Suy ngẫm từ vụ án cứu lụt giúp dân
Cách nay gần mười sáu năm, ngày 6.11.1994, thật khó ai có thể tưởng tượng nỗi, những người tham gia cứu trợ đồng bào đang lâm cảnh khốn cùng bởi thiên tai lũ lụt, trở lại bị một guồng máy công an trị khủng bố, hăm dọa. Một số bị bắt bớ tù đày, toàn bộ phẩm vật và tiền bạc cứu trợ đều bị tịch thu. Theo sau đó, hàng loạt chiến dịch đấu tố, vu khống, xuyên tạc, mạ lỵ trên các phương tiện truyền thông và báo chí nhằm khỏa lấp sự ngang ngược này.
1. Ngược dòng thời gian
Tháng tư đen năm 1975, Hà Nội xua quân cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam, trắng trợn vi phạm các hiệp định và hòa ước đã được ký kết. Hòn ngọc Viễn Đông là miền Nam Việt Nam rơi vào tay Cộng sản, dân chúng lầm than dưới gót giày tàn bạo phi nhân, biết bao nỗi đắng cay uất hận đè nặng lên kiếp sống người dân hai miền Nam Bắc.
Cái gọi là chính sách ”cải tạo công thương nghiệp”, nhưng thực chất là chủ trương cướp bóc trắng trợn tài sản, đất đai, nhà cửa, ruộng vườn… của dân lành. Đã thế không thôi, chủ nhân còn bị quân cướp bóc bắt bớ, tra tấn, tù đày, của cải tan hoang, gia đình ly tán! Hơn thế nữa, có đến hàng trăm nghìn viên chức hành chính, sĩ quan Quân lực Việt Nam Cộng Hòa bị xua vào cái gọi là trại ”tập trung cải tạo”, mà thực chất là chính quyền Cộng sản rắp tâm giam cầm, đày đọa, giết lần giết mòn, nhằm trả thù dân tộc sau cuộc chiến. Nhiều người không chịu nỗi cảnh đói rét, bệnh tật, cộng thêm sự đắng cay lao khổ, nên đành phải bỏ lại nắm xương tàn dưới ngôi mồ hoang lạnh trong trại lao cải này. Suốt năm tháng dài, con cái họ bị phân biệt đối xử ở học đường, nhà cửa bị tịch thu, đành phải ký giấy chấp nhận lên đường đi vùng kinh tế mới, khi được hứa hẹn, người chồng người cha của họ sẽ được trả tự do, nhưng chỉ là lời hứa suông vô vị. Thế nào gọi là vùng kinh tế mới? Nói mới nói mẻ cho hay vậy thôi, chính đây là những vùng đồi núi hoang vu, rừng thiêng nước độc, mìn bẩy hay bom đạn trong thời chiến có thể hãy còn nằm im dưới lớp đất đá hoặc bụi bờ rậm rạp, chưa chừng sẽ phát nổ bất cứ lúc nào. Người dân ở đây phải phát quang rừng rú, khai hoang, cày xới để có đất trồng khoai sắn hoa màu, rủi ro động tới bom mìn là có thể kết liễu mạng sống một cách oan uổng.
Ngoài ra, hơn cả triệu người dân Việt Nam đành lòng rời bỏ quê hương làng mạc, nơi chôn nhau cắt rốn, để vượt biển ra đi tìm tự do, lánh nạn Cộng sản. Quá hơn số phân nửa bất hạnh mất tích trên biển cả bởi cuồng phong bão tố, hay chẳng may gặp bọn cướp biến ngang tàng, hoặc bị chính bộ đội biên phòng Cộng sản xả súng bắn chết, chúng là những kẻ máu lạnh, không chút tình người. Số còn lại gặp may mắn được cứu vớt, lần lượt đặt chân đến bến bờ tự do, tạo lập cuộc sống mới ở xứ người.
