trận địa chiến, nhưng cũng chỉ như muối bỏ biển… Nên nhớ VNCH có bốn quân đoàn với mỗi quân đoàn chỉ có hai cho đến ba sư đoàn bộ binh chủ lực. Ở đây có cụ Dâm Tiên từng đóng lon đội tại trận Xuân Lộc, thử hỏi cụ ấy xem hồi 75 lúc thằng Hoàng Cầm kéo quân đánh Sư Đoàn 18 của cụ ấy thì nó có bao nhiêu quân, có phải là nó ở cấp quân đoàn không. Thế thì cách gì cụ ấy thắng được nó khi lính cụ ấy đã ít lại thiếu súng đạn. Cho nên việc thằng này phải bỏ đánh tuyến Xuân Lộc cũng đáng kể là một kỳ tích của anh em cụ Dâm. (Xin lỗi tôi phải gọi Hoàng Cầm là thằng vì thằng này vừa hèn vừa tiểu nhân, một rưỡi nó mới mò vào Dinh Độc Lập, sau lại phét lác khoe bắt được tướng Đảo tại mặt trận…) Tôi cũng thích anh em ông Kennedy ở một số điều, nhưng bây giờ đọc lại thấy anh em ông chủ trương trung lập Lào và nói chuyện với Hồ Chí Mén thì hỡi ơi, sớm muộn thì cũng thế thôi.)

  5. Sơn (ở Đức Quốc) says:

    Thân tặng bạn Lại Mạnh Cường (Hà-Lan) các bạn Giao Điểm của Danchimviet, cùng tất cả những người con ngoan của các thầy như Thích Trí Quang, Thích Nhất Hạnh …

    Thân mời quý bạn xem:

    http://vaolblog.blogspot.com/2014/12/chan-dung-ai-uc-thich-chuc-minh-hoang.html

    Cảm ơn và chúc các bạn may mắn “bơm” nhieu nhé!

    • TaTon says:

      Chúngsanh dâm ái, chuyện thường!
      Thầy phạm dâmgiới thì thầy vương nghiệp tình!
      Nghiệptình, áidục lênhđênh,
      Trầmluân sanhtử, dậpdềnh nổi trôi…
      Ấudâm, lắpđít, mới thật tồi!
      Cưỡngbức, xâmhại, bao đời em thơ!?
      Cuộcđời em tuổi măng tơ
      Bị con kwỷ dục nó xóa mờ tươnglai!!!
      Nhiều khi oannghiệt kéo dài
      Giết người bịt miệng, mới bi ai hãihùng!!!

      Tạisao chuá chọn lủ khùng?!,
      (Phải chăng tại chuá cũng cả một thùng dâm ô?!?)

      Ps. Video giả, cắt ghép nhằm bôi nhọ ông thầy… nghe nó bà H đang phát đơn kiện! Người đànông thật là bồ cũ của bà H còn ông thày bị dán cái mặt vào! Thật oannghiệt!!!

  6. Minh Đức says:

    Trich: “Theo ý tôi, đây là một phim chết tiệt. Nên gọi là Sự phản bội cuối cùng.”

    Theo ông Giao Chỉ thì đây chỉ là cuốn phim chiếu lại những cảnh bại trận của Việt Nam Cộng Hòa. Vì thế ông ta không thích.

  7. Minh Đức says:

    Trích: “Vì cuộc chiến trước và sau là cuộc chiến của VN, chứ không phải của Mỹ tuy rằng VN sau nền Cộng hòa thứ hai đã để cho Mỹ thao túng cuộc chiến vì chế độ quân lực và lãnh đạo yếu hèn.”

    Chi tiết trên và nhiều chi tiết khác như lên án việc Mỹ đổ quân vào miền Nam … có thật sự là yếu tố quyết định làm VNCH thất thủ?

    Yếu tố chính làm cho phe CS thắng là vì phe CS có đủ tiền bạc khí giới để đánh nhau lâu dài trong khi Mỹ thì muốn chấm dứt sớm.

    Tại Đại Hàn, Mỹ cũng đổ quân vào và chính quyền Nam Hàn lúc đó cũng chẳng ai biết là có chủ động trong cuộc chiến hơn chính quyền miền Nam hay không. Nhưng cuối cùng phe CS chịu ký hiệp định ngừng chiến tại Bàn Môn Điếm là vì Liên Xô và Trung Quốc đã kiệt quệ. Mỹ vẫn cứ đóng quân ở Nam Hàn mà CS vẫn chấp nhận ngưng chiến vì CS không đủ sức kéo dài chiến tranh nữa. Lúc đó, Liên Xô chỉ mới thoát ra Thế Chiến Hai có 5, 6 năm, Trung Cộng thì mới chiếm được chính quyền có 2, 3 năm. Cuộc chiến tại Đại Hàn với cường độ cao phải tiêu nhiều người và của nên phe CS không thể tiếp tục lâu dài được.

