WordPress database error: [Expression #1 of ORDER BY clause is not in GROUP BY clause and contains nonaggregated column 'oldsite_dcvwp.wp_posts.post_date' which is not functionally dependent on columns in GROUP BY clause; this is incompatible with sql_mode=only_full_group_by]
SELECT YEAR(post_date) AS `year`, MONTH(post_date) AS `month`, count(ID) as posts FROM wp_posts WHERE post_type = 'post' AND post_status = 'publish' GROUP BY YEAR(post_date), MONTH(post_date) ORDER BY post_date DESC

 
|

Dòng hồi ức về biến cố 30 – 04 – 75

30_thang4_SaigonMới ngày nào đây, khi còn sống ở Việt Nam thân yêu, cả gia đình sum họp đầy đủ. Bây giờ kẻ còn người mất, lại thêm những người mới được sinh ra, tất cả đang sống an bình, đầy đủ vật chất, nhưng tâm hồn thì lưu lạc ở nước người. Âu, cũng là do biến cố 30 – 4 – 75 xẩy ra, đã làm thay đổi cả một đất nước, cả một lịch sử, cả một đời người. Thế mà thấm thoắt đã 39 năm trôi qua. Giật mình hồi tưởng, giống như một giấc chiêm bao. Thực và hư. Cái được và mất. Cái có và không. Vui buồn lẫn lộn. Ôi, kiếp người, nghĩ cũng lạ thay.

Nhớ lại bài thơ đã làm, lúc xa Sài Gòn:

Chầm chậm những bước chân

hôn lên hè phố

ngập ngừng em gái kiêu sa

thoảng mùi hoa lan

tiếc ngày quí phái

*

Hai bên lề đường

hàng sao hàng me

đã là

ngày của năm xưa

nghe xa mịt mờ

cây lắm khi già

bao lớp đi qua

vẫn xanh mầu lá

nghe thân quen

cuồn cuộn quay tròn

*

Đếm gốc già

thoáng đã trăm năm

cây lịch sử thở dài

dọc đường tự do mắt uống khắp thân quen

chỗ nào cũng tiếc

chỗ nào cũng thấy yêu thương

không biết có viên gạch nào biết đau

khi những bước chân dậm tủi hờn

hàng trăm năm chưa ngớt

nằm chất trong tim

đầy ắp trong thơ

tỏ bày nghìn lời với gió

gió thổi tới mai sau khôn cùng

*

Mùa hạ chiều Sài gòn mơ ngủ

thổi những cuồng giông

bất ngờ

đường phố ướt mèm

nào có làm mát da thơm

nghẹn ngào đau buồn thay lời nói

lúc xa rồi

thành phố đã thay tên

. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

(Bài thơ Ngày Xa Sài Gòn, trên đây. Trích trong Thi tập TÊN EM LÀ HOA KỲ, của cùng tác giả, xuất bản tại Hoa Kỳ)

*

Ngày chấm dứt chiến tranh, tái lập hòa bình cho Việt Nam (nhưng phải là hòa bình thực sự). Cả Dân tộc mơ ước.

Không phải cho đến ngày 30 – 4 – 75 mới là ngày chấm dứt cuộc chiến. Thực ra, cuộc chiến tranh Việt Nam trên nguyên tắc đã được định đoạt  vào ngày 27 – 01 – 1973, khi Hiệp định Tái Lập Hòa Bình Ba Lê về Việt Nam, đã được bốn bên là:  Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng Hòa, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Bắc Việt Cộng sản) và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam tham chiến ký kết.

Tuy nói là Hiệp Định Tái Lập Hòa Bình Ba Lê, nhưng đây chỉ là Hiệp Định ngưng bắn, Hòa Bình trá hình, do các nước lớn định đoạt. Không phải là ước muốn của quân và dân sống ở miền Nam Việt Nam.

Để tiến tới được cái gọi là Hiệp Định Tái Lập Hòa Bình Paris, sự thực, đây là kết quả  một cuộc dàn xếp ngưng bắn bí mật về chiến cuộc Việt Nam giữa Bắc Kinh và Hoa Kỳ trước đó, do Ngoại Trưởng Mỹ  Henry Kissinger sang Trung Quốc đàm phán.

Trong quá trình diễn biến, mặc cả trong Hội Nghị Ba Lê, bề mặt là bốn phái đoàn của các phe lâm chiến tham dự, nhưng  thực chất là do hai phái đoàn của Mỹ và Bắc Việt, do Kissinger và Lê Đức Thọ đại diện định đoạt, còn Phái đoàn của Việt Nam Cộng Hòa và Mặt Trận Giải Phóng miền Nam chỉ là kẻ “ăn theo”, thứ yếu. Đôi lúc có những mặc cả khó khăn, Hội nghị thường gặp bế tắc, hai người chủ chốt này thường gặp nhau bí mật, ‘đi đêm’ để giải tỏa bế tắc.

Chúng ta còn nhớ, sau ngày Hội nghị Hòa Bình Paris thành công, được ký kết, cả hai  người, Kissinger và Lê Đức Thọ được trao Giải thưởng Quốc tế Nobel Hòa Bình, của Hàn Lâm Viện Thụy Điển.

Tổ chức Hội đàm Paris  kỳ này, mục đích là để Hoa Kỳ có lý do chính đáng nhằm để rút hơn 500 ngàn quân lính viễn chinh, và quân đội các nước tham chiến như: Úc Đại Lợi, Tân Tây Lan, Nam Hàn, Phi Luật Tân, Thái Lan ra khỏi Việt Nam, vì dân chúng và Quốc Hội Mỹ không ủng hộ cuộc chiến tranh, đã làm hơn 72 ngàn binh sĩ Mỹ hy sinh và hàng trăm ngàn chiến sĩ bị thương. Hơn nữa cuộc chiến đã làm phân hóa và chia rẽ trầm trọng trong nội bộ nước Mỹ, cụ thể là vụ đặt máy nghe lén Watergate của Đảng Cộng Hòa đối với đảng Dân chủ.

