9 năm bên cạnh Tổng thống Ngô Đình Diệm [2]
[Phần 1]
Vụ công điện số 9159 cấm treo cờ Phật giáo và sự trở mặt của các sĩ quan thân tín.
Trong quyển hồi ký “Dòng họ Ngô Đình”, xuất bản năm 2003 taị Californie, tác giả Nguyễn Văn Minh, nguyên bí thơ (1956-1963) của cố Ngô Đình Cẩn, ghi nơi trang 164-165: Lối 10 hôm sau vụ nổ lựu đạn giết 7 em bé và một số Phật tử tại đài phát thanh Huế nhân ngày lễ Phật Đản 1963, Dương Văn Hiếu, trưởng đoàn Công tác đặc biệt Miền Trung, vào Dinh để phúc trình với TT Diệm, ông Diệm nói với Hiếu như sau về vụ treo cờ Phật giáo: “Sau đó tôi mới bảo Quách Tòng Đức gởi công văn nhắc các Tỉnh, chứ tôi có cấm chi mô! Không hiểu taị răng hắn để tới ngày chót mới gởi công điện. Khi xảy chuyện, tôi kêu vô hỏi, hắn xin thôi. Công chuyện đổ bể như ri rồi, xin thôi thì ích chi?”. Nguyễn Văn Minh còn viết thêm ý kiến của Tôn Thất Đính: “Ông Đức đã gởi đi một công điện mà không tham khảo ý kiến ông Cố vấn Ngô Đình Nhu… Lẽ nào lại tự tiện đánh đi một công điện như vậy nếu không được tình báo Mỹ tổ chức?”
Được hỏi nghĩ sao về những đoạn trích dẫn trên đây, ông QTĐ tỏ vẻ rất ngạc nhiên. Ông xác quyết không bao giờ nhận được lệnh của ông Diệm thảo và gởi cho các Tỉnh trưởng công điện số 9159 đề ngày 6.5.1963 do ông Nguyễn Văn Minh nêu ra, với nội dung “chỉ thị cho các cơ quan phụng tự (nhà thờ, chùa chiền… chỉ treo cờ Quốc gia mà thôi” (nguyên văn). Trước đó, việc treo cờ được giải quyết bởi hai nghị định số 78 và 189 của Bộ Nội vụ (năm 1957 và 1958) và một sắc lệnh đầu năm 1962 của Phủ Tổng thống nhắc nhở quần chúng tôn trọng Quốc kỳ.
Ông Đức kể lại: Tháng tư 1963, sau một cuộc thị sát vào mùa lễ Phục Sinh, TT Diệm có chỉ thị cho ông Đức gởi thông tư lưu ý các giới chức Tỉnh về thể thức treo quốc kỳ VN trong các ngày lễ đạo, không phân biệt tôn giáo nào: treo trước cổng giáo đường, ở chính giữa và phiá trên, đúng kích thước, còn các cờ đạo và cờ đoàn thể thì ở vị trí thấp hơn. Thông tư nhấn mạnh: phiá trong các giáo đường, chùa chiền và những nơi thờ phượng, giáo kỳ được treo tự do, không giới hạn. Lệnh của Tổng thống được phổ biến ngay ngày hôm sau.
Theo ông QTĐ, đầu tháng 5.1963, tại Huế, xảy ra một điều đáng tiếc: Để lấy điểm trong lễ Ngân khánh 25 năm thụ phong giám mục của Đức cha Ngô Đình Thục, nhà chức trách hành chánh địa phương đã cho treo cờ Vatican “loạn xạ”, bất chấp thông tư nói trên. Một tuần sau – ngày 8.5.1983 - vào lễ Phật Đản, các Phật tử cũng tự tiện treo cờ Phật giáo như thế. Hôm sau, Tỉnh trưởng Thừa Thiên trở lại thi hành thể thức treo cờ trong thông tư của Phủ Tổng thống nên gây sự phẫn nộ của Phật tử vì họ cho rằng đây là một biện pháp bất công, kỳ thị. Tại Miền Nam, theo ông Đức, với 4.800 chùa Phật, không có xảy ra vấn đề như ở Huế.
Ông Đức còn nhớ rất rành mạch rằng, sau thảm kịch tại Đài Phát thanh Huế chiều ngày 8.5.1963, Tổng thống có đòi ông vào Văn phòng để đưa cho ông xem, với một gương mặt “mệt nhọc, buồn rầu và chán nản”, công điện ngày 6.5.1963 nói trên và hỏi “một cách sơ sài” ai đã gởi đi chỉ thị ấy. Ông Đức trả lời không biết vì trong sổ công văn gởi đi không có dấu vết của tài liệu vưà kể. Theo ông QTĐ, trong hoàn cảnh chánh trị dồn dập sôi động lúc đó (Thích Quảng Đức tự thiêu, Quách Thị Trang bị bắn chết tại chợ Bến Thành, lựu đạn nổ ở Huế, tướng lãnh lập kiến nghị đòi cải tổ, việc kiểm soát chùa v.v…), TT Diệm rối trí, không còn màng đến việc ra lệnh điều tra. Ông có lẽ dư biết việc giả tạo công điện 9159 là một đòn phép mới của phe chống Chánh phủ ( Phật giáo Ấn quang? Tình báo Hoa kỳ? Đảng phái đối lập? hay Cộng sản?). Vậy việc ông Đức xin từ chức là một điều thất thiệt. Nghi “tình báo Mỹ tổ chức”ông Đức – như tướng Đính ỡm ờ xuyên tạc – là một chuyện tưởng tượng rẻ tiền.
Để tỏ thiện chí dàn xếp, Chánh phủ đồng ý cho hai Ủy ban Liên bộ và Liên phái công bố một thông cáo chung ngày 16.6.1963 xác định những điểm đã thỏa hiệp về việc treo cờ Phật giáo và Quốc kỳ, hưá xét lại Dụ số 10 trước Quốc hội vào cuối 1963, tạm ngưng áp dụng Nghị định của Phủ Tổng thống số 116/TTP/TTK ngày 23.9.1960 ấn định thể thức mua bán bất động sản và đất đai của Phật giáo, hứa sẽ trừng trị nhân viên có lỗi và bồi thường các gia đình nạn nhân. Tuy nhiên, mọi việc đã quá trễ đối với Hoa kỳ và Bắc Việt.
