WordPress database error: [Expression #1 of ORDER BY clause is not in GROUP BY clause and contains nonaggregated column 'oldsite_dcvwp.wp_posts.post_date' which is not functionally dependent on columns in GROUP BY clause; this is incompatible with sql_mode=only_full_group_by]
SELECT YEAR(post_date) AS `year`, MONTH(post_date) AS `month`, count(ID) as posts FROM wp_posts WHERE post_type = 'post' AND post_status = 'publish' GROUP BY YEAR(post_date), MONTH(post_date) ORDER BY post_date DESC

 
|

Sức mạnh của chủ nghĩa ngu dân

ngudan
Vốn thích nhạc không lời nhưng đôi khi tôi vẫn nhớ về một câu hát cũ, “Anh ở đầu sông, em cuối sông. Chung nhau dòng nước Vàm Cỏ Đông…” Lãng mạn sao, những cặp tình nhân cùng uống chung một dòng nước. Và hạnh phúc thay những kẻ có thể sống cả đời bên một con sông êm đềm, qua những mùa lúa chín không tiếng súng, những trưa hè có thể nép mình dưới bóng các rặng cây. Nhưng đó là chuyện cổ tích.

Lịch sử cận đại của người Việt Nam đã diễn ra trong khói bom và tiếng nổ của đạn pháo. Cuộc chiến tranh Việt-Mỹ chia cắt đến tận lòng sâu của mỗi gia đình. Sự nhầm lẫn, cự bất khả tri không chỉ xẩy ra giữa hai nền văn hoá Đông-Tây mà còn xẩy ra ngay giữa lòng dân tộc Việt, giữa các thành viên trong một gia đình, một dòng họ, giữa miền Bắc và miền Nam, giữa bên thắng cuộc và bên thua cuộc, giữa người trong nước và những người sống ngoài biên giới… Tóm lại, những người Việt cũng bị chia cách bởi những con sông. Những con sông thiếu vắng những cây cầu

Khoảng cách giữa người với người có thể còn dài rộng hơn sông, sâu hơn vực thẳm, thế nên, dù trên địa hạt văn chương, tôi coi Albert Camus cao hơn hẳn Jean Paul Sartre, tôi vẫn phải công nhận câu nói nổi tiếng của Sartre là một nghiệm sinh có tính nhân loại, “Tha nhân là địa ngục của ta.”

Đây là kinh nghiệm của chính tôi.

Năm 1994, tôi sang Pháp lần đầu, được một nhóm “Việt kiều yêu nước” đón tiếp. Có lẽ tên ấy được đặt ra khi nhóm này tham gia vào phong trào chống chiến tranh và người cầm đầu nhóm ấy đã từng là phiên dịch cho ông Lê Đức Thọ trong các hội nghị đàm phán hưu chiến ở Paris. Khoảng năm 1990, cũng nhóm này đứng lên lấy chữ ký của Việt kiều trí thức ở Mỹ, Đức, Úc và Pháp trong bản kiến nghị yêu cầu nhà nước và đảng cộng sản Việt Nam mở rộng dân chủ. Sau bản kiến nghị ấy, họ bị cấm về nước một thời gian khá dài, thậm chí còn bị gọi là “các phần tử phản động”.

Như thế, phải hiểu là giữa nhóm Việt kiều này với tôi có chung mục đích tranh đấu cho quyền sống của người dân Việt Nam. Có lẽ cũng vì lý do ấy, họ đón tôi, ít nhất đấy là điều tôi nghĩ. Cuộc đón tiếp diễn ra nồng nhiệt, dường như mang mầu sắc bạn hữu. Tuy nhiên, chỉ một thời gian sau, tôi nhận thấy giữa họ với tôi có rất nhiều điểm bất đồng, đặc biệt là sự nhìn nhận về cuộc chiến tranh Việt-Mỹ.

Tôi tự nhủ,
“Người ta sống trên đời, thường tụ thành bè, còn bạn là thứ quý hiếm, nó còn quý hiếm hơn tình yêu vì không có bệ đỡ tình dục. Tình bạn đòi hỏi một sự cảm thông sâu sắc, những phẩm chất tương đồng, và cơ duyên để có thể cùng nhìn về một hướng, cùng đi theo một ngả. Vì lẽ đó, tình bạn không thể có được một cách dễ dãi. Không có thứ tình cảm nào không cần thử thách, cho dù là tình yêu, tình bạn hay tình đồng đội, tất thảy đều cần phải nung qua lửa mới biết vàng thau”.

Nghĩ thế, tôi chọn thái độ im lặng, lảng tránh các cuộc tranh cãi, vì nếu không là bạn, hà tất phí nước bọt để đôi co?

Tôi biết rõ rằng, đối với nhóm Việt kiều này cuộc chiến tranh chống Mỹ là cần thiết, là niềm kiêu hãnh, là đài vinh quang của dân tộc Việt Nam. Đối với tôi, đó là sự nhầm lẫn lớn nhất trong lịch sử, là cuộc chiến tranh ngu xuẩn nhất, tàn khốc nhất đã xảy ra trong một tình thế đen trắng lẫn lộn, các khái niệm bị đánh tráo, kẻ tham gia cuộc chiến ở phía Bắc nhầm lẫn do trói buộc bởi ngôn từ, kẻ tham chiến ở phương Nam bị cuốn vào dòng chảy của cuộc Chiến tranh Lạnh, và cả hai bên đều bị đặt vào thế đã rồi.

Cuộc chiến tranh Việt-Mỹ là bài học đau đớn nhất, nhục nhã nhất cho dân tộc Việt Nam, mà kẻ chịu trách nhiệm không chỉ là người Mỹ mà còn là chính những người lãnh đạo cộng sản phía Bắc. Trong cuộc chiến tranh ấy, dân tộc Việt tự biến mình thành vật đệm giữa hai toa tầu, là đám lính đánh thuê cho hai hệ thống tư tưởng trái chiều đang tiến hành cuộc chiến tranh Lạnh. Trong suốt một thập kỷ, nước Việt Nam đã thực sự biến thành cái cối xay thịt khổng lồ nhất trong lịch sử của toàn thể loài người. Vì lẽ ấy, theo tôi, cả người thắng lẫn người thua phải biết sám hối, và nếu muốn lật trang cho lịch sử đất nước, trước hết kẻ thắng phải biết câm mồm lại đừng huyênh hoang nữa; còn kẻ thua cũng phải biết câm mồm lại, thôi chửi rủa, cả hai phía không nên tiếp tục đào bới cái thây ma lên mà ngửi. Nếu không đủ can đảm nhìn nhận vấn đề như nó vốn thế, họ chỉ còn là đám thú rừng bị lọt xuống một cái bẫy của lịch sử và không bao giờ có thể nhẩy lên khỏi hố sâu.

Năm 2005, tôi trở lại Pháp.

Nhóm “Việt kiều yêu nước” chủ động mời tôi đến ăn cơm tối với họ để trao đổi tình hình. Tôi nhận lời. Bữa cơm ấy diễn ra ở một quán ăn thuộc quận 13. Trước khi đến Paris, tôi đã ở Turin (Ý) một tuần. Trong tuần lễ đó, khá nhiều báo Ý đã phỏng vấn tôi và đã đăng bài tức khắc. Một trong số các bài báo ấy, có đề tựa “Mười triệu người chết trong cuộc chiến Việt Nam”.