Không phải khi không mà Hiệp Định Paris được tiến hành. Trước thời gian đó, từ đầu năm 1972 cuộc chiến tranh Việt Nam đã leo thang đẫm máu, Cộng quân đã cho nhiều sư đoàn thiện chiến tấn công vào các tỉnh phía bắc của miền Trung Việt Nam như tiến đánh Lộc Ninh, Bình Long, Phước Long , Kontum , rồi Khe Sanh, Đông Hà . Ác liệt nhất là trận tiến chiếm Cổ thành Quảng Trị ngày 1 – 5 -1972. Sau một thời gian chiến đấu đẫm máu khốc liệt, giằng qua kéo lại, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã chiếm lại ngày 25 – 7 – 72 và chiếm giữ phía bên này sông Thạch Hãn.

Phía Mỹ cũng đã dùng không lực từ Hạm đội 7, và các pháo đài B52 xuất phát từ những căn cứ bên Thái lan để không kích miền Bắc Việt Nam. Cuộc không kích dữ dội kinh khủng chưa từng có trước đó, được mệnh danh là Điện Biên Phủ trên không , song cũng không chiến thắng được đối phương , nên phía Mỹ phải giải quyết chấm dứt cuộc chiến trên bàn hội nghị, trong thế chẳng đặng đừng, là Hội đàm Paris như chúng ta đã biết.

Thực chất Hiệp Định Tái Lập Hòa Bình Paris, chỉ là trá hình như đã nói ở trên, không ai mong đợi, chỉ làm lợi thế cho phe Cộng sản có thời gian chuẩn bị, dễ bề thôn thính miền Nam hai năm sau đó!

Sau ngày 27 – 1 – 1973, Hội nghị Ba lê được bốn bên ký kết có hiệu lực. Cuộc ngừng bắn phải thi hành ngay tức khắc. Bên nào đóng quân ở đâu phải giữ nguyên vị trí, án binh bất động, theo như những điều khoản trong Hiệp định ngừng bắn qui định, đồng thời  các bên tham chiến thành lập Ban Liên Hợp Quân Sự Bốn Bên, lên danh sách trao trả tù binh. Nhưng  ngay sáng ngày hôm sau, khi bản văn chưa ráo mực, Việt cộng đã vi phạm và cho pháo kích, dành dân, lấn đất, ở khắp các làng quê hẻo lánh của miền Nam.

Phải nói rằng, phía Cộng sản kể từ khi ký kết cho đến 30 – 4- 75 họ luôn luôn không tôn trọng ngừng bắn, đi đến phá vỡ Hiệp định mà họ đã ký kết.

Cộng sản ngoài những vi phạm các điều trong Hiệp Định ở chiến trường, lợi dụng thời gian ngưng bắn, để chúng tăng cường hoạt động tuyên truyền, chống phá chính quyền bằng những chiêu bài:  như Phong trào Phụ nữ đòi Quyền Sống của Bà Luật sư ngô Bá Thành, Phong trào Sinh viên Học sinh của Huỳnh Tấn Mẫm, Phong trào Thanh sinh công của Linh Mục Phan Khắc Từ, Nguyễn Ngọc Lan v. v. . . Những chống phá của các Dân Biểu thân cộng như: Ngô Công Đức, Hồ Ngọc Nhuận, Lý Quý chung, Lý Chánh Trung. . ., những Tạp chí Đối Diện của Linh mục Chân Tín. Nguy hiểm nhất là Việt cộng nằm vùng đã trà trộn trong hàng ngũ Phật giáo của khối Ấn Quang do Thượng tọa Trích Trí Quang, Thượng tọa Thích Thiện Minh lãnh đạo.

Song song với việc làm lũng đoạn, phá rối ở các thành thị do Mặt Trận Giải phóng Miền Nam chủ xướng, Bắc Việt đã lợi dụng Hiệp định Hòa Bình và việc Mỹ rút quân, không ngừng gia tăng bổ xung quân viện, vũ khí, lương thực, quân trang, quân dụng từ miền Bắc xâm nhập theo đường mòn Hồ Chí Minh vào các tỉnh ở Cao Nguyên và miền Trung Việt Nam nhằm chuẩn bị Chiến dịch Hồ Chí Minh, Tổng tấn công xâm chiếm miền Nam như Bộ Chính Trị Đảng Cộng sản đã hoạch định.

Lợi dụng tình hình chiến sự ngày càng bất ổn của Việt Nam Cộng Hòa, sau khi đồng minh rút quân và Mỹ cúp viện trợ quân sự, ngày 10 – 3 – 1975, Cộng quân chiếm tỉnh lỵ Ban Mê Thuật, rồi tuần tự các tỉnh Pleiku, Khánh Hòa, Lâm đồng, Đà Lạt, Phú Yên. Quân Đoàn II đã mất. Các tỉnh ở vùng 1 Chiến thuật như Đà Nẵng, Huế cũng được lệnh di tản.

Quân Cộng sản sau đó từ Nha Trang tiến chiếm Phan Rang, Phan Thiết, Bình Thuận, đã tiến công làm tan rã Sư đoàn 18 chiếm tỉnh lỵ Long Khánh, ngày 27- 4 đang tràn về tới Trảng Bom, Biên Hòa.

Lúc này gia đình tôi đã chạy hết về Sài Gòn, còn Bố mẹ tôi từ Lâm Đồng đã chạy xuống Nha Trang, được tàu Hải Quân chở về Sài Gòn, nhưng tàu chạy thế nào, nay nghe nói là còn kẹt ở Phú Quốc.

Kể từ chiều 29 – 4 khi Cộng quân tiến vào Sài Gòn qua ngả cầu Xa lộ Phan Thanh Giản, thỉnh thoảng người dân thành phố nghe thấy tiếng đại bác bắn vu vơ đâu đó từ các chiến xa T-54 , tiếng súng AK nổ dòn khiếp vía. Trong phi trường Tân Sơn Nhất, đạn pháo kích không ngớt để ngăn cản những  chiếc máy bay cất cánh chở người di tản của không lực Việt Nam Cộng Hòa còn kẹt lại.