Trong hồi ký “Ngô Đình Diệm, Nỗ lực hoà bình dang dở”, (nxb Xuân Thu Californie 1989), nơi trang 189-190, Nguyễn Văn Châu, nguyên giám đốc Nha Chiến tranh Tâm lý Quân đội VNCH, trở thành đối lập với Chánh phủ trước cuộc binh biến 1.11.1963, có ghi lại: Sau 1975, một cựu đại uý Hoa kỳ tên James Scott, liên hệ với CIA và từng làm cố vấn cho Tiểu đoàn 1/3 thuộc Sư đoàn 1 Bộ binh, thú nhận trong một lá thơ đăng trên một tuần báo Mỹ rằng chính y đã gài một trái bom nổ chậm chiều 8.5.1963 taị Huế. Sự kiện này cũng được Trần Kim Tuyến, dưới bút hiệu Lương khải Minh, ghi lại trong hồi ký Làm thế nào giết một Tổng thống? (tập 2, trang 366-370). Theo trung tướng Trần Thiện Khiêm xác nhận với Marguerite Higgins, tác giả quyển sách Vietnam, Our nightmare, chương VI, Nguyễn Khánh (nắm quyền sau cuộc chỉnh lý 30.1.1964) đã hy sinh thiếu tá Đặng Sỹ, phó Tỉnh trưởng Nội an Thừa Thiên, để Thích Trí Quang trì hoãn chống đối. Toà án Mặt trận xữ Sỹ khổ sai chung thân.
Tình trạng giữa TT Diệm và Mỹ căng thẳng kể từ muà hè 1962, nổ lớn taị Huế với vụ Phật giáo 8.5.1963. Qua tháng 7, tin đồn đảo chánh lan rộng. Ngày 21.8.1963, đại sứ Lodge trình ủy nhiệm thơ và bắt đầu móc nối với tướng lãnh. Sau ngày Lực Lượng Đặc Biệt của đại tá Lê Quang Tung lục soát chùa chiền, các tướng tin cẩn của TT Diệm đều đổi lòng, theo phe phản loạn, trừ ông Cao Văn Viên trước sau như một. Ông Đức cảm động khi được biết đại tướng Viên (hiện ở Hoa Thịnh Đốn) đã xác nhận với người viết rằng sau ngày 30.1.1964 Nguyễn Khánh chỉnh lý ê-kíp Dương Văn Minh, Nguyễn văn Nhung, kẻ giết hai ông Diệm-Nhu, – từ đại úy thăng thiếu tá – bị An ninh Quân đội bắt vào giao cho Lực lượng Nhảy Dù của Tư lệnh Cao Văn Viên canh giữ. Nhung “đã tự treo cổ bằng một sợi giây giày trong khám đường”, theo lời tướng Viên.
Được hỏi: trong các tướng thường vô ra Dinh Độc lập, ai là người được sủng ái nhứt, ông QTĐ đáp không do dự: “Tôn Thất Đính và Trần Thiện Khiêm, mà Tổng thống xem như người nhà!” Điều này không ngăn Đính và Khiêm đóng vai trò chính yếu trong cuộc đảo chánh 1.11.1963, hệ trọng hơn cả Dương Văn Minh được chọn làm bình phong. Chính Trần Văn Đôn, với tư cách người móc nối, đã tiết lộ trong hồi ký “Việt Nam Nhân Chứng”, rằng Đôn có dò xét tâm ý của Đính và đến gặp Khiêm bốn lần, lần đầu vào tháng 9.1963, và Khiêm có cho Đôn biết “ông ta cũng có một kế hoạch riêng do Mỹ chủ trương”. Đôn viết (nguyên văn): “Tôi khuyên ông ta không nên bàn với Mỹ một việc quan trọng như vậy, nên bỏ kế hoạch ấy đi!”(trang 193). Trong những biến cố quân sự liên tiếp làm hỗn loạn Miền Nam từ 1.11.1963 cho đến ngày Tổng thống Thiệu cầm quyền, tướng Trần Thiện Khiêm đứng sau màn giựt giây chiếu theo lời xác nhận của một số nhân chứng hàng đầu khả tin. Tới nay, ông Khiêm không đính chánh mà cũng không tiết lộ gì cả. Liệu tướng Khiêm sẽ ra đi như tướng Thiệu, mang xuống tuyền đài những bí ẩn đau thương của Đệ nhị Cộng hoà Miền Nam ?
Theo QTĐ, Dương Văn Minh không sâu sắc về chánh trị tuy thời cuộc đưa lên ghế Quốc trưởng hai lần: sau 1.11.1963 (nhờ Mỹ giúp) và tháng tư 1975 (với sự đồng ý của Bắc Việt). Lần đầu, Minh tại chức ba tháng; lần sau, được 40 giờ, rồi đầu hàng địch vô điều kiện. Với tư cách Bộ trưởng Nội vụ, tác giả bài này được chỉ thị đích thân điều tra mật về trường hợp tẩu tán kho vàng Bảy Viễn chứa trong một thùng kẽm lớn, theo phúc trình của đại tá Nguyễn Văn Y, Tỉnh trưởng Chợ lớn, phụ tá hành quân cho ông Minh trong cuộc tảo thanh Rừng Sát. Người viết có mời tướng Minh đến giải thích. Vì lý do chánh trị, hồ sơ tạm xếp. Bộ Tư lệnh Hành Quân bị giải tán, tướng Minh được cử làm Cố vấn Quân sự Phủ Tổng thống, một chức vụ tượng trưng. Từ đó, ông cảm thấy không yên tâm với “chiếc gươm Damoclès treo trên đầu”, ông hận chế độ – đặc biệt cố vấn Nhu - vô ơn sau khi ông đã chống Nguyễn Văn Hinh, ủng hộ Thủ tướng Diệm, giúp dẹp Bình Xuyên và bắt nạp Ba Cụt. Một lý do khác gây nghi ngờ đối với tướng Minh là cơ quan tình báo quốc gia bắt đủ bằng chứng về mối liên hệ thầm lén giữa ông Minh và người em CS là thiếu tá Dương Văn Nhựt, bí danh Mười Ty. Một người em khác của tướng Minh là Trung tá QĐVNCH Dương Văn Sơn cũng đã chứa chấp vợ chồng Nhựt và đóng vai trò liên lạc ở trong và ngoài xứ. Cục trưởng Trung ương Tình báo và Tổng giám đốc Cảnh sát Công an Nguyễn Văn Y, hiện ở Virginia, đã xác nhận với người viết có đích thân trình hồ sơ Dương Văn Minh cho TT Diệm xem. Tổng thống liền ra lệnh hủy bỏ hồ sơ nầy “trước mắt ông” vì không muốn cho Hoa kỳ biết, “xấu hổ.” (sic).
