WordPress database error: [Expression #1 of ORDER BY clause is not in GROUP BY clause and contains nonaggregated column 'oldsite_dcvwp.wp_posts.post_date' which is not functionally dependent on columns in GROUP BY clause; this is incompatible with sql_mode=only_full_group_by]
SELECT YEAR(post_date) AS `year`, MONTH(post_date) AS `month`, count(ID) as posts FROM wp_posts WHERE post_type = 'post' AND post_status = 'publish' GROUP BY YEAR(post_date), MONTH(post_date) ORDER BY post_date DESC

 
|

Trần Đức Thảo – Những lời trăn trối

nhung loi trang troi

Ðã có nhiều tác giả tây ta viết về nhân vật Hồ Chí Minh (HCM) riêng cuốn Trần Ðức Thảo Những Lời Trăng Trối là cuốn rất ðặc biệt vì sách ðã “phân tích sư thật về những hành ðộng khủng khiếp” của họ Hồ bởi một triết gia “lỗi lạc của Việt Nam và thế giới”. Nãm 1951 ông bỏ Paris về bưng, qua ngả Mạc Tư Khoa, tham gia kháng chiến chống Pháp; ðã từng “trải nghiệm gian khổ trong chiến tranh, trong cách mạng” suốt 40 nãm. Nhà triết học họ Trần trước khi mất ðã khẳng ðịnh, Marx ðã gây ra mọi sai lầm và tội ác. Ông còn nói, chính “cuồng vọng lãnh tụ” ðã khiến “ông cụ” là một con người “cực kỳ vị kỷ, bất chấp những chuẩn mực của lương tri, của ðạo lý”. Theo ông, ðây là “một Tào Tháo muôn mặt của muôn ðời” và “là một con khủng long ba ðầu, chin ðuôi”.

Lời trối trãng của nhà triết học Trần Ðức Thảo cho biết, “nếu không dám khui ra những sai trái lịch sử của “ông cụ”, không dám ðưa ra ánh sáng tội lỗi của Marx thì không bao giờ thoát ra ðược tình trạng bế tắc chính trị ðộc hại như hiện nay ở nước ta”. Theo ông, quá khứ cách mạng của Viêt Nam ðã tích tụ quá nặng ðầy những di sản xấu. Quyển sách dày 427 trang là những lời tâm sự sống ðộng của một nhà tư tưởng giúp ðộc giả hiểu rõ nguồn gốc của thảm kịch ðang bao phủ lên thân phận dân tộc, lên ðất nước ta. Ông cảnh báo xã hội Việt Nam “ðang bị ung thối bởi cãn bệnh xảo trá, cãn bệnh thủ ðoạn của ðảng”. Ông bị tống ði ra khỏi quê hương vĩnh viễn với cái vé ði một chiều, bị ðuổi khỏi Saigon, buộc phải ði Pháp, không ðược trở về Hà nôi.

Trong cuốn sách, nhà triết học Trần Ðức Thảo (1917-1993) ðã vạch ra rằng, về lâu về dài, càng thấy ba chọn lựa của “cụ Hồ” mang tính sinh tử với ðất nước và dân tộc, ðã ðể lại di sản vô cùng trầm trọng: “chọn chủ nghĩa xã hội của Marx ðể xây dưng chế ðộ, chọn chiến tranh xoá hiệp ðịnh hòa bình ðể bành trướng xã hội chủ nghĩa và thống nhất ðất nước, chọn Mao và ðảng Cộng sản Trung Quốc làm ðồng minh, ðồng chí”. Sách có 16 chương, một chương chỉ ðể giải mã lãnh tụ; nhưng ở chương nào HCM cũng ðược ðề cập tới. Ông xác nhận, hễ nói tới thảm kịch VN thì “không thể không nhãc tới ông cụ”. Cố giáo sư quả quyết, ‘phải nói thẳng ra là Mao ðã trực tiếp bẻ lái “ông cụ”; và “Trung Quốc muốn nhuộm ðỏ Việt Nam theo ðúng màu ðỏ ðậm của Trung Quốc”.

Đãi ngộ hay bạc đãi

Triết gia Trần Ðức Thảo (TÐT), nổi tiếng về hiện tượng luận, từng tranh cãi với Jean-Paul Sartre ðược ðảng Cọng Sản Pháp vận ðộng ðể ðược cho về xứ nhằm phục vụ cách mạng vì “tôi có những nghiên cưú sâu rộng cuộc cách mạng tháng 10 ở Nga và có vốn hiểu biết vững chắc tư tưởng của Karl Marx”. Khi về tới quê hương “tôi bị vỡ mặt và vỡ mộng”; bị nghi là “siêu gián ðiệp trí thức”. Tên tuổi ông, một thời danh tiếng trời Âu chìm hẳn. Nãm 1991 ông “bị ðẩy trở lại Paris”. Thế nhưng, sau khi qua ðời ngày 24/4/1993, nhà cầm quyền Hà nội lại truy tặng ông huy chưong Ðộc Lập; ca tụng ông là nhà triết học lớn của thế kỷ. Họ còn cho rằng “”tư tưởng HCM” ðã có ảnh hưởng với nhà triết học số một Việt Nam và lúc sinh thời ðảng, nhả nước rất mực trọng ðãi ông.

Có thật thế không? Trong chương Ðãi ngộ hay bạc ðãi, ông nói, những chức vị mà người ta ban cho, “che dấu một ðối xử nghiệt ngã và tồi tệ”. Ông cho biết, sự có mặt của ông trong một số sinh hoạt chỉ là “bù nhìn ðứng giữa ruộng dưa”. Sự thật “họ chỉ ðể cho sống; cho tôi khỏi chết ðói; chỉ toàn là bạc ðãi”. Nhà triết học phân trần, chúng bắt “tôi phải gắng mà học tập nhân dân nghĩa là phải cúi ðầu tuyệt ðối vâng, nghe lời ðảng”. Ông tiết lộ, tuy có chức phó giám ðốc trường Ðại Học Vãn Khoa Sư Phạm nhưng “chưa hề ðược tham dự bàn bạc gì vào việc tổ chức, ðiều khiển, ngay cả ý kiến giảng dạy cũng không hề có”. Sự có mặt của ông trong các buổi họp hay ði theo các phái ðoàn thanh tra là chỉ ðể “giới thiệu có thạc sĩ triết bên tây về ủng hộ cách mạng”.

