WordPress database error: [Expression #1 of ORDER BY clause is not in GROUP BY clause and contains nonaggregated column 'oldsite_dcvwp.wp_posts.post_date' which is not functionally dependent on columns in GROUP BY clause; this is incompatible with sql_mode=only_full_group_by]
SELECT YEAR(post_date) AS `year`, MONTH(post_date) AS `month`, count(ID) as posts FROM wp_posts WHERE post_type = 'post' AND post_status = 'publish' GROUP BY YEAR(post_date), MONTH(post_date) ORDER BY post_date DESC

 
|

Những bức thư cam kết của Nixon

Photo veteransnewsnow.com

Photo veteransnewsnow.com

Những bức mật thư

Từ tháng 8-1972 cho tới những ngày gần ký kết Hiệp định Ba Lê, Kissinger và TT Nixon đã hứa hẹn riêng với TT Thiệu ông sẽ can thiệp nếu hai miền Nam Bắc có xung đột nhưng ông Thiệu biết những lời hứa này chỉ là mong manh. TT Nixon đã nhiều lần cam kết sẽ giáng trả mãnh liệt mọi sự vi phạm của BV sau ngày ký Hiệp định để làm TT Thiệu an tâm vì ông phản đối việc BV được ở lại miền Nam . Đến ngày 8-8-1974 Nixon từ chức vì vụ Watergate, Phó Tổng thống Ford lên thay.

Khi Hà Nội mở cuộc tổng tấn công đầu năm 1975, ông Thiệu gửi thư cầu cứu TT Ford

“CSBV lợi dụng Hiệp định Paris để xâm lăng miền nam VN mà chúng tôi đã đoán biết ý định của họ ngay từ hồi còn đàm phán. Chúng tôi đã được Tổng thống Hoa Kỳ tiền nhiệm cam kết sẽ giáng trả nhanh chóng, ác liệt với mọi vi phạm Hiệp Định của BV. Đối với chúng tôi, những lời hứa này thật quan trọng cho sự bảo đảm thi hành Hiệp định, vào thời điểm này những lời cam kết ấy sẽ vô cùng cần thiết cho sự sống còn của miền nam VN.” (1)

TT Ford và Kissinger đều biết không dễ gì mà thoát ra khỏi tình trạng khó khăn này, họ đều chấp nhận sự thật là Quốc Hội sẽ không cấp bất cứ khoản viện trợ bổ túc nào cho VN. Sau ngày ký Hiệp định Paris, miền Bắc VN và Hoa Kỳ ăn mừng Hiệp định, miền Nam không được an tâm khi BV còn để lại trên một trăm ngàn quân dưới vĩ tuyến thứ 17. Ông Thiệu cho rằng Lê Đức Thọ đã thắng lớn về ngoại giao, Hoa Kỳ đã ra khỏi cuộc chiến sa lầy. TT Nixon đã hứa sẽ trừng trị ác liệt với bất cứ cuộc tấn công nào của Hà Nội, nhưng cam kết này có đáng tin cậy không?

Hạ tuần tháng 8-1972 TT Nixon gửi thư cho ông Thiệu cam kết không có điều khoản nào của Hiệp định mà không được bàn với ông trước, ngày 31-8 ông gửi thư cho ông Thiệu cam kết Hoa Kỳ không bao giờ phản bội đồng minh, không bán miền Nam dễ dàng để lấy hòa bình (2). Người dân Mỹ biết Hoa Kỳ không thể mua hòa bình danh dự hay chuộc lại những sự hy sinh bằng cái giá phản bội đồng minh, tôi không bao giờ làm thế và sẽ không bao giờ làm thế .

Tuy vậy ông Thiệu vẫn không tin tưởng gì mấy.

Sau khi thỏa thuận với Lê Đức Thọ bản Dự thảo Hiệp định ngày 9-10-1972, Tiến Sĩ Kissinger bay tới Sài Gòn để thuyết trình về ngưng bắn với TT Thiệu từ ngày 19-10 tới 22 -10. Ông Thiệu không chấp nhận Hiệp định và lên đài truyền hình chống đối Kissinger bán đứng miến Nam , Sài Gòn liên tục chỉ trích Hoa Kỳ và CSBV đàm phán sau lưng VNCH. Sau khi Kissinger về Mỹ ngày 23-10 và tường trình lên Tổng thống, Nixon vừa hứa, vừa trấn an Thiệu nói chúng tôi đã họp với Nga, Trung Cộng để đòi họ áp lực Hà Nội. Tôi tin tưởng Dự thảo sẽ giữ được tư do cho miền nam VN, nếu bán đứng VNCH thì chúng tôi đã có nhiều cách khác, chúng tôi cố gắng đòi những khoản tốt đẹp hơn, Nixon vừa hứa hẹn cũng vừa hù dọa để miền nam hợp tác ký kết Hiệp định.

Tướng Haig được cử tới Sài Gòn ngày 9-11, hai hôm sau đem thơ của TT Nixon gửi ông Thiệu (3) xin sơ lược nội dung.

“Nay bầu cử đã xong, tôi muốn nói chuyện tiếp với ông về vấn đề dự thảo Hiệp định, tôi rất nản vì tình thân hữu giữa hai nước chúng ta có khuynh hướng xấu làm lợi cho địch. Ông soay vặn chống đối thỏa ước rất bất công và tự hại mình.

Trong những thư trước, như Tiến sĩ Kissinger và Đại sứ Bunker đã trình bầy, bản Dự thảo Hiệp định cũng tốt. Chúng tôi tin là bên kia đã nhượng bộ nhiều và vẫn tiếp tục bảo vệ nền độc lập của miền nam VN cũng như để vấn đề chính trị cho người dân miền nam. Chúng tôi đã thông báo ông biết đang chuyển viện trợ ồ ạt để củng cố sức mạnh quân sự cho miền Nam trước khi ngưng bắn. Tôi đã nhắc lại nhiều lần lời cam kết vững chắc chống lại vi phạm Hiệp định nếu sẩy ra . Sau khi ký Hiệp định, tôi sẽ hội kiến với ông để thể hiện sự tiếp tục giúp đỡ của chúng tôi và để nhấn mạnh sự hợp tác chặt chẽ của chúng ta. Nếu ông tiếp tục chống đối sẽ làm lợi cho địch và lãnh hậu quả trầm trọng cho cả hai dân tộc chúng ta. Xin ông nói cho Tướng Haig biết chúng ta có thể tiến hành trên căn bản ấy.

Chúng tôi ngợi khen dân tộc, quân đội các ông đã đạt chiến thắng lớn nhờ đó mà dự thảo sẽ được phê chuẩn. Tôi muồn được hợp tác với ông và chính phủ ông trong nhiệm kỳ thứ hai của tôi để bảo vệ tự do cho miền Nam như đã làm trong nhiệm kỳ trước. Trong bốn năm ông và tôi đã sát cánh nhau và chúng ta đã là đồng minh về quân sự, sự liên minh đựa trên tin tưởng lẫn nhau sẽ mang lại thành quả tốt đẹp”

Sau này Nixon nói trong hồi ký: (4) ông cử Tướng Haig sang Sài Gòn trao cho ông Thiệu bức thư trả lời sự phản đối của VNCH đối với bản Dự thảo tháng 10. Ông hứa sẽ cố gắng hết sức để thay đổi những điều khoản trong Dự thảo đồng thời ông cũng cho biết Dự thảo như thế cũng được coi là tốt lắm rồi. Sự thực Nixon chỉ hứa cho qua chuyện để ông Thiệu an tâm nhưng thực ra không dễ gì mà thay đổi được trong khi BV đã nhượng bộ nhiều rồi, họ rút lại yêu cầu đòi lật đổ Thiệu, thành lập Chính phủ liên hiệp…

Ngày 11-11 ông Thiệu gửi thư chúc mừng TT Nixon tái đắc cử nhiệm kỳ hai, ông tỏ sự lo âu khi Cộng quân còn ở lại miền nam và đòi họ phải rút hết về Bắc. Ba ngày sau Nixon trả lời thư Thiệu, ông nhắc nhở Hoa Kỳ luôn cương quyết bảo đảm sự thi hành Hiệp định “ Chúng tôi luôn canh chừng họ vi phạm” (5) Ông chỉ chờ BV vi phạm thỏa ước để oanh tạc họ. Trong cả hai bức thư gửi TT Thiệu, TT Nixon nhấn mạnh đây là lời cam kết danh dự giữa hai nhà lãnh đạo đồng minh.

“Trước hết chúng ta phải ghi nhớ cái gì thực sự bảo đảm Hiệp định. Nó không phải là một điều khoản đặc biệt nào trong Thỏa ước nhưng là ý chí liên hợp của chúng ta để gìn giữ những điều khoản ấy. Tôi xin nhắc lại lời cam kết của tôi với ông rằng Hoa Kỳ sẽ phản ứng nhanh chóng và ác liệt với bất cứ sự vi phạm Hiệp định nào” (6)

Nixon cũng cho biết để thực hiện những hành động trừng phạt đối phương như trên ông cần phải được người dân Mỹ ủng hộ và chính phủ nam VN không cản trở hòa bình mà dư luận Mỹ đang mong đợi. Ông mong mỏi TT Thiệu chấp nhận và ký kết thỏa ước mà ông cho là tốt đẹp và sẽ được bảo đảm.

Ngày 14-11-1972 Kissinger cho rằng Mỹ sẽ cưỡng bức thi hành Hiệp định, ông và Nixon đã bí mật hứa hẹn với Thiệu

“Tôi xin cam kết với ông nếu Hà Nội không tôn trọng những điều khoản của Hiệp định thì tôi sẽ trừng trị họ ngay” (7)

Ngày 15-11 Đại sứ Bunker mang thư của TT Nixon gửi ông Thiệu, ông Đại sứ cũng cam kết thêm rằng sự bảo vệ tối hậu cho VNCH của Mỹ là khả năng cưỡng bức thi hành và bảo đảm Hiệp định (8) và TT Mỹ đã viết thư cam kết thể hiện ý định của Hoa Kỳ như thế. Điều này có nghĩa là nếu có vi phạm ngưng bắn người Mỹ chúng tôi sẽ hành động nhanh chóng và hữu hiệu để bảo vệ VNCH.