Hoa kỳ và Cabot Lodge đã khai thác mối thù riêng của tướng Minh đối với cá nhân hai ông Diệm, Nhu để lật đổ Đệ nhứt Cộng hoà và thay ngựa giữa giòng. Hoa kỳ cũng dư biết Minh có liên hệ với Bắc Việt nên áp lực Trần Văn Hương trao quyền gấp lại cho D V Minh – trái với Hiến pháp – hầu tạo lý do cho Mỹ chuồn sớm khỏi VN. Nguyên đại tá Nguyễn Linh Chiêu, hiện ở Huntington Beach, Californie, kể lại với tác giả bài này: Năm 1983, ông có gặp tướng Minh tại Paris, hỏi vì sao thủ tướng Vũ Văn Mẫu cuối tháng 4.1975 lại hấp tấp ra thông cáo buộc quân Mỹ phải rút trong vòng 24 giờ? Tướng Minh đáp – trước mặt nhân chứng Trần Văn Đôn – đã làm “theo lời yêu cầu của đại sứ Mỹ Graham Martin.” Các sự kiện trên đây cho thấy tướng Dương Văn Minh chỉ là một con rối trong tay Hoa kỳ, Pháp và Bắc Việt. Minh đã giúp Hoa kỳ tràn vào VN bằng cách tuân lệnh đảo chánh ông Diệm. Mười hai năm sau, cũng chính Minh giúp Quân đội Mỹ tháo chạy. Nguyên TT Trần Văn Hương đã thẳng thắn phát biểu: “Minh không phải là con người thích hợp với cảnh dầu sôi lửa bỏng của Đất nước!”
Năm 1988, đại tướng Minh được Hoa kỳ cho phép rời Paris qua Pasadena, Californie, sống với người con gái. Phải chăng đây là một cách trả ơn? Ông Minh quá vãng ngày 6.8.2001, thọ 86 tuổi. Trước đó, Võ Văn Kiệt cũng có đến thăm ông taị Pháp, theo Lý Quý Chung tiết lộ trong quyển “Hồi ký Không Tên” vưà xuất bản taị Saigon. Với vài người thân tín, tướng Minh nói ông không tiếc hối đã đóng vai trò của một Pétain Việt Nam!
Nguyễn Khánh là một sĩ quan thân tín có công “cứu Chúa” trong vụ binh biến 11.11.1960 khi giữ chức Tham mưu trưởng Bộ Tổng tham mưu. Ông nuôi cao vọng thay thế Tổng tham mưu trưởng Lê Văn Tỵ. Sau khi thăng Thiếu tướng tạm thời taị mặt trận, ông được đưa lên Cao nguyên hẻo lánh để trấn Quân khu 2 và Vùng 2 chiến thuật. Ông Khánh sanh bất mãn, vì thế tuyên bố trên đài phát thanh lúc bốn giờ sáng ngày 2.11.1963 ủng hộ phe đảo chánh. Theo tướng Khánh kể lại với người viết: đêm 1.11.1963, ông Diệm và ông Nhu có điện thoại từ Chợ Lớn lên Pleiku cố thuyết phục ông Khánh cầm quân về Sàigòn giải cứu nhưng ông Khánh trả lời “Quá trễ và ở quá xa.”. Câu hỏi đặt ra: Nếu tướng Khánh nhận về “cứu giá”, nếu TT Diệm trì hưỡn xuất hiện sáng 2.11.1963 và nếu sự cứu giá thành công, thì thời cuộc liệu thay đổi ra sao? Mọi việc tùy thuộc biết bao nhiêu chữ “nếu”! Sau hết, với người viết, tướng Khánh còn than phiền TT Diệm không giữ lời hứa (viết tay) trao quyền lại cho Quân đội sau cuộc binh biến 11.11.1960. Đây là một sự kiện khác mà tướng Khánh hẳn không quên. Trong một buổi lễ long trọng truy điệu cố TT Ngô Đình Diệm taị thủ phủ Little Sàigòn, Californie, tướng Nguyễn Khánh không tiếc lời ca tụng TT Diệm như một anh hùng dân tộc mà ông ngưỡng mộ và quyết chí noi gương. TT Diệm nể trọng đại tướng Lê Văn Tỵ, người duy nhứt trong Quân đội được kêu bằng Ngài. Phiá dân sự, cách xưng hô này chỉ áp dụng đối với Phó TT Nguyễn Ngọc Thơ và Bộ trưởng Ngoại giao Vũ Văn Mẫu, nhân vật cạo đầu năm 1963 để phản đối trong vụ Phật giáo.
Tướng nào giỏi đóng tuồng và chuyên “trở cờ”? Tuy không thân cận với giới tướng lãnh, ông Đức có thể trả lời theo một nhận định chung: Trần Văn Đôn (em út của Tây con Nguyễn Văn Hinh và là người từng công khai đốt lon sĩ quan Pháp để tỏ lòng trung thành với TT Diệm) và Tôn Thất Đính (con cưng của chế độ trở giáo đâm sau lưng chế độ. Một Brutus hay một Juda? ). Ai thâm độc nhứt? Đỗ Mậu. Ông Mậu – một cột trụ Cần Lao – thú nhận đã mọp lạy trước ông Đính (cũng là Cần lao gộc) để van xin Đính theo quân nổi loạn. “Đại tá muôn năm” Đỗ Mậu hận vì TT Diệm cho rằng ông không đủ văn hoá để tiến cao hơn. Người viết có dịp hỏi nguyên Thủ tướng Nguyễn Khánh nghĩ sao khi chọn Mậu lãnh đạo Bộ Văn hoá không thích hợp chút nào với trình độ của y thì tướng Khánh nheo mắt cười, trả lời: Mậu tự ti mặc cảm nhưng đầy cao vọng và được một số Phật tử ủng hộ lúc đó. Việc bổ nhiệm này khuyến khích Mậu cộng tác sốt sắng và đồng thời biến Mậu thành trò cười của quần chúng! Đây là một “đòn chánh trị” quen thuộc của Nguyễn Khánh, kịch sĩ từng đả đảo Hiến chương Vũng Tàu do chính ông cho thảo ra. Một đòn khác của tướng Khánh: móc nối với Huỳnh Tấn Phát, lãnh tụ Mặt trận Giải phóng Miền Nam, với chủ đích – theo lời tuyên bố của Khánh – kéo Phát về phiá Quốc gia. Điều này bị Nguyễn Thị Bình phủ nhận hoàn toàn trong hồi ký Chung Một Bóng Cờ, (nxb Chính trị Quốc gia, Hànội 1993). Chẳng những thế, trang 453-454 của hồi ký còn tiết lộ Nguyễn Khánh đã vận động Hoa kỳ cúp viện trợ và bỏ rơi TT Thiệu, Khánh công khai đi đêm với Mặt trận trong giai đoạn chót của Hiệp định Paris.