Những ðiều nói ðó phù hợp với bài báo của nhà thơ Phùng Quán Chuyện vui về triết gia Trần Ðức Thảo ðãng trên báo Tiền phong ngày 11/5/1993: nhờ cái chết của nhà tư tưởng lớn này qua các báo mà rất nhiều người trong nước ðược biết rằng ðất nước chúng ta ðã từng sinh ra một triết gia tầm cỡ quốc tế. Ông ta sang tận bên Tây mà chết. Khi sống ở trong nước thì lôi thôi nhếch nhác hơn cả mấy anh công nhân móc cống. Mùa rét thì áo bông sù sụ, mùa nực thì bà ba nâu bạc phếch, quần ống cao ống thấp, chân dép cao su ðứt quai, ðầu mũ lá sùm sụp, cưỡi cái xe ðạp “Pơ-giô con vịt” mà mấy bà ðồng nát cũng chê. Thật ðúng như anh hề làm xiếc! Mặt cứ vác lên trời, ðạp xe thỉnh thoảng lại tủm tỉm cười một mình, một anh dở người”.

Mưu thần chước quỷ

Nhiều người tự hỏi bị ðối xử cay ðắng như vậy sao “bác Thảo lại hay có lúc bật cười như ðiên”; và bị chung quanh chê bai, chế giễu “bác là người khùng”? TÐT cho hay, ông bắt ðầu “hết cười rồi lại khóc” sau khi tham gia ðợt thì hành cải cách ruộng ðất ở huyện Chuyên Hóa, tỉnh Tuyên Quang nãm 1953. Lương tri trỗi dậy khi thấy lãnh ðạo “chọn con ðường hành ðộng nặng tính cuồng tín, dã man”. Ông nói, “chẳng thà là thằng khùng hơn làm thằng ðểu, thằng ác, thằng lưu manh”. Về giai thoại TÐT ði chãn bò, theo ông, ðó là một sự xấu hổ cho cả nước. Làm nhục một trí thức là lối hành xử của một chính quyền man rợ, bị ảnh hưởng Trung Quốc, buộc họ phải học thuộc lòng câu “trí thức không bằng cục phân” của Mao.

Nhà tư tưởng họ Trần nhận xét, Cộng Sản Việt Nam rất sùng bái Trung Quốc, ‘cứ như là con ðẻ của ðảng Cộng sản Trung Quốc”. Là một nhà triết học, có thói quen tìm hiểu, ðánh giá lại, ông thấy “nước ta trồng cây tư tưởng của Marx, cho tới nay cây ðó chỉ cho toàn quả ðắng”. Chính “cái thực tại tàn nhẫn khi chứng kiến sự ðau khổ của con người bị kềm kẹp bởi ý thức hệ” khiến ông muốn “ðặt lại vấn ðề từ học thuyết”. Triết gia TÐT nói, nhiều lãnh tụ “từ lầu ðài tư tưởng Marx bước ra ðã trở thành những ác quỉ”. Theo ông, “quỉ ấy là ý thức ðấu tranh giai cấp”; là thứ “vi rut” tư tưởng ðộc hại vô cùng; nó phá hoại xã hội, nó thúc ðẩy con người ðam mê tìm thắng lợi, bằng ðủ thứ quỉ kế, ðể mưu ðồ củng cố cho chế ðộ ðộc tài, ðộc ðảng.

Theo nhà triết học số một của Việt Nam, “ông cụ” là một nhà ảo thuật chính trị ðại tài: lúc thì biến có thành không, lúc thì biến không thành có”. Ðúng là “mưu thần chước quỉ” chuyên hành ðộng muôn hướng, muôn mặt, “trí trá còn hơn huyền thoại Tào Tháo trong cổ sử Trung Quốc!” Bác Hồ ðánh lừa dư luận Âu Mỹ, khi chép lời nói ðầu bản tuyên bố ðộc lập của Mỹ; ðánh lừa các ðảng trong nước khi thành lập chính phủ ðại ðoàn kết và mời cựu hoàng Bảo Ðại làm cố vấn. Vài tháng sau, Võ Nguyên Giáp dẹp bỏ; coi họ là phản ðộng; ðẩy Bảo Ðại sang Côn Minh. “Ông cụ” còn ðược triết gia TÐT gọi là một nhà chính trị “thần sầu quỉ khốc” khi “ông cụ” khôn khéo mưu tìm sự tiến cử của Mao ðể ðược ðưa về xứ làm lãnh ðạo duy nhất phong trào cách mạng Việt Nam.

Cố Giáo sư TÐT kể lại rằng, biết mình bị Ðệ Tam Quốc Tế tức Liên Sô loại ðuổi khéo về Viễn Ðông và biết Mao là thủ lãnh các phong trào cộng sản ở Châu Á, “ông cụ” vào làm việc cho Bát Lộ Quân, tuyên thệ gia nhập ðảng Cộng sản Trung Quốc; ðược Mao rất ưu ái. Nhờ vậy, “ông cụ” từng bước loại bỏ tất cả ðối thủ Trần Phú, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Nguyễn vãn Cừ… ðể rồi vươn lên làm Tổng Bí Thư kiêm chủ tịch nước nãm 1945. Dù sự tấn phong “ông cụ” ở các ðại hội Ma Cao và Hồng Kông bị phản ứng của các khu uỷ, xử uỷ và của “Ðê Tam” nhưng nhờ Mao dàn xếp nên ðã qua mặt những sự phản ðối này vì họ là những kẻ ðã từng nhận ðược sự nâng ðỡ của cộng sản Trung Quốc. Triết gia họ Trần nói thêm, “ông cụ” luôn luôn là người biết chụp bắt cơ hội”.