Trước đó có tin đồn là Việt Cộng sẽ ‘tắm máu’ và sẽ trả thù sau khi họ chiếm được Sài gòn, nên ai cũng run sợ tìm cách trốn chạy.

Hầu hết mọi gia đình trong Sài Gòn, ai có phương tiện gì đều chở người nhà ra Bộ Tư Lệnh Hải Quân ở Bến Chương Dương,  các bến tàu thuộc Nha Quân Vận bên Khánh Hội, để mong xuống tàu thoát thân ra nước ngoài. Nhất là những gia đình có chồng con, hay anh em là quân nhân hết sức hốt hoảng, sợ tới bến cảng không kịp.

Phía Phi trường Biên Hòa, cửa chính vào phi trường nghe nói  cũng đã đóng, vì cộng quân pháo kích rất dữ dội. Nhiều khu vực đã bị đối phương chiếm đóng, máy bay không thể cất cánh, nhiều người bị chết hay bị kẹt không ra được.

Những chiếc chiến xa T-54 và quân xa chở Bộ đội của đối phương càng lúc càng đông, đã tiến vào trung tâm thành phố, họ đang tìm phương hướng tiến về phía Dinh Độc Lập. Lúc này mọi người đều nhốn nháo, lo sợ, không biết chuyện gì sẽ xảy ra trong nay mai.

Lúc đó tôi đang loay hoay với chiếc xe Honda cà tàng sắp hết xăng, đạp mãi không nổ máy. Chao ơi, ruột tôi nóng như lửa đốt. Làm sao về được nhà trước cảnh dầu sôi lửa bỏng này. Bỗng có anh lính Nhẩy dù chạy ngang qua như đoán biết xe tôi đang cần xăng anh tốp xe lại nói với tôi: “Anh chạy đến gần cầu Trương Minh Giảng, chỗ đó có bồn xăng mà lấy, chủ đã chạy đi ngoại quốc rồi, bà con đang phá kho lấy xăng ở đó, nhanh lên trước khi ‘bọn nó’ tràn vào.” Tôi cám ơn, rồi vội vàng đẩy xe đi.

Trên đường phố người quá đông đúc, kẻ ngược, người xuôi, ai cũng hốt hoảng, lo sợ. Những binh sĩ VNCH có người đã trút bỏ quân phục ngay trên đường phố. Quân trang, ba lô, súng đạn vất ngổn ngang, chẳng ai còn để ý tới những chuyện gì khác, ngoài chuyện phải tìm đường về đến nhà cho nhanh chóng.

Đến được cây xăng, phải chen chúc vất vả lắm mới dành giật được một bình. Tôi vội vã tìm đến nhà một người bạn để hỏi tin tức. Nhà anh bạn ở phía sau trường Đại học Vạn Hạnh. Bỗng nghe thấy một tràng súng nổ phía chợ Trương Minh Giảng, tôi dừng xe lại. Thật hãi hùng, thấy một người lính Dù nằm bất động, máu me lênh láng, trên tay vẫn còn cầm khẩu M-16. Nghe đâu anh vừa tự sát.

Gặp người bạn, cả hai chúng tôi rủ nhau, mỗi người một xe đến tòa Đại sứ Mỹ trên Đại lộ Độc Lập để tìm cách ra đi, vì anh bạn và tôi có danh sách được Mỹ di tản .

Tới được tòa  Đại sứ thật vất vả, vì cảnh người chen lấn đông đúc. Cổng trước Sứ Quán đã đóng kín, phía trong chỉ thấy lính Thủy Quân Lục Chiến nai nịt súng ống đầy mình. Trên trời máy bay trực thăng vần vũ đang lên xuống như mắc cửi trên nóc nhà Sứ Quán, chở người di tản ra Hạm đội 7 ở ngoài khơi Việt Nam. Người đông như kiến đang chen nhau tiếp cận trong khuôn viên và chen lấn nhau leo vào trong hàng rào, người nào cũng cố bám vứu leo chồng cỡi lên nhau, mong vượt rào để nhẩy lên nóc, được trực thăng bốc đi. Lính Thủy quân Lục chiến Mỹ phía trong hàng rào vẻ dữ tợn, súng lăm lăm trong tư thế nổ súng, nếu ai bất tuân lệnh.

Tiếng đạn pháo kích ở ven đô gầm rú. Nghe nói cổng phi trường vào Bộ Tư Lệnh Không Quân cũng đã đóng, lính gác cổng nhận được lệnh “nội bất xuất ngoại bất nhập”, ai bất tuân lính gác sẽ nổ súng.

Thấy không có hy vọng lọt vào trong khuôn viên Sứ quán, chúng tôi ngán ngẩm chia tay nhau, anh bạn còn ở lại xem tình hình thời cuộc, còn tôi đi về khu Khánh Hội lo cho gia đình đang tạm cư ở nhà cô em vợ .

*

Bữa qua là ngày 28- 4. Tôi về nhà ông bà cụ ở Biên Hòa để đưa chú em vừa chạy thoát chết từ Quảng Đức để về Sài gòn, vì tỉnh Long Khánh đã lọt về tay Cộng quân. Nếu không chạy kịp sẽ rất nguy hiểm. Mà bây giờ, biết chạy về đâu cho an toàn đây? Thôi thì cứ chạy về Sài Gòn rồi mọi việc sẽ tính sau. Trong lúc này ai cũng nghĩ thế. Nhưng cũng có một số người có phương tiện, chạy ra hướng Vũng Tàu để tìm cách ra biển.

Trên xa lộ Biên Hòa, từ Hố Nai trở về Sài Gòn, người người tay xách nách mang, kẻ chạy xe Honda, người đi bộ, lính tráng đầy rẫy. Họ di chuyển bằng chiến xa M48, M113  khó khăn, vì người đi bộ chật ních hai bên đường, nhiều đoàn người và xe phải tìm cách xuống ruộng để di chuyển cho nhanh. Thỉnh thoảng mỗi quãng đường có những hàng rào kẽm gai chắn ngang, nhiều chỗ vẫn còn lính địa phương quân canh gác. Có lẽ cấp trên của họ chưa nhận được lệnh di tản, nên vẫn để lính thi hành nhiệm vụ canh gác.