“TT Diệm có thích được nịnh hót hay không?” Ý kiến của Ông Đức: Tại Bắc Việt, Cộng sản đã thần tượng hoá Hồ Chí Minh. Trong Nam, cũng có khuynh hướng ấy đối với ông Diệm, dưới nhiều hình thức, đặc biệt trong Phong trào Cách mạng Quốc gia với số đoàn viên tăng từ 10,000 năm 1955 lên đến 2 triệu năm 1963, tổ chức đến tận xã, phường. Bộ trưởng Thông tin Trần Chánh Thành bỏ hàng ngũ kháng chiến về cộng tác với ông Diệm từ lúc đầu như Trần Hữu Phương, Trần Lê Quang… Ông có công xây dựng Phong trào CMQG, tổ chức Chiến dịch tố cộng và đề xướng “Suy tôn Ngô Tổng thống”. Bất thuận với Trần Kim Tuyến, Thành rời Nội các cuối năm 1959. Ba bộ trưởng khác ra đi cùng một lúc vì, với ông Thành, lập hồ sơ truy tố một số cán bộ Cần lao dân sự và quân sự lộng quyền: Trần Trung Dung (Quốc phòng), Nguyễn Văn Sĩ (Tư pháp) và người viết (Nội vụ). Bộ Thông tin bị đổi thành Nha Tổng Giám đốc Thông tin do bác sĩ (Cần lao) Trần Văn Thọ phụ trách. Ngày 30.4.1975, ông Thành (Nghị sĩ và Ngoại trưởng thời Nguyễn Văn Thiệu) tự tử bằng thuốc độc tại nhà để tránh sa vào tay CS còn bs Tuyến thì được nhà báo điệp viên Việt cộng nằm vùng Phạm Xuân Ẩn lấy xe chở đến một địa điểm dùng trực thăng Mỹ thoát khỏi VN. Tuyến định cư tại Anh quốc nhờ bà Tuyến làm việc cho Tòa Đại sứ Anh ở Sàigon. Tuyến làm chủ một nhà trọ bed and breakfast gần Cambridge và qua đời cách đây vài năm, sau khi phát hành với Cao Vĩ Hoàng quyển hồi ký “Làm thế nào giết một Tổng thống?”
Theo ông QTD, TT Diệm cởi mở, bình dân trong những năm đầu chấp chánh nhưng về sau, trở nên khó tánh và khép kín hơn. Ảnh hưởng của quyền lực? hoàn cảnh ? giới cận thần a dua? Qua ba giai đọan Quốc Hội Lập Hiến, Quốc Hội Lập Pháp kỳ 1 và Quốc Hội Lập Pháp kỳ 2, nền Đệ nhứt Cộng hoà đi lần vào bế tắc. Trong gia đình, ông bà Trần Văn Chương, nhạc gia của ông Nhu, – chồng, đại sứ VNCH taị Hoa Thịnh Đốn và vợ, quan sát viên tại Liên Hiệp Quốc – lợi dụng chức vụ để phản tuyên truyền và đả kích kịch liệt Chánh phủ Sàigòn và luôn cả vợ chồng ông Nhu. Bác sĩ Trần Văn Đỗ, chú vợ của cố vấn Nhu, và luật sư Nguyễn Hữu Châu, nguyên bộ trưởng Phủ Tổng thống kiêm Bộ trưởng Nội vụ, anh em bạn cột chèo với ông Nhu, cũng không còn ủng hộ ông Diệm. Ls Châu đào thoát qua Paris ngang con đường Nam Vang nhờ sự giúp đỡ của bạn học cũ là Quốc vương Sihanouk. Ông đã trình luận án Thạc sĩ luật chỉ trích chương trình viện trợ Hoa kỳ ở VN và sau đó, dạy luật taị Đại học Paris. Ls Châu như khoa học gia Bửu Hội, năm 1972, cũng ngả theo ủng hộ Mặt trận Giải phóng Miền Nam. Trần Văn Đôn- người chủ trương đảo chánh – nhìn nhận một cách thương hại: Tội nghiệp, mọi người đều bỏ TT Diệm!
Ông QTĐ tỏ ra dè dặt đối với dư luận cho rằng TT Diệm kỳ thị Phật giáo. Ông cho biết TT Diệm thường tiếp xúc với các vị tu hành thuộc mọi tôn giáo, đặc biệt Phật giáo; không bỏ qua dịp viếng thăm một số chùa như chùa Sư Nữ của Sư bà Diệu Huệ (mẹ giáo sư Bữu Hội) ở Phú Lâm, chùa Diệu Đế ở Huế v.v… Chính ông Đức đã nhiều lần chuyển đến tay ông Mai Thọ Truyền, chủ chùa Xá lợi và Hội trưởng Hội Phật giáo Nam Việt những số tiền giúp đỡ. Một chuyện mà ít người biết là TT Diệm đã hiến cho Đức Đạt Lai Lạt Ma trọn số tiền 15.000 mỹ kim, giải thưởng Leadership Magsaysay tặng cho Tổng thống. Vì lý do chánh trị, quyết định này không được công bố.
Ủy ban tôn giáo Liên Hiệp Quốc được Chánh phủ Saigòn mời đến điều tra năm 1963 cũng đã phúc trình - sau ngày hai ông Diệm, Nhu bị giết – rằng Đệ nhứt Cộng hoà không kỳ thị tôn giáo. Mặt khác, TT Diệm đã từng thẳng thắn bác bỏ những yêu sách quá đáng của các giáo phẩm di cư, bởi thế nên có sự bất mãn ngấm ngầm. Hai Giám mục Phát Diệm, Bùi Chu Lê Hữu Từ và Phạm Ngọc Chi chống đối ra mặt.
