Chúng ta/ chúng nó và tiếng nước mình
Giận mất khôn.
Thành ngữ
Có lần, tôi (trộm) nghe giáo sư Đỗ Mạnh Tri nói rằng: “Rồi chế độ toàn trị sẽ chấm dứt tại Việt Nam. Nhưng người Việt Nam không thể xây dựng đất nước bằng cách phủ định thực tại Việt Nam. Trong thực tại ấy, có Mác.“
Thế còn Mao? Học thuyết Marx – Lénine, tư tưởng Mao Trạch Đông và tác phong Hồ Chí Minh mà. Chính Mao (chứ không phải là Hồ) mới là soạn giả của thảm kịch Cải Cách Ruộng Đất, và là tác giả của của cuộc chiến chống Mỹ cứu nước, cùng với sản phẩm phụ là vô số những từ ngữ thô bạo phát sinh ngay sau khi ĐCSVN phóng tay phát động quần chúng:
“Cán bộ:‘Tại sao thằng hào Thức nó lại sướng cao độ thế?‘
Chị cốt cán: ‘Nó sướng cao độ thế là vì nhà nó đi bóc lột nhân dân.‘
Cán bộ: ‘Thế tại sao chị lại khổ cao độ thế?‘
Chị cốt cán:‘Em khổ cao độ thế là vì em bị nó bóc lột em trên một cái vấn đề đi ở cho nó mười mấy năm.‘‘Hôm nay em không đi họp được vì nhà em nó cứ khống chế em.‘
Chúng ta không được phóng tay lỏng lẻo, mà phải phóng tay chặt chẽ.
Bần cố nông là con đẻ Cụ Hồ, dân nghèo là con nuôi thôi, nên mới đề ra chiếu cố.
Vì giai cấp địa chủ bóc lột mấy nghìn năm nay nên chị Phước mới bị toét mắt.” (Trần Dần – Ghi chép về Cải cách Ruộng đất ở Bắc Ninh 1955-1956. Phạm Thị Hoài biên soạn).
Ở thời điểm này, có lẽ, vì ngôn ngữ cách mạng chưa kịp đi sâu vào lòng quần chúng nên mẫu đối thoại thượng dẫn (nghe) vẫn còn hơi ngọng nghịu. Với thời gian, cùng với cuộc chiến giải phóng miền Nam, ngôn từ chiến tranh mới trở nên phổ cập và mỗi lúc một thêm… nhuần nhuyễn:
“Có một lần từ mặt trận đường 9 ghé về thăm nhà, tôi gặp đúng đêm máy bay Mỹ đánh phá Hà Nội. Còi báo động từ Nhà hát Lớn rú vang. Quầng sáng ánh đèn điện phía nội thành bỗng như dụi tắt bớt. Rồi những chùm đạn phòng không đỏ lừ thun thút lao lên vòm trời. Rồi bom nổ phía Yên Viên, Cầu Giát…
Còi báo yên, đàn chó trong làng vẫn sủa râm ran, đường làng ngõ xóm vẫn rậm rịch bước chân người, không một ai ngủ lại cả. Các cô các chị thức thẳng từ lúc đó cho tới lúc quẩy gánh rau húng, rau thơm tới các phiên chợ sớm. Người làng Láng chia sẻ âu lo với người nội thành như thế đấy!
Giữa phút tĩnh lặng, nghiêm trang ấy tôi bỗng nghe có tiếng gì động mạnh như tiếng ai đập chiếu trên mặt ao, tiếng đổ vỡ loảng xoảng, ngay sau đó là tiếng kêu la của một người đàn bà:
“Ối bà con xã viên đội một, đội hai, đội ba, đội bốn ơi! Lão chồng tôi tàn ác, thâm độc như đế quốc thực dân. Nó đánh tôi trường kỳ, gian khổ như thế này làm sao tôi chịu nổi?”
