Thế Dũng- Từ hộ chiếu buồn đến đau thương hành
Năm nay, có khá nhiều nhà văn, nhà nghiên cứu, từ trong nước sang nghỉ hè và làm việc ở châu Âu. Có lẽ, nhiệt độ từ nơi xứ nóng, theo chân các nhà văn sang Đức chăng? Nên mới đầu tháng sáu, trời đã chuyển sang nắng ấm. Trên lối đi ngát một màu xanh cây lá. Bầu trời cao và xanh thẳm, thả xuống những cơn gió lành mát dịu, nhưng dường như vẫn chưa trút bỏ được, những ngột ngạt, chua xót, đắng cay… trong lòng người thi nhân, lữ khách.
Có thể nói, đã lâu lắm rồi, châu Âu mới có một mùa hè đẹp đến như vậy.
*Vẫn còn đó một bức tường vô hình.
Trong lúc rong chơi, bù khú, có bác hỏi tôi, về tình hình văn học cũng như những nhà văn Việt, điển hình ở Đức. Qủa thật, tuy xa quê, xa Tổ Quốc đã rất lâu, nhưng khi nghe các bác nhắc lại, những từ tiêu biểu với điển hình, làm tôi vẫn phải giật mình, sởn sởn trong người, cứ tưởng mình trở về cái thời mậu dịch, hợp tác xã, đang bóp nặn ra những nhân vật điển hình tiên tiến.
Thành thật mà nói, câu này, rất khó trả lời thẳng và trọn vẹn với các bác, vì người Việt ở Đức, hoàn toàn khác với cộng đồng người Việt ở Mỹ, Anh Nga Pháp, hay Séc, Ba Lan. Bởi, nguyên do lịch sử và địa lý, nên nước Đức có hai cộng đồng người Việt với ý thức hệ khác nhau rõ ràng, sau khi bức tường Berlin sụp đổ. Người Việt sống ở phía Tây Đức chủ yếu là những thuyền nhân, từ miền Nam trốn chạy CS. Và vùng phía đông nước Đức, là nơi cư ngụ phần đông của những công nhân lao động, những cựu du học sinh ra đi từ miền Bắc, lúc nào cũng thấy màu đỏ vẫn còn rực cháy trong lòng.
Dù đã một phần tư thế kỷ trôi qua, nhưng chính kiến cũng như nhận thức tư tưởng của hai cộng đồng người Việt, cùng sống trên một nước Đức tự do dân chủ vẫn không thể hòa đồng. Những ngăn cách ấy, dường như ngày càng cô lại, rắn chắc hơn cả bức tường ô nhục chia cắt Đông Tây trước đây. Vì vậy, những sinh hoạt văn chương và xu hướng sáng tác, hoàn toàn khác nhau. Thực trạng là thế, nhưng trong hố sâu ngăn cách đó, vẫn chợt có những bước chân tạo ra con đường, nối lại khoảng cách ấy.
Vâng! Nhà thơ Thế Dũng, là một trong những bước chân tự do, can đảm đó, ông đang cần mẫn, mở ra con đường từ Đông sang Tây, không chỉ bằng văn học.