Cho đến ngày TT Diệm qua đời, phần đông các người phục vụ sát cạnh bên Tổng thống hàng ngày đều thuộc thành phần Phật giáo: Đổng lý (QTĐ), Tổng thơ ký Nguyễn Thành Cung, Chánh văn phòng Võ Văn Hải, bí thơ Trần Sử, nội dịch Tôn Thất Thiết, cận vệ Nguyễn Bằng…..
Vấn đề thủ tiêu các người đối lập và việc tiếp xúc của ông Nhu với đối phương Cộng sản.
Sau chánh biến 1.11.1963, Hội đồng Quân nhân Cách Mạng tố cáo chánh quyền Diệm đã thủ tiêu một số ngưới đối lập như Nguyễn Bảo Toàn, Tạ Chí Diệp, Vũ Tam Anh, Hồ Hán Sơn, v.v… QTĐ tuyên bố không biết gì về những chuyện này thuộc thẩm quyền các cơ quan công an, tình báo. Tuy nhiên, ông tin chắc rằng ông Diệm không bao giờ đích thân chủ trương như vậy vì Tổng thống là một tín đồ Công giáo thuần thành, phân biệt tội phước, không khát máu như Cộng sản mà ông tích cực chống đối. Có thể một số nhân viên an ninh cuồng tín đã hành động để lấy điểm (excès de zèle) hay giải thích sai lầm chỉ thị cấp trên. Một bằng chứng cụ thể là TT Diệm chỉ ra lệnh giam chớ không cho xử tử Hà Minh Trí, một cán bộ Cao Đài, mưu sát hụt ông tại Ban Mê Thuột và gây thương tích cho Bộ trưởng Đỗ Văn Công. Hà Minh Trí được Hội đồng Cách Mạng trả tự do khi họ đã giết TT Diệm. Câu hỏi nêu ra là cuối cùng, TT Diệm có hay biết các vụ thanh toán đối lập hay không và phản ứng thế nào? Dù sao, lịch sử vẫn đặt vấn đề trách nhiệm tinh thần đối với ông.
Trong giai đoạn chót của chế độ, có tin đồn trong quần chúng và báo giới Mỹ rằng cố vấn Ngô Đình Nhu đi đêm với CS kháng chiến để tìm ra giải pháp giữa Nam, Bắc. Chính ông Nhu có đề cập đến chuyện này trong vài phiên nhóm với tướng lãnh tại Bộ Quốc phòng và ngày 23.7.1963 taị suối Lồ Ồ khi nóí chuyện với các cán bộ xây dựng Ấp Chiến lược khoá 13. Một nguồn tin khác cho biết ông Nhu xử dụng trung gian cuả bốn đại sứ Roger Lalouette (Pháp), d’Orlandi (Ý), Goburdhun (Ấn dộ) và Manelli (Ba Lan), (hai ông sau là thành viên của Ủy ban Quốc tế kiểm soát đình chiến) cũng như Tổng lãnh sự Pháp ở Bắc Việt Jacques de Buzon để liên lạc với Hànội.
Ông QTĐ nói có nghe dư luận này nhưng không biết rõ chi tiết. Ông cũng có nghe xầm xì rằng ông Nhu đã gặp một đại diện Văn phòng Chính trị CS (Phạm Hùng?) trong lần đi săn tại Quận Tánh Linh, Bình Tuy. Ông Đức nghĩ đây chỉ là một đòn chiến thuật của ông Nhu để dằn mặt Hoa kỳ, Tổng thống Diệm không bao giờ chấp nhận giải pháp điều đình với Hồ Chí Minh. Hơn nữa, Hiến pháp VNCH có ghi rõ chủ trương của Miền Nam Việt Nam chống chủ nghĩa vô thần. Ông Đức còn xác nhận: một Tết Nguyên Đán trước 1963, một cành đào đỏ lộng lẫy được trưng bày nơi phòng khánh tiết Dinh Độc lập với tấm thiệp in tặng của “Chủ tich Nhà nước Cộng hoà Xã hội Miền Bắc”.
Những ngày chót của Tổng Thống Diệm. Các cận thần cuối cùng.
42 năm trôi qua [2005], mọi công dân VN, ủng hộ hay chống đối ông Diệm, đều cảm thấy nhục nhã khi đọc lại những lời thú nhận sống sượng của tướng Trần Văn Đôn, đầu não trong chánh biến 1.11.1963 và tác giả của quyển hồi ký “VN Nhân Chứng” (nxb Xuân Thu, Californie, 1989) về vai trò Hoa kỳ chỉ huy vụ lật đổ và sát hại một lãnh tụ đồng minh. Đôn viết: “Đúng 1 giờ 30 trưa, (trùm Xịa) Conein vào bộ Tổng Tham mưu, (nơi đặt văn phòng của Đôn) mang theo một máy truyền tin đặc biệt để liên lạc với Toà Đại sứ Mỹ và một bao tiền là ba triệu bạc VN” (trang 211). Đôn còn tuyên bố khi y thậm thọt gặp riêng Thái thú Cabot Lodge để thỉnh thị: “Chúng tôi (nhóm đảo chính) không bao giờ có tham vọng cá nhân, chỉ muốn cứu nước!” (trang 210).
Trong hồi ký VN Nhân Chứng, đọan chót, Trần Văn Đôn cho biết ba triệu bạc -cái giá rẻ mạt để thay đổi một thế cờ! – đã chia cho Dương Văn Minh, Lê Văn Kim, Tôn Thất Đính, Nguyễn Hữu Có, Đỗ Cao Trí, Nguyễn Khánh , Trần Ngọc Tám và Lê Nguyên Khang.
Ông Đức tỏ ra ngán ngẩm khi được hỏi nghĩ gì về sự tự thú trên đây. Theo ông, trong những ngày chót của một cuộc đời đấu tranh gian khổ, TT Diệm là con người cô đơn nhứt trên thế gian: dân tộc bỏ rơi, đồng minh phản bội, gia đình chia cách, kẻ thù cộng sản reo hò chiến thắng, sự nghiệp chính trị ra tro, uất hận ngất trời vì tương lai mù mịt của Đất nước, một quốc gia bị sức mạnh chèn ép. Với ông Nhu quỳ bên cạnh cầu nguyện trong Nhà thờ Cha Tam Chợ Lớn sáng ngày 1.11.1963. không chắc TT Diệm đồng một tâm tư với người em.