…
Đêm sau máy bay Mỹ tiếp tục đánh phá Hà Nội. Đúng vào giây phút không ai chợp mắt nổi ấy, bà Hin lại chạy bổ ra đường la hét váng động cả xóm:
“Ới bà con xã viên ơi! Chiều nay lão chồng tôi không nấu cơm cho tôi ăn. Nó còn giấu biệt hòm gạo đi. Nó rắp tâmtriệt hạ kinh tế tôi đấy mà!”(Tô Hoàng - “Nỗi Buồn Lâu Qua.” Talawas blog).
Chiến lược, cũng như chiến thuật, trong trận chiến giữa bần nông và phú nông Việt Nam được chỉ đạo sát sao từ nước XHCN anh em Trung Quốc. Cuộc chiến Bắc/Nam cũng vậy. Không ít lương thực, vũ khí, đạn dược, cùng vô số những từ ngữ (mới) cũng đều được chi viện từ nước bạn láng giềng: bảo quản, bồi dưỡng, cải thiện, đại trà, đăng ký, đề xuất, đột xuất, động viên, kiểm điểm, kiểm thảo, hộ khẩu, hộ chiếu, hộ lý, khẩn trương, nhất trí, quản lý, sư trưởng, sự cố, tham quan, thiết kế, tranh thủ, trợ lý, xuất khẩu, xử lý …
Nhà phê bình văn học & văn hoá Vương Trí Nhàn cho rằng: “Cái mà ta gọi là giáo dục miền Bắc chỉ là sự kéo dài của lối phát triển giáo dục trong chiến tranh... Giáo dục chiến tranh, do dó, luôn luôn là một nền giáo dục dở dang chắp vá, mà lại vẫn phải khoác cho mình cái chức danh lớn lao của một nền giáo dục mới mẻ, cách mạng...”
Đôi lúc, tôi còn nghĩ thêm là tiếng nói của miền Bắc (trong nhiều thập niên qua) cũng thế, cũng là thứ ngôn từ của thời chiến chinh, cũng “chắp vá, mà lại vẫn phải khoác cho mình cái chức danh lớn lao … cách mạng.”
Chiến cuộc rồi tàn.Bắc/Nam thống nhất. Nam/Bắc hoà lời ca. Nhiều triệu người dân (ở vùng địch tạm chiếm) ca không nổi nên đã liều mạng đâm xầm ra biển, hoặc ù té bỏ chạy thục mạng qua biên giới xứ người.
Họ chết bờ, chết bụi, chết dấm, chết dúi, chết đói, chết khát, chết đâm, chết chém, chết đạn, chết mìn, chết chìm, chết nổi, chết trôi, chết đuối (ôi thôi) nhiều vô số kể! Đám này chết “cũng tốt thôi” vì toàn là những kẻ thuộc thành phần “bất hảo, cặn bã của xã hội, ma cô, đĩ điếm, trộm cướp, trây lười lao động, ngại khó ngại khổ, chạy theo bơ thừa sữa cặn… ” - theo như nguyên văn lời giải thích của Chính Quyền Cách Mạng với dư luận thế giới bên ngoài, và với lũ cột đèn (còn) kẹt lại.
Không hiểu những người vượt biên đã hành nghề ma cô, đĩ điếm và tổ chức trộm cướp ra sao – nơi đất lạ quê người – nhưng số lượng “bơ thừa sữa cặn“ mà họ gửi về cố hương đã (lắm phen)cứu được toàn dân, cũng như toàn Đảng thoát chết … vì đói khát!
Từ đó, Đảng mới “dũng cảm” đổi mới tư duy và – đồng thời – đổi giọng. Những kẻ phản bội tổ quốc (qua đêm) bỗng trở thành “khúc ruột xa ngàn dặm,” và là “thành phần không thể thiếu trong đại gia đình dân tộc.” Nghị Quyết số 36-NQ/TƯ - về “Công Tác Ðối Với Người VN Ở Nuớc Ngoài”- đã ra đời (hơi muộn) vào ngày 26 tháng 3 năm 2004, dựa trên cơ sở đó.