Chiếc xe Hon da  của tôi chở hai người ngồi sau và ít đồ dùng thường ngày, lạng lách khó khăn, nhiều quãng đường phải xuống xe dắt bộ, đôi lúc phải băng qua ruộng đồng vì trên đường thì nhung nhúc những người và xe quân sự, dân sự ách tắc, không thể vượt qua.

Thật muôn vàn khó khăn, khi tới được chân cầu Phan Thanh Giản SG, đã gần 10 giờ đêm. Người nào người nấy đói khát muốn lả. Lúc này không thể nào tìm được một quán ăn, phải cố gắng chạy về nhà  ở mãi bên Kho 5, Khánh Hội. Đường xá ách tắc đầy rẫy người đi lánh nạn, kẻ đi tìm người nhà. Người nào cũng hớt ha hớt hải, lo sợ không biết khi quân Cộng sản vào tới thành phố mọi sự sẽ ra sao? Tiếng pháo kích khắp ven Đô kinh hoàng không ngớt. Cơn hỗn mang khắp thành phố, mọi người giao động đến cùng độ. Thành phố đã về đêm, mò mẫm mãi rồi anh em chúng tôi cũng đã tới nhà, đúng 12 giờ đêm, trong nỗi kinh hoàng và khốn khổ cùng cực.

Về đến nhà, sau khi cơm nước, tôi quyết định ra bến tàu để tìm đường di tản, kẻo không bao lâu nữa Việt Cộng sẽ tiến vào thành phố, lúc đó có muốn ra đi cũng không còn kịp. Tôi nói với chú em tôi “ Hai anh em mình đi một xe Honda, còn chú Tín (người em rể) đi một xe”.

Chúng tôi ra bến tàu ở Kho 5, Khánh Hội. Thành phố vẫn nhốn nháo trong cảnh sợ hãi. Cổng bến tàu vẫn còn cảnh sát đứng canh gác. Chúng tôi vào trình giấy tờ, mấy người em  mặc quân phục, mang lon trung úy nên nhân viên gác cổng cũng dễ dãi.

Tôi nói với chú em: “Chú xuống tàu xem có còn chỗ trống, có thể đi được không? Mấy giờ thì  ông Chỉ Huy cho khởi hành? Rồi lên cho anh biết, để  anh về nhà di chuyển cả gia đình đến cho kịp giờ, không thôi tàu chạy mất sẽ không đi được.”

Nói xong, mấy người em của tôi vào trong. Chừng một lúc, chú em lên cho tôi biết: “Mọi thứ cần thiết như lương thực, nước uống đã được chuẩn bị đầy đủ”. Đại tá Cục trưởng nói: “Chừng 1 giờ nữa thì ông cho tàu khởi hành”. Tôi  nói với chú em: “Chú ở lại đây cho chắc ăn, để anh về thu xếp mang cả gia đình cùng đi”.

Lúc tôi về đưa gia đình ra tới nơi, thì tàu đã khởi hành, vì thời gian quá gấp rút, họ đã  đã không còn chờ đợi được. Thế là tôi và gia đình phải kẹt ở lại, không còn phương tiện nào để ra đi!

Đêm  29 – 4 – 75, Đài phát thanh Sài Gòn ra rả đọc tuyên bố của Tổng Thống Dương Văn Minh, nội dung mời Cách Mạng tới bàn giao Chánh phủ. Và Nhật lệnh của Thiếu Tướng tân Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH, ra lệnh tất cả Quân nhân các đơn vị buông vũ khí, giao nộp cho Cách Mạng.

Cả đêm qua, tôi không chợp mắt được. Có lẽ nhiều người cũng mang tâm trạng sợ hãi như tôi. Câu hỏi cứ hiện ra trong đầu, không biết ngày mai mọi sự sẽ ra sao? Tất cả có được bình an như người Tổng Thống lâm thời mong muốn “Buông vũ khí giao nộp Cách Mạng để tránh đổ máu.”

Quá nửa đêm thấy người em rể cột chèo hớt hải vác về một bao gạo Mỹ, cậu thở không ra hơi vất bịch xuống giữa nhà nói: “Các kho ở Khánh Hội dân chúng đã phá để vào lấy lương thực, em cũng chen vào dành được một bao, phải khó khăn lắm mới mang về được nhà, vì người hôi của túa ra đông như kiến, dành giật, xô ngã dẫm cả lên nhau, có người phải bỏ gạo lại, vì chen chân và vác bao gạo không nổi. “Sau đó tôi cũng theo cậu em ra kho, kiếm một bao cho gia đình, để phòng hờ, sợ mai này không có ai  buôn bán.

Sáng 30 – 4, lệnh đầu hàng của Tổng Thống Dương Văn Minh đã chính thức đọc trên Đài Phát thanh Quốc gia tại Sài gòn. Thành phố, tình hình thế sự nghẹt thở đến rợn người, vẻ yên tĩnh giả tạo, thỉnh thoảng cũng có tiếng đại bác 130 ly gầm rú, nhưng tiếng gầm rú khủng khiếp nhất là ở trong tâm thức mỗi người. Một vài tràng AK nổi lên đâu đó, cũng có những tiếng súng M16 của người lính VNCH chen lẫn. Phải chăng có tốp lính nào phẫn uất còn chống trả, dù chống trả trong tuyệt vọng. Cũng có thể có người lính nào đó tự sát, vì họ không muốn nhục nhã cúi đầu hàng giặc. Hay cũng có thể một vụ trả thù, ám sát. Vì từ đêm hôm rồi, người ta đã thấy những người mang băng đỏ trên cánh tay áo đi lùng sục ‘phản động’ khắp nơi trong thành phố. Những người mang băng đỏ đó là các cán bộ Cộng sản nằm vùng, hay những người hoạt động bí mật trong khu phố ra mặt chỉ điểm những ai mà chúng cho là nợ máu nhân dân. Quyền sinh sát bây giờ nằm trong tay họ. Cả thành phố bây giờ không khí rất nặng nề, bao trùm sự sợ hãi .