Huyền thoại “bác Hồ”

Vẫn theo nhà tư tưởng TÐT, các nhà nghiên cứu nước ngoài khi viết về HCM họ bị chói lòa bởi những huyền thoại về “ông cụ” của bộ máy tuyên truyền; họ xử dụng sản phẩm chính thống của ðảng thì làm sao họ hiểu hết ðược mặt thật của họ Hồ. Ông nói, có một thứ tư liệu rất chính gốc, bộc lộ rõ cái cuồng vọng lãnh tụ của “ông cụ”; nó chi phối từ nội tâm. Ðó là những tên giả chính “cụ Hồ” ðã tự ðặt cho mình. Muốn tìm hiểu cặn kẻ, phải phân tách những chuyện biến tư tưởng qua từng giai ðoạn ðổi tên, ðổi họ; từ những cái tên “Tất Thành”, rồi “Vương”, rồi là “Ái Quốc”, chót hết là “Chí Minh”. Ðấy là những biểu hiện của một thứ bệnh tâm thần, khao khát danh vọng. HCM chỉ thành lãnh tụ cách mạng sau khi không ðược cho vào học Trường Thuộc Ðịa ðể ra là quan.

Nhà triết học nói thêm rằng, một người tự viết sách ðề cao mình, như cuốn “Những mẩu chuyện về cuộc ðời hoạt ðộng của Hồ chủ tịch” và “Vừa ði ðường vừa kể chuyện” thì không thể là một người vì nước vì dân ðược. “Ông cụ” ðã tạo ra một thời chính trị ðiên ðảo. Ngoài ra, ðám quần thần chung quanh “ông cụ”, không tha thứ cho ai dám tỏ ra ngang hàng với “Người”. Họ tôn vinh “ông cụ” làm bác, làm cha dân tộc. Tạ Thu Thâu chết mất xác vì câu nói “ngoài bắc có cụ, trong nam có tôi”. TÐT cho biết, nãm 1946 gặp “ông cụ” trong một buổi chiêu ðãi ở Paris, ông ðã bất ngờ trước lời khước từ: “cách mạng chưa cần tới chú ðâu” của HCM; khi ông tự ý nắm tay “ông cụ” ngỏ lời: “Tôi muốn về nước cùng cụ xây dựng thành công một mô hình cách mạng tốt ðẹp tại quê hương”.

Dù thế, triết gia vẫn nhờ bạn bè phương tây giúp ông ðược vể nước tham gia kháng chiến. Nhờ vậy, ông có cơ hội quan sát một Hà nội và Saigon ðang bị lột xác theo sự phát triển của chủ nghĩa xã hội. Một giai cấp thống trị mới ðang hình thành. Càng quan sát nhà tư tưởng TÐT càng thấy huyền thoại về “bác Hồ” là tác phẩm của “cả một công trình nghệ thuật hoá trang cao ðộ”. Cái gì có giá trị là của bác, của ðảng. Họ công kênh “ông cụ” lên làm bậc thần, bậc thánh. Theo TÐT, “phải hít thở cái không khí” thờ kính, phục tùng lãnh tụ mới có thể hiểu phần nào những “phương pháp tâm lý tinh vi” tôn sùng HCM. Ông nhấn mạnh, “bác Hồ” chỉ có thể coi như mẫu mực thành ðạt về chính trị; “không thể nào là mẫu mực về mặt ðạo ðức”; vì cách sống muôn mặt của bác ðâu phải là gương sáng.

Nhà triết học bị kết tội “cầm ðầu âm mưu chống ðảng” vì hai bài viết trên Nhân Vãn Giai Phẩm (NVGP), do một số anh em vãn nghệ trẻ chủ xướng. Ông cho biết, nếu không có mấy nhà trí thức Pháp ðứng ðầu là Sartre “tận tình quan tâm, chãm sóc” ðến ông thì với mấy tội: tự ý nắm tay bác nãm 1946 ðòi cùng về nước làm cách mạng; từ chối lên án bố mẹ khi khai lý lịch; muốn ðấu lý với cố vấn Trung Quốc lúc làm ðội viên cải cách ruông ðất và vụ NVGP, ông có thể “dễ chết`như chơi”. Nãm 1952 triết gia ðược dẫn ði chào “Bác”. Ban lễ tân dặn ông bốn ðiều cần nhớ: phải ðứng xa “Người” ba mét, chỉ lại gần khi “Người” ra lệnh; không ðược nói leo, chỉ trả lời câu hỏi; không ðược chào trước; không ðược nói tôi phải xưng bằng cháu, gọi “Người” bằng “bác.

Chư hầu ngoan ngoãn

Theo sự chiêm nghiệm của triết gia TÐT thì HCM chưa ðọc kỹ học thuyết sách vở của Marx, “tư duy sổi nên chưa tiêu hóa ðược”; nhưng lại “ðọc thuộc lòng cuốn “Le Prince” của Machiavel”, cuốn chỉ bày tận dụng mọi thứ ðể người ta sùng bái. “Ông cụ” luôn luôn chứng tỏ một bề ngoài nặng lý trí ðến vô cảm; không thiết tha với gia ðình; không có bạn hữu thân tình. “Ông cụ” rất ghét cánh Tây học. Trong vòng thân cận, chỉ có toàn hầu cận ít học ðược ”ông cụ” ðào tạo ðể phục tùng; rồi sau ðề bạt lên làm lớn. “Ông cụ” làm thơ là “do cuồng vọng chính trị”, là ðể “ca ngợi mình” và “hô hào quyết chiến”. Nhà triết học này còn cho rằng, trên thân phận HCM có một bóng ma quái nó ðè. Ðó là “ bóng ma ðế quốc bành trướng vô cùng ðộc ðoán, lấn át của Mao.”