2. Chính sách tiêu diệt tôn giáo
Chế độ Cộng sản từ Liên bang Xô viết qua các nước Cộng sản vùng Đông Âu, đến Trung Quốc, Bắc Triều Tiên, Việt Nam, đều cùng chủ trương một chính sách tiêu diệt tôn giáo. Chủ thuyết Mác Lê cho rằng, tôn giáo là thuốc phiện, làm mê hoặc và ru ngủ quần chúng.
Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất là Giáo hội truyền thống, được truyền thừa suốt chiều dài hơn hai nghìn năm lịch sử. Chính quyền Cộng sản đã đang tâm đàn áp nghiệt ngã và đặt Giáo hội này ra ngoài vòng pháp luật. Nhị vị Hòa thượng Thích Huyền Quang và Thích Quảng Độ – Viện trưởng và Tổng thư ký Viện Hóa Đạo, GHPGVNTN – quý ngài muốn thống nhất Phật giáo hai miền Nam Bắc nhưng phải là một Giáo hội độc lập, không thể bị xem như một trong những hội đoàn trực thuộc Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, một tổ chức ngoại vi của đảng Cộng sản.
Bởi thế cho nên, vào đầu thập niên 80, hai ngài bị đưa đi quản thúc lưu đày ở quê nhà. Chính quyền Cộng sản dựng lên Giáo hội Phật giáo Việt Nam, tổ chức tại chùa Quán Sứ (Hà Nội) ngày 7.11.1981, làm công cụ chính trị phục vụ đảng và làm chia rẽ nền Phật giáo dân tộc. Tăng tín đồ trung kiên với GHPGVNTN trở thành đối tượng thường xuyên bị guồng máy công an trị sách nhiễu và đàn áp không chút nương tay.
Điển hình, ngày 2.11.1975, mười hai vị Tăng Ni tự thiêu tập thể tại thiền viện Dược Sư, huyện Phụng Hiệp, tỉnh Cần Thơ, để phản đối Ủy ban quân quản chiếm dụng các cơ sở thuộc Giáo hội. Năm 1978, Hòa thượng Thích Thiện Minh vô cớ bị bắt giam và đã không chịu nỗi những đòn tra tấn dã man của bọn cai ngục đỏ, đưa đến cái chết vô cùng thê thảm trong ngục tù ở đường Nguyễn Trãi, Sài Gòn.
3. Mào đầu chiến dịch trấn áp
Năm 1992, khâm thừa di chúc của trưởng lão Hòa thượng Thích Đôn Hậu – Chính thư ký kiêm xử lý Viện Tăng Thống, GHPGVNTN – Hòa thượng Thích Huyền Quang phụng mệnh trọng trách tiếp tục lèo lái con thuyền Giáo hội, điều hành mọi Phật sự. Công cuộc phục hoạt GHPGVNTN bắt nguồn, văn phòng lưu vong Viện Hóa Đạo là chùa Hội Phước, tỉnh Quảng Ngãi, chính là nơi ngài đang bị quản thúc nghiêm ngặt.
Chính quyền Cộng sản Việt Nam mào đầu chiến dịch trấn áp nhắm vào GHPGVNTN bằng tài liệu ”Tuyệt mật” mang số 106/PA15-16 của Bộ Nội vụ, do Trương Hữu Quốc ký ngày 18.8.1992, ra lệnh cho các ngành công an mật vụ khắp các tỉnh thành phải ”chặt đứt tay chân” khối Phật giáo Ấn Quang, để chẳng còn phương nào hoạt động phục hồi quyền sinh hoạt pháp lý của GHPGVNTN.
Năm 1992, thầy Thích Không Tánh, Thích Trí Lực và giáo sư Nhật Thường bị bắt. Chính quyền Cộng sản gán ép tội danh ”Phá hoại chính sách đoàn kết”, theo điều 81, luật Hình sự. Đúng vào thời điểm người hùng Lý Tống tung rải truyền đơn kêu gọi toàn dân đứng dậy lật đổ bạo quyền Cộng sản, sau đó ông ấy nhảy dù và bị bắt tại Nhà Bè, Sài Gòn. Lợi dụng sự việc này, công an điều tra tại trại giam đã tìm đủ mọi cách vu khống chúng tôi đã cấu kết với Lý Tống nhằm lật đổ chính quyền. Thế nhưng, họ không có chứng cớ và đã bị chúng tôi cực lực bác bỏ cáo buộc này.