N.Q này, tiếc thay, không phát huy được chút hiệu quả nào ráo nạo. Những khúc ruột xa ngàn dặm vẫn nhất định giữ nguyên thái độ xa cách, và coi mọi thứ “ma zê in” Việt Nam (Bộ chính Trị, Chính Phủ, Nhà nước, Quốc Hội… ) đều không khác gì những nùi giẻ rách- kể cả những hạn từ trong tiếng nói hằng ngày mà họ gọi một cách miệt thị là chữ Vẹm hay chữ Việt Cộng:
Chúng ta nói là “phát ngôn viên” thì chúng nói là: “người phát ngôn”
Chúng ta nói là “thăm viếng” thì chúng nói là “tham quan”
Chúng ta nói là “ghi danh” thì chúng nói là “đăng ký”
Chúng ta nói là “đá bóng” thì chúng nói là “bóng đá”
Chúng ta nói là “yếu điểm” thì chúng nói là “điểm yếu”
Chúng ta nói là “trở ngại” thì chúng nói là “sự cố”
Chúng ta nói là “xuất cảng” thì chúng nói là “xuất khẩu”
Chúng ta nói là “liên lạc” thì chúng nói là “liên hệ”
Chúng ta nói là “hiểu rõ” thì chúng nói là quán triệt”.
Chúng ta nói là “viên chức” thì chúng nói là “quan chức”.
Chúng ta nói là “chuyển âm” thi chúng nói là “lồng tiếng”.
Chúng ta nói là“dẫn giải” thì chúng nói là “thuyết minh”.
Tôi vốn tính hơi ba phải nên rất sợ chuyện chia phe; đã thế, khi nhìn thấy một đường ranh rạch ròi, phân chia bạn/thù (quyết liệt) giữa “chúng ta/chúng nó” thì không khỏi sinh lòng ái ngại, cùng với đôi chút băn khoăn.
Uả, chớ “chúng” là ai vậy – hả Trời?
Chúng có phải là vài chục triệu đồng bào miền Bắc, những nạn nhân đầu tiên của chế độ hiện hành, những kẻ đã bị tra tấn không ngừng – từ hai phần ba thế kỷ qua – bởi cả một cái hệ thống truyền thông (loa/ đài/ sách/ báo) của ĐCSVN không?
Chúng – không chừng – cũng dám là ông hay bà hàng xóm, những người cùng đi chung chuyến vượt biên với chúng ta (hai ba mươi năm trước) chớ ai? Chúng ta nhờ may nên đến được Bangkok, còn họ vì xui nên phải vào ngồi (bóc lịch) ở Băng Ki.
Và chúng có phải là những người trẻ cỡ tuổi con cháu của chúng ta, sinh ra và lớn lên “trong lòng cách mạng,” chưa bao giờ có dịp tiếp xúc với một thứ ngôn từ nào khác ngoài tiếng Vẹm (hay tiếng Việt Cộng) không?
Ngôn ngữ có đời sống và tuổi thọ riêng của nó. Sinh mệnh của cái được gọi là tiếng Vẹm; tuy thế, tuỳ thuộc không ít vào sự tồn vong của chế độ hiện hành.
Tiếng Việt Cộng chỉ thôi phổ cập, và dần bị đào thải, sau khi chế độ này không còn có thể tiếp tục hoành hành nữa. Và việc dứt điểm nó sẽ không thể xẩy ra nếu mọi người vẫn cứ giữ khư khư cái lằn ranh phân chia bạn/thù (“chúng ta/chúng nó”)giữa lòng dân tộc.
© Đàn Chim Việt
Thực tế nhát và cũng trong tinh thần chống cộng hay cái “sai trái” của cộng là chúng ta ,IT NHẤT ,ở Hãi ngoại này,cố gắng ở truyền thông bao chí truyền thanh truyền hình và mổi cá nhân tác giã ,tập thể người Việt hãy loại bỏ mớ từ ngử kỳ cục kỳ quái ky dị của VC đí , Nó không làm “trong sáng cho tiếng Việt ‘ mà làm cho tối om. Có mổ vài từ ngử ăn sâu vàò trong óc người dân ,kể cả 40 năm làm dân ngụy .sống và nghe đọc chúng !