Ông Đức bùi ngùi nhắc lại: Tối 1.11.1963, khi tiếng súng nổ rền khắp nơi, ông và gia đình rời khỏi nhà riêng ở số 8 đường Lê Văn Thạnh, Sàigòn, ngủ đêm tại Chợ Lớn, không xa căn phố lầu của Mã Tuyên, nơi Tổng thống và ông Nhu tạm ngụ. Sáng hôm sau 2 tháng 11, trở lại nhà thì được hay Tổng thống có điện thoại tối hôm trước nhưng người giữ nhà trả lời không biết ông Đức ở đâu. Vài giờ sau, ra-dô báo tin hai ông Diệm, Nhu “tự tử”, điều mà Đức không tin chút nào. Đến nay, ông Đức vẫn ân hận vì không được tiếp xúc lần chót với Tổng thống.
Hỏi: Trong Nội các, ai được Tổng thống Diệm tin cậy nhứt những ngày, tháng cuối cùng? QTĐ đáp: Nguyễn Đình Thuần và Trương Công Cừu. Thuần kiêm ba trọng trách: Bộ trưởng taị Phủ Tổng thống, Bộ trưởng phụ tá Quốc phòng, và Bộ trưởng Đặc nhiệm Phối hợp An ninh. Cừu là Bộ trưởng Đặc nhiệm Phối hợp Văn hoá Xã hội. Ngoài ra, còn có Ngô Trọng Hiếu, Bộ trưởng Công dân vụ, từng là đại sứ VNCH ở Nam Vang, bị Chánh phủ Cam bốt trục xuất vì giúp cho tướng Đap Chuon đảo chánh (hụt) Quốc vương Sihanouk. Tên ông Hiếu nằm trong bản danh sách của Cabot Lodge ghi các nhân vật cần thanh toán, theo hồi ký nêu trên của trung tá Nguyễn Văn Châu.
Ông Đức không ngạc nhiên cho lắm khi được người viết cho biết một số tài liệu giải mật taị Hoa kỳ tiết lộ Thuần là tay trong thân tín của CIA, theo dõi để phúc trình từng phản ứng của hai anh em Diệm-Nhu. Thuần từng được Mỹ chấm như một “Thủ tướng có triển vọng” nếu TT Diệm chịu sửa Hiến pháp để đặt thêm chức vụ này (đọc The Storm has many eyes, A personal narrative của Henri Cabot Lodge, NY 1973, trang 62 và Lodge in Vietnam, A Patriot abroad của Ann Blair, nxb Yale University Press, New Haven 1995, trang 92).
Một số nhân vật rất gần Dinh Độc lập cho biết Thuần dùng đủ mưu chước để thu hút cảm tình của TT Diệm và từ đó, tìm cách ly gián ông Diệm và ông Nhu trong giai đọan chót của chế độ. Ông QTĐ ngạc nhiên khi hay chính Đệ nhị Phòng Pháp đã giúp Thuần trốn khỏi VN. Cố Ứng Thi, chủ của Khách sạn Rex và bạn thân của Thuần, xác nhận với người viết điểm vừa nói. Thuần hiện sống thong dong taị Paris.
Tác giả bài này thắc mắc: không lẽ một ngưởi tinh vi như ông Nhu mà không nhận ra mặt trái của Nguyễn Đình Thuần? Ông Đức trả lời: Có thể ông Nhu không mù quáng nhưng ở vào thế kẹt lúc đó, không còn ai liên lạc để dò xét âm mưu đen tối của Hoa kỳ, ông Nhu phải “tương kế, tựu kế” xử dụng Thuần. Ông Nhu cũng đã áp dụng chiến thuật này (kế hoạch chống đảo chánh Bravo) để tìm cách chi phối nhóm tướng bị Mỹ mua chuộc.
Ông Đức cho biết thêm: Linh mục Cao Văn Luận cũng là một cố vấn thân tín của Tổng thống được giao phó ra nước ngoài xin tài trợ về giáo dục, tìm kiếm trí thức Việt đưa về nước và tổ chức Viện Đại học Huế mà ông là Viện trưởng đầu tiên. Trong giai đoạn khủng hoảng Phật giáo, dư luận cho rằng cha Luận đã trở mặt, ngả theo phe chống chánh quyền. Chẳng những thế, ông còn viết hồi ký “Trong giòng lịch sử “ để nói xấu TT Diệm và đề cao Hồ Chí Minh. Tình đời đen bạc!
Ông QTĐ quả quyết không bao giờ gặp Vũ Ngọc Nhạ (mà CS tuyên bố phịa trong quyển sách và bộ phim giả tưởng Ông Cố Vấn gài được vào Dinh Độc Lập!) Trả lời về các cán bộ gốc Cộng sản cộng tác với chế độ, ông Đức cho biết Kiều Công Cung – nguyên tư lệnh một sư đoàn Việt cộng – đã tỏ ra xứng đáng đến cùng trong chức vụ Đặc ủy chiêu hồi. Phạm Ngọc Thảo – mà Tổng Nha Công an có hồ sơ – được bổ nhiệm đại úy Bảo An, sau đó Tỉnh trưởng Kiến Hoà và thanh tra dinh điển. Hai chuyên viên Mỹ về Giáo dục và Dinh điền thường lui tới Dinh và ăn sáng với Tổng thống là giáo sư Wesley Fishel thuộc Đại học Michigan và Ladejinsky mà Tổng thống quen từ lúc bôn ba ở Hoa kỳ. Về sau, được hay hai chuyên viên này làm việc cho CIA. Đặc biệt, Fishel đã ra mặt chống phá ông Diệm taị Hoa Thịnh Đốn trước ngày đảo chánh.
Trần Văn Đôn ghi nơi trang 182 của hồi ký “Việt Nam Nhân Chứng”: Trong một buổi học tập chính trị taị bộ Tổng Tham Mưu trước chính biến 1.11.1963, ông Nhu nói, sau khi nghe các tướng lãnh trình bày thỉnh nguyện : “Mấy anh muốn cải tổ chánh phủ mà xin như vậy đâu có nhiều. Muốn làm cách mạng thật sự, tôi tưởng các anh phải xin nhiều hơn. Ông Diệm bị kẹt với một số Bộ trưởng thối nát bất tài. Trong lúc này Quân đội phải nhận rõ vai trò của mình để cứu nước, nên đảo chánh một đêm bắt mấy ông Bộ trưởng đó rồi hôm sau trao quyền lãnh đạo lại cho Tổng thống. Nếu có vị tướng nào muốn đảo chánh thì quân đội phải chống lại, phải bắt người đó mà treo cổ trên đường Công Lý.”