Sau này Nixon kể lại ông có nói với Kissinger hôm 20-11-1972:

“Ta cần chú tâm tới việc cứu miền nam VN vì thế nên chúng ta phải hòa hoãn với Thiệu càng nhiều càng tốt như đã làm, vì điều ta quan tâm là giúp cho miền nam được sống còn và Thiệu lúc này có lẽ là nhà lãnh đạo duy nhất chỉ đạo họ theo chiều hướng này” (9)

Trong khi Quốc hội và phong trào phản chiến đang xiết cổ Đông Dương từ từ, Nixon và Kissinger có thiện chí cứu miền nam VN bằng những phương tiện vá víu tạm bợ. Sự thực Hành pháp cũng chẳng còn thực quyền gì nhiều cho lắm, họ chỉ đủ khả năng giúp cho miền nam VN sống thêm ngày nào hay ngày nấy.

Gần cuối tháng 11-1972, Nixon chỉ thị Kissinger chuyển lời nhắn gồm những điểm nhấn mạnh của ông cho VNCH, xin sơ lược:

Cá nhân tôi ủng hộThiệu và miền nam VN như đã nói với ông ta trong ba bức thư trước đây, Hiệp định không quan trọng bằng quyết định của tôi lấy hành động ồ ạt chống lại BV trong trường hợp họ phá hoại Thỏa hiệp. Quân đội BV còn ở miền nam VN không nghĩa lý gì trong tình huống đó. Nếu họ không có lực lượng ở miền nam và tôi từ chối không trả đũa bằng không lực khi họ bắt đầu xâm nhập, chiến tranh sẽ diễn ra.

Người Mỹ tin tưởng vào sức mạnh không quân của họ như lời Sullivan, Phụ tá bộ trưởng ngoại giao đã có lần nói với Nguyễn Phú Đức phụ tá ngoại giao VNCH: một câu xanh rờn: (10)

“Hiệp định chỉ là một mảnh giấy, mực trên tờ giấy đó không quan trọng bằng sắt thép, bom đạn của máy bay B-52 Mỹ”

Hồ sơ giải mật cho biết cuối tháng 11, Nixon và Kissinger tiếp Nguyễn Phú Đức, đặc phái viên của TT Thiệu, ông nói điều quan trọng là người Mỹ ký thỏa ước để có quyền bảo vệ Hiệp định, điều quan trọng hơn những điều khoản hay một tờ giấy là lời hứa bảo đảm Hiệp định của Hoa Kỳ. Lời hứa ấy được thể hiện trong buổi họp này. Chính phủ Hoa Kỳ sẽ xin viện trợ nếu miền nam VN chấp nhận ký Hiệp định, như ông đã biết chúng tôi đã chuyên chở một khối lượng lớn quân viện cho miền Nam . Như thế Thỏa ước sẽ cho chúng tôi cơ hội xin Lập pháp tiếp tục viện trợ trong tương lai. Ngoài ra Mỹ còn nhiều căn cứ quân sự tại Thái Lan và các vùng phụ cận, nó cho chúng tôi cơ hội trừng trị mọi vi phạm của Hà Hội. TT Nixon khi ấy sẽ sát cánh bên TT Thiệu thành một phòng tuyến chống quân thù. Vì thế ta sẽ có được viện trợ quân sự, kinh tế và đe dọa trừng phạt của Hoa Kỳ bằng yểm trợ quân sự nhanh chóng khi có vi phạm, viễn tượng đáng lạc quan (11)

Hồ sơ giải mật cuộc nói chuyện của TT Nixon với Phụ tá Nguyễn phú Đức tiếp theo, xin sơ lược:

Nếu không đạt được thỏa ước thì cả Hoa Thịnh Đốn và Sài Gòn sẽ thất bại, TT Thiệu và TT Nixon đều không muốn miền nam VN sụp đổ . CS không bao giờ tôn trọng giấy tờ, họ biết rằng bom đạn của Mỹ sẽ giải quyết vấn đề. Người dân Mỹ nhận định rằng nếu TT ủng hộ Hiệp định, họ cũng sẽ ủng hộ, Đại Hàn tồn tại được nhờ viện trợ mỹ và nhất là Bắc Hàn biết rằng nếu vi phạm khu phi quân sự sẽ bị trừng trị ngay. Ở VN cũng vậy, nếu miền Bắc biết rằng vi phạm Thỏa ước là điều nguy hiểm (12)

NPĐức trả lời Nixon quân đội BV phải rút khỏi miền nam VN, Kissinger nói thêm vào: miền nam sẽ không tổ chức bầu cử, không thả tù chính trị khi BV không chịu rút, ông cũng dụ dỗ Đức: TT Nixon sau bao nhiêu hy sinh nỗ lực lại có thể để cho BV chiếm miền nam? Nixon cũng thêm vào, nếu Hà Nội tăng cường xâm nhập, Hoa Kỳ sẽ phản ứng, ông không tin Liên Hiệp Quốc hay Ủy ban Quốc Tế kiểm soát đình chiến. NP Đức đề nghị ghi những lời cam kết vào văn kiện hoặc Thỏa ước nhưng Nixon nói thiếu gì cách. Ông nói thỏa ước trên giấy tở là software (phần mềm) và sắt thép bom đạn là hardware (phần cứng).

Đức hội với Kissinger, ông ta nói

“Điều quan trọng nhất là những lời Tổng thống hứa với ông, nó sẽ được chúng tôi ghi vào hồ sơ, cam kết của TT Hoa Kỳ” (13)

Tác giả Larry Berman cho biết thật ra chẳng có ghi hồ sơ gì cả, nước Mỹ chẳng đụng một ngón tay để ngăn chận CS chiếm Sài Gòn. Trong những ngày cuối cùng của VNCH, Kissinger còn xác nhận là ông ta và Nixon không hề cam kết hợp pháp với miền nam VN mà chỉ là lời hứa hẹn tinh thần.

“Họ đánh lừa Đức, nhưng không gạt được lịch sử”(14)

Về tù binh, Kissinger nói với Đức không thả tù chính trị VC mà dùng nó làm con tin để đòi BV rút, Kissinger đã hứa với BV sẽ nói miền nam thả tù chính trị và chính ông đã gạt BV. Ông ta khuyên Đức không đếm xỉa gì tới Hội đồng hòa giải.
Ngày 5-1-1973 Nixon lại cam kết với Thiệu.

“Chúng tôi sẽ đáp lại bằng vũ lực tối đa nếu BV vi phạm Hiệp định”(15)

Tháng 1-1973 phía Mỹ đưa Dự thảo cho ông Thiệu xem nhưng ông vẫn từ chối bác bỏ. Nixon trấn an Thiệu hứa tiếp tục viện trợ quân sự để cân bằng lực lượng khiến miền nam có thể chống lại những vi phạm nhỏ, Mỹ chống lại những vi phạm lớn của BV, ít nhất Hoa Kỳ cũng có thể làm như vậy (16)

Sau này ông Thiệu nói

“Những lời hứa hẹn ấy cưối cùng đã thuyết phục tôi ký kết”
(17)

Ý nghĩa và Hậu quả

Năm 1998, trong buổi tổ chức kỷ niệm 25 năm Hiệp định Paris tại Washington D.C, Kissinger có tới tham dự và và nói về nhiều bức thư cam kết riêng của TT Nixon gửi ông Thiệu trong đó ông hứa sẽ cưỡng bách (CSBV) thi hành Hiệp định (to enforce the agreement) : (18).

“ Những thư đó không bao giờ được coi là lời hứa hẹn quốc gia. Nó thể hiện ý định của ông Tổng thống. Mọi viên chức cao cấp của chính phủ kể cả tôi, Bộ trưởng quốc phòng, Bộ trưởng ngoại giao đã thể hiện đại cương sự minh xác được nói công khai hàng tuần rằng chúng tôi cưỡng bức thi hành Hiệp định. Chuyện ấy chẳng có gì lạ cả”

Ông cũng cho biết ngoài Nixon ra, Tổng thống Kennedy hay Johnson cũng đã từng viết thư hứa hẹn với các nhà lãnh đạo quốc gia khác, tất cả những thư ấy không được coi là lời hứa của quốc gia (19)

Cựu ngoại trưởng nói
“Tất cả những lời hứa hẹn ấy đã được phổ biến. Ai cũng hiểu thế. Thư riêng của TT Nixon là chuyện bình thường và thể hiện ý định của ông Tổng thống. Khi mang tính lời hứa cũa quốc gia , những thư ấy phải được đưa ra Quốc hội” (20)

Kissinger sau này cho biết những thư cam kết ấy đã được công khai hóa không dấu diếm nhưng tác già Walter Isaacson (21) chỉ trích Tiến sĩ Kissinger không thành thật về điểm này. Điều quan trọng là Kissinger nghĩ Hoa Kỳ sẽ cưỡng bách thi hành Hiệp định bằng trừng trị vi phạm, theo đó ông và TT Nixon cam kết riêng với ông Thiệu nó đã gây xôn xao hai năm sau khi Sài Gòn đang sụp đổ. Ngày 14-1-1972 ông đọc bức thư hứa với Thiệu (do ông soạn cho Nixon) nếu Hà Nội vi phạm thỏa hiệp thì Mỹ sẽ giáng trả ngay và ngày 5-1-1973 một bức thư khác cũng nói tương tự nếu BV vi phạm Hiệp định chúng tôi sẽ trả đũa tối đa.

Henry Kissinger sau này nói vì Hoa Kỳ đương nhiên sẽ cưỡng bách thi hành Hiệp định nên ông mới hứa hẹn với TT Thiệu. Walter Isaacson nói Henry xạo vì ông dư biết nước Mỹ đã quá chán chiến tranh không thể cho phép hứa yểm trợ quân sự được. Ông tin là Hoa Kỳ sẽ ủng hộ cưỡng bách thi hành Hiệp định nhưng lại tránh nói công khai những thư bí mật mà ông viết cho TT Nixon để gửi ông Thiệu. Những thư cam kết này đã không hỏi ý kiến Quốc hội hay phổ biến cho người dân biết. Lý do dễ hiểu là ông ta biết thừa rằng nếu đưa ra bàn luận công khai sẽ bị Thượng Viện cho chìm xuồng ngay.