Trong các cuộc phỏng vấn tại Turin, tôi đã kể lại hai điều:

- Thứ nhất, khi làm người viết thuê cho các ông tướng, tôi được nghe họ nói với nhau: Chúng ta chỉ công bố con số thật sự khi người Mỹ bồi thường chiến tranh. Như thế, con số phía Mỹ đưa ra (khoảng 5 triệu tử vong) lẫn con số chính quyền Việt Nam đưa ra (hai triệu rưỡi) đều là số sai sự thật.

- Thứ hai, chỉ khi đến Turin tôi mới biết lính các nước chết ra sao và nhờ có sự so sánh ấy, tôi mới biết thân phận người lính và người dân Việt Nam đau khổ đến mức nào. Năm 2005, cuộc chiến tranh đang xảy ra ở Iraq. Báo mỗi ngày đều đăng tin bao nhiêu lính Mỹ, bao nhiêu lính Iraq tử vong. Nếu con số đó chạm tới năm chục đã khiến các nhà báo làm rộn lên, chất vấn tổng thống. Khi số tử vong chạm đến số 100 thì sự căng thẳng trong chính trường đã khiến Nhà Trắng điên đầu. Trong chiến tranh Việt-Mỹ, mỗi lần B52 bay qua, chỉ hai ba phút, dân thường, thanh niên xung phong chết hai trăm, ba bốn trăm, thậm chí nơi đông hơn sáu trăm người nhưng không có một dòng trên báo, không một câu trên đài phát thanh. Không ai hay biết, kể cả người Việt lẫn người nước ngoài.

Tôi nói với các nhà báo Ý:

“Tới tận năm nay, gần sáu mươi tuổi tôi mới thấm thía sự khác biệt giữa kiếp người. Nhờ đọc báo phương Tây, tôi mới biết là người Mỹ và người Iraq chết như người, chết theo kiểu người. Chúng tôi, những người Việt Nam, chúng tôi chết như kiến, chúng tôi chết như ruồi, chúng tôi chết như lá khô rụng, cái chết của chúng tôi hoà lẫn bùn đen, và tan trong câm lặng.”

Vì ở Turin có những Việt kiều liên hệ chặt chẽ với nhóm “Việt kiều yêu nước” ở Paris và gửi báo cho họ nên trong bữa cơm tối hôm ấy, tôi bắt buộc phải bàn cãi với họ về chủ đề chiến tranh Việt-Mỹ. Tôi đã thuật lại cho họ nghe sự tổn thất to lớn của dân tộc khi những người lãnh đạo mắc chứng vĩ cuồng. Rất nhiều trận xảy ra khi lực lượng trinh sát thăm dò địa hình địa vật không kỹ, bộ phận hậu cần chuẩn bị khí tài chưa đủ nhưng cấp chỉ huy ham lập thành tích nên cứ đẩy lính ra chiến trường, kết quả là đại bại. Trong khi ở chiến trường xác lính chết ngập suối, nước không chảy được, chim cắt chim kền kền ăn thịt no đến mức không bay lên nổi, lệnh ở Hà Nội vẫn tiếp tục giục tấn công. May mắn là còn có những vị tướng biết thương dân, thương lính, khóc đỏ mắt, quyết định rút quân và làm báo cáo giả để gỡ tội.

Hồi ấy, tổng tư lệnh của cuộc chiến là Lê Duẩn, đã đưa ra khẩu hiệu:
“Dân tộc chúng ta là dân tộc anh hùng, chỉ có thắng không có thua.
Quân đội chúng ta là quân đội anh hùng, chỉ có tiến không có lùi.”
Điều đó có nghĩa: Chỉ tiến công, không phòng thủ!

Xưa nay, trong lịch sử ngàn năm chống ngoại xâm của dân tộc, bao giờ chúng ta cũng lùi về rừng núi để chờ thời gian mài mòn lòng kiêu ngạo lẫn ý chí quân địch, cũng là để khí hậu nhiệt đới khắc nghiệt quật ngã chúng, cũng là để củng cố quân đội rồi chờ thời cơ thuận lợi mới huy động binh lính và dân chúng tổng tấn công. Khẩu hiệu của ông Lê Duẩn đưa ra là một sự sáng tạo thuần tuý, một ý thơ bay bổng, xuất phát từ tham vọng và lòng kiêu mạn cộng sản. Nhưng thơ phú là thứ chỉ để ngâm ngợi khi gió mát trăng thanh, thơ mà trà trộn với chiến tranh nó biến thành núi xương sông máu.

Đám tướng lĩnh không dám tuyên bố thẳng thừng, nhưng đều hiểu ngầm rằng lãnh tụ của họ là một kẻ vĩ cuồng.

Nhóm “Việt kiều yêu nước” ở Paris nghe tôi nói xong thì hai nhân vật chủ chốt phản ứng dữ dội. Ông X bảo:

- Mục tiêu biện minh cho phương pháp. Muốn thắng cuộc trong chiến tranh thì phải chấp nhận tất cả.

Ông Y phản ứng với con số Mười triệu:
- Con số đó không thật. Ở nước Pháp chúng tôi có các biện pháp khoa học về dân số để chứng mình là con số ấy sai. Làm sao chị có thể nghe theo mấy thằng tướng ngu ấy được?

Tôi im lặng không đáp. Nhưng hôm sau, tôi có nhờ ông Phan Huy Đường, lúc đó còn dịch sách của tôi, nói lại với ông Y:

- Nhờ Đường nói với ông bạn của Đường là về Việt Nam chớ mở mồm mà bảo mấy ông tướng là ngu. Bởi vì, rất nhiều hạ sĩ quan thời đó (trung uý, đại uý, thiếu tá…) biết rõ rằng sinh mạng họ được bảo tồn là nhờ những ông tướng thực sự thương lính và không ham thành tích như tướng Vũ Lăng. Bây giờ, nếu không giải ngũ họ cũng đã leo lên đại tá hoặc thiếu tướng. Nếu ông Y mở mồm bảo tướng của họ là thằng ngu hẳn họ sẽ cho một báng súng vào đầu, hiền hoà nhất họ cũng khạc vào mặt.

Đấy là phản ứng duy nhất của tôi. Trong thâm tâm, tôi quyết định chia tay.