Thỉnh thoảng có xe bọc thép hay xe quân sự tuần tiễu ngang qua. Nhà nào cửa cũng đóng im ỉm, thỉnh thoảng họ lén nhìn ra khe cửa xem có động tĩnh gì không?

Lúc này điều sợ nhất là tiếng gõ cửa vì những tên nằm vùng. Dân chúng thường gọi là “Cách mạng 30”. Không ít người  trước đây là Sĩ quan, công chức cao cấp của Chánh phủ, đã bị gõ cửa bắt, rồi họ bị trói tay, dắt đi mà không thấy trở về. Cũng có không ít người, chỉ vì thù oán cá nhân, lợi dụng tấm băng đỏ trên cánh tay áo, ám chỉ là những tay sai của bên thắng trận, vu oan, hãm hại nhau vì tư thù.

Người ta không ngạc nhiên khi thấy những sinh viên, học sinh trước đây trong phong trào Tranh đấu như Nguyễn Hữu Thống, Võ Như Lanh . . . đeo băng đỏ đã đành, mà người ta còn ngạc nhiên khi thấy Nhà văn được mến mộ Cung Tích Biền, Sơn Nam, Vũ Hạnh . . . cũng đeo băng đỏ. Thật lúc này không thể tin được ai, trắng đen lẫn lộn.

(Sau ngày này, cũng có một số tên tuổi gọi là sinh viên, trí thức, theo đóm ăn tàn, cố phô trương mình là người của Cách mạng , bợ đỡ, bưng bô cho một số Cán bộ Việt cộng, chức to quyền rộng, để hãm hại anh em. Một ngày nào đó chịu không nổi cảnh hà khắc của họ, đã tìm cách vượt biên. Bây giờ thấy bọn họ sống ở hải ngoại cũng vênh vang, hò hét chống Cộng hơn ai hết.

Nhiều người chống Cộng thực sự ngán ngẩm bởi nhiều tên muốn làm tay sai, để về Việt Nam kiếm chút bổng lộc. Khốn khổ thay, Cộng sản lại từ chối. Nhưng bọn này vẫn chưa sáng mắt ra, muốn về việt Nam để ‘xây dựng’ đất nước! Bài học của cha con ông Thiếu tướng Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ còn rành rành).

Sáng 30 – 4, Thành phố Sài gòn giống như một thành phố chết, không sinh hoạt buôn bán, mọi công việc tất cả đã ngừng hoạt động, cảnh chết chóc bi thương, lo sợ, bao trùm lên hầu hết mọi người dân, bất kỳ già trẻ.

Những xe Jeep của chế độ cũ, bây giờ được những tên nằm vùng và bộ đội xử dụng, làm xe tuần tiễu giữ gìn an ninh trật tự. Những tốp lính của Quân đội Bắc Việt còn trẻ măng, mặt búng ra sữa, lúc nào cũng kè kè súng AK, hay mang súng lục dắt sau mông đít, quần áo màu cứt ngựa tơi tả. Người nào cũng ngơ ngơ ngáo ngáo. Họ thẫn thờ nhìn hết cái này cái nọ, ra chiều ngạc nhiên, từ chiếc xe Honda, xe đạp. Cái nhà cao tầng ’hiện đại ‘quá , như có anh bộ đội không kiềm chế được phải la to lên. Nhất là Phụ nữ Sài Gòn, sao xinh đẹp và tử tế quá, người nào cũng quần là áo lượt, quí phái làm sao.

Hầu hết họ không tin đây là sự thực, vì như nhiều người trong bọn họ đều có cùng một suy nghĩ,  Sài Gòn phải là một thành phố tàn tạ, rách nát, nghèo khổ, điêu linh cơ. Chứ sao lại là một Thành phố vô cùng tráng lệ, diễm kiều như vậy, có người còn trầm trồ , đặt câu hỏi: “Đây có phải là nước Thiên Đàng của Chúa?” Vì trước đây họ đã luôn được học tập tuyên truyền trước khi tham gia Chiến Dịch Hồ Chí Minh: Sài Gòn là Thành phố tạm chiếm, do Mỹ Ngụy chà đạp, kìm kẹp, bóc lột người dân, nên Cách mạng phải  mau về  Giải phóng, để Nhân dân được hưởng ấm no hạnh phúc!

Sau ngày 30- 4 này, hậu quả kế tiếp là những Sĩ Quan phải ra trình diện học tập cải tạo (thực chất là đi ở tù). Có những cuộc bắt bớ, ám sát, thủ tiêu, tịch thu nhà cửa, tài sản; những Cải tạo Công thương nghiệp, áp bức đi xây dựng vùng kinh tế mới. Những ai còn chút tài sản, bán đi lấy tiền vượt biên.v.v. . . tuần tự diễn ra. Cho đến nay vừa tròn 39 năm. Nghĩ lại, nhiều người vẫn còn sợ hãi.

© Quỳnh  Thi

© Đàn Chim Việt

 

 

154 Phản hồi cho “Dòng hồi ức về biến cố 30 – 04 – 75”

  1. tonydo says:

    Còn có một tuần nữa là tới ngày 30 tháng tư, ngày mà đúng ra Dân Tộc ta không nên nhớ.
    Bởi vì ngay sau ngày đó của năm 1975, hàng trăm ngàn người phải vô tù mặc dù họ đã buông súng và chẳng có tội tình gì. Cũng ngày đó hàng trăm ngàn người khác phải lau nước mắt leo lên máy bay Mỹ từ giã quê hương không định ngày về. Và thê thảm hơn nữa, cả mấy trăm ngàn người phải ép vào nhau như ép cá lao ra biển Đông lướt sóng về nơi vô định mà sau đó rất nhiều người đã làm mồi cho cá mập, hải tặc.v.v.
    Tuy nhiên cái đau khổ nhất, và không thể tưởng tượng được là sau cuộc “chiến thắng lẫy lừng” thì cả Dân Tộc, từ Bắc chí Nam bị mấy thằng Điên quen chơi bo bo, củ mài trên rừng, bỏ đói.
    Ngày hôm nay, sau gần 40 năm dài, khi thế giới đã có In Tờ Nét, I Phôn, I Phát.v.v. nghĩa là Con Người đã tiến bộ vượt bực thì đúng ra Dân Ta, ngoại trừ mấy thằng điên còn lại phải thinh lặng, thắp nén hương và lau nước mắt cho thân phận quê hương đất nước vào một thời kỳ đen tối.
    Làm gì còn chút tự hào nào mà biểu dương múa hát, kỷ niệm lung tung, văn nghệ văn gừng, nhảy đầm khiêu vũ khi cả hai anh em đều đã đi xin hoặc vay vũ khí hủy diệt của thằng khác để giết nhau.
    Nếu Dân Ta muốn bằng người thì những ngày như thế này, cách tốt nhất là cả nước ngồi im Cầu Nguyện.
    Xin Thượng Đế ban bình an và tha tội cho chúng con.