Tưởng đâu chính quyền Cộng sản có thể giam tù kết án chúng tôi một cách dễ dàng, nhưng Hà Nội đã thất bại. Các tổ chức bảo vệ nhân quyền trên thế giới, trong đó có Tổ chức Ân xá Quốc tế, Tổ chức Quan sát nhân quyền…qua sự nỗ lực vận động của ông Võ Văn Ái, Chủ tịch Ủy ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt Nam, chính quyền Cộng sản đành phải ngậm bồ hòn làm ngọt để thả chúng tôi, kèm theo lệnh quản thúc vô thời hạn mà không thông qua một tòa án nào phán quyết cả.
4. Cuộc đàn áp nước lũ
Mùa đông năm 1994, nước sông Mê kông lai láng tràn bờ. Hầu hết các tỉnh miền Tây đồng bằng sông Cửu Long ngập chìm trong thác lũ, dân chúng lâm vào cảnh cơ cực lầm than, màn trời chiếu nước. May ra còn có bông điên điển nổi trôi trên dòng nước bạc mênh mông, khả dĩ hái làm thức ăn lót bụng qua cơn đói lả. Trước cảnh thương tâm đó, Hòa thượng Thích Quảng Độ kêu gọi cứu tế đồng bào. Ngài cũng không quên gửi văn thư thông báo cho chính quyền, về việc đoàn cứu trợ của GHPGVNTN sẽ lên đường đến huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp ngày 6.11.1994, đây là một trong những vùng chịu thiệt hại nặng nề.
Thế nhưng hỡi ôi! Cộng quyền nào có lương tâm, ngày hôm ấy, hàng trăm công an điên cuồng lồng lộn, tìm đủ mọi cách nhằm chặn đứng, bao vây, cô lập các đoàn xe của Tăng Ni Phật tử. Toàn bộ phẩm vật cứu trợ, thức ăn, thuốc men, mùng mền… đều bị bọn chúng tịch thu. Thầy Thích Không Tánh, Thích Nhật Ban, Thích Trí Lực, giáo sư Nhật Thường và Phật tử Đồng Ngọc đều bị bắt. Đầu tháng giêng năm 1995, công an bắt nốt Hòa thượng Thích Quảng Độ.
Tội danh tiếp tục gán ép để bắt bớ chúng tôi là tội ”Phá hoại chính sách đoàn kết”, bổn cũ hai năm trước được soạn lại. Chưa đầy một tháng sau, tập đoàn Hà Nội sáng kiến đẻ ra thêm một bổn mới 205a, ”Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích nhà nước”, nhờ Quốc hội bù nhìn thông qua cho có vẻ dân chủ để gán thêm tội. Sau khi hoàn tất các thủ tục tố tụng, tòa án ở Sài Gòn ra quyết định xét xử, nhưng lần lữa ba phen bốn lượt, xử rồi lại hoãn, hoãn rồi lại hoãn tiếp. Bởi lẽ, khoảng giữa năm 1995, chính phủ Hoa Kỳ hủy bỏ lệnh cấm vận, đặt quan hệ ngoại giao sau hai mươi năm kết thúc cuộc chiến. Hà Nội cò kè bớt một thêm hai, nhằm kiếm chác điểm tốt nhân quyền.
Mặc dầu vậy, một phiên tòa giả trá thực thi chỉ thị ”Tuyệt mật” 106 nhắm vào GHPGVNTN, ngày 15.8.1995, tòa án ở Sài Gòn nhận lệnh chóp bu Hà Nội đưa Hòa thượng Thích Quảng Độ, Thích Không Tánh, Thích Nhật Ban, Thích Trí Lực, giáo sư Nhật Thường và Phật tử Đồng Ngọc ra xét xử theo luật rừng Xã hội chủ nghĩa.