Phần đông độc giả trong và ngoài nước, biết đến Thế Dũng là một nhà thơ, chứ có lẽ, không nhiều người biết ông còn là tác giả đã viết khá nhiều truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch bản điện ảnh, sân khấu và phê bình. Ba cuốn tiểu thuyết, Tình Cuội, Hộ Chiếu Buồn, Một Nửa Lá Số, được viết ngay khi ông tới Đức, giữa lúc bức tường Berlin sụp đổ. Trong bối cảnh đó, cùng với sự mẫn cảm của nhà thơ, tư tưởng của Thế Dũng đã chuyển biến một cách dứt khoát rõ ràng. Nếu như Hộ Chiếu Buồn miêu tả diễn biến tâm lý của một trí thức, bằng mọi cách, vùng vẫy, đào thoát ra khỏi cái bí bức, hèn mọn, với tư duy “toàn xã hội nuôi gà công nghiệp“, thì đến tác phẩm Đau Thương Hành, Thế Dũng đã hoàn toàn cởi được cái vòng kim cô đó: “Độc đảng không gánh hết Tổ Quốc/ Dân chủ tự sinh thành đa nguyên“ (ĐTH)
Nhân nói đến tiểu thuyết Hộ Chiếu Buồn của Thế Dũng, làm tôi sực nhớ đến giai thoại ồn ào trước đây, trong giới văn chương. Số là, thời đó có lẽ, Thế Dũng còn yêu mến Hội Nhà Văn VN chăng? Nên ông đã gửi cuốn này, đến dự thi. Và nghe nói, Hộ Chiếu Buồn đã vào đến chung khảo, chung kết gì đó, của cuộc thi tiểu thuyết năm 2001-2004. Sau đó, Hộ Chiếu Buồn được vào sâu hơn nữa và nằm trong danh sách 14 tác phẩm được lãnh giải, và giấy mời cũng đã gửi đến Thế Dũng. Vào một ngày đẹp giời, bất chợt, Thế Dũng nhận được điện thoại của một ông bạn họa sĩ, khuyên: Có giấy mời lãnh giải cũng chưa chắc đâu, ông nên phong bao cho ban giám khảo, chắc ăn.
Thế Dũng cười, dứt khoát không tin như vậy. Ngày đến lãnh giải, quả thực, Hộ Chiếu Buồn của Thế Dũng, đã bị gạch tên trong danh sách, được thay bằng tiểu thuyết Cán Cờ Tre, đã bị loại từ vòng ngoài, của đồng chí Trịnh Đình Khôi, chuyên viên ban văn hóa tư tưởng trung ương. Chủ tịch hội nhà văn Hữu Thỉnh, ghé tai thì thào: Thế Dũng thông cảm, ra lãnh giải chung khảo vậy.
Cuốn Hộ Chiếu Buồn ngay sau đó, được nữ nhà văn người Đức, dịch sang tiếng Đức với cái tựa Der Traum Von Orly (Giấc Mộng Orly) do nhà xuất bản Horlemann phát hành. Giấc Mộng Orly được độc giả Đức đón nhận. Từ đây tên tuổi Thế Dũng gần gũi với độc giả người Đức hơn. Nhà xuất bản Horleman đã tổ chức ra mắt cuốn sách này, khá nhiều nơi trên nước Đức. Tôi đã được đọc bài phỏng vấn Thế Dũng của Radio Hamburg, cảm thấy khá sâu sắc và thú vị.
Nghe kể câu chuyện này, có bác nhà văn già gật gù, đế tiếp: Kể cả việc muốn vào hội nhà văn, nếu không đủ đạn bắn vỡ ổ khóa, cũng chỉ có nước đứng ngoài cửa. Luật bất thành văn: Vào, dấm dúi cửa sau- Ra, đàng hoàng cửa trước. Nhất là mấy ông viết văn ở Đức, Việt kiều Việt kiếc rủng rỉnh, lại phải bắn đạn to hơn, dày hơn, mới có thể chui lọt.
Thế mới biết, đằng sau cái tưởng là cao sang ấy, lù lù một đống bốc mùi đến như vậy. Chả trách, đọc mấy cuốn sách được giải của các bác, chắng khác gì phải uống bát nước ốc luộc.
Thật vậy, đã mang tên Hộ Chiếu Buồn, thì Thế Dũng làm sao có thể cưỡng được số phận buồn của nó. Có lẽ, sau vụ này Thế Dũng tởn các bác hội nhà văn VN đến già?
Nhà thơ Thế Dũng, người Hải Dương, sinh năm 1954 tại Tuyên Quang, nơi cha mẹ ông tham gia kháng chiến. Ông xuất thân từ người lính chiến, vào những năm tháng ác liệt nhất của chiến tranh. Sau cuộc chiến, Thế Dũng trở thành sinh viên văn khoa, đại học sư phạm Hà Nội. Và từ đó, ông cứ tưởng sẽ được thỏa trí tang bồng với những ước mơ, dự định về thơ văn của mình. Thế nhưng, cuộc sống Thế Dũng có khá nhiều biến cố, thăng trầm và đã trải qua nhiều công việc, nghề nghiệp khác nhau. Những lúc đắng cay ấy, tưởng như ông đã gục ngã, nhưng may mắn thay, lại chính thơ văn đã nâng đỡ ông đứng dậy và bước tiếp… Hiện ông là hội viên, Hội văn bút CHLB Đức.