    Còn tại miền Nam thì lúc đó Liên Xô và Trung Quốc đã khá về kinh tế lại thêm dùng cách đánh tiêu hao, kéo dài khiến cho Mỹ phải rút ra trước. Giả sử vào thập niên 1970, giá dầu hỏa không lên mà đi xuống thì Liên Xô cũng phải bảo miền Bắc phải chấp nhận ký hòa ước, rút quân về miền Bắc như Bắc Hàn đã làm. Liên Xô hết tiền thì phải ngưng chiến và dù Mỹ cứ đóng ở miền Nam thì CS vẫn cứ ngưng chiến. Dù chính quyền miền Nam có độc lập và đánh nhau giỏi đến mấy mà Liên Xô và Trung Cộng vẫn cứ đổ tiền và khí giới vào cuộc chiến thì không thể nào chấm dứt chiến tranh được.

  8. ÔgChốngVc says:

    “Không phải Kissinger cho 130,000 quân BV ở lại mà nó không chịu rút về Bắc, Nixon nói (trong No More Vietnams) chúng nhất định không chịu rút về Bắc , chịu không chịu thì thôi, làm gì nó?”

    Kissinger/Nixon đã cùng nhau lén lút vuốt dái mấy thằng CS Tàu, bố đẻ của CS Bắc Việt đó à!?

    ÔgChốngVc

  9. vu trung says:

    :) Những chân lý vô cùng … vô lý, chẳng hạn như:

    - Làm phim dở người ta chê thì bảo hãy tự làm phim hay để mà xem.
    - Viết sách/báo/bài viết dở, người chê thì hét lên hãy tự viết bài hay để đọc
    - Nấu ăn dở người ta chê thì bảo hãy tự nấu đi để ăn cho ngon

    Ước gì csvn cũng bảo: nếu chê chúng tớ dở thì hãy tự nhảy vào để làm cho hay đi

    Hình như chỉ có csvn là thiếu cái tính hờn mát, hẹp hòi như thế. Có lẽ cái gian tham của họ đã lấp đầy nên không có chỗ cho những cái tính đàn bà (xin lỗi đàn bà rộng lượng) như thế chăng?

  10. DâM TiêN says:

    Dâm TiêN, trung sĩ quèn quèn, xin thưa chắc như bắp sống, mà không rang:

    Số phận Việt Nam Cộng Hòa – tội lắm, làm Vùng trắc nghiệm, the Testing ground –
    tùy thuộc vào hành động và phản ứng của đôi bên Hoa Kỳ và Trung Cooc:

    Trường hợp một: Hoa Kỳ kéo theo bốn đồng minh ào ạt đổ quân vô Miền Nam VN,
    1965, là một cuộc tập trung quân, sẵn sàng một cuộc chiến quốc tế như Triều Tiên
    hướng vào Trung Cộng .Nếu TC chấp nhận đối chiến, trong trường hợp này, quân
    Đồng Minh sẽ bắc tiến, vượt qua biên giới Trung Việt, chiếm lấy một vùng lãnh thổ
    Trung Cộng, và dừng lại ( Liên Sô rất hài lòng. Nhưng nếu HK làm quá mức, có hại
    đến an ninh Liên sô, thì LS lại có phản ứng chống lại HK.). Nếu chiến tranh hạn chế
    xảy ra như thế, thì Miền Bắc sẽ được giải phóng, và Việt Nam là nước Cộng Hòa,

    Trường hợp hai, Trung Cộng làm hòa, thì Hoa Kỳ sẽ dàn dựng một thắng trận cho
    Bắc Việt theo Nga, do đó chia rẽ hai phe Nga Hoa ra mà đánh, như thực tế đã thấy.
    Việt Nam Cộng Hòa phải chịu hy sinh, lui ra hậu trường, nhường sân khấu cho CS
    Bắc Việt, cũng như đã thấy. (VNCH có được phục hồi hay chăng, đó là Danh dự của
    Hoa Kỳ). — Biết rõ thế chiến quốc như thế, ta chẳng nên chẻ cái tăm ra làm cái gì,
    kính thưa tác giả và quý hữu. (Trung sĩ Dâm đã kỳ, con dấu Chim Phượng Hoàng)

    • Nguyễn Trọng Dân says:

      Agree- Danh dự là sinh tồn của nước MỸ ! Cho nên hãy an tâm
      Time will come .

      ( Henry Kissinger .. sẽ trả giá nay mai , VERY SOON !)

      Ki’nh

Phản hồi