Vẫn theo TÐT, ý thức hệ xã hội chủ nghĩa chỉ là một phương cách giam hãm các dân tộc chư hầu với cái tên ðẹp “khối các nước xã hội chủ nghĩa anh em” nhưng thực chất là một ðế quốc ðỏ; nó kềm kẹp các dân tộc nhược tiểu quanh nó. Ðó “chỉ là thứ liên minh ma quái, quỉ quyệt, giả dối”; muốn biến “nước ta thành một chư hầu ngoan ngoãn”. “Ông cụ” vì tham vọng quyền lực từ ý chí muốn học ra làm quan nhưng không ðược nên ðã lấy học thuyết “giai cấp ðấu tranh” làm kim chỉ nam ðể tạo cơ hội thành danh, thành lãnh tụ. Nhà triết học nói, ðể nắm vững quyền lực “ông cụ” phải thủ vai ông thánh, ông thần”, từ bỏ cả vợ con, mất ði tính người, thẳng tay tiêu diệt những kẻ có tài. Lại thêm, Mao ðã cài chung quanh “ông cụ” một ðám cực kỳ cuồng tín.

Trong chương “Hai chuyến di chuyển ðổi ðời” của cuốn sách, nhà triết học họ Trần cho biết, ông ðược rời cảnh “sống như bị giam lỏng ở Hà nội” ðể vào Saigon ở là nhờ sự vận ðộng của một số ðồng chí trí thức Nam Bộ. “Saigon ðã làm tôi bàng hoàng tới cùng cực. Khang trang và hiện ðại; ðâu có ðói khổ vì bị Mỹ Ngụy kềm kẹp. Miền Nam ðã có một mức ðộ dân chủ rõ rệt. Miền bắc bị tư tưởng Mac-Lenine làm nẩy sinh những chính sách ðầy sai lầm. Sĩ quan của “bộ ðội cụ Hồ” ðã có “thái ðộ thô bạo, ứng xử thô bỉ” khi nhục mạ, gọi Dương vãn Minh là mày, và bắt cả nhóm phải ðứng cúi ðầu.” Ðấy là những lời thố lộ của TDT mà nhà vãn Tri Vũ Phan Ngọc Khuê ðã viết lại qua các cuốn bãng thu những ðiều ông tâm sự với một số bạn trong sáu tháng cuối ðời ông ở Paris.

Nhà triết học còn thú nhận Trần Dần và Trịnh Công Sơn là hai người ðã thúc ðẩy ông phải thoát khỏi thái ðộ hèn nhát ðã ngự trị trong ðầu óc trí thức và vãn nghệ sĩ Hà nội; giới này ðã ứng xử ðồng lõa với tội ác của cách mạng. Người thứ nhất là Trần Dần lúc ông ta mời viết cho NVGP. Người thứ hai là các bài hát của họ Trịnh. Ngoài ra, những ai từng sống ở Saigon sau 1975, nếu ðọc chương “Vẫn chưa ðược giải phóng” ðều nhận thấy những mô tả của triết gia về Hà nội nãm 1954 rất giống Saigon sau 30/4/75: “cả con người và xã hội ở ðây ðã không hề ðược giải phóng” và thật là “vô lý và nhục nhã” khi so sánh với chế ðộ cũ. Ông nhận xét: tư hữu kiểu cũ do làm cần cù, tích lũy mà có ðược; tư hữu kiểu mới do chiếm ðoạt bằng chữ ký và quyền lực.

Cao vọng hơn “bác Hồ”

Ðược gợi hứng bởi môi trường miền Nam, trong vòng 10 ngày TÐT hoàn thành một tập sách nhỏ “Con người và chủ nghĩa lý luận không có con người”. Ðây là vãn bản phản bác giáo ðiều, ðược ðón nhận như một bông hoa lạ. Chẳng bao lâu sách bị cấm phổ biến. Giới cựu kháng chiến và nhiều trí thức khác còn ở lại trong nước tấp nập tới làm quen với nhà triết học ðể nghe những “lời tiên tri” là “cách mạng ðã biến chất ðể tư bản man rợ tràn ngập”. Trung Ương thấy số người “phức tạp” ðến gặp “bác Thảo” càng ngày càng ðông, nên Ðảng ðã quyết ðịnh “anh phải ra ði”. Nhà triết học than “thôi thì ðành mang thân xác ra xứ người”. Qua Pháp, tuy ðã một thời vang danh ở Paris, ông vẫn “lâm cảnh sống nay lo mai”, và còn bị Toà ðại sứ theo dõi kiểm soát chặt chẽ.

Trong cài xui có cái may. Nhà vãn Tri Vũ-Phan Ngọc Khuê nhờ những lúc nhà triết học bán chữ ðể kiếm sống qua các buổi thuyết trình ở kinh ðô ánh sáng mà ðã làm quen thân với ông, ðược nghe ông tâm sự. Quyển sách ghi lại nỗi hối hận ðã thiêu ðốt ông vào lúc hoàng hôn của cuộc ðời. Nhà vãn cho hay ông “sẵn sàng trao mấy cuốn bãng cho những ai muốn nghiên cứu về TÐT”. Trong sách nhà triết học có lần ðã khẳng ðịnh: “tôi có tham vọng cao hơn của “bác Hồ” nhiều lắm”. Ðấy là xây dựng “một lâu ðài tư tưởng trong ðó toàn thể nhân loại ðều thể hiện rõ quyền sống của mình, quyền dân chủ bằng lá phiếu của mình”. Nhưng mộng ðó không thành, triết gia lừng danh một thời trời Âu bị ðột tử. Chúng ta mất ði “một kho tàng trải nghiệm về chiến tranh, về cách mạng”.

Người chủ trương Tổ Hợp Xuất Bản Miền Ðông Hoa Kỳ, Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích cho biết việc tái bản cuốn sách là ðể phục hồi danh dự một nhà tư tưởng lớn của Việt Nam. Trong lời bạt ông viết, “cuộc ðời TÐT xem như cuộc ðời tan nát vì “cách mạng” mà ông chọn phục vụ vào nãm 1951 nên mọi sự trở nên vỡ lở. Cuộc ðời ðó có thể xem như một bài học –“an object lesson”- với những ai ðể cho tình cảm, lý tưởng che mờ ði lý trí, kinh nghiệm. Không những ông mất vợ, không có ðời sống gia ðình, không có tự do trong bóng tối làm những việc ông muốn làm cho quê hương ðất nước của ông. Sự nghiệp triết học của ông là một sự nghiệp dang dở.” Sách ðược xuất bản lần ðầu với số lượng ít; tên gốc là Nỗi hối hận lúc hoàng hôn chỉ ðể thãm dò ý kiến thân hữu.