Tôi nghĩ, đám người này cần cuộc chiến tranh chống Mỹ như người đàn bà cần son phấn. Giữa họ với ta chẳng còn điều gì đáng nói. Một cuộc chia tay vĩnh viễn là điều hợp lý hơn cả. Không cần kiệt xuất thông minh, chỉ cần chịu khó quan sát sẽ thấy ngay rằng cộng đồng người Việt ở nước Pháp là một cộng đồng không bản sắc, sống co cụm, một bầy thỏ ngoan ngoãn đối với chính quyền. Họ không gây ra các vụ lộn xộn như người da đen và người Arab theo đạo Hồi, nhưng họ cũng chẳng có tiếng nói, chẳng có một gương mặt nào trên các diễn đàn quyền lực. Vì bản chất nhẫn nhịn, chịu thương chịu khó nên họ thành công ở mức trung bình, trở thành kỹ sư, bác sĩ, nha sĩ, giáo viên đã là giấc mơ tột đỉnh. Hội nhập vào xã hội Pháp chưa lâu, sự tự tin vào bản thân chưa đủ, họ lại bị ám ảnh bởi thân phận lớp người Việt Nam nhập cư trước họ, những người lính thợ bị thực dân cưỡng bức rời quê hương sang Pháp phục vụ tại một số nhà máy làm thuốc súng để thay thế cho các công nhân Pháp ra chiến trường.

Năm 1937, để dự phòng chiến tranh, bộ trưởng Bộ Thuộc Địa và Quân Đội (ministre de la Colonie et de la Défense) Georges Mandel dự tính tuyển 80.000 người Đông Dương. Tháng 6 năm 1940 đám thanh niên Việt Nam được dẫn đến hải cảng Pháp gồm: 10.750 người trung kỳ, 7.000 người miền Bắc, 2.000 người miền nam. Đám lính thợ này đã bị đối xử như những con vật, bị dồn vào sống trong những khu nhà tồi tàn, không điện và thiếu nước, không nơi vệ sinh, không lò sưởi và thức ăn không đủ nửa khẩu phần. Mùa đông, những kẻ khốn khổ ngủ trên sàn, đại tiểu tiện ngay bên ngoài cửa, người nọ dẫm vào phân người kia. Đói khát, họ phải đào rễ củ và hái rau dại về ăn. Cái sự thật tàn nhẫn này bị vùi trong câm lặng. Cho đến đầu thế kỷ XXI, mới có vài nhà báo Pháp lên tiếng. Sau đó, Bernard Kouchner, vốn là một ngôi sao cánh tả nhưng sau thất bại của Ségolen Royal trong cuộc tranh cử 2007, đã nhận lời làm bộ trưởng bộ ngoại giao cho chính phủ Sarkozy mới chính thức lên tiếng xin lỗi vì: “Nước Pháp đã đối xử với những người lính thợ Việt Nam như đối với súc vật.”

Trong thực tiễn, nước Pháp đã đối xử với đám lính thợ Việt Nam còn tệ hơn súc vật bởi khi cưỡng chế thanh niên Việt Nam sang Pháp, họ dồn đám người này xuống hầm tầu còn tầng trên, thoáng mát hơn thì để dành cho… những con bò. Cái kinh nghiệm tồi tệ ấy được cấy trong tim như một quá khứ sầu thảm, cộng đồng người Việt không thể tránh khỏi mặc cảm của những kẻ vừa là dân nhập cư, vừa mang nhãn hiệu “Được lôi ra từ vùng đất thuộc địa”. Thế nên, cuộc sống tinh thần của họ dường như đột ngột khởi sắc, bừng bừng ánh sáng khi cuộc chiến tranh Việt-Mỹ xẩy ra. Tại sao?

Dễ hiểu thôi, tinh thần „Bài Mỹ“ là chất xi-măng gắn kết một số đông quốc gia trên thế giới, không chỉ các nước thuộc phe Xã hội chủ nghĩa nhưng ngay cả các nước phương Tây. Hành vi của nước Mỹ không chỉ gợi lên lòng căm thù nhưng kèm theo đó cả sự sợ hãi. Nếu có tiền lệ một nước nhược tiểu bị Mỹ chà nát thì sẽ đến lượt các nước khác theo thành ngữ, “Không bao giờ có lần thứ nhất, lần thứ hai mà lại không có lần thứ ba”.

Vả chăng, về mặt lý, cuộc chiến này không thể biện minh, “Không một người Việt Nam nào mang bom sang giết người Mỹ.”

Dù cộng sản hay không cộng sản thì sự thực là không có một người Việt Nam nào cầm dao hoặc cầm súng sang tận nước Mỹ để giết một người Mỹ, hoặc ngay đến một con bò trong trang trại Mỹ cũng không.

Vì thế, lương tâm nước Mỹ phải thức tỉnh. Các vụ biểu tình phản đối chiến tranh trước toà Nhà Trắng của Mỹ điệp với các cuộc biểu tình trước sứ quán Mỹ tại các nước khác. Tiếng hát và ngọn lửa tự thiêu của trí thức Mỹ đốt nóng cả châu Mỹ La-tinh và châu Âu.

Vào thời điểm ấy, người Việt Nam nhập cư chống chiến tranh được hưởng một sự ưu đãi vô tiền khoáng hậu. Đi đến đâu họ cũng được thăm hỏi, giúp đỡ, được coi là người của “một dân tộc anh hùng”. Và, trên các diễn đàn chống chiến tranh, đại diện của “tổ chức Việt kiều yêu nước” được xuất hiện bên cạnh những nhân vật quan trọng bản xứ mà nếu không nhờ ân sủng của cuộc chiến này, không bao giờ họ có cơ hội và có tư thế tiếp xúc. Để ví von, có thể nói rằng: Những con chim vốn nép mình trong bóng tối nhờ ánh đạn lửa mà được nhô đầu ra và há mỏ cất tiếng kêu.

Thế nên, họ cần cuộc chiến tranh Việt-Mỹ.

Lòng ích kỷ, cái kiêu ngã của con người quả là vô giới hạn. Những kẻ sống ở một phương trời, cần máu đồng bào phải đổ ở một phương trời khác để tô điểm cho cuộc sống tinh thần của chính mình.

Chiến tranh thật đẹp khi nó được tạo bằng máu xương kẻ khác!

Từ đây, tôi nghi ngờ hai từ “yêu nước”. Phía sau danh từ này có vô vàn tâm trạng, có vô số động cơ, hoặc xác thực, hoặc ngầm ẩn, hoặc có ý thức, hoặc vô thức.

Danh từ nào cũng lập lờ và cũng có khả năng phản lại nghĩa chính thống.

Như thế, giữa người Việt với người Việt cũng bị chia cách bởi những con sông vô hình. Chắc chắn cũng còn khá lâu mới bắc được cầu qua những con sông ấy.