  2. Vô địch says:

    Vô địch môn thay đồ!

  3. DâM TiêN says:

    Phạm Quang Nghị, Nguyễn Thế Thảo…đâu ? cho gióng kẻng, thổi loa coi

    NGHE THÔNG BÁO :

    Rằng chúng mi ui, có AI đang thông dịch cho các cán bộ quân sự Quân
    đội Nhân dân du học Mỹ đấy ? —Không phải…các anh Cộng Hòa ru ?

    Rằng…AI thường đi trong các phái đoàn HK với tư cách chuyên viên hay
    thông dịch viên sang bàn thảo này nọ tại Ha Lội ? Không là Cộng Hòa sao?

    Và…nêu có pằng pằng mí .. giặc phương bắc, AI sẽ là cố vấn Kỹ chiên thuật
    cho các binh đoàn quân đội nhân dân nào ? — Có phải bạn bè Dâm Tiên ?

    — Du kích con con nơi này liệu nhời nà ăn nói nghe ! Mớ cái mắt…HÍ ra!

    • tonydo says:

      Thôi bố già, làm ơn cho em can.
      Thời xưa chúng nó chơi toàn bo bo, củ mì nên không há mồm được.
      Ngày nay con cháu các cụ, tiếng Tây, tiếng Tầu, lại còn thêm cả tiếng Nga La Tư nói như gió thổi mây bay, cứ như là đang hát, đi trên đường đàn Ta Lư nặng trĩu.v..v.
      Nói chung là như sáo trúc đỏ hót trên rừng xanh thẳm đó đại ca.
      Xin người già cô đơn bớt bớt đi chút là vừa đấy.
      Kính đại ca.

      • DâM TiêN says:

        Eng ơi, mang chai Cordon Bleu mời TonyDo nào…

        – Nào mời Keng! Bốn mắt.. nghi ngờ nhìn nhau…

        Thế mà cả hai cũng cạn được cái…Biền Đông này.

      • Nguyễn Trọng Dân says:

        Cán Vẹm hay thái tử Đ … , biết gì tiếng Anh !

        TÒA ĐẠI SỨ HOA KỲ ĐÃ PHẢI… “TRAINING” TÀM TẠM 100 CÁN CUỐC NÓI TIẾNG ANH TRONG CHƯƠNG TRÌNH “VÃN HỒI SÔNG MÊ KÔNG”

        Tình trạng dốt tiếng Anh của dân tộc ta đang là một trở ngại lớn nhất về văn hóa trong việc canh tân nước nhà

        Tiếng Anh cần phải là ngôn ngữ chánh cho dân Việt giống như ông bà mình xưa viết chữ Hán vậy

  4. Biết đến bao giờ says:

    Biết đến bao giờ
    được xem
    Việt cộng chạy nhanh như thế
    Để những người xưa
    Có dịp
    đeo băng vàng
    như những người đeo băng đỏ
    ngày xưa??????????????????

    • Nguyễn Trọng Dân says:

      Chân của bọn lính Việt Cộng bị XÍCH thẳng vào trong xe tăng , bị xích vào nhau tại chiến hào….LÀM SAO MÀ CHẠY!

      Dốt quá mà cứ bi bô hoài à

  5. Hồ chủ tịt says:

    Chống Cộng nói:

    “Tại sao thua? lại thua nhanh như vậy?
    . . . .
    Nói rằng, Mỹ cúp viện trợ, không đủ vũ khí, xăng dầu, phụ tùng thay thế để đánh nhau là hoàn toàn không đúng. Bằng chứng là cưỡng chiếm được miền Nam, Cộng quân dùng vũ khí của VNCH để lại đánh nhau với quân Pol pot suốt 10 năm, đến nay họ vẫn còn để trang bị cho dân quân, tự vệ. … “
    (hết trích)

    Suốt cuộc chiến trước 1975, không bao giờ quân dội bên này dùng súng của bên kia, quân đội miền nam VN tịch thu được nhiều súng của CS nhưng cất đi không xài. Quân đội CSBV lấy được súng của VNCH cũng chỉ giao cho du kích, không bao giờ xử dụng súng của miền nam
    Nói ngu như con bò thế mà cũng nói được

  6. Vẹm says:

    Quân đội giải phóng
    Tướng khuân đằng tướng
    Quân khuân đằng quân
    Bởi thế nhân dân ca ngợi
    Quân đội nhân dân anh hùng
    … khuân đồ của nhân dân Nam bộ

  7. Tướng - Quân says:

    Tướng chạy đằng tướng
    Quân chạy đằng quân
    Tướng ít hơn quân
    Giờ chỉ nghe quân chửi tướng

    • Tien Ngu says:

      Tiểu nhân đắc chí
      Tự sướng thấy thương
      Lắm trò như…khỉ
      Âu cũng chuyện thường

      Dân ngu sáng mắt
      Tá hoã kinh hoàng

      Văn minh…dùi đục
      Hỏi tự đâu sang?
      Thưa, từ…Cộng ngố
      Đã 40 năm
      Từ ngày…thấy chúng
      Chịu láo, chịu…hâm
      Ngày thêm…thảm não

      Thiệt…chán mớ đời…

    • Tướng ngụ , lính chết thảm says:

      ***Theo tài liệu đúc kết từ Đại Hội 4 của CSVN năm 1976, ít nhất là 4.000.000 thanh niên miền Bắc đã chết trên chiến trường – gồm cả số người chết trên đường xâm nhập từ Bắc vào Nam

      Trong cuộc phỏng vấn của tạp chí George trong năm1998, phê bình về Võ nguyên Giáp, tướng Westmoreland phát biểu : Một cấp chỉ huy người Mỹ mà mất lính nhiều như vậy thì khó mà được tại chức lâu hơn ít tuần ( An American commander losing men like that would hardly have lasted more than a few weeks ).