Walter Isaacson nói hai năm sau tức 1975, Kissinger cho biết khi mới soạn ra ông đã cho phổ biến cho người dân biết, thực ra ông không hề phổ biến. Trả lời phỏng vấn hồi đầu năm 1973 “Hoa Kỳ có gửi quân sang VN không nếu Hiệp định bị vi phạm” ông đáp “Tôi không có ý kiến về tình trạng giả thuyết mà ta không muốn nêu ra”. Trả lời phỏng vấn của Marvin Kalb đài CBS khi nào thực hiện những lời cam kết Kissinger nói “Chúng ta không chấm dứt cuộc chiến này rồi lại tìm cách trở lại”

Nhiều nhà học giả nghiên cứu về chiến tranh Đông dương và các chính khách chê Kissinger lươn lẹo, nói ngược nói xuôi. Cam kết bí mật với TT Thiệu, hai ông Nixon và Kissinger đã vi phạm vai trò Quốc Hội đảm trách trong việc thỏa thuận những cam kết về quân sự. Hai năm sau, 1975 Quốc hội phát giác được chuyện những thư cam kết bí mật của Nixon – Kissinger, nó đã gây phẫn nộ cho nhiều Thượng nghị sĩ như Henry Jackson và góp phần vào không khí cắt hết mọi viện trợ cho miền nam VN (22)

Kissinger có bàn về ý nghĩa và thực trạng của những lời cam kết ấy trong hồi ký của ông (23) nội dung có nhiều điểm hơi mơ hồ và khó hiểu, tôi xin sơ lược như dưới đây.

Suốt hai năm 1973, 1974 sự cưỡng bách thi hành Hiệp định đã thành đề tài tranh luận giống như chính cuộc chiến tranh, lý lẽ chống đối cũng y như thế. Phong trào phản chiến không chấp nhận tiền đề này rằng ta đã thực hiện hòa bình trong danh dự. Họ lý luận nếu dùng bạo lực để thực hiện cưỡng chế sẽ trái với vấn đề cơ bản đó là hỏa lực Hoa Kỳ tự nó là một nguồn gốc sự tàn ác trên thế giới. Cũng chính nhóm này trước đây đã chống đối mọi nỗ lực của chúng tôi nhằm chấm dứt chiến tranh nay họ lại bác bỏ bất cứ chính sách nào dù là để cưỡng bách thi hành Hiệp định hay để giúp đỡ những người mà ta đã chiến đấu vì họ.

Đám phản chiến biện minh cho sự đầu hàng sau khi ký kết Hiệp định bằng đề nghị hoa mỹ: Ta không có “nghĩa vụ” hợp pháp chính thức nào để giúp đỡ Việt Nam hay để duy trì Hiệp định Paris, nhưng chỉ có những bức thư mật của Tổng thống thể hiện ý định của chúng ta muốn làm vậy.

Những bức thư của Tổng thống không phải là cam kết chính thức hợp pháp nhưng nó chỉ thể hiện ý định của vị Tổng thống đang tại chức để tiên liệu đối phó với một tình huống bất ngờ sẽ sẩy ra. Nó đặt ra một bổn phận về đạo đức, tinh thần chứ không phải về pháp lý cho vị TT kế vị nhưng nó cũng suy giảm vì khoảng cách giữa các nhiệm kỳ. Dĩ nhiên không có ông Tổng thống nào có thể ủy nhiệm cho Quốc hội bằng lời tuyên bố đơn phương của mình.

Kissinger cho biết trường hợp Việt Nam, những bức mật thư của Tổng thống được viết ra giữa thời gian bầu cử và nhậm chức, các viên chức cao cấp trong Chính phủ đã công khai nói Hành pháp chính thức quyết định cưỡng bách thi hành Hiệp định, những phát biểu này nhắc lại nội dung trong thư Tổng thống Hoa Kỳ gửi TT Thiệu. Trong mọi trường hợp, sự tranh luận về bổn phận của người Mỹ thiếu trọng tâm. Tổng thống Ford cũng như Nixon không hề đòi một bổn phận chính thức để giúp Việt Nam . Cái mà ta đề cập tới ấy là một vấn đề sâu xa hơn – một bổn phận đạo đức, tinh thần. Chúng ta mắc nợ sự giúp đỡ dân tộc đã đứng cùng chiến tuyến với ta (tức VNCH), mắc nợ số tử thương mà ta để lại (58 ngàn lính Mỹ) và tới nỗ lực chung mà ta đã can thiệp vào

Khi nước Mỹ ký Hiệp định hòa bình, phía bên kia tự động phải biết rằng chúng ta không cho phép họ vi phạm các điều khoản của nó mà không bị nghiêm trị. Không trừng trị vi phạm, ngưng bắn chỉ là sự giả dạng đầu hàng. Tất cả các nhiệm kỳ Tổng thống trước cũng như sau đều nhìn nhận thế, kết quả của cuộc chiến Vùng Vịnh năm 1991 đã được gìn giữ tốt đẹp vì cà TT Bush và nhất là TT Clinton đã dùng vũ lực hay đe dọa để duy trì dàn xếp chấm dứt chiến tranh với Iraq.
Sáu tháng sau Hiệp định, Quốc hội ra luật cấm mọi hoạt động quân sự tại và trên lãnh thổ Đông Dương tức là họ đã chính thức cấm Hành pháp cưỡng bách Hiệp định Paris để đầu hàng CS.”

Nhận xét.

Kissinger tới Sài gòn hạ tuần tháng 10-1972 để thuyết phục TT Thiệu ký Hiệp định Paris nhưng thất bại, ông Thiệu phản đối dữ dội và mở chiến dịch chống Kissinger và bản Dự thảo trên Đài phát thanh, Truyền hình. Kissinger tức giận điện về Hoa Thịnh Đốn cho Tổng thống đề nghị ký riêng rẽ với BV nhưng Nixon từ chối, ông không muốn ký vội vã trước bầu cử 7-11 vì biết chắc mình sẽ đắc cử nhiệm kỳ hai qua thăm dò. Sang tháng 11, Nixon đã đắc cử, tại Sài Gòn ông Thiệu vẫn không ngớt chống đối ký kết, đòi BV phải rút hết quân và đòi sửa 69 điểm trong dự thảo mà ông cho là bất lợi cho miền nam VN. TT Nixon bèn nhờ Tướng Haig sang Sài Gòn để thuyết phục ông Thiệu ký Hiệp định vì Quốc hội và người dân đang sốt ruột trông chờ hòa bình. Nixon gửi thư ngày 9 và sau đó ngày 14 gửi thêm một bức nữa hứa hẹn sẽ trừng trị mọi vi phạm của BV. (24)

“Tôi xin cam kết với ông nếu Hà Nội vi phạm Hiệp định , tôi sẽ giáng trả họ nhanh chóng và ác liệt.”

Những thư cam kết của Nixon có nội dung tương tự hồi đó có mục đích tao niềm tin cho miền nam VN để họ an tâm tin tưởng vào việc ký kết. Phía VNCH, ông Thiệu và các phụ tá, cố vấn chính trị, ngoại giao của ông vẫn tỏ ra cứng rắn không chịu ký kết. Nội tình nước Mỹ vô cùng bất lợi cho miền nam VN nếu ông Thiệu tiếp tục trì hoãn hòa bình. Gió đã đổi chiều, tại chính trường Mỹ nay hầu như không còn ai ủng hộ chiến tranh Đông Dương, trái lại họ muốn có hòa bình. Nixon nói về thực trạng bi đát của Hiệp định, nội tình nước Mỹ trong hồi ký (25) như sau, xin sơ lược.

“Trong khi thương thuyết với TT Thiệu tháng 1-1973, tôi đau lòng được biết Hiệp định Paris là một sự cần thiết về chính trị nếu ta tiếp tục giúp VNCH. Quốc hội đang sẵn sang bỏ phiếu chấm dứt chiến tranh nếu ta không ký được Hiệp định. Các nhà phân tích lập pháp của chúng tôi tiên đoán có thể có một thử thách lớn đối với chính sách về VN của chúng ta khi Quốc hội nhóm họp trở lại. Chắc chắn Hà Nội sẽ cản trở hòa đàm. Ngày 2 -1-1973 khối Dân chủ Hạ viện bầu nội bộ với tỷ lệ 154-75 để cắt hêt viện trợ cho mọi hoạt động quân sự ở Đông Dương vừa khi đã đưa quân về nước và lấy lại tù binh. Đó có thể là cách đầu hàng hèn hạ nhất đối với nhu cầu cấp thiết nhất của BV. Hai ngày sau, bầu cử nội bộ Dân Chủ Thượng Viện cũng thông qua dự luật tương tự tỷ lệ 36-12”

Mấy năm liên tiếp tại bàn hội nghị, Hà Nội đòi Mỹ phải loại bỏ chính phủ Thiệu, rút khỏi VN, cắt hết viện trợ cho VNCH… thì sẽ thả tù binh, nay các vị Trưởng khối tại Thượng viện đã cảnh cáo Nixon nếu không có hòa bình, nếu ông Thiệu còn gây trở ngại họ sẽ ra luật chấm dứt chiến tranh, cắt hết viện trợ miền nam VN, rút hết quân.. để đổi lấy 587 người tù binh Mỹ.

TT Nixon và phụ tá Kissinger thường nhắc cho ông Thiệu biết phải nhận thức rõ ai là bạn, ai là thù, nay ngoài kẻ thù BV, hành pháp còn phải đối phó với Quốc hội thù nghịch chống đôi chính sách hành pháp, âm mưu xiết cổ Đông Dương.
TT Nixon đã hứa hẹn, cam kết thực tình với ông Thiệu chứ không phải để lừa gạt ông Thiệu, thật vậy ông nói (26)

“Khi từ chức ngày 9-8-1974, tôi vô cùng bất mãn với thực trạng của VN sau khi kết thúc hòa đàm Paris . Tôi đã coi hai điều kiện rất cần thiết phải làm: chúng ta phải giữ một sự đe dọa của Mỹ để trả đũa sự xâm lăng của BV và tiếp tục nguồn viện trợ cho VNCH đủ để giữ cán cân quyền lực. Nhưng cả hai kế hoạch đều bị Quốc hội phá hỏng hết.

Kế hoạch của TT Nixon đúng như ông đã hứa và cam kết với ông Thiệu: Trước hết xin cấp quân viện đều đặn cho miền nam VN, kế đó trừng phạt sự vi phạm nếu có của Hà Nội bằng B-52. Những lời cam kết hứa hẹn ấy đã được thể hiện trong những bức thư mật vì nếu đưa ra Quốc Hội sẽ bị phản đối ầm ĩ ngay. Nixon âm thầm với kế hoạch cưỡng bách thi hành Hiệp định và tin là ông sẽ thực hiện được trong nhiệm kỳ thứ hai của ông cho tới năm 1976.