Đâu là sự thật? Nếu đúng, thì đây có phải là ván bài tố xả láng của ông Nhu để dò xét và sập bẫy nhóm tướng tạo phản? Hay một nhìn nhận chua chát chế độ đang tuột dốc thê thảm, đưa dân tộc vào một trận đại hồng thủy? Tổng thống Ngô Đình Diệm có thể đã phạm một số sai lầm nguy hại khi cầm quyền – điều này sẽ được sử sách phê phán công và tội – nhưng không một ai – từ đồng minh Hoa kỳ cho đến Hồ Chí Minh – chối cãi rằng ông là một lãnh tụ yêu nước, trong sạch, có khí phách và không làm dân tộc VN hổ thẹn vì ông đã cố bảo vệ đến cùng thể diện và quyền uy quốc gia. Không một gia đình Việt Nam nào mà lại hy sinh nặng như thế cho Đất nước, mất một lần bốn người con ưu tú, một vì tay Cộng sản và ba vì tay quốc gia. Ông Diệm ra đi, Hồ Chí Minh không còn đối thủ, Mỹ rảnh tay Việt nam hoá chiến tranh, Miền Nam sụp đổ mau lẹ.
Hay tin TT Diệm bị sát hại, Mao Trạch Đông phản ứng bằng nhận xét: “Chính quyền Kennedy hạ ông Ngô Đình Diệm là một thất sách, một sai lầm rõ rệt!” Và Hồ Chí Minh tuyên bố: “Ông Diệm là một nhà yêu nước, theo lối của ông ấy!” Trong hồi ký The Real War, chương V, Richard Nixon viết: Tổng thống Pakistan Ayub Khan nói với tác giả vài ngày sau vụ đảo chánh 1.11.1963: “Việc Tổng thống Diệm bị giết có ba ý nghĩa đối với nhiều người Á Đông: trở thành bạn Hoa kỳ là một nguy hiểm, trung lập có giá hơn và đôi khi tốt hơn là kẻ thù.” Riêng về De Gaulle thì ông nhận định: ‘Sau Diệm, không phải là một khoảng trống mà là một sự quá đầy!” De Gaulle muốn nói: Miền Nam lạm phát lãnh tụ, trở thành một giỏ cua và một hí trường tranh dành địa vị, ngôi thứ.
Đối với thế hệ lãnh đạo mai sau, sự thất bại của TT Diệm – mà đồng minh Hoa kỳ lẫn kẻ thù Cộng sản đều xem như một mối đe dọa cần triệt hạ – là một bài học quý báu về kinh nghiệm chống Đế quốc, về Nhân tình thế thái và thân phận của một nước nhược tiểu. Học giả Denis Warner từng cho ông biệt danh “The Last Confucian, Người hiền triết Khổng giáo cuối cùng”. TT Diệm là một thầy tu lạc lõng giữa chính trường gió tanh mưa máu, gánh trên vai thánh giá của Quê hương đau khổ. Lịch sử trước sau gì cũng sẽ ban cho ông Công Lý.
Sau tháng 4.1975, hai ngôi mộ của TT Diệm và Cố vấn Nhu được cải táng từ nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi, Saigon, về quận Lái thiêu, tỉnh Bình Dương. Mộ bia của TT Diệm có khắc chữ Huynh. Mộ bia của Cố vấn Nhu khắc chữ Đệ. Hai nắm mồ khiêm nhường, quạnh hiu, thiếu người chăm sóc, kết thúc một cuộc đời đấu tranh khắc nghiệt, đầy oan trái nhưng chắc chắn không phải là một hy sinh vô bổ trên bàn thờ Tổ Quốc.
Kết luận
Ông bạn Quách Tòng Đức chấm dứt buổi nói chuyện thân tình bằng một lời than chua xót: Dĩ vãng buồn nhiều hơn vui, phá hoại nhiều hơn xây dựng, hận thù thay vì đoàn kết. Đến nay, Đất nước chưa thấy lối thoát, những bài toán của Xứ sở chưa tìm ra đáp số. Ngày nào Cộng sản vẫn bám víu vào quyền lực thì quốc nhục chậm tiến còn kéo dài. Thế cuộc xoay vần. Lý thuyết chánh trị, chế độ, lãnh tụ,… rồi cũng phải trở về với cát bụi. Vanitas vanitatum, omnia vanitas, Hư danh, tất cả đều là hư danh! Cuối cùng chỉ còn lại Dân tộc, Dân tộc trường tồn, Dân tộc bất diệt.
Lưu đày, dù trên mảnh đất dân chủ, chưa phải là Tự do. Người Việt tha hương, vào tuổi gần đất xa trời, vừa đau buồn hướng về Đất Mẹ, vừa thao thức tự vấn như Thôi Hiệu trong bài thơ Đường Hoàng Hạc Lâu:
Chiều xuống, Quê nhà đâu đó tá?
Bên sông khói toả, não lòng ai.
(Chi Điền dịch)
© Lâm Lễ Trinh
Ngày Quốc khánh Hoa kỳ 2005
Thuỷ Hoa Trang
Californie
Gần cuối năm 1963, theo lời yêu cầu của một số quốc gia, Liên Hiệp Quốc đã gửi một phái đoàn điều tra đến Việt nam. Phái đoàn LHQ gồm đại diện của các quốc gia Afghanistan, Brazil, Ceylon, Costa Rica, Dahomey, Morroco và Nepal.
Họ mang theo 33600 đô la để chi tiêu. Và để giữ được tính cách khách quan, trưởng phái đoàn, ông Pazhwak, người A Phú Hãn chỉ thị từ chối những buổi tiếp tân hoặc những chi phí tại chỗ của chính phủ VNCH dành cho phái đoàn.
Sau hai tuần lễ điều tra rất tỉ mỉ, đại sứ Costa Rica đã đi đến kết luận là tất cả những lời lên án chính phủ Ngô Đình Diệm đàn áp Phật giáo đều là vô căn cứ
Bản phúc trình của LHQ tỏ ra bất lợi cho phía Phật giáo cũng như phía người Mỹ, vì thế đại sứ Cabot Lodge đã tìm cách ngăn chặn việc phổ biến bản phúc trình này.