Khi tìm tòi, nghiên cứu về Thế Dũng, tôi chợt nhận ra một điều, văn xuôi, tiểu thuyết là vỏ, là thân xác hình hài, thơ mới chính là tư tưởng, hồn cốt trong cái hình hài đó của ông. Chính hai yếu tố này, đã song hành, tạo nên một Thế Dũng, thật vạm vỡ, vững chãi của ngày hôm nay.
Thật vậy, ba cuốn tiểu thuyết trên và những tác phẩn văn xuôi khác, đều xoay quanh chính cuộc đời thật của ông, trong cái xã hội lươn lẹo, dối trá đương thời. Tuy cái vỏ đó khá chật chội, luôn bứt rứt, nhưng nếu không có biến cố bức tường Berlin sụp đổ và được tận mắt chứng kiến, thì có lẽ, ông chưa thể bứt nó ra, để hồn thơ ấy, bật lên với những tiếng kêu cùng nhân dân, Tổ Quốc, đau đớn đến ngút trời như vậy.
Đêm giao thừa đầu tiên trên nước Đức, cũng là mùa xuân đầu tiên nước Đức thống nhất, Thế Dũng thấy mình như trẻ lại. Nhưng nỗi vui mừng đó chợt dừng lại, bởi đất dưới chân mình đâu phải đất quê hương. Dù pháo vẫn nổ, chai đã cạn, nhưng dường như, ông lại càng thấm sự cô đơn, khi ngoảnh lại, nơi quê nhà, còn bao người bị giam hãm nơi lao tù? Thế Dũng đã dồn nỗi đau, sự cay đắng ấy vào trong thơ, ông đứng ngay ở cổng thành Brandenburg để viết. Và mầm tự do đã bắt đầu nở hoa trong Thế Dũng từ đây:
“…Nước Đức đêm nay – vừa khóc vừa cười!
Đêm trừ tịch đầu tiên tôi được thấy
Đông với Tây cởi mở nỗi lòng mình?
Chân phiêu lãng chợt buồn trên xứ lạ!
Dưới chân mình đâu phải đất khai sinh!
Xin nhớ mãi một giao thừa du ngoạn
Tôi rong chơi như trẻ nhỏ la đà…
Tây Berlin chợt cười tôi cay đắng.
Thèm nghe nhạc pháo hồng trên cổng ngõ nhà ta!“
(Viết ở cổng thành Brandenburg)
Không chỉ bức tường Berlin mở, mà cánh cửa tâm hồn Thế Dũng cũng được mở toang ra. Và ngay sau đó (năm 1992) ông viết bài Ta Mở Cho Nhau Cửa Tới Vô Cùng, gửi nhà văn Ngô Nguyên Dũng. Đây là bài thơ hay, tiêu biểu nhất về sự chuyển biến nhận thức, và là nhịp cầu nối Đông Tây trong tư tưởng của Thế Dũng.
Nhà thơ muốn liệm, giã từ quá khứ chăng? Nhưng nấm mồ dĩ vãng kia, vẫn còn chôn chặt nơi tâm hồn. Vâng! Qúa khứ của những ngày, cứ hân hoan làm thằng lính được đi đầu. Và ai sẽ là người mở cửa, dọn đi những nấm mồ đó? Khi nhà thơ thảng thốt kêu lên. Nhưng có lẽ, thời gian cũng khó có thể xóa đi những ngày đen tối, khờ dại ấy:
“…Dăm ngôi mộ trong hồn… Hoa héo úa
Âm ti cười văng vẳng tiếng đa đoan
Mây như khói tóc ai chiều thu xõa
Liệm làm sao?- Dĩ vãng chửa tro tàn!