Theo Larry Berman (27) nay những hồ sơ giải mật cho thấy Nixon và Kissinger chỉ chờ Hà Nội vi phạm Hiệp định để oanh tạc trả đũa bằng B-52 ngay, cái mà họ gọi là cưỡng bức thi hành Hiệp định. Nixon tin dân Mỹ sẽ chấp thuận sự giám sát thi hành Hiệp định sau khi đã ký.

Sáng 30-11-1972, Tổng thống Nixon và Kissinger họp Ban tham mưu liên quân, Kissinger thuyết trình về bản dự thảo Hiệp định ngưng bắn và sự vi phạm sau ngày ký kết. TT Nixon nói nếu Hà Nội vi phạm, họ sẽ bị trả đũa nặng nề. Đô đốc Thomas Moorer, Tham Mưu Trưởng Ban Tham Mưu Liên Quân đã thảo kế hoạch tấn công BV. gài mìn trở lại và xử dụng B-52 oanh tạc Hà Nội, nếu BV vi phạm Mỹ sẽ giáng trả khốc liệt. Sự giáng trả bằng B-52 nhắm vào Hà Nội phải ồ ạt hữu hiệu….

Như thế cam kết của TT Nixon với ông Thiệu là hoàn toàn chân thực nhưng nó chỉ là lời hứa cá nhân giữa hai ông Tổng thống. Với cái nhìn chủ quan Nixon tin là sẽ được người dân ủng hộ nhưng vấn đề đặt ra là ông có thực hiện được lời cam kết ấy hay không? người dân và Quốc hội có đồng ý với ông không?

Tác giả Larry Berman đặt giả thuyết nếu không có Watergate và nói hồ sơ giải mật cho thấy Nixon rất muốn trừng trị sự vi phạm của Hà Nội nhưng Kissinger khách quan hơn khi cho rằng người dân sẽ không ủng hộ. Larry nhận xét chưa có ai trả lời đầy đủ như Kissinger.

Trước khi ký Hiệp định Nixon tin tưởng sau khi mang lại hòa bình họ sẽ thôi chống đối ông nhưng ngược lại, họ còn chống đối mạnh hơn sau ngày 27-1-1973. Hết chống chiến tranh họ quay ra Watergate và cuối cùng đã buộc ông phải ra khỏi tòa Bạch Ốc ngày 8-8-1974.

Như thế TT Nixon chỉ thực hiện được những cái trong khả năng hữu hạn của ông và cuối cùng ngay như nhiệm kỳ, bản thân ông còn không giữ được huống hồ lời hứa với đồng minh. Số phận của Hành pháp Mỹ những năm 1973, 1974 bấp bênh như trứng đứng đầu gậy, ốc đã không mang nổi mình ốc, ốc cũng chẳng mang được cọc cho rêu.

Ngày 21-4-1975, ông Thiệu từ chức, lên án Hoa Kỳ bỏ rơi đồng mình, sau này ra Hải ngoại ông và các phụ tá, cố vấn vẫn lến án Hoa Kỳ không giữ lời hứa với đồng minh. Thực ra những lời hứa của TT Nixon với VNCH cuối năm 1972 hoặc đầu 1973 chỉ là lời hứa cá nhân, nó thể hiện ý định của Tổng thống Hoa Kỳ. Như đã nói ở trên, những tháng đầu năm 1975 ông Thiệu đã khiếu nại với chính phủ Hoa Kỳ về những lời cam kết của TT Nixon đã đưa tới hậu quả tai hại: Nhiều Thượng nghị sĩ tức giận vì Nixon-Kissinger đã qua mặt Quốc hội hứa hẹn riêng với đồng minh và họ bác bỏ viện trợ khẩn cấp để xiết cổ VNCH.

Tôi xin kết luận toàn bộ vấn đề như sau:

Tổng thống Nixon có đủ thẩm quyền để hứa hẹn như vậy hay không? Những lời cam kết của Nixon chỉ mang tính cá nhân giữa hai ông Tổng thống, không có giá trị về pháp lý mang tính quốc gia vì nó không được đưa ra Quốc hội. Sở dĩ Nixon và Kissinger không đưa ra Quốc hội vì họ biết trước là sẽ bị bác bỏ.

Đó là lời hứa thật sự với miền Nam chứ không phải là lời dối gạt. Tháng 11-1972 Nixon đã cho lệnh chuyên chở ồ ạt sang VNCH tổng cộng gần 600 máy bay đủ các loại gồm 236 máy bay phản lực chiến đấu và 332 trực thăng, 3 tiểu đoàn pháo binh 175 ly, 2 thiết đoàn xe tăng M-48, trị giá gần tương đương một năm viện trợ quân sự. Trong khoảng thời gian này ông đã họp Bộ tham mưu để chuẩn bị kế hoạch trừng phạt vi phạm Hiệp định của CSBV như đã nói trên.

Ông Thiệu chấp nhận ký Hiệp định Ba Lê không phải vì tin vào những lời hứa cùa TT Nixon như ông đã nói ở trên, cũng không phải vì bị Nixon-Kissinger bắt ép ký hoặc vì sợ bị Nixon cho đảo chính, cắt đầu… mà vì ông không còn con đường nào khác. Ông đã mất hết chỗ dựa tại tòa nhà Lập pháp Mỹ, không còn ai ủng hộ tại Quốc hội. Trước đây các Thượng nghị sĩ, Dân biếu diều hâu đã ủng hộ ông Thiệu, ủng hộ cuộc chiến VN, nay diều hâu đã biến thành bồ cu hết.

Các vị dân cử tại Quốc hội đã từng ủng hộ ông Thiệu trước đây nay đều khuyên ông nên sớm ký Hiệp định vì người dân Mỹ đã quá mong mỏi khao khát hòa bình, không còn ai ủng hộ cuộc chiến sa lầy, nếu gây trở ngại Hiệp định thì chỉ tự gánh hậu quả tai hại cho miền nam VN.

Ông Thiệu không cưỡng lại được định mệnh lịch sử.

Vấn đề đặt ra là nếu Nixon còn tại chức, không bị Watergater lật đổ thì ông có thể giữ lời cam kết với miền nam VN không? Rất khó mà có câu trả lời lạc quan.

Như đã nói trên, mặc dù Nixon chủ quan tin tưởng có thể trừng trị CSBV một khi họ vi phạm Hiệp định nhưng Kissinger lại không tin như vậy, ông này nghĩ rằng người dân sẽ chống đối dữ dội.

Ngoài ra sáu tháng sau khi ký Hiệp định Paris , Quốc hội ra luật cấm mọi ngân khoản xử dụng cho chiến dịch oanh tạc hoặc các hoạt động quân sự khác tại Đông dương, có hiệu lực thi hành từ giữa tháng 8-1973. Nixon cho biết ông không còn quyền hạn gì để giữ gìn hòa bình tại Đông dương, Quốc hội đã tước đoạt hết mọi quyền hành động của ông (28)
Như Kissinger đã nói ở trên: Quốc hội Mỹ đã chính thức cấm Hành pháp cưỡng bách thi hành Hiệp định Paris để đầu hàng CS.

Sau khi thấy Nixon-Kissinger bắt tay được Trung Cộng tháng 2-1972 và hòa hoãn được với Sô Viết tháng 5-1972, Quốc hội phản chiến Mỹ yên chí là Nga, Tầu đều đã từ bỏ mộng xâm lăng, chiến tranh nóng lạnh không còn, bây giờ thiên hạ thái bình và họ vội vã cắt viện trợ quân sự bỏ Đông dương.

Nhưng thiên hạ đại loạn hay thiên hạ thái bình, chiến tranh nóng lạnh còn hay hết, thời gian sẽ trả lời.

© Trọng Đạt

© Đàn Chim Việt
——————————————————-
Chú thích
(1) Lary Berman – No Peace No Honor trang 3
(2) Sách đã dẫn, trang 146
(3) Sách đã dẫn, trang 183-184
(4) Richard Nixon No More Vietnams trang 155,
(5) Our vigilance with respect to the prospect of its violation – No Peace No Honor trang 187.
(6) No Peace No Honor trang 187
(7) Walter Isaacson, Kissinger A Biography trang 486
(8) To enforce and protect the agreement
(9) No Peace No Honor trang 187-188
(10) Sách đã dẫn trang 197.
(11) Sách đã dẫn trang 199
(12) Sách đã dẫn, trang 200
(13) What is most important is the commitments which the President made to you, which we will put on record in our files, commitments from the President of the United States ” Sách đã dẫn , trang 202.
(14) They had dodged with Duc, but not with history, No Peace No Honor trang 202
(15) We will respond with full force should the settlement violated by NorthVietnam. Walter Isaacson, Kissinger A Biography trang 486
(16) No More Vietnams trang 167
(17) These commitments were what finally convinced me to sign-
Walter Isaacson, Kissinger A Biography trang 486
(18) No Peace No Honor trang 263
(19) These were never treated as national commitments.Sách đã dẫn trang 263
(20) Sách đã dẫn trang 269
(21) Kissinger A biography trang 486
(22) Kissinger A biography trang 487
(23) Years of Renewal trang 470, 471
(24) No More Vietnams trang 156.
(25) Sách đã dẫn, trang 169
(26) Sách đã dẫn trang 189
(27) No Peace No Honor trang 203, 204
(28) No More Vietnams trang 178, 179, 180

33 Phản hồi cho “Những bức thư cam kết của Nixon”

  1. dn says:

    Son nói
    Thực sự đến trước thời gian ký hiệp định Ba lê (tháng 1.1973), Mỹ đã hết bài rồi. Con Át chủ bài cuối cùng Mỹ đem ra sử dụng là máy bay CL B52 đã hết thiêng. Trên 30 máy bay B52 “niềm tự hào của nước Mỹ” bị CSVN biến thành đống sắt vụn bởi SAM2 trong 12 ngày đêm trên bầu trời Hà Nội, nên có cho kẹo Mỹ cũng cũng không dám dùng B52 trở lại tác chiến sau năm 1973.
    Tổng thống Mỹ, quốc hội Mỹ thừa hiểu cái cơ thể quái thai VNCH do Mỹ sinh ra (bố Pháp-mẹ Mỹ) dù có bơm đủ các các loại “chất bổ” nó cũng không sống khỏe được, vì cơ thể nó mang đủ các chứng bệnh bệnh nan y ngay từ khi mới ra đời, đã đến giai đoạn cuối, không thể cứu chữa được.
    Hơn nữa, ý chí thống nhất Tổ quốc “nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một” của những người CSVN – đại diện cho đại đa số người dân Việt Nam là vô địch, không thế lực ngoại bang nào và tay sai của chúng có thể lay chuyển nổi. Đó là cốt lõi của vấn đề.
    (thôi trích)

    Bạn Sơn nói phóng đại quá đáng, tồng cộng chỉ có 15 máy bay chiến lược B-52 bị bắn rơi thôi cộng với 12 máy bay chiến đâu (loại nhỏ), 15 máy bay B-52 chỉ là con số nhỏ trong tổng số 400 B-52 của Mỹ. Cuối năm 1972 Cộng sản Bắc Việt tưởng bở không chịu họp Hội nghị chờ Quốc hội Mỹ ra luật cắt quân viện miền nam VN rút quân về nước. Tính sai nước cờ nên CSBV mới ăn trận đòn thê thảm
    Năm 1975 người dân và Quốc hội Mỹ quá chán chiến tranh với một kẻ thù cùi hủi dùng chiến lược cố đấm ăn xôi, nếu Quốc hội Mỹ và người dân còn ủng hộ chính phủ thì năm 20 sư đoàn Vẹm năm 1975 không còn một mống.