      ***Ngày 14/3/1988, một lực lượng hải quân hùng hậu của Tàu cộng đã tiến vào khu vực quần đảo Trường Sa. Lực lượng này bao gồm: 3 khu trục hạm, 7 tàu cao tốc, 2 tàu đổ bộ, 3 tàu vận tải hỗ trợ LSM, tàu đo đạc, tàu kéo và 1 pông tông lớn.

      Phía Việt Nam chỉ gửi ra có.. 2 tàu buôn !

      Người lính sống sót Trương Văn Hiền, trong cuộc phỏng vấn của BBC ngày 5/10/09, mô tả lại rằng “Trận đánh không cân sức kết thúc mau chóng, chỉ 15 phút sau thì chìm tàu”. Các tàu của Việt Nam đều bị bắn chìm, 3 người tử trận, 11 bị thương và 70 người bị mất tích.

  8. Vẹm says:

    Vô địch khuân đồ

  9. Vô địch says:

    Vô địch môn chạy!

    • Tien Ngu says:

      Chạy, còn giử đươc mạng, nòi giống.

      Vô địch môn…láo, thì nòi giống mới thật nà…khốn nạn.

    • Vô địch ngu says:

      13 triệu chết – Vô địch ngu :

      Lê Duẫn : “Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc.” .

      Hồ chí Minh : “Đừng nói là phải đánh 5 năm, 10 năm, dù có 20 năm, 30 năm, thậm chí 50 năm cũng phải đánh, đánh cho đến khi thắng lợi hoàn toàn”.

      Trong cuộc chiến Việt Nam 1954- 1975, quân đội Việt Nam Cộng Hoà mất 275,000 người và con số bị thương là 1,170,000 người.
      Theo sử gia Bill Laurie,” 275,000 tử trận trong tổng số dân Miền Nam 17 triệu. Nếu so với số dân 200 triệu của nước Mỹ vào thời điểm đó, thì con số này lên đến 3,235,000 người”.

      Theo tin từ Nhà Nước Việt cộng ngày 5/5/1995, thì Miền Bắc đã bị tổn thất 1,100,000 bộ đội và 600,000 bị thương .

      *** Tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang, một nhà cách mạng Cộng sản lão thành, trong bài “Thắp Chung Nén Nhang Cho Tấm Thảm Kịch Quá Khứ” đã viết:“Ai phải chịu trách nhiệm đối với những con số ghê rợn thế này:1.1 triệu liệt sĩ; 559.200 thương bệnh binh; hơn 300,000 người mất tích .

      Áp dụng cách tính của sử gia Bill Laurie thì ta thấy số tổn thất 1,100,000 bộ đội tương đương với gần 13,000,000 người .

    • Nguyễn Trọng Dân says:

      Bọn Cộng sản thì vô địch môn… QUỲ:

      1. Quỳ gối ở hang Pac pó mong Mao tiếp viện ( có hông?)
      2. Quỳ gối ở Quảng Châu mong Mao tiếp viện lần II ( có hông?)
      3. Quỳ gối ký công hàm nịnh hót ( Có hông )
      4. Quỳ gối trước điện cẫm linh( cái gì mà “thuơng cha thuơng một , thuơng ông tới 10…” để xin vũ khí bắn giết , bàn tay vấy máu đồng bào …có không?
      5. Quỳ gối ở Thành Đô…khóc lóc thãm thiết…( có không?)
      6. Quỳ gối Hoa Kỳ xin bải bỏ cấm vận 1991-1992 & mượn nợ ( có không?)
      7. Quỳ gối Hoa Kỳ lần 2 để xin…MỸ CÔNG NHẬN QUY CHẾ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ( đang quỳ hỗm rày , có không?)
      8. Chưa kể vụ anh Tư cuối rọp người trước Hồ Cẫm Đào…
      9.Bọn Cộng sản còn quỳ gối dai dài , NHẤT LÀ CÁI ĐOẠN CUỐI SẮP XẢY RA… QUỲ GỐI XIN DÂN TỘC VIỆT NAM THA TỘI…DIỆT CHỦNG

  10. Nguyễn Trọng Dân says:

    viết vội

    NỔI BUỒN NGUYÊN THẠCH ( II)

    Đất nước bao năm trải đoạn trường
    Mấy đời Cộng Sản trọng tình thuơng
    Mác Lê chủ nghĩa… ôi nghiệp chướng !
    Dân Việt vì sao khổ trăm đường

    Dân chết đầy đồng , Oán phơi xương
    Tại sao ĐẤU TỐ giết dân thuờng?
    Hai trăm ngàn mạng hồn vất vưỡng
    Tội đồ DIỆT CHỦNG quá tỏ tường !

    CHỐNG LẠI NHÂN LOẠI cố biểu dương
    Cộng Sản đại đồng khắp bốn phương
    Sanh Bắc Tử Nam vì tư tưởng,
    Mác Lê chủ nghĩa dựng hoang đường!

    Xào xáo thịt da có sót thuơng
    Mồ chôn tập thể vạn dân thuờng
    Ở Huế oán tràn muôn khắp huớng
    Đám giỗ cùng ngày qua’ bi thuơng !

    Có biết bao người với can trường
    Lội dòng Bến Hải kiếm tình thuơng
    Cõng cháu giữa khuya bơi thẳng huớng
    Tới bến Cộng Hòa kể tỏ tường:

    “Ngoài Bắc bây giờ đói cùng đường
    Nếu không “nhập ngũ” tù gục xương
    Cả nhà bị tố tù tội vướng
    Tuổi chớm mười ba phải ” lên đường”

    Sanh Bắc Tử Nam vạn xác xương
    Tuổi mới mười ba, tuổi mái trường
    Đảng đưa súng ống gây nghiệp chướng
    Bàn tay vấy máu chết ai thuơng?