Chiến tranh Việt-Mỹ đã qua, nhưng sau đó không lâu cái tên Việt Nam lại dội lên trên các kênh thông tin quốc tế. Lần này, là một thứ ồn ào dơ dáy. Chẳng còn là người anh hùng bé nhỏ dám đương đầu với đế quốc Mỹ mà là tác giả của Khổ nạn Thuyền nhân. Ở châu Âu, phái đoàn Việt Nam không còn được chào đón bằng cờ và hoa mà bằng cà chua và trứng thối. Tôi nhớ rằng lần đi châu Âu, ông Võ Văn Kiệt đã hứng trọn một quả trứng thối vào giữa mặt còn đến lượt ông Phan Văn Khải thì thoát nạn nhờ sự bố trí, dàn cảnh công phu của cảnh sát Pháp. Sự đời vốn đổi thay như các lớp tuồng. Điều khốn khổ cho người Việt Nam là dường như họ chỉ được biết đến trong các tình huống đau khổ. Kể từ khi làn sóng “Thuyền nhân” dịu đi, Việt Nam gần như chẳng còn gì để nhớ. Cứ nghe đài phương Tây thì biết, người ta chỉ nhắc tới hai từ Việt Nam khi nhắc tới cuộc chiến tranh Việt-Mỹ, bởi rất nhiều trí thức phương Tây, đặc biệt là các văn nghệ sĩ đã tham gia vào phong trào chống chiến tranh và tuổi trẻ của họ gắn bó với những kỷ niệm của một thời sôi động. Tuy nhiên, ngay cả những người kiên nhẫn nhất và hiểu biết Việt Nam nhiều nhất cũng chưa dám quả quyết rằng họ nắm được sự thực về cuộc chiến tranh này. Điều đó, quá khó khăn.

Một lần, một nhà văn Pháp hỏi tôi:
- Cái gì tạo nên sức mạnh của chúng mày trong cuộc chiến tranh Việt-Mỹ?
Tôi đáp:
- Một nửa là thói quen của hàng ngàn năm chống xâm lược. Nửa kia là sức mạnh của chủ nghĩa ngu dân.
Anh bạn chưng hửng:
- Mày không đùa đấy chứ? Ai có thể tin nổi một thứ lý thuyết quái gở như thế.
Tôi cười:
- Rất nhiều thứ quái gở ở phương Tây lại là sự thực đơn giản ở phương Đông. Và ngược lại.
Bây giờ, tôi xin giải thích “thứ lý thuyết quái gở” này.

Cuộc chiến tranh Việt-Mỹ được đảng cộng sản phát động với lời tuyên bố: Đánh đuổi quân xâm lược Mỹ.

Năm 1964, tôi mười bẩy tuổi. Vào tuổi ấy, tất thảy thanh niên ở miền Bắc không có quyền nghe đài nước ngoài, không có ti-vi, không có máy quay đĩa, không có bất cứ nguồn thông tin nào ngoài báo chí cộng sản và đài phát thanh trung ương. Lần đầu tiên, tôi được nghe những bài hát nước ngoài là năm tôi mười sáu tuổi. Mùa hè năm 1963, anh họ tôi là phiên dịch tiếng Nga dẫn tôi cùng đứa em trai đến nhà ông chuyên gia mỏ thiếc Tĩnh Túc ở Hà Nội. Ông bà ấy đón tiếp rất tử tế, ngoài việc chiêu đãi bánh ngọt và nước trà chanh, còn mở máy quay đĩa cho chúng tôi nghe. Cảm giác của tôi lúc đó là choáng váng, như muốn chết. Đó là cảm giác thật sự khi con người lạc vào một thế giới mà họ vừa cảm thấy ngây ngất vừa cảm thấy như ngạt thở. Đĩa nhạc đó là của Roberto… (không nhớ họ), một giọng ca Ý tuyệt diệu nhưng chết trẻ. Những bài hát tôi nghe là các bài nổi tiếng cổ truyền: Ave Maria, Santa Lucia, Paloma, Sérénade, Histoire d’amour, Besame Mucho…

Ra khỏi cửa nhà ông chuyên gia Nga nọ, tôi bước đi loạng choạng. Lần đầu tiên, tôi hiểu rằng cuộc sống của chúng tôi là cuộc sống của những kẻ bị nhốt dưới hầm. Những bài hát kia là một thứ ánh sáng mà lần đầu tiên tôi được thấy. Ánh sáng đó rọi từ một thế giới khác, hoàn toàn ở bên ngoài chúng tôi. Kể lại chuyện này, để hậu thế nhớ rằng, thời đại của chúng tôi là thời đại của một thứ chủ nghĩa ngu dân triệt để. Một thứ chủ nghĩa ngu dân tàn bạo, nó buộc con người sống như bầy súc vật trong một hàng rào được xây nên bằng đói khát, hà hiếp và tối tăm.

Khi con người bị điều khiển cùng một lần bằng tiếng gào réo của dạ dầy và cái bỏng rát của roi vọt thì họ không thể là người theo nghĩa thực sự. Chủ nghĩa ngu dân là thứ lá chắn mắt ngựa, để con vật chỉ được quyền chạy theo chiều mà ông chủ ra lệnh. Khi tất cả những con ngựa đều chạy theo một hướng, ắt chúng tạo ra sức mạnh của “bầy chiến mã”, nhất là khi, trong máu chúng đã cấy sẵn chất kích thích cổ truyền “chống xâm lăng”.

Với lũ trẻ là chúng tôi thời ấy, danh từ Xâm lăng dùng để chỉ: quân Nguyên, quân Minh, quân Thanh, và bây giờ là quân Mỹ. Danh từ ấy đồng nghĩa với Tô Định, Mã Viện, Thoát Hoan… Tóm lại, Mỹ là lũ giặc phương Bắc nhưng mũi lõ, mắt xanh, tóc vàng.

Ngôn ngữ vốn là một nhà tù, mà chúng tôi không có điều kiện để tiếp cận với các nguồn thông tin khác, các ngôn ngữ khác, nên hiển nhiên chúng tôi là đám tù binh ngoan ngoãn sống trong nhà tù ấy, đinh ninh rằng mình ra đi là để bảo vệ non sông.

Bởi vì, tổ tiên chúng tôi đã quen chết hàng ngàn năm để chống lại những kẻ thù mạnh hơn họ bội phần, chúng tôi cũng sẵn sàng ra chiến trường chống quân xâm lược Mỹ theo đúng cách thức ấy.

Đó là lý do tôi nói, “sức mạnh của chủ nghĩa ngu dân”.

© Dương Thu Hương

38 Phản hồi cho “Sức mạnh của chủ nghĩa ngu dân”

  1. Người Sài Gòn says:

    Cảm ơn một bài viết hết sức sắc sảo nữa của chị Dương Thu Hương! Tôi gửi bài này cho những người thân thành đạt tại Mỹ, vì họ đã ra khỏi VN quá sớm.