Những ai yêu “bác Hồ”, những ai coi HCM là tên tội ðồ hay các nhà khoa bảng, các học giả, các ông bà phản chiến và những ai còn nghĩ ðến nước Việt nên ðọc cuốn này. Cho tới nay chưa có tác giả nào trên thế giới – ngoại trừ triết gia TÐT- nêu ra ðược, thật sáng tỏ, những ðiều vô cùng bi thảm trong thời cách mạng; vì ông ðã trải nghiệm 40 nãm trong cuộc. Ngoài ra, ông bà nào giỏi tiếng Tây tiếng Mỹ nên dịch sách ra cho thế giới biết thêm về HCM, kẻ ðã lừa mọi người từ Âu sang Á; khiến nhà tư tưởng số một Việt Nam TÐT phải nói thẳng rằng, Napoléon, Hitler cũng có tâm thức tự cao tự ðại nhưng “không gian trá ðến mức tinh quái” ðể có những “hành ðộng muôn hướng, muôn mặt, trí trá còn hơn cả huyền thoại Tào Tháo trong cổ sử Trung Quốc!”.

Phan Thanh Tâm

Saint Paul, 6/2014

© Đàn Chim Việt

 

 

53 Phản hồi cho “Trần Đức Thảo – Những lời trăn trối”

  1. Chưng Sơn says:

    DCV nếu có sửa “Trăng trối” thành “Trăn trối” là đã sửa đúng. Trăn trối đúng trên bình diện văn chương, bình diện quốc gia (Nghĩa là số đông) . Trăng trối đúng trên bình diện địa phương, nhưng sai trên bình diện số đông, Một số lớn người viết văn sẽ không dùng trăng trối, thay vì vậy họ sẽ dùng Trăn trối để diễn tả sự gởi gấm những lời dặn dò quan trọng, sau cùng của người sắp qua đời, mà trong đó có thể (phần nhiều) là do có tình trạng vật vã, lăn lộn, khó khăn của người trong tình trạng bốn đại (đất, nước, gió, lửa) sắp chia lìa. Nhưng thay vì dùng “Lăn trối” thì họ dùng “Trăn trối” cho tiện, và cũng gần với tiếp vĩ ngữ của nhau.
    Đời sống kinh qua nhiều tầng trầm tích giao tiếp, va chạm đã tự phát huy được những từ đáp ứng để tương đối (Xin nhấn mạnh chữ tương đối, trong tất cả những sự kiện) diễn tả những sinh hoạt trong văn hóa, đời sống của con người, muốn biết chắc từ nào đúng, thì đi tìm những chữ biến thể của nó: Ai ai cũng viết “Trằn trọc” chứ không ai viết “Trăng trọc” cả, vì chữ “trăng” không mang hình ảnh khó khăn, lăn lộn, vật vã để đi tìm cái điều đang muốn tìm. Và khi người nào viết “Trăn trở” thành “Trăng trở” thì biết ngay người này bị sai chính tà vì tính địa phương.
    Việc sai một chữ, một dấu vì tính địa phương, tính truyền thống, tính kế thừa có thể xảy ra với bất cứ ai, bất cứ nhà văn, nhà thơ, nhà triết học nào, trong trường hợp triết gia Trần Đức Thảo cũng không ngoại lệ. Nhưng chẳng ai vì vậy mà dám chê ông ta dốt chữ. Vì rõ ràng trong trường hợp này kẻ ngu là kẻ dám chê ông ta là dốt.
    Cả nước đều chứng kiến phó tổng thống, luật sư, giáo sư luật Dan Quaile đánh vần sai hai lần chữ potato (Potatoe). Nhưng đảng cộng hòa vẫn cho ông cơ hội xuất hiện trong lần tranh luận sau, chọn ƯCVTT. Vì sai (hay quên) một chữ mà mình không xử dụng tới thường xuyên là chuyện dễ hiểu. Chẳng ai dám nhạo ông ta dốt cả.
    Kẻ cố biện hộ cho một vài cái sai nhỏ nhặt (Vì tính địa phương, vì tính truyền thống) cho những người nổi tiếng. Hoặc ngược lại, chế diễu qúa đáng cái sai sót nhỏ nhặt của họ, là hành động đội cứt cọp lên đầu để mong có đưọc cái oai giống như cọp, đây là một cố gắng thảm hại lộ liễu, bắt nguồn từ sự thiếu hiểu biết, lịch lãm. Đây mới đúng là kẻ dốt vì không dám tự mình đi tim lý luận, để khám phá ra sự thật.
    Đừng nên tin vào từ điển vì từ điển cũng vẫn có thể sai như thường (Tận tín thư, như vô thư là thế). Mà hãy tự mình chiêm nghiệm, lý luận để tìm ra sự thật sau cùng. Thế nên trong kinh Kalama Đức Phật đã dậy : “Đừng nên tin vội, vì nó từ…”. Là vậy.
    Nguyễn Trọng Dân đối thoại với Chưng Sơn tự xưng mình là “Qua”. Được Chưng Sơn, đầu tiên là giải bày rằng chữ “Qua” là chữ của người cao tuổi, người trên dùng với người trẻ tuổi hơn mình (ở hàng con cháu) ở một vài vùng, vài tỉnh miền Nam bộ
    Sau đó vài lần, vẫn ngoan cố dùng nó trong đối thoại nên bị Chưng Sơn mắng cho là lấc cấc, ngu dốt là đúng “bệnh” của hắn ta.
    Thử tượng tượng, bỗng dưng Chưng Sơn tuyên xưng là “Ta” và gọi mọi đối thoại là các “người”, hay các “anh” thì có phải là ngu si không?
    Trường hợp dùng từ con chiên chien đẻ (CCCĐ) là để hãm bớt cái nghiệp vì ngu đần, liệt não của con chien với sự thật lịch sử, hầu mong giúp CCCĐ ngưng quay những lưỡi dao mê muội vào sự thật lịch sử, vào lưng của dân tộc, tổ tiên 7 đời nhà mình, đây là trường hợp hoàn toàn khách hẳn.
    Trong trường hợp này, ý của Chưng Sơn vẫn là ý tốt trên đường dài của nhân qủa. Vì tất cả những phạm thượng, vu khống của con chien với Phật Giáo, với danh nhân nước Việt, với Bồ Tát Thích Quảng Đức, với văn hào Nguyễn Tường Tam, trên nguyên tắc đó là những tội ác, thuộc vế khẩu nghiệp, và nó sẽ mãi mãi nằm trong những tầng trầm tích nhân qủa.
    Xin gởi đến đọc giả bài : Cuốn sách bị bỏ quên, của nhà văn Đào Văn Bình. Trong đó ông đã giới thiệu Quốc Oai tức nhả văn, nhà báo Thanh Thương Hoàng, cựu TTK hội ký giả Việt Nam từ 1967-1971 (?). Trong đó ông đã tường thuật khách quan, trung thực những diễn tiến, hoàn cảnh bi đát, bị khủng bố của Phật Tử suốt 9 năm dưới chế độ Nhà Ngô. :
    http://daovanbinh.cattien.us/?p=582