    Ôm chân Trung Quốc nịnh đủ đường
    ĐẢNG VÌ BÁN NƯỚC có chủ trương
    Công Hàm ai ky’ dù cải bướng?
    Chỉ vì súng ống… bán quê huơng !

    Tạo hóa gây chi cảnh đoạn trường
    Triệu người VƯỢT BIỂN phải ly huơng
    Ty Nạn dài dài toàn Đông Á
    Chấn động năm châu , khắp bốn phương!

    Kinh tế Mác Lê bị trật đường
    Tập đoàn sản xuất lỗ xanh xương
    Dân tình đói quá…tiêu mộng tưởng
    Quá Độ mười năm … xụp thiên đường !

    Ngày nay Cộng Sản có chủ trương
    Ôm chân tư bản mở thị trường
    Độc quyền nhà nước tha hồ sướng
    Cướp bóc nhũng tham chốn quan trường

    Nước nhà Công Ly’ quá nhiễu nhương
    Dân cày mất ruộng đói cùng đường
    Đảng Viên giàu sụ phung phí huởng
    Tội trẻ bao người bán phấn huơng?

    • Miền Bắc điêu tàn says:

      *** Chỉ cần đọc qua một số nhà văn , nhà thơ thì cũng đủ thấy cuộc sống điêu tàn ở miền Bắc trong thời chiến tranh. Ví dụ chỉ cần đọc Nỗi Oan của Đào Hiếu, Con Bò Thải và Cái Đêm Hôm Ấy Đêm Gì của Phùng Gia Lộc, Thiên Đường Mù của Dương Thu Hương, hay Ông Tướng Về Hưu, và Con Gái Thủy Thần của Nguyễn Huy Thiệp thì sẽ rõ.

      Ngọc, vai chính trong Nỗi Oan mới 12 tuổi đã phải leo xuống giếng sâu thăm thẳm, đường lên trơn trượt để múc nước, gánh nước. Rồi khi lớn lên thấy trong làng “sao mà lắm người tự tử thế? Nhiều người tự thắt cổ. Có người nhảy xuống giếng mà chết. Người sống thì mùa đông chui vào đống lá khô cho đỡ rét…

      Gia đình cậu Chính của Hằng vai chính trong Thiên Đường Mù bữa ăn chỉ có một đĩa rau muống luộc và một đĩa nhộng rang hành chia ra làm 3 ô, mỗi ô chỉ có 15, 16 con bé tí bằng đầu đũa. Thằng anh chọc đũa vào phần của thằng em bị mẹ dở đầu đũa gõ vào đầu thắng anh. Thằng anh khóc ré lên…

      Con bò của hợp tác xã trong Con Bò Thải của Phùng Gia Lộc thì gầy nhom, chả bù cho khi nó chưa vào hợp tác xã thì béo tốt. Cái cảnh cha chung không ai khóc ở các hợp tác xã quá tàn tệ. Nếu thu hoạch có khá đôi chút thì cũng chỉ béo mấy kẻ trong ban quản trị. Xã viên vẫn đói meo.

      Đặc biết dân quê nghèo đến độ trẻ con đã chín mười tuổi cũng không có quần. Không chỉ có thơ của Nguyễn Chí Thiện tả trẻ con trong tù lon ton không phải mặc quần.

      Mà cả chuyện Cô Gái Thủy Thần của Nguyễn Huy Thiệp cũng tả cảnh một bé gái 12 tuổi cởi truồng cầm đầu một tóan 6,7 đứa trẻ ban đêm cũng trần truồng đi ăn trộm mía của hợp tác xã. Còn con trai mới 14 tuổi đã phải đi cầy. Mà lại còn là thợ cầy chủ lực của hợp tác xã. Tối đến về nhà lại còn phải đi đào đá ong!

      Trong Ông Tướng về hưu một nhân vật nói mỗi ngày trong nước có cả ngàn người chết khắc khỏai, chỉ ước được chết nhanh như lính. “Lính các anh sướng, đòm một phát. Sướng!“ Chỉ mấy hàng đã đủ đau lòng.

      ***Trong cuốn sách Tôi Bỏ Đảng, tác giả Hoàng Hữu Quýnh kể lại: Tại Hà-nội , trong đợt thanh niên làm nhiệm vụ kiểm tra nếp sống thời chiến, trong vòng một đêm bắt được hơn 400 cô gái làm đĩ, phần lớn là người các tỉnh lân cận Hà-nội.” Sang trang sau ông viết: “Thành, bạn tôi đã kể cho tôi nghe tại thành phố Namđịnh, những bé gái chỉ 13, 14 tuổi đã lang thang ở vườn hoa bến tầu. Mỗi lần thấy người đi qua các em gọi lại. “Chú ơi, chú chơi cháu đi. Chú muốn Tam Đảo hay Điện Biên tùy ý chú “ .

      • Nguyễn Trọng Dân says:

        Tri’ch:

        Giờ đây, mọi người lại hỏi tôi “anh nghĩ và có cảm xúc như thế nào về ngày 30-4?”

        Tôi trả lời: “Một chế độ dân chủ và văn minh đã thua một chế độ độc đảng toàn trị và lạc hậu. Cái ác đã chiến thắng. Còn cảm xúc thì buồn và nuối tiếc cho chế độ Việt Nam Cộng Hòa, bởi tôi và rất nhiều người đều cho rằng nếu ngày 30-4-1975, bên chiến thắng là Việt Nam Cộng Hòa thì giờ đây trong khu vực châu Á, Việt Nam có thể chỉ thua duy nhất Nhật Bản về kinh tế, còn chắc chắn sẽ ngang bằng hoặc hơn Hàn Quốc về cả kinh tế và quân sự.” – het trich

        Luật Sư Nguyễn Văn Đài
        ********************************************

        Việt Nam Cộng Hòa Muôn Năm !

Leave a Reply to DâM TiêN