Sáng sớm hôm ấy, khi rời chiếc xe tù, chúng tôi đã trông thấy Hòa thượng Thích Quảng Độ ngồi lặng lẽ bên hàng hiên, cạnh vài gã công an áp giải. Lời dạy ngắn gọn của ngài, cho đến nay, tôi vẫn mãi mãi khắc ghi:
- Hôm nay, chính quyền Cộng sản xét xử chúng ta, tôi chỉ khuyên các thầy một điều, không cần tranh luận hoặc chống án, việc làm của chúng ta hôm nay, hãy để cho lịch sử mai hậu phán xét, thế thôi.
Ôi! Cao cả làm sao! Lời nói của bậc chân tu khả kính.
An ninh tòa án được thắt chặt, một lực lượng hùng hậu gồm công an, cảnh sát cơ động, bộ đội được trang bị vũ khí, lựu đạn, dùi cui, roi điện… đến tận răng. Chính quyền Cộng sản đã chuẩn bị một cuộc trấn áp dữ dội có thể bột phát từ phía quần chúng và Tăng Ni Phật tử nhằm phản đối phiên tòa. Đồng bào Phật tử tràn ngập trên đường Công Lý ngay trước cổng tòa, qua đến đường Tự Do mà nay được đổi thành: Nam kỳ khởi nghĩa tiêu Công Lý, Đồng Khởi lên rồi mất Tự Do.
Chúng tôi không cần nhờ luật sư theo yêu cầu của tòa án, bởi chúng tôi tự tin rằng, mình đủ khả năng biện hộ. Thế nhưng, phiên tòa đã bịt miệng chúng tôi như sau này họ đã từng bịt miệng Linh mục Nguyễn Văn Lý trong phiên tòa ngày 30.3.2007 tại Huế, họ cắt ngang lời chúng tôi bào chữa. Chúng tôi dự tính trong thâm tâm, vành móng ngựa này chính là diễn đàn dân chủ để vạch trần tội ác lọc lừa, tráo trở, phi nhân của bạo quyền Cộng sản. Nếu Hòa thượng Thích Quảng Độ không ân cần dạy bảo chúng tôi lúc sáng sớm, thì có lẽ sự việc đã xảy ra. Công lý ư? Luật pháp ư? Với chế độ Cộng sản thì chỉ có luật rừng, hành sử như thời Trung cổ.
Chúng tôi phá hoại chính sách đoàn kết? Không, chính tập đoàn toàn trị Cộng sản Hà Nội, đứng đầu là mười mấy gã trong cái gọi là Bộ Chính trị mới chính là những kẻ chủ mưu phá hoại sự đoàn kết của Giáo hội chúng tôi. Chính nhà nước Cộng sản đã đang tâm đàn áp nghiệt ngã và đặt GHPGVNTN chúng tôi ra ngoài vòng pháp luật, thay vào đó, dựng lên một Giáo hội công cụ năm 1981. Thứ hai, chúng tôi lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích nhà nước? Thử hỏi, trong tình dân tộc, nghĩa đồng bào, có ai đành đoạn ngoảnh mặt khoanh tay mà nhắm mắt làm ngơ, trước cảnh đau thương khốn khổ của đồng bào ruột thịt đang lâm cảnh cơ hàn? Nhớ đến cố Hòa thượng Thích Huyền Quang, một đời vì đạo vì dân, thì Hòa thượng Thích Quảng Độ thật sự là một bậc dũng khí. Ngài tổ chức đi cứu trợ là thể hiện lòng từ bi cứu khổ của đạo Phật. Sau này, ngày 18.7.2007, ngài cũng đã vượt qua hàng rào canh gác của công an trước thiền viện Thanh Minh, để đến chia sẻ với dân chúng đồng bào đang gánh chịu nỗi oan khuất. bởi nhà cửa đất đai của họ bị mất trắng vào tay quan quyền Cộng sản tham nhũng khắp các tỉnh thị thành.