  2. Võ Đình Tuyết says:

    Bài viết nào của nhà văn Dương Thu Hương cũng làm cho ta suy nghĩ về một thời gian đã khuất nhưng để lại một vết hằn sâu trên da thịt chính mình.
    Không hẳn tất cả mọi suy nghĩ của nhà văn đều được đồng ý, nhưng ý tưởng phong phú cùng lối suy nghĩ bộc trực đầy cảm tính sâu hằn trên vết thương vẫn còn nung mủ trên phần đất quê hương tang thương,như một mủi tên bắn phá thủng sâu vào quá khứ được che đậy bằng những hào quang và những trí thức thân cộng lấy chiến tranh làm áo lông bào đa1p le6n ăiềm kiêu hãnh giết người.
    Năm 1964 tôi mới mười ba,chiến tranh cũng đã về gần nơi những tiếng đại bác bắn mỗi đêm dôi về thành phố Đà Nẵng nơi tôi ở.Dù bị người Mỹ đang đô hộ,nhưng tôi vẫn ung dung cắp sách đến trường và nghe tất cả nhạc gì mình thích.Trong những năm lớn lên để đến ngày đi lính tôi vẫn nghe những điều hợp tai và vẫn xôn xao lòng khi những cành phượng gợi báo mùa hè.Nhất quyết trong tôi không có một chữ hận thù người dân Việt Nam phương Bắc.
    Như Thanh Bình viết: Phần đông bọn nầy xuất thân từ các gia đình ở miền Nam,nhưng theo cộng sản khi đi du học.Chính thành phần trí thức của miền Nam Việt Nam là những người mang tội nặng đối với Tổ Quốc Việt Nam.Chính họ hưởng đầy ơn mưa móc của VNCH cho ra đi để trao dồi khả năng để rồi phản bội lại người nuôi dưỡng họ. Mấy đời những kẻ “lật lòng phản bội” mà khá được.
    Bây giờ khi cộng sản dâng biển đảo cho Tàu,một mai nào con cháu những người trí thức trên phải biết rằng cha ông của họ cũng là kẻ gián tiếp bán nước Việt Nam.
    Khởi đi bài viết của nhà văn Dương Thu Hương,chúng ta hiểu rằng: Những trí thức thân cộng tại hải ngoại lấy chiến tranh xương máu của quê hương Việt Nam làm hành trang chất đầy lên những ước mơ hèn hạ bẩn thỉu nhất. Dù họ là ai?

    • Ý NGÀN says:

      THẬT KHÔNG HIỂU NỔI

      Võ Đình Tuyết viết :
      “Dù bị người Mỹ đang đô hộ, nhưng tôi vẫn ung dung cắp sách đến trường và nghe tất cả nhạc gì mình thích. Trong những năm lớn lên để đến ngày đi lính tôi vẫn nghe những điều hợp tai và vẫn xôn xao lòng khi những cành phượng gợi báo mùa hè. Nhất quyết trong tôi không có một chữ hận thù người dân Việt Nam phương Bắc”.
      Bị đô hộ mà sao Võ Đình Tuyết lại sướng thế nhỉ !

      BẠT NGÀN

  3. Socrates says:

    Tác giả là nhà văn chứ không phải là chính trị nên không hiểu biết gì về chính trị và lịch sử thế giới cả.Do đó tác giả KHÔNG ĐƯỢC QUYỀN ĐƯA RA NHỬNG NHẬN XÉT HỒ ĐỒ ,CHỦ QUAN THIẾU HIỂU BIẾT như trong bài báo nầy !
    Ngoài ra, tác giả đả qúa ngông cuồng và trịch thượng một cách vô giáo dục khi kết án nhửng người trong “Hội VK yêu nước” chỉ dựa vào mớ thông tin củ kỷ của thế kỷ 19 bằng đoạn văn bên dưới .

    Tác giả nên biết rằng nhửng hội viên của “Hội VK yêu nước” ở Mỹ, Canada, Úc ,Đức ,NZ là nhửng du học sinh chứ không phải là hậu duệ của ‘nhửng người Việt bi Pháp bắt đi làm lính đánh thuê như đoạn văn bên dưới vì anh tôi là hội viên của hội VK yêu nước ở Canada.
    Tác giả sống ở Pháp được bao lâu , và đả từng sống ở Mỹ, Úc ,Canada, Đức chưa ? Tác giả biết gì về lịch sử thế giới và ngay cả lịch sử Việt Nam mà dám hồ đồ , trịch thượng viết bậy bạ theo kiều “gà què ăn bẩn cối xay” thế ? Tác giả tự nhận mình là nạn nhân của chủ nghỉa ngu dân .Do đó VN đả có hằng triệu triệu nạn nhân chứ đâu chỉ một mình tác giả !
    Qua bài báo nầy khiến người ta NGHI NGỜ về động cơ của sự có mặt của tác giả trên đất Pháp ?
    Trước đây khi vụ án nhà văn DTH ,Nguyển Đan Quế nổ ra và khi đọc bài báo của tác giả đăng trên các báo ở Mỹ .Tôi không ngần ngại đưa ra câu hỏi ‘ Does she really wake up “?
    “Trong thực tiễn, nước Pháp đã đối xử với đám lính thợ Việt Nam còn tệ hơn súc vật bởi khi cưỡng chế thanh niên Việt Nam sang Pháp, họ dồn đám người này xuống hầm tầu còn tầng trên, thoáng mát hơn thì để dành cho… những con bò. Cái kinh nghiệm tồi tệ ấy được cấy trong tim như một quá khứ sầu thảm, cộng đồng người Việt không thể tránh khỏi mặc cảm của những kẻ vừa là dân nhập cư, vừa mang nhãn hiệu “Được lôi ra từ vùng đất thuộc địa”. Thế nên, cuộc sống tinh thần của họ dường như đột ngột khởi sắc, bừng bừng ánh sáng khi cuộc chiến tranh Việt-Mỹ xẩy ra. Tại sao?
    Dễ hiểu thôi, tinh thần „Bài Mỹ“ là chất xi-măng gắn kết một số đông quốc gia trên thế giới, không chỉ các nước thuộc phe Xã hội chủ nghĩa nhưng ngay cả các nước phương Tây. Hành vi của nước Mỹ không chỉ gợi lên lòng căm thù nhưng kèm theo đó cả sự sợ hãi. Nếu có tiền lệ một nước nhược tiểu bị Mỹ chà nát thì sẽ đến lượt các nước khác theo thành ngữ, “Không bao giờ có lần thứ nhất, lần thứ hai mà lại không có lần thứ ba.
    Dễ hiểu thôi, tinh thần „Bài Mỹ“ là chất xi-măng gắn kết một số đông quốc gia trên thế giới, không chỉ các nước thuộc phe Xã hội chủ nghĩa nhưng ngay cả các nước phương Tây. Hành vi của nước Mỹ không chỉ gợi lên lòng căm thù nhưng kèm theo đó cả sự sợ hãi. Nếu có tiền lệ một nước nhược tiểu bị Mỹ chà nát thì sẽ đến lượt các nước khác theo thành ngữ, “Không bao giờ có lần thứ nhất, lần thứ hai mà lại không có lần thứ ba”.
    Vả chăng, về mặt lý, cuộc chiến này không thể biện minh, “Không một người Việt Nam nào mang bom sang giết người Mỹ.”
    Dù cộng sản hay không cộng sản thì sự thực là không có một người Việt Nam nào cầm dao hoặc cầm súng sang tận nước Mỹ để giết một người Mỹ, hoặc ngay đến một con bò trong trang trại Mỹ cũng không.
    Vì thế, lương tâm nước Mỹ phải thức tỉnh. Các vụ biểu tình phản đối chiến tranh trước toà Nhà Trắng của Mỹ điệp với các cuộc biểu tình trước sứ quán Mỹ tại các nước khác. Tiếng hát và ngọn lửa tự thiêu của trí thức Mỹ đốt nóng cả châu Mỹ La-tinh và châu Âu.
    Vào thời điểm ấy, người Việt Nam nhập cư chống chiến tranh được hưởng một sự ưu đãi vô tiền khoáng hậu. Đi đến đâu họ cũng được thăm hỏi, giúp đỡ, được coi là người của “một dân tộc anh hùng”. Và, trên các diễn đàn chống chiến tranh, đại diện của “tổ chức Việt kiều yêu nước” được xuất hiện bên cạnh những nhân vật quan trọng bản xứ mà nếu không nhờ ân sủng của cuộc chiến này, không bao giờ họ có cơ hội và có tư thế tiếp xúc. Để ví von, có thể nói rằng: Những con chim vốn nép mình trong bóng tối nhờ ánh đạn lửa mà được nhô đầu ra và há mỏ cất tiếng kêu.
    Thế nên, họ cần cuộc chiến tranh Việt-Mỹ.
    Lòng ích kỷ, cái kiêu ngã của con người quả là vô giới hạn. Những kẻ sống ở một phương trời, cần máu đồng bào phải đổ ở một phương trời khác để tô điểm cho cuộc sống tinh thần của chính mình