Ngày tháng mở giùm tôi từng ô cửa
Hốc tâm linh toang hoác một hang buồn
Tôi chưa chín nên tôi còn hăm hở…
Hộc từng cơn! Thơ vỡ ngực ngậm hờn…“ (TMCCNTVC)
Thế Dũng đã chỉ ra, cái chủ nghĩa ngoại lai, là một thứ dịch bệnh. Sự phỉnh lừa đó, đã cướp đi bao sinh linh vô tội, dẫn đến tận cùng tội ác: Xẻ nát, chia cắt mấy đời đau. Và ai là người đã thốt lên: Đốt cả dãy Trường Sơn- Để cháy nát hồn dân tộc, và khắc sâu thêm oan nghiệt, lòng hận thù bằng những cuộc chiến tranh:
“ Đời thuở ấy, quê hương nhiều giặc giã
Một nhà ta chia “ta-địch”. Khóc u…oa
Đốt cả dãy Trường Sơn mà được thế?
Những chiến hào xẻ nát triệu đời hoa
Đời thuở ấy thịt xương sao lãng mạn
Cứ hân hoan làm thằng lính đi đầu
Chỉ vì cuộc dối lừa nhau ý hệ
Một bầu trời chia cắt mấy đời đau…” (TMCCNTVC)
Thật ra, tôi thích đọc Thế Dũng không hẳn vì tài năng, nghệ thuật viết, mà tư tưởng, con đường của ông đi, đang hành cùng nỗi đau của đất nước và thân phận con người, đó mới là yếu tố chính, làm cho tôi rung động.
Đau Thương Hành, được Thế Dũng viết vào năm 2013. Đây là một bài thơ đã đạt đến đỉnh cao của nhận thức, tư tưởng cũng như tài năng, nghệ thuật viết của ông. Đọc bài thơ này, ta thấy được, Thế Dũng đã hoàn toàn bốc được ngôi mộ quá khứ, ra khỏi tâm hồn mình.
Hành thuộc thơ cổ, dường như có xuất xứ từ Trung Quốc, thường viết theo thể thất ngôn, ngũ ngôn, hoặc dài ngắn tùy thuộc tâm trạng, cảm xúc của tác giả. Nó là thể thơ khó nhằn, khó viết. Nhìn chung, các nhà thơ Việt, rất ít sử dụng thể loại này.
Đã đọc khá nhiều thơ thể hành, nhưng quả thực, còn đọng lại trong tôi không nhiều. Bởi, tuy là thể thơ mang tính tự do, phóng khoáng, nhưng để đạt đến cái đỉnh bi tráng, thực sự lay động lòng người, không phải nhà thơ nào cũng làm được. Với tôi, kể từ khi có thơ mới đến nay: Tống Biệt Hành của Thâm Tâm, Hành Phương Nam của Nguyễn Bính, Trường Sa Hành của Tô Thùy Yên, Biên Cường Hành của Phạm Ngọc Lư và Đau Thương Hành gần đây của Thế Dũng là những bài thơ hay, mang lại cho tôi nhiều cảm xúc nhất, khi đọc thể loại này.
Đau Thương Hành được chia thành sáu đoản khúc, là tiếng nấc sinh ly sau chiến tranh, dưới một xã hội độc tài, man rợ. Sự bắt bớ, tù đày, sự ra đi và trốn chạy, đó không phải cái đau của nhà thơ hay một cá nhân, một bộ phận mà của cả một dân tộc. Từ cái nhìn khách quan đó, Thế Dũng đã can đảm vạch ra, nguyên do của cái bi thương ấy: “ Độc đảng/ Độc tài/ Độc hành đau“ (ĐTH)
*Những cuộc trốn chạy, chia ly đẫm máu và nước mắt
Là một người lính trực tiếp cầm súng nơi chiến trường miền Nam, trong những năm tháng ác liệt nhất, giữa cái chết và sự sống, và trên hai mươi năm khắc khoải trên xứ người, nên Thế Dũng hiểu hơn ai hết, cái giá của sự biệt ly. Khi người ta cố quàng hoa lên cái chết cho những người lính phía Bắc, thì tác giả lại chỉ ra cái chết đau thương của những người lính phía Nam thua trận, ở nơi tù đày phương Bắc. Và sau chiến tranh, cứ ngỡ, đất nước sẽ thanh bình, nhưng không chỉ riêng Thế Dũng, mà cả một thế hệ đã lầm: Có nơi nào bình yên? Khi hàng ngàn, hàng vạn chiếc thuyền lá tre kia, cố nhoài đi tìm lại sự sống, trong bão tố, mông mênh của biển cả.