Và đây là một đoạn trích dịch bức thư của thượng nghị sĩ Hoa kỳ Thomas Dodd gửi thượng nghị sĩ James O. Eastland – chủ tịch tiểu ban Nội An của thượng viện My ngày 17 tháng 2 năm 1964 liên quan đến bản phúc trình của phái đoàn Liên Hiệp Quốc tới Saigon để điều tra về sự tố cáo chính quyền Đệ Nhất Cộng Hoà đàn áp Phật giáo. Bản phúc trình này đã bị chính quyền cuả đảng Dân Chủ năm đó ém nhẹm đi, mãi gần đây mới được công bố.
“Thưa ông chủ tịch, Vào đầu tháng 9 năm ngoái, khi cuộc khủng hoảng Phật giáo đạt cao điểm, 16 chính phủ chuyển đến đại hội đồng LHQ một tuyên bố nói rằng chính phủ Việt Nam vi phạm nhân quyền một cách trầm trọng. Đáp lại, chính quyền Ngô Đình Diệm mời Liên Hiệp Quốc gởi phái đoàn đến điều tra và cam kết hợp tác hoàn toàn. Ngày 11-10, một phái đoàn được thành lập gồm đại diện Afghanistan, Brasil, Costa Rica, Dahomey, Morocco, Ceylon và Nepal.
(…phúc trình này chỉ được phố biến rất hạn chế….)
Về điểm này tôi xin lưu ý đến cuộc phỏng vấn của đại sứ Fernando Volio Jimenez của Costa Rica với hãng thông tấn NCWC ngày 20-12-63. Chính đại sứ là người đã đưa ra đề nghị lập phái đoàn điều tra LHQ và là thành viên của phái đoàn. Tôi xin trích lời của ông:
“Cảm tưởng của riêng tôi là không có chính sách kỳ thị, áp bức hay khủng bố đối với Phật giáo. Những lời khai về việc này thường là “nghe nói”, và được trình bày một cách mơ hồ, chung chung. Mỗi khi có một nhân chứng cố gắng tìm một bằng chứng cụ thể nào đó để trình phái đoàn thì đó cũng là hành vi lẻ tẻ hay cá nhân. Căn cứ trên bằng chứng thì chính quyền Ngô đình Diệm không có chủ trương chống Phật giáo vì lý do tôn giáo.”
Được đích thân đọc bản phúc trình của LHQ, lời tuyên bố trên làm tôi xúc động, khiến tôi phải gọi đại sứ Volio để thảo luận về chi tiết. Đại sứ Volio nói, căn cứ trên tường thuật mà ông đọc trong báo ông đã sẵn sàng bỏ phiếu lên án chế độ Diệm, nhưng khi Diệm mời Liên Hiệp Quốc phái quan sát viên sang VN, ông thấy rằng phải nhận lời mời này, trước khi LHQ có thái độ.
Đại sứ Volio nói rằng sau hai tuần điều tra ráo riết tại VN, ông đi đến kết luận là những lời buộc tội chế độ Diệm tại LHQ là vô căn cứ, không thể chấp nhận được. Ông nghĩ rằng vô số bằng chứng không cho thấy rằng có sự kỳ thị về tôn giáo hay vi phạm tự do tôn giáo.
(….) Phái đoàn nói rõ rằng họ đã được phỏng vấn một số lãnh đạo và thanh niên Phật giáo mà người ta báo cáo là đã bị giết. Phái đoàn không tìm thấy bằng chứng nào xác nhận những báo cáo đã được công bố rằng có những vị sư đã bị ném từ tầng lầu xuống trong vụ chùa Xá Lợi bị đột kích.
Tóm tắt theo ý tôi, một lần nữa, nhân dân Hoa Kỳ đã bị báo chí lừa dối nặng về tình hình đối ngoại có tính cốt tử.
Chúng ta đã được báo cáo rằng chính phủ Diệm khủng bố tôn giáo một cách tàn nhẫn, khiến những sư vô tội bị dồn vào chỗ phải tự tử để phản đối. Nhưng nay ta thấy sự thực không hề có khủng bố, hay chỉ có thổi phồng quá mức, và cuộc náo loạn chủ yếu mang tính chất chinh trị” .
(Ngưng trích)
Thưa ông Quang Phan
Sách Nhật ký Đỗ Thọ, trang 202 viết rằng mật vụ chính phủ Diệm đã khóa miệng (nguyên văn) phái đoàn điều tra Liên Hiệp Quốc bằng phụ nữ và đặt máy chụp hình trên trần của phòng khách sạn để chụp lén. Tài tình thật. Ông Đỗ Thọ ở trong chăn mới biết chăn có rận.
ND
Phải chi chúng ta theo lời ông Paulus Của cầu cho “Bạo Chúa Diệm sống lâu”.Có lẽ bây giờ con cháu Hai Bà Trưng không phải cởi quần cho bọn “Chệt , Củ Sâm” sờ ngắm trước khi mua và nông phu này có lẽ được dắt trâu thay vì cưỡi “Kubota”!!!
Khi tôi đén Mỹ tới nay đã hơn 20 năm.KHi mới tới xứ này đọc báo chí sách báo Hải ngoại của nhóm “Văn nghệ Tiền Phong” đổ tội Vụ thảm sát mùa phật tử ở Huế là do CS. Đổ CS không xong nau lại bịa đặt CIA do ông cố vấn James Scott nào đó gây ra theo chỉ thị của CIA.Khi đọc cuốn “20 năm quân ngũ” của tướng Tôn Thất Đính ông nói chẳng có vị đại úy cố vấn nào mang tên James Scott của quân đội Mỹ cả.Ngay lúc đó năm 1963 VC còn quá yếu không thể vào các thành phố lớn như Huế nổi. Nay đọc được một giáo sư y khoa Huế thì thấy đây do Ngô Đình Diệm tàn sát vào http://www.chuyenluan.net/index.php?option=com_content&view=article&id=2794%3Al-pht-n-1963-ti-hu&catid=40%3Acl-s-24&Itemid=50&limitstart=1. Thì vị giáo sư này chứng kiến do xe vũ trang mang ten NGÔ Dình KHÔI xả súng bừa bãi gây thảm sát này
Nay tác giả lại quá già hay chạy tội cho Ngô Đình Diệm lại bịa chuyện Lương Khải Minh là Phạm Kim Tuyến đã qua đời viết. Nhưng theo ĐỖ Mậu Lương Khải Minh lại là Cao thế Dung.Không lẽ tác giả trên 90 nên óc không còn minh mẫn nữa