Ỏ dây ,ngay trên lãnh thổ Hoa kỳ ,chử nghĩa ,hình ảnh,cò đỏ sao vàng vẩn xâm nhập từng nhà kể cả hình HCM…nhất là các đài truyền hình VN; Họ chiếu lại hoặc mua lại cht của đài TH VN, tuyên truyền khéo léo cho vn và vói cái đà vc qua Mỹ làm cuộc “diển biến hòa bình” xâm nhập và đánh bại vnch trên con đường văn hóa ,bị hòa nhập luc nào không hay !
Cho nên chúng ta không thể kêu gọi nhiều ,nhưng không làm gì hét,,,
Đè nghị :
Nếu lấy bãn tin tù các báo dài VN thì nên sửa lạii các từ ngử VC đừng bê nguên con bài viêt mà đọc ,như “ĐQ MỸ,máy bay len thẳng ,tên lữa ,khẩn trương ,hộ khẩu ,linh thủy đánh bộ ,bộ đội gái vv và vv
Sách của các tác giã VC in tại Mỹ cung nên “sữa lại cách dùng chử” cho bớt cái mùi CS .
Ngoài ra nên lưu ý các sách dạy Việt ngữ của trường VL, một số chử không phù hợp vói hiện tại vì là từ địa phương ,từ “cổ” ít dùng đến và nhất là từ của VC. Có nhiều phụ huynh không hiểu thì nói sao trẻ em hiểu ?
(x2)
Lời tỏ tình của 1 bộ đội sau 1975 với 1 thiếu nữ miền nam:
“Nếu em nhất trí tiếp thu tình yêu của anh, đề nghị em khẩn trương về phản ảnh lại ba mẹ, rồi tin cho anh. Anh sẽ bá cáo và động viên thày mẹ anh để cho phép anh ra phường đăng ký xin kết hôn quản lý đời em. Yêu cầu của thày mẹ anh dứt khoát là tiết trinh em phải đảm bảo chất lượng và số lượng tốt.
Chung ta noi.Nhanh len,chung no noi. khan truong.
CHỦ THUYẾT MÁC VÀ THỰC TẠI CỦA ĐẤT NƯỚC
Có ông giáo sư Đỗ Mạnh Tri nào đó nói rằng: “Rồi chế độ toàn trị sẽ chấm dứt tại Việt Nam. Nhưng người Việt Nam không thể xây dựng đất nước bằng cách phủ định thực tại Việt Nam. Trong thực tại ấy, có Mác.“ Câu nói đầy tính mơ hồ nếu không phải là hàm hồ. Nó mang cả tính cách ngụy biện nếu không phải là kiểu tự bao che như cách một ý thức, một thái độ ngụy tín.
Thật ra khách quan mà nói, trên rất nhiều phương diện, thực tại đất nước VN ngày nay là thực tại đã phát sinh từ chủ nghĩa Mác, tức từ lý thuyết Mác được biến thành thực tế. Như vậy việc xây dựng đất nước có cần có cần phủ định Mác hay không mới chính là vấn đề. Và nếu chủ thuyết Mác không được chấm dứt mà lại chấm dứt được toàn trị là một ý tưởng vô lý, bởi vì chủ thuyết Mác gắn liền với quan điểm toàn trị.