Thật vậy! Đánh đổi một nửa lá số, một nửa cuộc đời, ông mới cay đắng nhận ra, sự sinh ly còn đáng sợ hơn cả cái chết:
“Tống biệt chưa ghê bằng tử biệt
Tử biệt chưa kinh bằng sinh ly
Sinh ly? – Giời ạ! – Thật thảm thiết …
Nước nát – Nhà tan-Đành biệt ly?
Biệt ly! – Mười chết, một sống sót
Sinh Nam Tử Bắc huyết lệ nhòa
Vạn xác trẻ già vùi đáy biển
Sinh Bắc Tử Nam máu thành hoa?...“ (Đau Thương Hành- Đoản khúc 1)
Cuộc chiến đã lùi xa gần bốn mươi năm, nhưng sự bức tử, hiếp chế ngày càng đè nặng lên những sinh linh, cùng chung một giống nòi. Độc tài, độc đảng là tự mê tự trói, dẫn đến cái đau cho toàn dân tộc. Sẽ chẳng có sinh khí, linh hồn nào còn tồn tại, nếu những người cầm quyền vẫn còn chìm trong những cơn hoang tưởng, và mộng mị.
Vâng! Sự thật đau thương đó, Thế Dũng không chỉ bóc trần ra, mà ông còn lý giải, vạch ra lối thoát cho những kẻ u mê cầm quyền:
“…Cả hồn lẫn xác đều bị hiếp
Mà vẫn say sưa uống ngẩn ngơ
Tâm thần phân liệt dưỡng ma quỷ
Dương Khí suy tàn hoại Thiên Cơ
Ngót bốn mươi năm liền một dải
Hà cớ chi còn bức tử nhau?
Sợ bị thủ tiêu thà tự tử
Độc đảng!
Độc tài!
Độc hành đau !
Tống biệt đôi khi giống tự sát
Tử biệt-Sinh ly dù tai ương
Em thành người mới ta cũng khác
Không biết đau thì không biết thương!
Tự mê tự trói cơ chế ác
Bao nhiêu thủ lĩnh đành ra đê
Sao không đa đảng, đa phương sách
Để tinh hoa dân tộc tự tìm về ?...” (ĐTH- Đoản khúc 1)
Thật vậy, chẳng có giọt nước mắt và lời ru nào, xóa hết nỗi đau và sự phân ly, chia cắt, mà chỉ có đa phương, đa đảng trong tình yêu con người, thì hoa dân tộc mới có thể nở trên những vết thương đang mưng mủ ấy.
*Sự u muội, ươn hèn-trong canh bạc chư hầu
Nhìn lại mấy ngàn năm lịch sử, chưa bao giờ có triều đại nào, chế độ nào run sợ trước giặc Tàu như hiện nay. Để mặc cho kẻ thù, cắt cáp, cướp tầu, là nhẫn nhục, ươn hèn, u muội hay là sự cắt biển dâng rừng? Một loạt câu hỏi mà người thi sĩ buộc phải đi tìm, trong cơn say đau đớn.
Vâng! Nỗi đau không muốn đó, sao cứ đánh vào hồn kẻ tha hương, làm người thi sĩ, quặn lên tiếng cười, tưởng mình như vừa lạc mất hồn Ngựa Gióng hoang:
“…Cạn cốc tha hương bên miệng vực
Tưởng đã buông hồn Ngựa Gióng hoang?
Đau đớn cười vang như sấm giật
Càng say… Càng cay câu lai căng
Không muốn mà đớn đau cứ đánh
Là người sao cứ nghiện đớn đau ?