5. Rắp tâm ma mãnh
Công cuộc vận động phục hồi quyền sinh hoạt pháp lý của GHPGVNTN vẫn không chùn bước. Các tổ chức bảo vệ nhân quyền, cộng đồng các quốc gia dân chủ đều lên tiếng hậu thuẫn Hòa thượng Thích Huyền Quang và Thích Quảng Độ, đồng thời lên án chính quyền Cộng sản Việt Nam đàn áp tôn giáo và vi phạm nhân quyền. Bởi thế, tập đoàn Cộng sản Hà Nội xoay qua dở trò ma mãnh, rỉ tai một số nhẹ dạ cả tin, rằng họ sẽ chấp thuận cho GHPGVNTN sinh hoạt trở lại, với điều kiện duy nhất, GHPGVNTN không Huyền Quang, không Quảng Độ. Thủ đoạn này chẳng khác gì chính quyền Cộng sản cho thay chiếc bình mới, nhưng rượu cũ vẫn y chang, có nghĩa là Giáo hội vẫn chịu sự kiểm soát của đảng và nhà nước. Âm mưu ấy hoàn toàn bị thất bại nhờ sự sáng suốt của Hòa thượng Thích Huyền Quang. Giáo chỉ số 09 do ngài ban hành, ủy nhiệm cho Văn phòng 2 Viện Hóa Đạo tại Hoa Kỳ toàn quyền điều hành Phật sự Giáo hội, phòng khi Giáo hội mẹ trong nước bị chính quyền Cộng sản thẳng tay đàn áp, hàng giáo phẩm lãnh đạo Giáo hội bị bắt giam, đưa đến tình trạng mọi sinh hoạt hoàn toàn bị tê liệt.
Nhưng tiếc thay, một số vị ở hải ngoại công khai lên tiếng thị phi, đưa đến thảm trạng phân hóa. Nhóm ly khai ở các châu lục như châu Âu, châu Úc, Hoa Kỳ, Gia Nã Đại…cho ra đời một Giáo hội mới, sử dụng y chang danh xưng GHPGVNTN, gọi là tiếm danh. Tiếm có nghĩa là sai suyễn, giả mạo, chiếm đoạt. Chẳng hạn như tiếm chức, không phải chức phận mình mà làm càn; tiếm hiệu, không phải hiệu mình đáng xưng mà xưng; tiếm ngôn, không phải phận mình đáng nói mà nói; tiếm quyền, tiếm vị… cũng đều như thế cả. Với sự tiếm danh này, mọi người khó phân biệt giả chân.
Nỡ đành quên sao? Những lúc tìm đường lánh nạn Cộng sản, lênh đênh trên Đông hải, sóng dập gió dồi, nay được đặt chân đến bến bờ tự do, chùa ngang điện dọc, sớm mõ chiều chuông. Sao nỡ đành quên? Những năm tháng rày đây mai đó ở quê nhà, chùa chiền bị chiếm dụng, hộ khẩu bị cắt ngang thì biết khai báo tạm trú tạm vắng vào đâu? Sống nơi nào cũng bị công an khu vực ngày đêm dòm ngó rình mò, chạm trán liền bị điều tra hạch hỏi. Nay cư an sao chẳng tư nguy, lại nỡ lòng nào êm xuôi xuề xòa với lũ phi nhân. Dẫu có được hứa hẹn gì đi chăng nữa, cũng chỉ toàn là bánh vẽ mà thôi!
Chúng ta là những kẻ hậu học, may gặp duyên lành được hun đúc từ những bậc thạc đức cao Tăng. Từ miền sông Hương núi Ngự, phố cổ Hội An, Bình Định, Phú Yên, vào tận Cà Mau, Rạch Giá, không ai là không ngưỡng vọng quý ôn Tây Thiên, Thuyền Tôn, Linh Mụ, Trúc Lâm. Linh Quang, Viên Giác, Thập Tháp… Đạo pháp trải qua bao nỗi thăng trầm, có bao giờ quý ngài khuất phục trước sự áp bức, kỳ thị của bạo quyền, xứng đáng cho kẻ đời sau muôn vàn kính ngưỡng. Lời nói thẳng thường nghe chối tai, vô phép thử hỏi, ai trong chúng ta khi trông thấy cảnh cha làm thầy con đốt sách mà trong dạ không cảm thấy nao nao!