Mác chủ trương chuyên chính vô sản và chủ nghĩa vô sản quốc tế, đó không phải ý nghĩa toàn trị là gì. Vấ n đề giai cấp xã hội, vấn đề chính trị chuyên chính, đó là những cái cốt lõi của chủ thuyết Mác. Nhưng Mác lại hiểu giai cấp một cách huyền hoặc, mê tín mà không hiểu giai cấp theo nghĩa khoa học. Mác cũng cho giai cấp xây dựng trên nền tảng hạ tầng kinh tế xã hội, nhưng Mác cũng không hiểu nền tảng kinh tế xã hội theo cách khách quan khoa học, Mác chỉ hiểu nó dưới nhãn quan của ý thức hệ mê tín, đó là lỗi lầm của Mác trong nhận thức khoa học. Nhưng điều đó tới nay trong các nước cộng sản không ai phản bác được. Vì phản bác là bị ghép ngay vào tội phản động, tội tư sản. Do đó mọi người chỉ còn cách nói theo một chiều, đó là đặc điểm của chủ nghĩa Mác. Vì chủ trương đó cũng do chính đích thân Mác đưa ra mà không ai khác. Tính cách phản khoa học và phản dân chủ ngay từ đầu và ngay trong bản chất của học thuyết Mác chỉ là như thế. Bởi vì không dân chủ thì cũng không thể khoa học hay ngược lại. Nên cái tai hại của quan điểm toàn trị về mọi mặt, đó chính là tội lỗi của Mác đối với nhân quyền và đối với cả nền văn minh phát triển của nhân loại.
Thực tại Việt Nam trước đây trong chiến tranh hay hòa bình trực tiếp đều phát sinh từ thực tại chủ nghĩa Mác là điều tất yếu. Nói khác, hệ thống chính trị của VN khi đó đều có xuất phát điểm từ hệ thống chính trị của Liên Xô và Trung Quốc, tức hệ thống phong trào cộng sản quốc tế từ Âu sang Á mà không phải chỉ hoàn toàn độc lập hay riêng biệt của VN. Bây giờ thì suốt 70 năm Liên Xô không còn nữa, nhưng ảnh hưởng của Trung Quốc trên Việt Nam thì thực tế vẫn chưa được chấm dứt. Đó là thực tại lịch sử à VN đã trải qua cho tới nay chắc là điều mà ông gs Tri nào đó muốn nói.
Từ khi chủ nghĩa Mác đưa vào VN, người ta không dạy chủ thuyết đó cho người dân trong ánh sáng của tri thức khoa học mà chỉ dạy theo cách giáo điều, áp đặt, mê tín và cuồng tín. Đó là một lầm lẫn hay một sai lầm tai hại. Bản thân học thuyết Mác đã là sự mê tín mà đem truyền bá theo cách mê tín chính là một tai hại lớn cho xã hội và đất nước. Người ta chỉ biết chủ thuyết Mác qua niềm tin, qua cảm tính, qua giáo điều lặp lại, không hề biết với tư duy độc lập, tự chủ, khoa học hay nhận thức phê phán. Như vậy lấy gì bảo đảm rằng việc áp dụng nó nếu không phải cuồng tín cũng có thể chỉ là lợi dụng. Ngay cả những những nhân vật hàng đầu quốc tế như Stalin, Mao Trạch Đông cũng thế. Cái “gu” thị hiếu, cái gu địa vì quyền lực vẫn là cái gu muôn đời của con người thế gian, thế thì mọi danh từ tuyên truyền tô vẽ hào nhoáng liệu có gì đâu bảo đảm về thực chất.
Thật ra ý nghĩa giai cấp trong xã hội chỉ là ý nghĩa thực tế mà không hề là ý nghĩa ảo tưởng hay không tưởng kiểu ý thức hệ mà Mác nhắm tới. Giai cấp vừa là trạng thái cấu trúc khách quan mà cũng chủ quan của xã hội. Nó không thể không có mà lại luôn thay đổi nhưng không cứng nhắc. Sự thay đổi của nó là do từng hoàn cảnh cụ thể của cá nhân và xã hội. Nói khác hoàn cảnh kinh tế của cá nhân, hoàn cảnh kinh tế của xã hội chính là trụ cột của ý nghĩa giai cấp. Tội ác chính là ở chỗ xã hội làm cố định hóa giai cấp mà không phải xã hội không hề cấm việc biến đổi giai cấp. Chế độ độc tài toàn trị là chế độ cố định hóa giai cấp, nhưng chế độ tự do dân chủ thực sự là xã hội bảo đảm sự chuyển biến giai cấp.