Cam phận chịu trận hóa lỳ lợm ?
Mặc Trung Hoa cắt cáp, cướp tầu?…” (ĐTH-Đoản khúc 2)
Một ngàn năm nô lệ đã qua, không chỉ đè nặng lên người thi sĩ, mà nó còn là vết thương nhức nhối nhất trong lòng người dân Việt. Lịch sử có lẽ nào, lại quay lại cái đau thương của ngàn năm cũ, chỉ vì quyền lực, độc quyền mà bán rẻ linh hồn. Mười sáu chữ vàng, chỉ là thứ bùa ngải, để ru người vào cõi u mê. Và câu hỏi ấy, đã được Thế Dũng tìm ra lời giải đáp:
“ …Đau và sợ đã làm ta bất lực
Thua cháy tim trong canh bạc chư hầu !
Mượn hơi rượu cười khan tình hối lộ
Mấy chữ vàng đánh úp đảo Gạc Ma?
Ngàn năm cũ bóng đè chưa hết uất…“ (ĐTH-Đoản khúc 3)
Người thi nhân, dám hóa thân làm câu hát, để cất lên trong cái màn đêm u tối: “Ta đập vỡ ta thành câu hát“. Đây là câu thơ đầy hình tượng, khí phách, hay và tôi thích nhất trong bài này. Đọc nó, ta không chỉ gặp lại, cái chất hào sảng của Thế Dũng trước đây, mà còn thấy được hồn của dân tộc đang vặn mình trở lại. Thật vậy, trong một xã hội, nếu vắng đi tiếng nói thức tỉnh, phản biện của những thi nhân, thì có khác chi xã hội đó đã bị câm bị điếc. Vậy thì, không thể không cảm ơn Thế Dũng, người đã dũng cảm, đang làm biến đi những u muội, cho biển được phục sinh:
“…Ta đập vỡ ta thành câu hát
Biến khúc đau buồn…Biển khát phục sinh
Việt Nam tôi đâu? Mẹ không kịp nấc ?
Nước mắt Cha hóa bùn đỏ nghẹn lời?
Kẻ du ca không thích hát vong quốc
Không bao giờ Nước hết biển người ơi!…“ (ĐTH- Đoản khúc 2)
*Hoa đã nở- trong địa ngục
“Chúng tôi nằm xuống, để đất nước này đứng lên”. Vâng! Đó là câu nói bất hủ của người tù bất khuất Bùi Hằng. Viết đến đây, chợt thấy hiện về trong tôi và dường như, nó đã xuyên suốt tác phẩm Đau Thương Hành của Thế Dũng. Trong lao tù ấy, là con đường cụt, nhưng không hẳn là con đường chết, con đường cuối cùng, khi người thi nhân đã nhận ra: “Đôi khi ở cuối con đường cụt/ Vụt hiện huy hoàng một lối ra”.
Thật vậy, nếu không có những đau thương, tù tội chắc hẳn không thể thức tỉnh những giấc mơ ươn hèn đang ngủ gục, làm sống lại lương tri con người. Và từ đó cháy lên, hồi quang lại linh khí ngàn năm.
Đoạn thơ trích dưới đây, Thế Dũng đã cho chúng ta thấy rõ điều đó:
“…Bao nhiêu Nguyên Khí bị bỏ ngục
Mê được làm Người…quên đau thương !
Tuổi trẻ tọa kháng chấp vùi dập
Chí Đức, Bùi Hằng**** đuổi u mê
—————————————-
Đau thương hành khúc hóa biệt khúc
Biệt khúc nấc hoài thành tráng ca
Đôi khi ở cuối con đường cụt
Vụt hiện huy hoàng một lối ra
Dân chủ -Tự do đòi bằng được
Dẫu tù dẫu ngục chẳng hề chi !