    • Bin Lalàng says:

      Đã dốt lại hay khoe chữ,cái thói mất dạy không bỏ được.Không tranh luận bằng kiến thức với người ta vì kém tài song quay ra đổi nick chửi người một cách hạ tiện,thói thù dai nhỏ mọn như đám nhà sản.không những loạn ngôn báng bổ thần thánh mà gã còn dám dạy người ta về thuyết nhân quả khiến người ta buồn nôn.Chưng Sơn à,mi chui vô thùng rác ăn đồ bẩn thì nên ăn một mình,đừng dụ dỗ người khác đó cũng nằm trong những tầng trầm tích nhân quả.

    • Choi Song Djong says:

      Nhà hiền triết viết :
      ” DCV nếu có sửa “Trăng trối” thành “Trăn trối” là đã sửa đúng. Trăn trối đúng trên bình diện văn chương, bình diện quốc gia (Nghĩa là số đông) .”.

      Cứ như là đi bỏ phiếu ấy…theo đa số…Ôi chữ và nghĩa.

    • Tien Ngu says:

      Sơn à,

      Bỏ cái tật lên lớp kiểu…tự sướng đi Sơn. Đây là diễn đàn quốc tế, Sơn?

      Hãy đọc và nghiền ngẫm lời trăn trối của một…triết gia đã trót…khi xưa ta bé, ta…ngu. Thay vì là lên lớp thiên hạ bằng những ngôn từ thô bỉ, kiến thức…lâm vố.

      Thấy thương quá…

  2. Trúc Bạch says:

    Mẹ kiếp !

    “Đề tài chánh” là nói về sự dại dột của “Chiết Ra” Trần Đức Thảo…..

    Thế mà cả diễn đàn bị đám “cháu ngon” bác Hồ lôi cuốn vào vòng “chanh cãi” lỗi “chánh tả”, làm cho lạc (mẹ nó) cả…đề mà không ai biết .

  3. miêng vt. says:

    Thứ nhất, có lẽ ai cũng dễ dàng đồng-ý “trăng trối” là đảo ngược của “trối trăng,” (trích)
    ===không ai”dể dàng “đồng ý “trăng trối” là đão ngược của “trôi trăng ” vì chử trăng có (g) vẫn có nhiều người cho là sai chính tả.Viết “trăn (không (g)trối” sao lại không đuộc ,không đúng?
    mà “trối trăng” thì không ai viết thành “trối trăn” cả.(trích)
    ===mà “trối trăn” thì sao biết khong ai viết thành trối trăn cả
    Hầu hết góp yas đều viết là “trăn trối ” đão ngược là “trối trăn” Không lẻ ho sai hết?
    Thứ hai, trong tiếng Việt lịch-sử có một sự tương-đồng giữa “tr” và “gi”:
    trời – giời
    trăng – giăng
    trả – giả
    trao – giao v.v.(trích
    ====sự tương đồng chĩ là tiếng đía phương (miền Bắc ,miền Nam ) mà thôi. Người miền Bắc không phát âm được chữ (tr). họ đều phát âm là (gi) hết như trăng thành giăng,trưỡng thành chưỡng.Cho nên trối trăn phát âm giọng Bắc thành giối giăn,rồi .biến thành giối giăng ,thành một chử mới ,cùng nghĩa
    Và như vậy thì:
    trăng trối tương-đồng với giăng giối (trích)
    ===cho nên trăn trối tương đồng trong NGHĨA vói giăng giối
    chó không thể lầy giăng giối làm góc (hay từ chính xác như kiêu căng miền Bắc kộng ,đĩnh cao trí tuệ (loài người) rồi bắt bưộc mọi người phải theo.
    cũng như
    trối trăng tương-đồng với giối giăng (không ai nói hay viết “giối giăn” cả)(trích)
    ===do đó (chơ không là “cũng như” ):cách nói khác nhau:
    Trối trăn (miền Nam) vói Giối giăng (miền Bắc)
    là 2 cách viết chử theo phát âm tùy vùng (B-N) của một chữ cùng một nghĩa).
    Chúng ta chưa có cuốn tụ điển nào chính xác và đầy đũ .Tự điển của XHCN thì chứ nào không là miền Bắc thì đều cho là tiếng địa phương (ĐT Huân ,nhà văn di cư,viết ở Mỹ ,chê miền Bắc “kiêu ngao”,tự cho mình có văn hóa hơn các miền khác ,nên chữ nào không dùng ở Bắc thì đều là tiêng địa phương.)
    Cứ mổi lần đọc chữ “thi thoãng “(B) thay cho “thĩnh thoãng” thì thấy khó chịu. Đây là chữ của xuân diệu ,nhà thơ, viết thơ theo hưng ,viết láu nên viết không đũ chữ hay vì ý thơ tuôn trào nhanh ,viết không kịp ,cư thế đua in nên cứ sai .Sai lâu ngày thành chữ việt mới cho nhũng người bắc kộng ưa dùng. (bát chước MT Đ giản di hóa chử Tàu ấy mà,cho nên người miền Nam đọc đôi khi thấy thiêu mất môt chử .Sau nfày theo mốt ,cộng chêm cả tiêng Đức ,tiếng Anh vào câu văn mà có thể dùng tiếng Việt,hay mở ngoặc đóng ngoặc giai thích tiếng Việt qua tiếng pháp tiếng Mỹ dù người Việt đôi khi lại mất công đi tìm tự diển anhviệt hay phápviệt. Chăng qua là “khoe chữ ” mà thôi !
    Kết luận :trối trăn và giối giăng là cùng 01 nghĩa, cách viết khác nhau phát âm khác nhau và chính tả khác nhau.
    Trối trăn không phải lệ thuộc từ chử giối giăng được .
    (m)