    Nói là do ý chí thống nhất cho vui thôi chứ thực ra cuộc chiến 1975 như ông Bùi Tín (Đại tá CS) nói cuộc chiến 1975 này chỉ là một cuộc ăn cướp vĩ đại, thật vậy anh CSBV theo xã hội chủ nghĩa chết đói phải ráng hy sinh hơn một triệu quân để cướp cho được miền nam VN vơ vét thóc gạo, vàng bạc, TV, Honda.. chiếm nhà cửa ruộng đất của dân. Nói là giải phóng cho vui thôi chứ kỳ thức là thằng chết đói ăn cướp để sinh tồn
    Cốt lõi của vấn đề nằm ở chỗ đó

  2. LÊ - KHẢ -Ố says:

    1974 pre.R.Nixon bán đứng pre. Thiệu & south VN cho cộng sản thế giới .!
    Ngày nay Google & google+ cũng bán đứng user cho an ninh việt cộng .!
    BE CAREFUL………

  3. Son says:

    Thực sự đến trước thời gian ký hiệp định Ba lê (tháng 1.1973), Mỹ đã hết bài rồi. Con Át chủ bài cuối cùng Mỹ đem ra sử dụng là máy bay CL B52 đã hết thiêng. Trên 30 máy bay B52 “niềm tự hào của nước Mỹ” bị CSVN biến thành đống sắt vụn bởi SAM2 trong 12 ngày đêm trên bầu trời Hà Nội, nên có cho kẹo Mỹ cũng cũng không dám dùng B52 trở lại tác chiến sau năm 1973.
    Tổng thống Mỹ, quốc hội Mỹ thừa hiểu cái cơ thể quái thai VNCH do Mỹ sinh ra (bố Pháp-mẹ Mỹ) dù có bơm đủ các các loại “chất bổ” nó cũng không sống khỏe được, vì cơ thể nó mang đủ các chứng bệnh bệnh nan y ngay từ khi mới ra đời, đã đến giai đoạn cuối, không thể cứu chữa được.
    Hơn nữa, ý chí thống nhất Tổ quốc “nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một” của những người CSVN – đại diện cho đại đa số người dân Việt Nam là vô địch, không thế lực ngoại bang nào và tay sai của chúng có thể lay chuyển nổi. Đó là cốt lõi của vấn đề.

    • Nguyễn Thế Viên says:

      VNCH (hậu thân cuả Quốc Gia VN) không ký kết HĐ Genève 1954 chia đôi đất nước mà còn cương quyết phản đối dù vô vọng. Chính CSVN đã cùng Pháp ký kết HĐ chia đôi đất nước. Lich sử còn rành rành ra đấy.
      Sau HĐ Genève 1954, nhân dân Miền Nam đã hoàn toàn dành lại độc lập trong tay người Pháp mà không tốn xương máu. CSVN dưạ vào Tàu cộng và Nga cộng để gây chiến tranh thống nhất đất nước mà chính họ đã chia cắt. VNCH không thể dùng tay không để chống xâm lăng CS BV. Đó là giải thích cho việc nhờ vả HK. Ước vọng thống nhất là cuả chung tất cả người VN, không phải là độc quyền cuả CS, nhưng phải là TN trong tự do dân chủ chớ không phải trong độc tài CS. Ước chi VN cũng giống như Đông và Tây Đức!

    • Sinh Bắc tử Nam 5 triệu says:

      ” Sinh Bắc tử Nam” rụng chết như lá mùa thu, giấy báo tử rơi đầy mái rạ ! Dân số có mấy chục triệu mà ăn bom B52 và pháo của Đệ Thất Hạm Đội đến nỗi bị thiệt hại đến gần 5 triệu khiến người Mỹ phải ghê tay bắn giết mà rút lui khỏi chiến trường .

      Bọn lính tay sai cho đế quốc Trung- Xô chết nhiều quá đến nỗi các nhà ngoại cảm về sau tìm không xuể, phải đem xương chó, mèo, lợn, khỉ thế vào .

      *** Theo tài liệu đúc kết từ Đại Hội 4 của CSVN năm 1976, ít nhất là 4.000.000 thanh niên miền Bắc đã chết trên chiến trường – gồm cả số người chết trên đường xâm nhập từ Bắc vào Nam.

      *** Tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang, một nhà cách mạng cs lão thành, đã viết:“Ai phải chịu trách nhiệm đối với những con số ghê rợn thế này:1.1 triệu liệt sĩ; 559.200 thương bệnh binh; hơn 300,000 người mất tích; ( Báo Tổ Quốc số 29 )

      ***Theo Nhật ký Thùy Trâm, thương binh nào không chạy theo đơn vị được thì được dồn tạm vào một trạm xá nào đó, chỉ ít lâu sau, bị nhiễm trùng vì không thuốc men, bị bỏ đói rồi chết, may mắn lắm mới được Mỹ ngụy bắt làm tù binh

      ***Nhà ngoại cảm XHCN -27/10/13 | Tác giả: Ông Bút : Nhà ngoại cảm XHCN, chỉ mất công tìm xương heo, cốt chó đưa vào “nghĩa trang liệt sĩ.” Không thiếu trường hợp nhiều người mang về thờ, hết sức trang nghiêm, đến chừng xét nghiệm hóa ra xương chó!
      Tai nạn nghề nghiệp cho nhà ngoại cảm, vừa qua bà Phạn Thị Bích Hằng, dám tợn gan đem răng heo, mảnh sành, nói là cốt Phùng Chí Kiên, tay này được Hồ Chí Minh/Hồ Tập Chương, phong tướng đầu tiên..

      ***Chạm Đáy – Tác giả: Bùi Tín: … hàng chục ngàn liệt sỹ của các nhà ngoại cảm » được nhà nước khen thưởng bỗng lộ nguyên hình là trò bịp lớn, với những răng lợn rừng, xương khỉ, mảnh sành,…

      • BUILAN says:

        Trước hết có tôi trân trong ĐỌC – NGHE hết tiếng noí cuả lương tri đạo lý , tình người _ Tôn trong sự thật…

        Xin tiếp lời trong tinh thần “Noí có sách mách có chứng” Kính quý

        http://www.youtube.com/watch?v=2QxJiMu1wpc

        Thơ Chế Lan Viên : TÔI? AI?
        Mậu Thân 2000 người xuống đồng bằng
        Chỉ một đêm còn sống có 30

        Ai chịu trách nhiệm về cái chêt 2000 người đó
        Tôi!
        Tôi người viêt những câu thơ cổ võ
        Ca tụng người không tiếc mạng mình
        Trong mọi cuộc xung phong
        Một trong ba mươi người ở mặt trận về sau mười năm
        Ngồi bán quán bên đường nuôi đàn con nhỏ
        Quán treo huân chương đầy mọi cỡ
        Chả huân chương nào nuôi đươc người lính cũ!
        Ai chịu trách nhiệm vậy?
        Lại chính là tôi!
        Người lính cần môt câu thơ
        Giải đáp về đời
        Tôi ú ó!
        Người ấy nhắc những câu thơ làm người ấy xung phong
        Mà tôi xấu hổ
        Tôi chưa có câu thơ nào hôm nay
        Giúp người ấy nuôi đàn con nhỏ
        Giữa buồn tủi chua cay vẫn có thể cươi.