Có lúc đớn đau thành linh khí
Mặc tình sống mái cuộc Thiên Di!” (ĐTH-Đoản khúc 4)
Có những cuộc ra đi, chia cắt của hàng triệu con người và còn có cả những cuộc chia cắt ngay trong lòng người, trên mảnh đất quê hương, nơi mình đang sống. Đó là sự chia cắt với tự do, tống biệt với chính linh hồn mình, là cái mất mát đau đớn nhất. Thế Dũng đã dùng hình tượng thật, ngọn đuốc sống của bà mẹ Việt Nam, người mẹ của nhà báo Tạ Phong Tần, làm bật lên cái dã man, tàn bạo của chế độ, trong nỗi oan trái ngút trời của người dân lương thiện. Ngọn đuốc ấy, sáng rực trong đêm trường tăm tối và mở ra một lối đi, một con đường mới:
“….Sinh ly là sống mà như chết
Nào đã Tự do được mấy kỳ?
Tống biệt chính mình !- Đau đớn lắm…
Đất nước đứng lên cùng quan tài ?
Phong Tần**** giã biệt tang oan khúc
Cánh buồm đỏ thắm tự thiêu ai ?
Ngót bốn mươi năm liền một dải
Linh Khí bây giờ đã hồi quang
Ngó lên trông xuống muôn dặm biển…” (ĐTH-Đoản khúc 5)
Với Thế Dũng, để giữ hồn dân tộc cũng như chủ quyền đất nước, chỉ có một con đường khai sáng duy nhất là đa nguyên, đa đảng. Vâng! Một con đường phải trả bằng ngục tù và bằng xương máu của chính mình:
“…Đa nguyên tự do sinh đa đảng
Sinh lực đa phương giữ chủ quyền !
Cùng vác thương đau gánh vận nước?
Sao cứ chân mây, cứ cuối trời?
Đau thương không vỡ…Không thành sẹo
Mặc những bầy sâu… mầm xanh ơi!…” (ĐTH-Đoản khúc 5)
Khi người ta cố kêu réo, tìm ra Quốc Hoa, để che đậy bộ mặt thật của chế độ, thì Thế Dũng vạch ra sự lưu manh, giả dối đó:“Còn hoa xấu hổ còn Tử Sinh”. Với ông để đến tự do, dân chủ chỉ có con đường duy nhất, đứng dậy đấu tranh, phá bỏ độc tài. Đó là Đường Con Người. Con đường ấy, tuy thương đau, nhưng: Có những nỗi đau đã trở thành ánh sáng:
“Dã ngoại Nhân quyền giữa ngực tôi ?
Không chỉ chiều nay là dữ dội !
Đã mấy trăm chiều chợt lớn khôn…
Đau thương nhiều lúc thành đuốc sống…
Cho ta biết ta còn là Người!
—————————-
Đau thương có lúc biết xấu hổ
Để ta nhận ra Đường Con Người!
Quốc Hoa ?- Giời ạ! – Tang thương quá
Còn hoa xấu hổ còn Tử Sinh
Đau thương hành khúc thành ánh sáng
Để ngàn Chí U thành Chí Minh !” (ĐTH-Đoản khúc 6)
Nếu chúng ta đã đọc những bài hành của các thi sĩ trước đây, cảm xúc được gói gọn trong phạm vi cá nhân, hay vùng miền nào đó, thì đến Đau Thương Hành, đã mở ra những vấn đề rộng lớn của quốc gia, dân tộc. Và nó còn đi đến tận cùng nỗi đau, nỗi thống khổ của con người.
Để có được Đau Thương Hành, cùng với nỗi đau đất nước, con người, Thế Dũng đã phải trải qua một cuộc thiên di đắng cay dài dằng dặc. Có thể nói, Thế Dũng đã cởi được chiếc áo bó chặt nửa đời mình, và từ đó, ông lột chiếc mặt nạ, để thấy rõ bộ mặt thật lừa lọc, đểu cáng của xã hội đương thời.
Ngòi bút và con đường đang đi của Thế Dũng, cũng là con đường tất yếu phải đi của cả một dân tộc, đầy khổ đau này.