6. Hủy bỏ điều 4 trên Hiến pháp và thả tù chính trị là đảng Cộng sản tự mở cho mình con đường sống
Bao nhiêu năm người dân Việt lầm than khốn khổ bởi chế độ Cộng sản hung tàn, ngần ấy năm biết bao kẻ anh hùng nặng lòng với non sông tổ quốc bị bạo quyền tử hình hoặc giam hãm. Chúng ta hân hoan đón mừng ông Trương Văn Sương vừa mới được ra khỏi lao ngục sau 33 năm đày đọa và ông Nguyễn Anh Hảo trải qua 23 năm tù. Chính quyền Cộng sản hiện đang giam giữ ông Nguyễn Hữu Cầu và Trần Văn Thiêng đã hơn ba chục năm trời, cả hai người đang lâm trọng bệnh trong tù ngục.
Đã đến lúc chính quyền Cộng sản Việt Nam hãy trả tự do vô điều kiện cho các tù nhân chính trị và tôn giáo đang bị giam giữ bởi những bản án đầy phi lý bất công. Có những người bị giam giữ nhiều năm qua mà chưa hề được đem ra ánh sáng, như trường hợp bắt giam ông Đoàn Huy Chương, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đỗ Thị Minh Hạnh, Đoàn Văn Diên, Đoàn Huy Tâm v.v… Ông Lê Trí Tuệ bị mật vụ Cộng sản bắt cóc ở Nam Vang (Cam Bốt) ngày 6.5.2007 vẫn còn biệt vô âm tín, mãi đến nay chẳng ai biết số phận ông ấy sống chết ra sao!
Chúng ta hoàn toàn ủng hộ bản Kiến nghị thư đủ cả lý và tình do thầy Thích Thiện Minh – người đã trải qua 26 năm tù – gửi chính quyền Hà Nội ngày 1.8. 2010, kêu gọi hãy trả tự do vô điều kiện cho các tù nhân lương tâm, chính trị và tôn giáo. Đã đến lúc đảng Cộng sản Việt Nam hãy phản tỉnh để đừng lún sâu vào vũng lầy tội ác chống lại loài người. Hãy tỉnh thức để mạnh dạn hủy bỏ điều 4 trên Hiến Pháp (đảng Cộng sản độc tôn đảng trị) để tiến tới một nền dân chủ đa nguyên.
Thêm nữa, Cộng sản Hà Nội vì sự khiếp nhược đê hèn, nên đã lén lút dâng đất, bán biển cho quan thầy Bắc Kinh. Hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa đã mất trắng vào tay Trung Cộng. Nguy cơ mất nước đã gần kề, rồi biết đâu một ngày nào đó, hơn tám mươi triệu đồng bào trong nước bỗng dưng trở thành dân tộc thiểu số ngay chính trên dải đất hình cong chữ S của mình! Nếu thảm cảnh xảy ra, nguyên nhân chính là đám Cộng sản Hà Nội tham quyền cố vị, bán nước cầu vinh. Không còn phương cách nào khác là toàn dân Việt ở trong và ngoài nước, hãy chung sức đồng lòng đạp đổ chế độ Cộng sản, ngõ hầu cứu lấy thảm họa mất nước về tay Tàu Cộng!
Tội đồ Hồ Chí Minh, kẻ đã mang thứ nước đỏ độc hại là chủ nghĩa Cộng sản về đất Việt. Chủ thuyết này đã bị vứt bỏ vào sọt rác cách nay hơn hai chục năm, ngay chính đất nước Nga sô, nơi sản sinh ra nó. Thế mà oái oăm thay! Hiện giờ tập đoàn toàn trị Cộng sản Việt Nam lại bắt đồng bào dân tộc của mình tiếp tục uống thứ nước đỏ vô cùng độc hại đó! Ngày nào chế độ Cộng sản còn trên quê hương Việt Nam, thì ngày ấy hãy còn:
Oán hờn chất ngất trời cao,
Nỗi đau dậy đất, hận gào trùng khơi!
© Trí Lực
11.8.2010