  4. Nguyễn Thế Viên says:

    Tổng Thống Nguyên Văn Thiệu có phản quốc không?
    (Để góp ý với Áo Vải Cờ Vàng)
    Thưa Ông/Bà Áo Vải Cờ Vàng,
    Xin cám ơn nhắc nhở cuả ông/bà. Trong tinh thần tôn trọng, tôi xin có đôi điều giải thích:
    Trước hết, tôi dùng tên that để chịu trách nhiệm về những phá biểu cuả mình. Có thể tôi sai do kém hiểu biết và sẵn sàng nhận chỉ giáo, nhưng tôi không nói dối hay nguỵ biện. Bày tỏ như vậy để xin ông/bà hiểu là tôi thành thật.
    Tôi cho rằng ông Nguyễn Văn Thiệu phản quốc vì:
    - Biết rõ HĐ Paris hoàn toàn bất lợi và có thể dẫn đưa đến mất VNCH mà vẫn cam tâm chịu áp lực ngoại bang mà ký kết. Như vậy không là phản quốc sao?
    - Ông Thiệu cố ý tiêu diet QĐVNCH: Ông Thiệu là người tài giỏi , khôn ngoan nên mới leo lên được cấp tướng và sau là Tổng Thống. Có cả tài năng chính trị lẫn thao lược quân sự, ông Thiệu thâu tóm quyền lực và trực tiếp lãnh đạo, chỉ huy quân đội (theo ĐT Cao Văn Viên, Bộ TTM chỉ là một hộp thư). Do đó, không thể vì ngu dốt hay vô tình mà đưa ra một lệnh “tái phối trí” quái gở. Thực chất đây chỉ là một mệnh lệnh có chủ ý để buộc hàng trăm ngàn quân, dân Cao Nguyên và Miền Trung tháo chạy vô trật tư làm mồi cho cộng quân tiêu diệt. Qua hệ thống truyền thanh quốc gia, ông Thiệu gởi thông điệp cho toàn dân cả quyết không bỏ Huế, không bỏ Cao Nguyên. Liền sau đó ra các mệnh lệnh mâu thuẫn:tử thủ rồi lại lui quân gấp rút, đột ngột bỏ mặc đồng bào và cả Điạ Phương Quân. Phải chăng đây là ý định gây hoang mang, mất tinh thần chiến đấu nơi toàn thể quân, dân hầu dễ dàng tiêu diệt Quân Lực VNCH. Hàng trăm ngàn vong linh tử sĩ, đồng bào trong di tản Miền Trung và Cao nguyên đang hỏi tội ông Thiệu nơi chin suối?! Không một người bình thường nào lại có thể ra những lệnh quái gở, tiền hậu bất nhất như thế, huống chi một người tài giỏi cả chính trị lẫn QS như ông Thiệu. Không nghi ngờ gì cả: Ông Nguyễn Văn Thiệu đã làm tan QĐVNCH! Như vậy có phản quốc không?
    - Vào thời gian vô vọng cuối cùng, khi không còn chút hy vọng, ông Thiệu từ chức (đây là hành động “chạy làng”) sau đó là đào ngũ và trốn chạy ra nước ngoài trong khi mọi người còn đang chiến đấu chống xâm lăng (dù là trong tuyệt vọng!). Đào ngũ sau khi phá tan QĐ, như vậy ông Thiệu có đáng bị cho là phản quốc không?
    Còn về cá nhân, ông Thiệu có thể là người bình dân, rộng rãi (theo kiểu phóng tiền tài mua nhân tâm) với thuộc cấp. Nhiều người còn mang ơn ông Thiệu nhờ có nhiều bổng lộc. Ông có cung nô bộc tốt nên có nhiều người giúp cả trong lúc xuống thế (T/T Nguyễn Hùng Chương Q.CSV Sở Nội Dịch PTT nói với tôi “cả khi ông Thiệu từ chức “anh em” vẫn thương và bảo vệ ông”. Ngày nay vẫn có người thương tiếc.!
    Ông Thiệu đã chết, nhưng ông không là người bình thường mà là một nhân vật LS. Các nhân vật như Hitler, Stalin, HCM ….đâu còn tự biện hộ được mà sao vẫn còn bị người đời lên án, khen, chê??
    Tôi không có tài nên không có mộng “cứu nhân độ thế”. Năm 1975 tôi chỉ là một công chức nhỏ cả về cấp bậc, chức vụ lẫn tuổi tác (chưa tới 30). Mới có 4 năm thâm niên công vụ mà tô đã trải qua 5 nhiệm sở từ trung ương đến điạ phương. Cuối cùng chỉ là nhân viên quèn. Bị thuyên chuyển nhiều không phải do bị “đì” nhưng vì không thoả hiệp với các tệ nạn tham ô, nịnh bợ. Tôi xấu hổ vì ngu và hèn:
    - Ngu nên cúc cung vâng lời thượng cấp ba hoa tuyên truyền cho HĐ Paris bán nước!. Hèn vì tuy băn khoăn nhưng vẫn không dám lên tiếng nghi vấn về các điều khoản bất lợi cho VNCH cuả HĐ.
    - Hèn vì chỉ dám không tham gia hay từ chức chớ không dám tố cáo tham ô mà mình biết rõ.
    - Chỉ là HS trung học vào sau đảo chánh 1/11/1963 tuy đã có ý thức là Miền Nam đã bị mất chủ quyền và sẽ mất về tay CS mà không dám tích cực đấu tranh chống bọn tay sai ngoại bang. Tôi càng hổ then thêm khi nghĩ đến gương cuả các bạn trẻ trong và ngoài nước như Minh Hạnh, Phương Uyên, Việt Dzũng….
    - Ngày nay đang sống tự do ở HK mà tôi vẫn hèn. Nhớ lại, tôi đã từng lo lắng do bị vợ con cằn nhằn bởi những lời lăng nhục cuả một số người khi tôi viết một trên một tờ báo điạ phương để minh định là đồng bào, chiến sĩ và cán bộ – công chức VNCK khác và không phải bọn quân phiệt và tham quan ô lại. Tôi cũng hèn và nhát khi it muốn giao thiệp với “đồng khoá” vì sợ làm mất lòng họ như trong một thào luận: trong khi mọi người vui vẻ, hân hoan nhớ lại một bạn cùng khoá được làm Phó Tỉnh Trưởng, tôi lại choang một câu: các bạn cho là vinh dự, nhưng tôi cho là nhục vì vui gì vai trò cầm…cho các anh Tá tham…..! Có mấy quan tỉnh không tham nhũng. Làm sao mà PTT không hợp thức hoà giấy tờ (tham nhũng) cho các quan Tá tham?!”
    Cần phân biệt rõ ràng giưã người yêu nước và kẻ bán nước hại dân. Có như thế mới không làm hoen ố chính nghiã Quốc Gia.
    Nguyễn Thế Viên

    • Áo vải cờ đào says:

      Thưa anh Viên, thành thật hân hạnh đươc nghe lời giải thích, cũng như tâm sự của anh! Hy vọng rằng, sau khi trãi lòng replying cho tôi, sẽ nhẹ đi phần nào nỗi niềm trăn trở trong anh. Thưa thật cùng anh, đọc những giòng tỏ bài anh viết mà lòng tôi chùng xuống một nỗi buồn, feels cho anh, thương cho tôi, đau cho các anh/người lính QLVNCH đã hơn một lần nằm xuống giữa lòng đất mẹ, họ đã vắt máu tim mình để bảo vệ màu cờ sắc áo với lời thề bảo quốc, an dân và cho cả tiền đồ dân tộc. Tôi thấy mình thật nhỏ bé tầm thường trước sự hy sinh của bậc đàn anh như PQQ TVB người mà đã hơn một lần chia tay với lời thề…Quang phục QH VN, để rồi…Một lưỡi gươm linh trả nợ đời, qua chi sông Dịch hỡi người ơi! Thưa anh Viên, cá nhân tôi chỉ là một kẻ lang bạt kỳ hồ, ba chìm bảy nổi chin lênh đênh, tôi đã mất quê hương, đã tận sức người và hình như…Không còn gì để mất thì có xá gì một cái tên?! Khi góp mặt ở diễn đàn…Dao hai lưỡi nầy, thú thật tôi chỉ ngại (sợ) liên lụy thân nhân ở VN, chứ riêng tôi thì…(!) Xin ở anh Viên một điều thứ lỗi, dù sao giữa chúng ta cũng…Chưa hẳn là bình thủy tương phùng! Thưa anh Viên, tôi xin phép được trình bài quan niệm của mình tóm gọn để khỏi mất thời giờ của nhau. Thời anh làm việc công chức/hành chánh 1975 Avcđ tôi chỉ là một teenager. Tôi không phải là trạng sư, chiến lược gia, bình luận gia hay quản gia gì của ông TT Thiệu, mà cũng chẳng bà con xa gần gì ráo nạo! ( chỉ duy nhất hân hạnh được ông rua/bắt tay một lần khi tôi là toán viên nòng cốt ND tự vệ xuất sắc của Xã ) Ô Thiệu MT, tôi MN. Trở lại khúc quanh bối cảnh LS đệ nhị VNCH bla, bla LS đã sang trang. Tôi đã đọc quyển Cuộc Triệt Thoái BMT (P.H), hồi ký tr t Ngô Quang Trưởng và nhiều bài viết của các chính khách, báo chí “Lưỡng Đạo Hắc Bạch” vân vân. Họ chửi bới ô Thiệu biển thủ 16 tấn vàng trong ngân khố QG, Anh Viên có tin không? Tôi tin! Tôi ĐÃ tin như vậy!! Và khi gia nhập PTKCPQQHN anh em chúng tôi còn…Nguyền rủa gia phả nhà ông nữa!!! Một thời gian dài, ông không cãi chính, chẳng viết sách/hồi ký biện hộ, ông chỉ xuất hiện trước công chúng vài lần, đối thoại qua loa…Tôi có lỗi với quốc dân đồng bào MNVN nhưng tôi không có tội với tổ quốc và tôi chờ xem quý vị sẽ làm được gì hơn tôi. (Avcđ chỉ nhớ đại khái vậy thôi) Chừ đã ba mươi chin năm rồi, những người chửi rủa ông Thiệu trong đó có tôi, đã làm được những gì? Đã quang phục QH chưa?? Thưa anh Viên, người Mỹ có câu Truth set you free người xưa cũng có nói Cây ngay không sợ chết đứng! Tôi phản hồi bình luận của anh vì anh viết đến hai bài: ở trên anh viết…”Nói gì đi nữa thì Nguyễn văn Thiệu vẫn là kẻ phản quốc:,,,cúc cung nghe lệnh ngoại bang là hại nước, hại dân. Mọi bào chữa của đàn em càng làm trơ trẽn thêm…”./ Rồi phần ở dưới anh viết…”Giữa hai cái xấu, người QG phải đau đớn chọn cái đỡ xấu nhất. Không thể tay không chiến đấu với CSVN cực ác với sự yểm trợ hùng hậu của CS quốc tế. Người QG phải đành dựa vào; Thế Giới Tự Do, tiếc thay đã bị “đồng minh” phản bội…” Tôi đồng ý hoàn toàn phần dưới của anh! Và những lời tâm huyết trong…Phần dưới của anh, tự trả lời cho…Phần trên về sự đả kích nặng nề…Cựu TT VNCH NVT. Theo tôi ông Thiệu đã làm tất cả những gì mà lãnh đạo của một nửa 1/2 nước VN có thể làm được trong thời điểm đó. Xin hỏi anh Viên, thời gian HĐ Paris ra đời, đồng minh của QG và QLVNCH còn những QĐ ngoại bang nào hiện diện ở MN VN? Tôi đoán là ông Thiệu muốn câu giờ, khi biết Mỹ đã nhõm đít, cũng giống như anh nghĩ vậy, cái xấu gần (6 tháng tối đa 1 năm QLVNCH hết đạn sau khi Mỹ Dzọt), cái xấu xa hy vọng xoay ngược thế cờ chiến cuộc. Tóm lại, ký cũng chết, không ký càng chết nhanh hơn. Công tâm mà nói về cuộc Triệt thoái cao nguyên, đây là cái sở đoãn và cũng là một vết nhơ trong cuộc đời làm chính trị của Nguyễn Văn Thiệu, ông không giết bá nhân nhưng bá nhân vì ông mà chết, mà một phần trong đó là sự háo thắng của ông, ông có lỗi, nhưng…Phản Quốc thì hãy để VC nói. trân trọng cùng anh chia sẻ đôi điều, cầu mong ơn trên cho anh vạn sự lành, một người em trong đại gia đình VNCH. Áo vải cờ đạo