Có nghĩa sự phát triển khoa học kỹ thuật, sự phát triển kinh tế xã hội làm chuyển biến các giai cấp xã hội trong thực tế mà không phải kiểu đấu tranh giai cấp bằng lòng tham hay bằng bạo lực, chính hàm lượng nhận thức trong xã hội tạo nên mọi sự giải phóng giai cấp mà không phải biện chứng lịch sử theo kiểu hoang đường mà chính Mác đã ngu dốt mê tín lẫn không tưởng. Đó là lý do tại sao sau bảy thập niên chuyên chính bao cấp, cuối cùng khối cộng sản cũ cũng hoàn toàn thất bại, sụp đổ, tan rã, trong khi đó thị trường hội nhập toàn cầu ngày nay lại hoàn toàn đi lên và phát triển. Chính chân lý khách quan mới là chân lý đúng mà không phải chân lý tự nhận theo kiểu Mác chỉ là chân lý bá vơ hay lừa dối.
Bởi vậy việc xây dựng đất nước ngày nay chủ yếu vẫn là việc chấn chỉnh lại mọi não trạng cũ của những người cộng sản. Những người cộng sản vẫn tự hào chủ thuyết Mác là đúng, và họ đều là những người hiểu đúng lý thuyết Mác. Nhưng thực chất lý thuyết Mác là sai thì sự hiểu đúng cái sai vẫn chỉ là sai, đó là chưa nói hiểu sai cả cái sai thì hoàn toàn không còn thuốc chữa. Cho nên cần một cuộc cách mạng mới cho đất nước ta ngày nay là cuộc cách mạng về nhận thức. Muốn như thế phải bãi bỏ mọi hình thức giáo điều, mọi hình thức chuyên chính, toàn trị để mới có thể thay đổi não trạng được, đó là ý nghĩa con đường tự do dân chủ đúng đắn cho đất nước thực sự. Nghĩa là những người cộng sản ngày nay cần hiểu đúng chủ nghĩa Mác, hiểu đúng tức là thấy nó hoàn toàn sai, đó mới chính là chìa khóa để xây dựng cũng như để cứu nước mọi mặt ngày hôm nay.
THƯỢNG NGÀN
(06/8/16)
Một đoạn trong thư của một cựu công dân Xã Hội Chủ Nghĩa VN nay được định cư ở Hoa kỳ :
“” Đài thủy văn” cho biết ngày mai trời ở “bang” em đẹp lắm . Em sẽ gọi cho “Trung tâm quản lý đường bay ” để biết mấy giờ thì phi cơ đáp xuống “đường băng ” đặng còn “khẩn trương” ra đón nàng .
Để giúp nàng ” thư giãn”, em sẽ rủ nàng đi “tham quan tốt” những “cảnh quan” thành phố . Sau đó, ” chủ ý ” gây “ấn tượng” với nàng , em “dự kiến” sẽ đưa nàng tới nhà hàng Tây Đô . Nơi đó rất ” hoành tráng” , có các “nghệ nhân ” tới hát hàng ngày , có “thực đơn cao cấp” , ” bình quân” 100 đô mỗi món, ” bảo đảm chất lượng ” .Vì “học vị” của nàng, em không muốn đưa nàng tới những tiệm ăn “chui” tuy rẻ hơn . Nếu mặt nàng trông “căng” vì đắt “khủng” , em sẽ nói nàng cứ ăn uống “thoải mái “”vô tư” , em đãi, luôn cả tiền boa .
Trong khi ăn, em sẽ mời nàng lên “hát đôi”, rồi ra sàn nhảy ” múa đôi ” nữa .
Ăn xong, em sẽ nói với nàng em đã có “quy hoạch ‘ một buổi tiểu trà tại “căn hộ ” của em để “chiêu đãi ” nàng tiếp . Hi hi, thấy em “tiến công “, có “khả năng “, nàng sẽ nói: ” Anh ơi, em ” phát hiện ” là em cảm thấy rất hứng thú với anh”. “Anh là ” đối tượng ” của em rồi, em ” hồ hỡi” quá. Anh ơi, “bú mồm ” em đi “.