  4. HTĐ says:

    Ban Biên Tập Danchimviet.info kỳ này nhát cáy quá xá.

    Khi bài này mới xuất hiện, tựa đề là “Trần Đức Thảo – Những Lời Trăng Trối”

    Sau đó các còm sĩ nhào vào nói rằng phải viết là “trăn trối”.

    Thế là BBT ĐCV vội vã sửa thành “Trăn Trối”

    Hình như các còm sĩ chỉ dựa vào trí nhớ của mình. Chẳng ông nào lật tự điển. (Tôi cũng thế, mới nhìn qua cứ nghĩ BBT có lỗi đánh máy. Cứ nghĩ “trăn trối” mới đúng)

    Nên nhớ Tổ Hợp Xuất Bản Miền Đông Hoa Kỳ có nhiều các cụ hay chữ (Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Thị Hợi, Trương Cam Khải, Trương Anh Thụy, Phạm Lệ Oanh), làm gì mà họ lại để lỗi sai chình ình trên bìa sách.

    Sau đó ông Phan Thanh Tâm giải thích rõ ràng là chữ “Trăng Trối” mới đúng. Xin coi lại ông Phan Thanh Tâm trích dẫn từ điển:

    Xin trích dẫn:

    “Việt-nam Tự-điển của Lê Văn Đức-Lê Ngọc Trụ, trang 1656.
    Từ Điển Tiếng Việt của Viện Ngôn Ngữ Học Hà Nội, ấn-bản 1992, trang 1008.
    Tự Điển Việt-Anh của Viện Ngôn Ngữ Học Hà Nội, trang 754.
    Từ Điển Tiếng Việt của Văn Tân không có “trăng trối” nhưng có “trối trăng,” trang 1259.
    Vietnamese-English Student Dictionary của Nguyễn Đình Hòa cũng không có “trăng trối” nhưng ở trang 613 có “trối trăng” và nói “xem giối giăng.”
    Và hầu hết các từ-điển chính-tả Việt-ngữ cũng đều viết “trăng trối.”.”

    Hết trích dẫn.

    Vậy xin BBT Đàn Chim Việt sửa lại tựa đề cho đúng. “Trần Đức Thảo – Những Lời Trăng Trối”

    HTĐ

    (À, có lần thấy ông cụ Nguyễn Trọng Dân hay xưng là “Qua”, mình cũng thấy “nực gà.” Tới hồi nghe ông cụ giải thích tại sao dùng chữ “Qua”, mới giật mình thấy mình còn dốt quá.)

    • thịhĩm says:

      1/ Có gì mà chê ĐCV “nhát như cáy” vì sửa lại đúng lỗi chinh tả khi minh IN sai ? In “giăng giối” thì chẳng ai mất công có ý kiến vì chi Hồng người miền Bắc mà ! Nhưng đã ịn Trăn trối thì phải IN cho đúng chinh tả . Vậy thôi !
      (trối là tiếng chính là lời nói cuối trước khi chết.Trăn là tiếng đệm .vô nghĩa)
      2/tiếng “qua” dùng trong lúc người lớn ,quan quyên xưng vói người nhỏ hơn một cách thân mật ,bình dân hơn.
      Nhu Ong Trương Tiên Bữu già rồi còn ghẹo cô lái đò đáng tuổi cháu mình ,ong xưng “qua ” ngọt xớt. Đọc truyên HB Chánh. thì thấy nhà văn miền Nam này viết giọng Nam ,sẻ tháy Cu dùng chữ qua cho nhân vật nào tự xưng vói nhân vật nào.”hôm qua qua nói qua qua mà qua không qua,hôm nay qua qua” thì biết người nói có chút vai vế đối vói người nghe !
      Nt Dân ,người Bắc ,nên dùng “qua” chó ra vẻ người Nam(như lvt viết văn chêm tiếng Nam cho ra vẻ nhân vật là người miền Nam ,nhưng đọc vài hàng lòi đuôi …miền Nam GIÃ CẦY)
      Tuy nhiên ở trên diễn đàn này thì xưng sao cũng “chẳng sao ” .Bỡi vậy mới có kẻ xưng minh là QUA ,ó kẻ bực mình (đã có 01 lần bị phản đối) nhưng rất nhiều người chẳng quan tâm…
      Chử(ơ)i còn được huống gì chĩ xưng “qua.”
      Năm 75.Ong tướng ho Lâm từ tiền phương di tản về Q Đ mà Q Đ gần như vắng bóng rát nhiều,kể cả Ong tư lệnh.Mấy Ong Tá ĐL thấy Ong túơng ,chạy đến níu ổng: “Làm sao đây huynh ? Cứu tui em vói !”.Ong Tướng nhìn trời ,thở dài ; “QUA cũng hẳng biết làm sao. Đành chịu thôi !”
      (h))

  5. Đoàn Cận Huy says:

    Nói ra nghe có vẽ hổn hào với các cụ đã có cuộc đời bất hạnh và bất trí đi theo Cộng sản, các vị chỉ có trí chứ không thức, mở mắt quá chậm, chờ lúc hết thời, quá già để không ai thèm bắt…, mới dám nói lên những điều nói phải, như kiểu “các anh đang ăn gì, cho tớ tham gia với…”
    Những con gà què ăn quẫn cối xay.