      • nguyễn Thế Viên says:

        Thưa anh Áo Vải Cờ Vàng,
        Tôi cảm mến phản hồi cuả anh và tin rằng anh thành thật. Xin thành thaậ chia sẻ:
        Tuy là một viên chức nhỏ bé, tôi đã có thời kỳ, do công vụ, vào mỗi thứ bảy hàng tuần, được thấy ông Thiệu từ xa. Tôi cũng có dịp biết một số thân nhân ruột thịt cuả ông Thiệu. Kể vậy để nói raằg về cá nhân tôi rất mến ông Thiệu. Ngoài ra, theo tôi , dù không phải là khoa bảng, ông Thiệu là người thông minh và giỏi dang. Do đó, những ý kiến cuả tôi về ông ta chỉ là muốn noí rằng chúng ta phải phân minh. Thời gian ngắn ở chốn “quan trường” và tù tội cho tôi rút ra được một bài học: Chúng ta (những người QG) có chính nghiã, nhưng đã bị những kẻ bất xứng làm hoen ố. Đó cũng là lý do chính mà chúng ta mất nước về tay CS. Cho tới giờ này, trong nhiều buổi họp “khoá” nhièu SQ, CC còn hãnh diện về những điều đáng ra là phải thấy nhục (ăn chơi, bài bạc, tham ô……). Tôi nói vậy không phải là tôi tốt đẹp gì. Trước 1975 tôi vốn bị che cười là khùng, cũng như bị CS, lên án sau cái chết cuả Anh Lê Khắc Sinh Nhật do CS giết, vì đã âm thầm nhưng quyết liệt gạt tụi SVCG than cộng xâm nhập vào hang ngũ SVCGSG. Tôi không là nhân viên an ninh hay tình báo. Khi ra trường tôi, tuy có rất nhiều cơ hội, tôi đã không nắm lấy để thăng quan tiến chức. Ngày nay tôi có trong danh sách không được về VN dù chẳng nổi bật gì và quá nhỏ bé so với các ông NCK. PD….Tôi không về VN chỉ vì hèn nhát: tôi sợ bị bắt mà lại không có can đảm “giữ mồm giữ miệng”. Tôi phục những người tự nhân là tỵ nạn CS mà ra vào VN như chợ. Họ có can đảm im lặng trước các điều chướng tai gai mắt, đầy dung khí cười “cầu tài” với từng anh CA khu vực hay nhân viên quỷ ban điạ phương….. Do hèn, trước khi trốn chạy sang HK tôi đã xin phép và được Cha tôi cho phép chỉ về VN khi không còn CS. Tôi cũng được các em cùng cha khác mẹ đồng ý là không nhận tiếp tế. Tôi hèn mới trốn chạy vvà chẳng làm được gì. Nếu can đảm, tôi đã ở lại trong nước để đấu tranh hay it ra để vui vẻ a dua với CB/CS để được giàu có như các bạn tôi ở lại.
        Về vụ 16 tấn vàng. Từ lâu tôi đã không tin VC. Ngoài ra, tôi có một người bạn là cháu họ xa cuả TT Trần Văn Hương (gọi bang cậu) cho tôi biết (khoảng năm 1983) là ông Hương đã nói với anh ấy rang (tôi không nhớ nguyên văn, nhưng đại ý) ” Tôi (Cụ Hương) giữ lại 16 tấn vàng vì đây là tài sản QG…”.
        Theo tôi, Ông Thiệu biết rất rọ HĐ Paris là dấu hiệu VNCH sẽ bị mất nhưng ông vẫn ký vì sợ chết (Nixon hăm doạ). Ở cương vị lãnh đạo QG, nếu cần, người ta phải hy sinh cả mạng song để dù không làm gì được thì cũng không thể hành động phản nước (td TT Ngô đình Diệm chỉ cần chiều theo HK thì sẽ không chết). Tôi biết rang những năm trước 1975, ông Thiệu đã chuyển nhiều đồ cổ ra ngoại quốc. Hai đầu mối chính là qua ngõ toà ĐS cuả hai ông anh (Anh và Đài Loan). Tôi tình cờ được người thường được Bà Thiệu (còn song) sai đi mua đồ cổ khoe: “mỗi lần đồ cổ nào bà TT không thích thì kêu tôi (người đi mua) và nói “cho em đó”. Tôi đem ra Thành Lễ trả và lấy tiền…). Chảng cần chứng minh xa gần mà chỉ nhìn căn nhà ở Boston cuả ông, tuy không nguy nga lắm so với các triệu phú HK nhưng một người tỵ nạn gấp rút như ông khó có thể mua nổi. Hơn nưã, trong khi đa số mọi người tỵ nạn phải vất vả kiếm sống thời gian đầu nơi xứ lạ quê người thì gia đình ông Thiệu sống đòi sống thế nào? mà chẳng phải lao động gì cả? Hỏi là trả lời…..
        Khi tôi viết với tên thật, tôi tin rằng nhiều bạn hữu, đàn anh và cả chỉ huy cũ biết ngay là tôi vì hình như going điệu “khùng điên” cuả tôi vẫn như xưa. Nếu tôi nói dối để khoe mẽ, họ sẽ khinh thường tôi. Tôi có thể sai vì kém, vì quên, nhưng tôi không nói dối.
        Một trong những ray rứt cuả tôi là tôi còn sống đã là một cái tội trước bao nhiêu hy sinh cuả bao nhiêu đồng bào, chiến sỹ QG. Đa số họ có được hưởng bổng lộc như cá ông tướng, tá, quan đâu. May mắn cho tôi và cũng đau khổ cho tôi là tuy nhỏ tuổi mà sao tôi chgng kiến nhiều điều xấu thế. Dẫu vẫn luôn khẳng định rằng CSVN xấu hơn và cực xấu, nhưng không vì thế mà ca ngợi những bất xứng. Chính sự không minh bạch đó ảnh hưởng xấu đến chính nghiã QG. Chúng ta là dân, là quân, là CB, công chức VNCH khác xa và không phải là bọn quân phiệt, tham quan hại dân hại nước. Đừng có tự hạ mình là đàn em cuả những kẻ bất xứng đó. Đây là lý do tôi đã viết thư từ chối tham dự Đại Hội DVCH. Tôi đã khẳng định tôi là công chức QG chớ không là đàn em cuả bất kỳ ai dầu về cá nhân, tôi rất mến ông xếp HĐN cuả tôi và ông ta cũng đã rất ưu ái với tôi!
        Mong được thong cảm và lượng thứ cho những bộch bạch “không going ai” cuả tôi.
        Nguyễn Thế Viên

    • UncleFox says:

      hưa ông Nguyễn Thế Viên,
      Chúng ta đứng ngoài, muốn phê phán thế nào chẳng được . Có một thời gian dài sau 1975, dù không kết tội ông Thiệu phản quốc, nhưng tôi rất giận ông sao không nhất quyết “say no” với thằng Mỹ cho đến cùng rồi chết cũng “oai phong” (như kiểu quân tử tầu mà trong máu người Việt Nam nào cũng ít nhiều nhiễm phải) .
      Thế nhưng chuyện quốc gia đại sự không thể anh hùng rơm kiểu ấy được . Ông Thiệu đã giằng co với Nixon-Kissinger luôn mấy năm trời . Chỉ đến khi hai tay điếm già người Mỹ đe doạ sẽ cho truyền thông Mỹ tố cáo VNCH không chịu thương thuyết, phá vỡ hoà đàm, hiếu chiến vv … thì mới chịu ký bản hiệp ước mẹ rượt với hy vọng nước Mỹ sẽ giữ lời hứa quân viện “một đổi một” và khoản viện trợ ít ỏi còn lại sẽ không bị cắt mất .
      Nếu giả như ông Nguyễn Thế Viên là nguyên thủ VNCH lúc ấy, ông sẽ làm thế nào để khỏi bị mang tiếng “phản quốc” ?
      Còn việc làm cả hai quân khu miền Trung sụp đổ nhanh chóng là do ông Thiệu kém tài điều binh và không tiên liệu được những biến chuyển sẽ xảy ra, hơn là “phản quốc” .
      Tôi mong rằng ông Viên suy xét lại lời kết án nặng nề dành cho ông Nguyễn Văn Thiệu . Tuy nhiên, nếu ông không đồng ý thì cũng chẳng sao . Bởi vì, lịch sử luôn đối xử công bằng với bất cứ ai . Giống như Việt Cộng tô vẽ cho lắm thì Kụ Hồ của tôi vẫn chỉ là Kụ Káo chứ chẳng nên thánh nên thần chi sất !
      Kính ông

      • Lão Ngoan Đồng says:

        Dear UncleFox,

        CS độc quyền “iêu qủi”, wên “iêu lước thương rân”, kiểu Cáo Hồ …

        Thọi và bè lũ cũng độc diễn chính trị, trong khi dở hơn … kít (sinh dzơ) :-) !
        Nói chung cái đảng Kaki Việt Lam Cộng trừ chơi trò quân phiệt (đã thành phong trào thời đó ở các nước gọi là đồng minh với Mọi, such as Nam Hàn, Taiwan, Thái Lan, Nam Dương, Miến Điện …) hay chơi trò người hùng kiểu ông Dịêm ở ta, Lý Thứa Vãn ở Nam Hàn, Marcos ở Phi, Lý Quang Diệu ở Singapore … để dở thói gia trưởng Nho giáo lỗi thời, cấm đoán đủ thứ lỉnh kỉnh (Diệm cấm nhảy đầm; cấm người Việt gốc Hoa làm một số nghề …)

        Túm lại, các lãnh tụ cuốc ra (cuốc dzô), các lãnh đạo đảng phái và quân đội thuộc loai chậm tiêu chậm tiến kể trên, vốn coi mình là cái rún vũ trụ, là lương tâm nhân loại, trái tìm loài người, nên khoái diễn trò LÀM CHA BÀN DÂN THIÊN HẠ, buộc dân phải suy tôn mình thành lãnh tụ, củng đảng phái hay tập thể riêng (như quận đội).
        Bọn chúng dù khác giường như nuôi chung một giấc mộng là, nhất quyết thủ tiêu các đối kháng, bởi íu muốn chia chác quyền lực (powermonopoly).

        Kết, đó là NHỮNG VẬT CẢN LỚN TIẾN TRÌNH DÂN CHỦ HÓA đất nước.