Đức Quốc ngày 6-9-2014
© Đỗ Trường
© Đàn Chim Việt
Tôi cũng cùng chung với ý kiến của ông Từ Nguyên Trực viết hôm 19/9/14.Theo tôi nhận định như tác giả Đỗ Trường là không đúng.Anh em người Việt bên phía Đông nước Đức còn” ĐỎ ” là không đúng.Tôi nói không dưới 50% cho rằng đảng cs Vnam phải cải tổ.Nếu còn muốn tồn tại ở VN.Nhân dân không còn tin vào đảng cs,bởi những sa đọa của đảng viên từ ở cấp cao như Nông Đức Mạnh,như Lê Khả Phiêu, như các vị khác không kể ra hết được.Trên Vietinfo.eu ( Tiệp khắc cũ ) có bài của KS Nguyễn Kim Phụng viết hộ tâm trạng của nhiều người trong cộng đồng. Và như vậy anh em người Việt ở Đông Đức không còn dại gì mà còn” ĐỎ ” như nhận định của Đỗ Trường.
Khi khác , có dịp tôi sẽ trình bày Tại sao người Việt ở Đông Đức không vội vàng phát biểu quan điểm của họ về hiện tình đất nước . Tất cả đều muốn vất cái chủ nghĩa xh vào sọt rác , như ở Châu Âu đã làm .Ông Ng. Ph. Trg. không những LÚ mà còn bị thần kinh khi ông kêu gào để đảng của ông ta tồn tại đồng hành cùng dân tộc như trả lời phỏng vấn của TTX VN.
Người Việt ở Đông Đức cũ khoảng 80 ngàn thôi- lấy đâu ra trên 100 ngàn? chủ yếu là công nhân hợp tác lao động.Sau bức tường Berlin đổ khoảng một nứa đã nhận tiền đền bù về nước- sau này một số quay lại vào trại tị nạn, làm đủ kiểu để hợp thức hóa giấy tờ ở lại. còn lại một số nhỏ sinh viên tuột xích ở lại- còn thành phần ở lại thời xét lại không nhiều, có vài chục bác thôi- phần đông đã già U 80 cả- những ông trùm chủ chợ ở Berlin, Leipzig…. đều là công nhân lao động cả.
Còn mấy ông ở Đức yêu chủ nghĩa xã hội, đỏ còn hơn người dân trong nước. ví dụ như ông nhà văn cộng sản Nguyễn Văn Thọ, THỌ MUỐI- vẫn ăn tiền xã hội Đức, tức thằng tư bản nuôi về VN sống, chửi thằng tư bản thối nát không ra gì cả, miệng lúc nào cũng Đảng cs muôn năm.
Tôi cũng sống mấy chục năm ở vùng đông nước Đức, thấy đúng như ĐT đã viết- phần đông, tức là phần nhiều người việt ra đi từ MIỀN BẮC- công nhân và du học sinh- biểu tình rực cháy màu cờ đỏ- họp hàng hội đoàn lúc nào chẳng có sứ quán VN dự phát biểu chỉ đạo-
Ông Từ NGUYÊN TRỰC hãy chỉ ra cái sai ở bài viết này đi- đừng viết không có đẫn chứng như vậy-
Tác giả Đỗ Trường viết vềcộng đồng người Việt bên phía Đông như sau : “Và vùng phía đông nước Đức, là nơi cư ngụ phần đông của những công nhân lao động, những cựu du học sinh ra đi từ miền Bắc , lúc nào cũng thấy màu đỏ vẫn còn rựccháy trong lòng . ” Căn cứ vào đâu tác giả viết nhưvậy ? Đây là một nhận xét rất sai !Nếu không nói là hồ đồ ,suy diễn , chủ quan , không khoa học và không nghiêm túc !
Chúng tôi đề nghị Báo Đàn Chim Việt nếu có điều kiện thì mở muc tranh luận công khai trên báo về vấn đề nóng hổi trên đây
Con số người Việt ở Đông Đức cũ ước khoảng trên 100 ngàn người. Bao gồm đủ các thành phần và trong số đó trình độ học vấn cao không phải là ít ! Họ sẵn sàng tranh luận để sáng tỏ vấn đề trên đây.