  6. UncleFox says:

    Dường như có tiếng than thở của cụ Trần Đức Thảo dưới đáy mồ:
    _Tiên sư nó ! Phan Ngọc Khuê phải viết trăng trối hay trăn trối thì các bố mới chịu nghe lời giăng giối của tớ đây ? Biết thế xưa tớ đã ở lại Pháp, nói tiếng Phật -Lăn-Xe cho khỏi con bà nó cái rắc rối !

    • Tướng Sĩ Ba Đình says:

      Lại có tiếng thở dài của cụ Trần Đức Thảo rằng;

      Hừm,_ Mjạ, mình là triết gia có hạng, muốn đem tài sức về phục vụ Việt Nam, nhưng sai đối tượng, gặp Hồ Ché Minh nên tiêu tùng, sợ muốn tè ra quần, phải sống tuỉ nhục bao nhiêu năm, bây giờ muốn trối trăng, trăn trối, hay giăng dối thì cũng đek ai thèm nghe!
      _HCM chó má thật!

  7. Đoàn cận Huy says:

    Những lời trăn trối của mấy anh phản tỉnh, dân tui trong Nam biết từ lâu, chỉ mấy anh vì chậm tiêu và chờ tới già, sắp chết không sợ bị bắt nữa mới dám nói.
    Chán cái mớ đời, thế hệ đàn anh VN…

  8. Tuan Nguyen says:

    toi muon tim doc tac pham “Nhung loi tran troi” cua TDT
    phai tim o dau, Co tren net khong hay phai mua ..
    TL

    • Minh Đức says:

      Địa chỉ đặt mua sách:

      Tổ Hợp XBMĐ Hoa Kỳ: 2607 Military Road, Arlington, VA 22207. Quí vị muốn được hồi âm mau lẹ, xin E-mail về canhnam@dc.net hay gọi số ĐT (703) 525-4538.

  9. nguyen ha says:

    Thời SV chúng tôi,ở cuối thập niên 50 (sau 1954),nhìn Xa hội Miền Bắc qua sách vở,đôi lúc nằm mơ thấy “HCM” !! Câu hỏi cứ lảng vảng trong đầu : tại sao rất nhiều nhà thơ,nhà văn, nhiều trí thứ tên tuổi…lại ở cả Miền Bắc ?? Vào năm 1958,nghe tin một người bà con trốn vào Nam bị bắt. Ông nầy đổ Cử nhân tại Đại học Cambridge (anh quốc).Tôi bắt đầu bừng tỉnh.! Cho đến 1975 gặp lại người bà con ,
    tôi đả nghe tất cả sự thật. Thì té ra trí thức ,dưới chế độ CS ,trí thưc chỉ là những “chậu kiểng”,để trước phủ chủ tịch,để làm đẹp mổi khi có quan khách .! Thực chat của CS là “dao búa” ,chứ có cần gì trí thức. Trần đức Thảo củng chỉ là Nạn nhân. HCM đả nói “Hồng hơn Chuyên” là thế đấy.! Nhìn nhà giáo,học
    lớp 6 Doản mậu Hè,hiện còn song ở ĐàNẳng ,trong lần Ngày nhà giáo, đương sự đả nói : kỷ niệm
    cuộc đời “dạy học “của Ông là :” những ngày đầu tiên ,theo chỉ thị của Bác ,dạy chống -nạn-mù-chử
    cho 6 Ông Tướng,trong đó có nguyễn chí Thanh-Chu v Tấn…” Trình độ của Thầy :lớp 6, truyền được gì cho hậu sinh,không ngoài a,b,c dắt dê đi ỉa…! Thế nhưng sau nầy những vị Tướng đó trở thành Công than ! Đi đâu củng có nhà Lưu niệm !! Đó chính là tai họa cho Đất nước,mà Đổ Mười và HCM là 2 anh em ruột đả tạo ra : ĐM-HCM !! (bà con hiểu sao củng được).

  10. Doan Bui says:

    Người miền Nam như tôi chỉ dùng chữ “Trăn trối”(và cả chữ “Trối trăn”) và tôi nghĩ có lẽ chỉ có người miền Bắc là viết có “g”(?), kể cả các Tự điển in sau 1975(?). Còn có một điều cần nói rõ là người miền Bắc thường phát âm “tr” thành “gi” rồi khi viết thì cũng viết “gi”(thay vì viết đúng là “tr”), chứ không phải là trường hợp tương đồng (?).

    • Hòa says:

      Người Bắc và cả người Nam mỗi vùng bị ngọng một cách khác nhau:

      Phát âm của người miền Bắc phân biệt hỏi ngã, chữ cuối là c hay t, có g hay không có g, nhưng lại mắc phải mấy khuyết tật khác. Người miền Bắc uốn lưỡi không khéo như người miền Nam. Không phân biệt s với x, ch với tr, d với r… chích (trích) lục, Xự (sự) tích bà Chưng Chắc (Trưng Trắc), bà Chưng Nhị (Trưng Nhị) hay :
      - “chính trị” nói ngọng thành “chín chị”
      - “trường học” nói ngọng thành “chường học”
      - “sâu sắc” nói ngọng thành “xâu xắc”

      Miền Nam uốn lưỡi được như phát âm “con sáo sang sông” như khi phát âm nước Úc ngọng thành nước “út” hay “rau muống” ngọng thành “rau muốn (không g)” và những chữ khác.
      Tóm lại, không vùng nào hoàn hảo, nhưng chẳng hiểu sao khi hát âm nhạc thì người Miền Bắc nói rằng phải hát với giọng Bắc mới là chuẩn!

      • Choi Song Djong says:

        Con cá gô bỏ trong gổ nó kiêu gồ gồ ! phải không các nhà ngôn ngữ học.Giải thích cũng 3 trớt 4 nháng như …tui là cùng.hi hi

      • Doan Bui says:

        Bởi vì người miền Bắc đâu có biết hát vọng cổ !!!

Phản hồi