  4. thu bon says:

    Dương thu Hương là nhà văn của sự phản kháng, viết văn theo kiểu bán trời không văn tự, dương dương tự đắc. Sự phản kháng bắt nguồn từ sự bất mãn, nếu ngày trước được cộng sản cho đi học nước ngoài sau khi đi TNXP như bạn bè khác thì chắc đã không phản kháng. Tài viết văn thì được rồi, nhưng hay viết lộn kiểu vơ quàng vơ xiên nên bị những người hiểu biết coi thường : ai đời trong “Những thiên đường mù”, bối cảnh năm 1964 mà lại có cảnh người hát xẩm hát bài “Tầu anh qua núi” được sáng tác sau 1975, ngay trong bài này dám nói xơi xơi là ca sỹ Robertino “chết trẻ” (ông ta đang còn sống nhăn răng ra ở Ý kia kìa). truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc thì chỉ được coi là một “thói quen”. “năm này tôi đi Pháp. năm này tôi quay lại Pháp…” , cứ như bố con chó xồm ấy, ra vẻ ta đây là lãnh tụ ? Mụ này mà làm lãnh đạo thì chắc chắn sẽ độc tài độc đoán hơn cả cộng sản.

    • thongreo says:

      bạn viết theo cách gì tôi ngu quá không hiểu nỗi ! hay đã bị tẩy não toàn thấy các thế lực thù nghịch chống phá diễn biến hòa bình ? Thu Hương không phải dư luận viên viết văn biểu lộ cảm nghĩ quan điểm của mình về nhân văn … lời nói của nhà văn thật tận đáy lòng , người có tâm có tầm mới biểu cảm đặng nên ca ngợi hơn nguyền rủa vô lối…!

  5. LMQ says:

    “Lòng ích kỷ, cái kiêu ngã của con người quả là vô giới hạn. Những kẻ sống ở một phương trời, cần máu đồng bào phải đổ ở một phương trời khác để tô điểm cho cuộc sống tinh thần của chính mình.”

    Nhận định về nhóm VKYN như thế là hơi khắt khe tuy về tâm lý thì đúng đến 80%. Có lẽ sự thật không đến nỗi quá tồi tệ như được trình bày nhưng điều quan trọng là họ sai vì nhầm lớn nhưng lại cứ cho rằng mình đúng 100% y như bầu cử đạt 100% vậy!

    Họ say men chiến thắng y như người CS thứ thiệt ở trong nước và nếu nhà nước CS cung cấp cho họ những địa vị mà họ chờ đợi thì có thể họ cũng sẽ “bình thiên hạ ” bằng cái chủ trương, đường lối của đảng CS chứ không chịu kém!

    Điều đáng buồn hơn là sự kiêu hãnh ấy đã kết tinh lại thành một thứ men sắt đá đến nỗi thảm cảnh thuyền nhân, những bản án tù không thời hạn đã không làm cho họ ân hận và mở lòng ra cho dù họ bị cái chính quyền mà họ đã bỏ công ra vun sới từ chối đưa tay ra với họ.

    Thảm kịch của người dân VN càng bị gìm xuống bùn đen với sự kết hợp giữa hai loại người tàn nhẫn đó. Và nay thì họ im thin thít và đôi khi còn cực kỳ hãnh diện nếu may mắn được mời làm cây cảnh cho chế độ.