        Như thế có phải mắc tội PHẢN BỘI QUỐC GIA DÂN TỘC chăng !???

        Chẳng ai bắt CS, cũng như Diệm hay Thiệu hoặc Kỳ, phải lên làm chúa trùm, rồi tư tiện buộc mọi người phải giống y chang mình, để rồi lấy cớ linh tinh lang tang mị dân và trổ mòi độc tài.

        Thôi đừng ngụy biện quanh co dùm chúng nữa bạn già ơi.
        Sống ở phương Tây gần hết đời người rồi cần tỉnh ngộ chút !
        Hãy can đảm nhìn thẳng vào sự thật, để tránh VẾT XE ĐỔ CŨ :-).
        Chúc (nhau) thành công trong trận chiến cuối này với bọn côn đồ CS.

        Thân ái,
        Lão Ngoan Đồng
        Tổ sư Y trị :-) !

  5. tranle52 says:

    Trong thời chiến tranh lạnh, cao điểm là cuộc chiến tranh VN, đứng đầu là Mỹ cùng các nuớc đồng
    minh, đã không thắng nổi cuộc chiến tranh do CS Hà nội khởi xướng, vì CS áp dụng kiểu chiến tranh
    nhân dân, học thuyết của Mao, nhà nhà, người người từ già đến trẻ đều gián tiếp hay trực tiếp tham
    gia vào cuôc chiến tranh này, bất kể thiệt hại, chết chóc hay kéo dài đến bao lâu, miễn là đạt được chiến thắng, trong suốt cuộc chiến không có bất cứ một cuộc biểu tình hay chống đối nào xẩy ra ở Miền bắc.
    Mặc dù mục đích của Mỹ là mang quân vào Miền nam, nhằm ngăn chặn làn sóng đỏ, chứ không phải xâm lăng, đi tìm thuộc địa như Pháp trước kia, nhưng Mỹ là một nước tự do, dân chủ, không thể để cuộc chiến kéo dài quá lâu, vì dư luận chống đối, hình ảnh chết chóc hiện ra hàng ngày trên TV và nhất là cuộc chiến đó không trực tiếp uy hại nền an ninh của nước Mỹ, cuối cùng Mỹ phải tìm cách rút lui.
    Tôi thấy dư luận, chính giới Mỹ không công bằng, khi mà nửa triệu quân tham chiến không thắng nổi CS, bèn tìm một giải pháp khác cho cuộc chiến và phủi trách nhiệm, trút gánh nặng cho quân dân Miền nam rồi đổ lỗi hoàn toàn cho Miền nam, ở Mỹ hiếm có một cuốn sách nào nói lên được sự thật, để nhận trách nhiệm này về mình.

  6. Hoàng says:

    Nguyễn Văn Thiệu và tập đoàn lãnh đạo VNCH nghe nói toàn là những người “có học, thông minh, “lỡ” đi lính tẩy cho giặc Pháp xâm lược nhưng lại rất “yêu nước” (yêu nước Pháp và sau này là yêu nước Mỹ), mà lại bị cá nhân ông Nixon lừa một cú lừa cực kỳ ngoạn mục, cú lừa làm tiêu vong một “quốc gia”, một chế độ. Ông Nixon quả là bậc đại kỳ tài, xứng đáng là người kinh bang tế thế nhất thế giới.

    • Ông chủ Tàu cộng khôn ngoan says:

      Ngày 14/9/1958 , Hồ chí Minh đưa ra công hàm công nhận Hoàng – Trường Sa là của Tàu cộng . Năm 1988, báo Sài Gòn Giải Phóng giải thích sự việc đó rằng: “Hoàng Sa và Trường Sa có thuộc chủ quyền Trung quốc không có nghĩa là chủ quyền về lãnh thổ của ta bị mất, mà chỉ tạm thời do Trung quốc cùng phe xã hội chủ nghĩa anh em quản lý. Một ngày nào đó, chúng ta cần lấy lại, Trung quốc sẽ hoàn trả cho tạ” . Ngày nay, Tàu cộng cứ đưa ra bản công hàm 14/9/58 để khăng khăng khẳng định rằng Hoàng – Trường Sa là của chúng .

      Hồ chí Minh đã từng đi lính Tàu cộng Mao trạch Đông, phục vụ trong Bát Lộ Quân mà lại không biết lòng tham và sự trí trá của Tàu cộng nhắm vào Hoàng – Trường Sa , lại tưởng rằng Tàu cộng sẽ hoàn lại bất cứ khi nào Việt nam muốn . Tàu cộng quả là xứng đáng là ông chủ khôn ngoan của Việt cộng . Việt nam không những mất toi hai quần đảo Hoàng – Trường Sa mà mất luôn cả dầu khí và những tài sản thiên nhiên ở đó .

  7. Johnny says:

    MIỀN NAM VIỆT NAM

    Ông Richard Nixon đã viết trong hồi ký, – Paying The Price -:
    ” Had I survived, I think South Viet Nam would still be a viable
    non-Communist enclave.”
    (Nếu tôi không bị thúc ép từ chức {1974}, thì Miền nam Việt Nam
    vẫn còn giữ vững như Nam Hàn vậy.)

    Johnny, USA.

  8. says:

    Cám ơn anh Viên, lâu lắm mới được tin anh

  9. Nguyễn Thế Viên says:

    Nói gì đi nưã thì Nguyễn Văn Thiệu vẫn là kẻ phản quốc:
    - Chấp nhận ngồi vào Hội Đàm Paris ngang hàng với MTGPMN, tay sai mạt hạng cuả CSBV. Trong khi luật pháp VNCH vẫn còn đặt CS ngoài vòng PL.
    - Ký kết HĐ Paris dù biết là bất lợi cho VNCH (sợ chết?)
    - Tiêu diệt Quân Lực VNCH qua các việc:
    . Chôn chân và phá lẻ các lực lượng Tổng Trừ bị để không thể tiếp ứng nơi cần thiết (Phước Long, BMT….)
    . Ra lệnh tan hàng (QK I và II rút lui hỗn l;oạn, cấp tốc, không kế hoạch) và bỏ mặc dân chúng.
    ……..
    Tóm lại là cúc cung nghe lệnh ngoại bang và hại nước, hại dân. Mọi bào chưã cuả đàn em càng làm trơ trẽn thêm. Chúng ta hay hãnh diện là dân, là quân, là cán bộ, công chức VNCH. Chúng ta không là tay sai cho bọn phản quốc. Ơn riêng hay để trong lòng chớ không thể so sánh với ơn nước. Đừng xem mình như con chó trung thành với chủ. Chó không có lý trí, còn con người biết phân biệt phải trái!
    Anh Đạt ơi, đôi khi tôi thấy anh lẩn than “parceque” mà buồn quá
    Một người quen xưa,Nguyễn Thế Viên

    • Áo vải cờ đào says:

      @Nguyễn Thế Viên! Thưa ông, xin lỗi ông, tôi thấy không cần thiết phải trích lại những gì ông viết! Ở đây tôi chỉ muốn nhắc nhỡ ông rằng: Phàm người quân tử, ân oán phải phân minh còn nếu nói ông Thiệu phản quốc (chữ của ông) là ông ăn nói theo ân oán cá nhân nếu không muốn nói là hồ đồ. Thử đặt câu hỏi cho ông, nếu ông thật sự có tài cứu dân độ thế, tế thế an bang bình thiên hạ sao ông không ra nhận lãnh trọng trách điều hành đất nước thay vì đệ nhất CH NĐ Diệm đệ nhị CH NV Thiệu gồng ghánh chế độ non trẻ VNCH suốt hai mươi năm chống cộng? Trong cuộc chiến Quốc-Cộng ông chỉ đề cập đến ván cờ tàn, rồi miệt thị người quá cố nhất là hai vị nguyên thủ đều được mấy chục triệu người Việt quốc gia bầu chọn hay là toàn dân miền nam đều mù, chột và…Phản quốc theo cách gọi của ông?? Khách quan mà nói, cựu TT NV Thiệu cá nhân ông Thiệu chưa phải là một vị TT tài trí vẹn toàn, chiến thuật/chiến lược có thể xếp hạng TL vùng so với ông Diệm, còn chính trị thì kém tầm so với CV NĐ Nhu. Nếu tôi nhớ không lầm thì suốt thời gian cầm quyền, ông Thiệu chưa một lần ra lệnh xử tử bất cứ tội nhân nào kể cả kẻ thù VC! Tôi không có thời gian để viết nhiều, nhưng thấy ông mạ lỵ người không thể “phản biện” và cũng chưa bao tự biện hộ cho mình, đó là cựu TT VNCH Nguyễn Văn Thiệu. Tôi chỉ muốn nói thêm một điều, đôi khi…Ta không giết bá nhân nhưng bá nhân vì ta mà chết. Chào ông! Avcđ

  10. HTRANG says:

    đế quốc Mỹ là một đồng minh VÔ ĐẠO có một hành động VÔ NHÂN ĐẠO …. đế quốc Mỹ nói LÁO

    • Nguyễn Thế Viên says:

      Giưã hai cái xấu, người Quốc Gia Yêu Nước phải đau đớn chon cái đỡ xấu nhất. Không thể tay không chiến đấu với CSVN cực ác với sự yểm trợ hung hậu cuả CS quốc tế, người Quốc Gia phải đành dưạ vào “Thế Giới Tự do”. Tiếc thay, đã “bị đồng minh phản bội”. Những người yêu nước như Ngô Đình Diệm đã có thời nhen nhóm được chú hy vọng, nhưng rồi đã bị bè lũ bán nước ăn tiền ngoại bang giết hại, đồng thời cũng làm tắt đi nhen nhúm đó. Nhìn ông Tổng Thống A Phú Hãn mà then cho những ai còn ca tụng cho ông Nguyễn Văn Thiệu !
      Mọi bất hạnh cuả Vn đều cội rễ bắt nguồn từ Hồ Chí Minh và CSVN. Họ đã là nguyên nhân cuả sự can thiệp đểu giả cuả “đế quốc Mỹ”. Nếu họ không dung vũ khí cuả Nga và nhất là Tàu cộng (kẻ thù truyền kiếp cuả dân tộc) để cướp Miền Nam đâu đến nỗi!
      Những nười yêu nước VN đều bị ghét và muốn tiêu diet bởi cả hai thế lực CSVN tàn độc và thực dân, đế quốc ác ôn.
      Nguyễn Thế Viên

Leave a Reply to Áo vải cờ đào