  6. NGÀN TRÙNG says:

    ĐIỀU TỆ HẠI NHẤT CỦA CHẾ ĐỘ TOÀN TRỊ ĐỘC TÀI

    Chế độ tự do là xã hội tự nhiên, khách quan của con người. Nền tảng hay căn cơ của nó chính là xã hội dân sự. Nó cũng giống như bầu khí quyển. Muôn loài không thể sống được nếu thiếu không khí. Không khí tự do là không khí luôn luôn linh hoạt. Nó luôn có những luồn đối lưu, tính cách đổi mới của nó vì thế vẫn luôn luôn có.
    Trong bầu không khí tự do, các phân tử khí luôn luôn có thể trượt lên nhau, do vậy nó không bao giờ cứng nhắc. Bất kỳ vật gì đều có thể đi qua đó, không bị ngăn cản hay bị chết cứng vì bị giữ lại.
    Sự tự do khách quan đó cũng giống như các phân tử nước trôi chảy không ngừng, chúng không bao giờ bị tù hãm theo kiểu bùn lầy nước đọng. Bất kỳ vật gì cũng có thể xuyên qua dòng chảy, chúng không bị ngăn trở hay cũng không bị giữ lại theo cách bế tắt hoặc tiêu cực. Sự tự do trong nước tuy có bị hạn chế hơn trong không khí nhưng vẫn cứ luôn là sự tự do.
    Trong khi đó xã hội toàn trị hay chế độ chính trị toàn trị, nó cũng giống như khối nước đá hay khối băng tuyết. Nó chỉ luôn lạnh lùng, nhạt nhẽo, nặng nề, vì mọi phân tử trong đó luôn bị kết chặt vào nhau trong một hệ thống. Đó là hệ thống ý thức hệ. Không phân tử nào có thể trượt lên nhau được nữa, chúng phải yên vị như thế một cách cứng nhắc, thụ động, một cách hoàn toàn nô lệ. Bất kỳ vật gì đều khó có thể xuyên qua nó. Còn nếu bị đóng vào rồi chỉ có nước chết dĩ ở đó, không thể có đường ra được. Tình trạng băng tuyết, tình trạng xi măng đúc sẳn, hay nó chung các chất rắn và mọi kim loại đều như thế. Sức mạnh của nó là sức mạnh vật chất, sức mạnh mù quáng. Một tảng đá lớn có thể làm chết một con con bò hay một con trâu dễ như không. Sức mạnh của một xã hội toàn trị, một xã hội độc tài triệt để cũng giống vậy.
    Không một phần tử, không một phân từ nào có thể được tự do bứt ra khỏi được mạng hệ thống đó. Ngay cả những lãnh tụ hay cầm quyền cao nhất của nó cũng thế. Bứt ra khỏi tức là chết. Bởi vậy muôn đời đều không thể bứt ra. Không có khái niệm anh hùng hay khái niệm tài năng ở đây. Tất cả đều chi phối bời quán tính và bởi quy luật sống lâu lên lão. Sự tròn trĩnh đó là nguyên tắc vững bền của hệ mạng. Không phải tính cách góc cạnh hay tính cách linh hoạt.
    Có nghĩa chế độ toàn trị không những bóp nghẹt mọi thân xác mà còn bóp nghẹt mọi độc lập đầu óc của tất cả mọi người. Tính cách phản nhân văn và phản văn hóa nói chung của nó là như thế. Nhiều người ngây thơ cho đó là sức mạnh, là sự hiệu quả xã hội. Thực chất là hoàn toàn ngược lại. Bởi vì khi nó bị tấn công thì chỉ chịu trận, hoặc bị tan nát nếu không chống lại nổi, còn không thể di chuyển đi đâu hoặc biến hóa như thế nào được cả. Nó là xã hội của sự vật, không phải xã hội nhân bản đúng nghĩa theo tính cách tinh thần và tự do của con người. Nó hầu như không có ý thức riêng biệt của đơn vị nào cấu thành, nó chỉ là ý thức chung của người cầm cán và sai khiến nó.
    Xã hội độc tài toàn trị còn nguy hiểm hơn cả xã hội độc tài cá nhân. Bởi độc tài cá nhân hay độc tài nhóm cá nhân, nó chỉ nhất thời và không bao giờ tồn tại lâu dài hay quá mức. Chế độ quốc xã hay phát xít chỉ là độc tài cá nhân hay độc tài nhóm cầm quyền, nó không phải kiểu xã hội toàn trị bao quát như kiểu xã hội ý thức hệ. Bởi nó chỉ được tổ chức ở mức độ tương đối trong những cấp nào đó. Còn chế độ toàn trị thì được tổ chức từ A đến Z trong toàn thể xã hội. Con ruồi cũng không bay thoát ra khỏi được nó. Bởi tất cả đều là tai mắt, đều là những thành viên thụ động hay tích cực của nó. Tính chất ghê rợn của xã hội toàn trị là như vậy, bởi nó được tổ chức một cách toàn diện nhất, từ đời sống đến ý thức và đến cả sự nhận thức, nên nó trở nên như một khối thống nhất, dù rằng đó chỉ là sức mạnh giả tạo, phi nhân bản và phi lý nhất.
    Nó tiêu diệt hết mọi sinh khí tự nhiên của xã hội. Nó trở thành như một kiểu bon sai hay một chậu cây cảnh cốt để làm đẹp lòng ông chủ của nó, tức là người nắm quyền hay cầm đầu cao nhất của xã hội đó. Không một cây cối nào cắm rễ được trên băng tuyết, hay cắm rễ được trên đá cứng, đó là điều tự nhiên. Tức nó là xã hội bị kết tinh hóa, bị hóa đá hay bị vôi hóa một cách phản tự nhiên nhất.
    Thế nhưng con người cũng như mọi loài sinh vật khác hay sự sống nói chung là đều có thể tự thích nghi nhất trong các trường hợp nghiệt ngã nhất để tồn tại. Nhưng đó là sự tồn tại hay sự phát triển không tự nhiên, phản tự nhiên hoặc nghèo nàn đến mức tối thiểu nhất. Đó là điều mà các nhà khoa học đều biết trong lòng đại dương sâu không có ánh sáng hay trong những sa mạc khô cằn nhất vẫn có những loài sinh vật tồn tại được một cách lạ lùng nhất. Nhưng tất yếu những sự tồn tại đó thường không bình thường và có những cơ quan trên thân thể chúng phải thích nghi trong sự tăm tối hoặc hoàn toàn biến mất. Con chuột chù sống mãi trong hang hay con cá dị dạng sống sâu hoài dưới đáy đại dương đều mất hết khả năng thị giác chỉ là chuyên bình thường.
    Cho nên mọi chế độ toàn trị thật ra không có lợi cho bất kỳ cá nhân nào, không có lợi cho bất kỳ xã hội nào. Nó chỉ có lợi cho người nắm quyền thống trị vì để phục toàn diện và dễ dàng nhất cho tham vọng quyền bính cá nhân là như vậy.
    Trong chế độ toàn trị thì chỉ có chính quyền của kẻ thống trị mà không còn bất kỳ định chế nào bình thường của một xã hội bình thường nào nữa. Ngôn ngữ của nó chỉ là ngôn ngữ toàn trị và quyền hành của nó chỉ là quyền hành toàn trị mà không là gì khác. Đó là cả một guồng máy chuyển động theo quán tính mà nhiều khi cũng chẳng cần phải điều khiển nó vẫn cứ chạy. Nó chạy giống như một chương trình đã được cài đặt sẳn thế thôi. Nó cũng giống như hòn đá lăn từ trên núi cao xuống, cứ lăn hoài nếu không bị một vật gì đó có thể cản trở hay làm cho nó phải đứng lại. Tính chất phi nhân văn và phản nhân bản của mọi chế độ toàn trị là như vậy. Có người còn mệnh danh nó là sự lãnh đạo toàn diện là như vậy.
    Nguồn gốc của chế độ toàn trị là sự nhân danh nào đó. Trước hết là sự nhân danh giai cấp, nhân danh chủ nghĩa, nhân danh ý thức hệ nào đó. Bởi nhân danh có nghĩa không phải mục đích thực chất, nhưng là cái cớ vin vào đó để có chế độ toàn trị. Vì không nhân danh, không vin vào cái gì mang tính cách bao quát nhất thì làm sao có chế độ toàn trị được. Bởi vì thế, lòng yêu nước, lòng yêu dân tộc thật sự không thể nào mang lại chế độ toàn trị. Bởi lòng yêu nước, lòng yêu dân tộc thì ai cũng hiểu, cũng có, làm thế nào mà nhân danh mù quáng được. Nên chế độ toàn trị chỉ có thể nhân danh mù quáng một chủ nghĩa ban đầu nào đó. Nhưng về sau nó cũng chẳng cần gì đến chủ nghĩa đó nữa. Bởi cuối cùng nó chỉ trở thành như một quán tính, một thói quen, một sự chuyển động vật chất mù quáng và có hệ thống được tổ chức chặt chẽ và toàn diện theo quán tính thế thôi. Chính trong tính cách này mà cũng phân biệt được lòng yêu xã hội, yêu con người, yêu đất nước có phải là thực chất hay chỉ là sự lợi dụng, sự nhân danh thuần túy của một số cá nhân nào đó trong thực tế xã hội nói chung để cốt phục vụ sự tồn tại, quyền lợi, hay tham vọng quyền lực lợi ích của riêng cá nhân mình hoặc phe nhóm của mình chính là như thế.

    NGÀN KHƠI
    (04/7/14)

  7. Trúc Bạch says:

    Theo tôi , để cho đúng ngữ – nghĩa thì phải gọi là Chính Sách Ngu Dân chứ không phải Chủ Nghĩa Ngu Dân

    ..Và Chủ nghĩa CS đã triệt để áp dụng Chính sách ngu dân – ngoài mục đích tạo nên sức mạnh, nó còn giúp đảng CS cai trị xã hội một cách tuyệt đối và toàn diện, cái này người ta gọi là Chính sách Ngu Dân Để Trị

    Tôi cũng hoàn toàn đồng ý với bà Dương Thu Hương là :

    Đám “Việt kiều yêu nước” ở bên Tây rất “..cần cuộc chiến tranh Việt-Mỹ.”, và có nhiều kẻ vẫn còn đang “sống” với cuộc chiến tranh (ngu xuẩn) này (ở trong nước thì còn đám gọi là “Lão Thành Cách Mạng”….)

    Cũng tội nghiệp cho họ, Nếu cái gọi là “chính nghĩa chống Mỹ Cứu Nước” bị bóc mẽ, thì bộ mặt của họ sẽ giống như bộ mặt dúm dó của những con đĩ già không thoa son, trát phấn ! …họ sẽ không còn dám chường mặt ra dưới ánh mặt trời nữa .

    Việc mới đây, hội cựu chiến binh CS tổ chức cuộc thi viết về “thành tích chống Mỹ cứu nước” (gì đó), chẳng qua cũng giống như đám gái lầu xanh thập thành, dùng tuyệt chiêu “nước vỏ lựu, máu mào gà – mượn mầu chiêu tập vẫn là còn nguyên” để lừà khách làng chơi ….nhưng chắc cũng chỉ lừa được đám khách choai choai mới lớn mà thôi .

    Thật là đáng thương !

  8. Vung Lap Truong says:

    Tức cảnh:

    Bông bần ly đã héo rồi,
    Sao em còn vẫn lắm lời thế ư ?

    Ừ, nước nhược…
    Ừ, dân ngu…

    Ừ, bầy súc vật…
    Ừ, tù binh… ngoan…..

    “Một con gà chiếc đi hoang,
    Bà già chửi……”

    Cả xóm làng…
    Điếc tai

  9. Thanh Pham says:

    Tôi biết

    Tôi biết mình tài hèn sức mọn
    Đau xót quê hương trong tai ương
    Rồi tự cảm thấy mình có tội
    Nên tôi cất lên lời đau thương!

    Đất nước tôi vì đâu nông nỗi
    Đọa đày đến tận cùng đói khổ
    Gái thơ đem bán tận xứ người
    Làm tôi đòi nhục nhã quốc tổ?

    Ngàn năm nô lệ bọn phương bắc
    Bao lần đánh đuổi giặc ngoại xâm
    Tổ tiên tôi căm hờn vong quốc
    Giờ nầy lệ thuộc lần thứ năm?

    Không thể nào sống trong tối tăm
    Cháu con ta có quyền nguyền rủa
    Nguyền rủa ông cha trong hờn căm
    Đã cắt đất giao cho Tàu khựa!

    Thơ của tôi không còn chọn lựa
    Những vần thơ nghẹn ngào uất hận
    Hận là dân tôi đã bị lừa
    Bởi rợ Hồ cam tâm nô lệ

    Không lẽ toàn dân ta mặc kệ
    Để giang sơn tổ quốc mất dần?
    Chín mươi triệu đâu đến nỗi tệ
    Vô cảm nhìn Việt cộng ngu đần

    Bán nước mà ta vẫn làm thinh?!
    Giống Tiên Rồng đến mức đáng khinh!?

    T.Phạm
    http://phaxiengnole.wordpress.com/
    http://sangcongpha1.wordpress.com/

  10. Thanh Bình says:

    Nhóm “Việt kiều yêu nước” gồm có 8 tên ờ Pháp: Nguyễn Ngọc Giao, Hà Dương Tường, Trần Hài Hạc, Trịnh Văn Thảo, Lê Văn Cường, Nguyễn Tiến Dũng, Phạm Văn Đình, và Cao Huy Thuần. Ngoài ra còn số ở ngoài nước Pháp như Trần Hữu Dụng (HK), Giáp Văn Dương (VN), Trần Quốc Hùng (HK), Đỗ Tuyết Khanh (Thụy Sĩ), Thái Thị Kim Lan (Đức), Ngô Vĩnh Long (HK), Trần Văn Thọ (Nhật), Vũ Quang Việt (HK), và Trương Đình Hùng (chết ngày 26/6/2014). Ngô Vĩnh Long từng ca ngơi chương trình Cải Cách Ruộng Đất vào thập niên 1950s của Cộng Sản Bắc Việt. Trần Văn Thọ phục vụ trong Mặt Trận Tổ Quốc. Nguyễn Ngọc Giao làm thông dịch viên cho Lê Đức Thọ trong thời gian hòa đàm Paris 1973. Trương Đình Hùng là con Ô. Trương Đình Du, UCV Tổng Thống thời Đệ Nhất CH, bị tòa án Mỹ kết tội làm gián điệp cho CS. Sau 30/4/1975 ông bà Trương Đình Dzu và người con trai út (em của Hùng) bị đưa đi quản chế ở miền Bắc (khoảng 10 năm). Phần đông bọn này xuất thân từ các gia đình ở miền Nam Việt Nam, nhưng theo CS khi đi du học. Có học nhưng ngu đần và sẽ tiếp tục ngu đần và kiêu hãnh về việc chống Mỹ cứu nước, đánh cho Liên Xô, cho Trung Quốc cho đến khi chết. Cám ơn Nhà Văn Dương Thu Hương đã vạch mặt chỉ tên bọn đốn mạt này.

    • Choi Song Djong says:

      Nhắc đến ông Tiến Sĩ Cao Huy Thuần ta lại liên tưởng đến TS. Huỳnh Tấn Lê, cũng có chung cái thói trí trá. Có học nhưng không thoát khỏi cái sự ghen ghét tầm thường của bọn thất phu.Ở đời đâu phải cứ có bằng cấp cao là đã trở thành người ngay,kẻ sĩ. Qúi ông TS cũng chẳng hơn hạng võ biền cỡ Đỗ Mậu,vì hận thù tôn giáo tự biến mình trở thành mù quáng lúc nào không hay.

      • việtCộng says:

        Rất ..rất đồng ý với Choi song djong.ít có người đủ ‘gan” nhìn thẳng vào sự thật nầy
        Trong vấn đề nầy nó đã xẩy ra từ ngàn đời,họ càng học cao,họ càng biết được trăm-ngàn đường hướng lường-gạt người kém học hoặc kém kiến thức và những người quá chân thật.
        Càng học nhiều chúng càng thâm hiểm nhiều…càng học nhiều chúng càng hèn hơn người dân bình thường.
        Cho nên bọn cs nhìn thấu “tim đen” của chúng và đánh giá chúng là “cục phân”.
        Nói đến những thằng sỉ quan vào thời đệ I,II Cộng-hoà Miền-nam cũng vì hèn hạ tham ô mà có kẻ đã bám vào dái bọn csvn,và chúng trở thành vc.Miền-nam sụp đỗ cũng có “1/3 công sức’ của chúng…di tản qua Mỹ trong họng chúng vẩn còn những cục phân trong đó,chúng về với đất địa trong một cách tủi nhục.

Leave a Reply to Thanh Bình