Hà Nội: 1948-1954, những năm tháng cũ (4)
Một người nữa từng là văn sĩ, thi sĩ thời tiền chiến là Hồ Dzếnh, tác giả tập truyện ngắn tình cảm “Chân Trời Cũ”, có nhiều truyện thật cảm động, và 2 tập thơ “Quê Mẹ” và “Hoa Xuân Đất Việt” trong đó ông ca tụng người mẹ Việt Nam với nhiều hình ảnh chứa chan tình tự. Hồ Dzếnh là người Minh Hương tức Tàu lai, bố Tàu mẹ Việt. Về Hà Nội, Hồ Dzếnh mở hiệu sách Trung Phương ở đầu phố Huế nối tiếp với phố Hàng Bài, nhưng sống âm thầm và không thấy có hoạt động văn nghệ nào.
Nói đến thi sĩ Hồ Dzếnh thì không thể không nhắc đến một thi sĩ khác, thi sĩ Vũ Hoàng Chương, tác giả các tập Thơ Say, Mây, những vở kịch thơ Vân Muội, Trương Chi của những năm trước 1945. Về thành, Vũ Hoàng Chương dạy Việt Văn ở trường Văn Lang của giáo sư Ngô Duy Cầu, trong khi vẫn tiếp tục làm thơ và viết kịch thơ, vở kịch thơ “Tâm sự kẻ sang Tần” với quan niệm ‘bất quan thành bại luận anh hùng’ để đánh giá hành động mưu sát Tần Thủy Hoàng của Kinh Kha thời Chiến Quốc. Tôi cũng còn nhớ sau Tết Nhâm Thìn đầu năm 1952, thầy Vũ Hoàng Chương đã ngâm trong lớp đệ tứ B3 cho học trò nghe bài thơ (tôi không nhớ tên) ông mới làm để ca tụng chiến thắng trận Đống Đa của vua Quang Trung nhân ngày mùng 5 tháng giêng âm lịch. Rồi ông cho xuất bản tập thơ Rừng Phong vào cuối năm 1953. Tôi còn nghe nói thời gian khi mới từ ngoài khu về Hà Nội, vì sinh kế, Vũ Hoàng Chương đã phải viết cả đến loại tiểu thuyết võ hiệp, quyển Mai Hoa Kiếm Khách, cho nhà xuất bản Văn Hồng Thịnh để lấy tiền sinh sống. Tất nhiên ông chỉ dùng một bút hiệu nào đó chứ không dùng tên thật cho loại sách rẻ tiền này.
Vũ Hoàng Chương viết kịch, nhưng tất cả đều là kịch thơ, vì bản chất Vũ Hoàng Chương chỉ là một thi sĩ. Nói đến kịch, kịch văn xuôi thì không thể quên được kịch tác gia Đoàn Phú Tứ, tác giả những tập kịch ngắn như ‘Nhũng bức thư tình’, ‘Mơ hoa’, vở kịch dài ‘Ngã ba’ thời tiền chiến. Đoàn Phú Tứ bỏ kháng chiến về Hà Nội muộn vào tháng 7 năm 1951 và cũng như Vũ Hoàng Chương, dạy Việt Văn tại trường Văn Lang. Cùng dạy một lớp, ông phụ trách phần giảng văn trong khi thi sĩ họ Vũ phụ trách phần luận văn. Ông còn giảng Kiều ở Đại Học Văn Khoa nữa. Tuy không chính thức ở trong nhóm Tự Lực Văn Đoàn nhưng ông có nhiều giao tình thân thiết với nhóm này cho nên khi giảng kim văn, ông thường kể cho học sinh nghe một số giai thoại về văn đoàn này. Ông cho biết trường hợp nào Thế Lữ đã sáng tác bài “Cây đàn muôn điệu”, tại sao thi sĩ Xuân Diệu lại được gọi là Xuân ‘Rượu’,… Nhưng khác với Vũ Hoàng Chương, Đoàn Phú Tứ khi về thành, trong thời gian 3 năm (1951-1954) đã không soạn một vở kịch nào, làm một bài thơ nào, và không có một bài viết nào ngoài lãnh vực văn nghệ thuần túy. Năm 1952, ông lập gia đình và làm cho không những các học trò của ông mà cả giới văn nghệ Hà Nội phải hết sức ngạc nhiên, xôn xao, bàn đi tán lại. Người ông muốn cưới là cô nữ sinh nhan sắc, con nhà gia giáo cổ truyền, nhưng kém ông tới 21 tuổi, người đã say mê những bài giảng của ông, đã phục ông là một người tài hoa, uyên bác, ăn nói có duyên, do đó đã cương quyết cùng ông lập gia đình trong khi toàn thể cha mẹ anh chị em họ hàng cực lực phản đối. Biết tính nết uơng ngạnh, cá tính mạnh mẽ của cô con gái, rút cục gia đình cũng phải chấp nhận để hai bên có một lễ cưới theo nghi thức hẳn hoi.
Những văn nghệ sĩ trẻ ở Hà Nội thời ấy sáng tác nhiều hơn các nhà văn thơ tiền chiến. Người ta thấy xuất hiện những nhà văn, nhà thơ như Nguyễn Minh Lang, Thanh Nam, Hoàng Công Khanh, Hoàng Phụng Tỵ, Vĩnh Lộc, …
Về tiểu thuyết, Nguyễn Minh Lang và Thanh Nam là hai cái tên đi sóng đôi với nhau nhưng Thanh Nam còn làm thơ mà Nguyễn Minh Lang thì không. Cả hai đều sáng tác nhiều tiểu thuyết, vừa truyện dài lẫn truyện ngắn. Nhưng rồi Thanh Nam bỏ Hà Nội vào Sài Gòn khá lâu trước khi có cuộc di cư năm 1954. Nguyễn Minh Lang là một tác giả thuộc loại ‘ăn khách’, nhất là với giới phụ nữ. Năm 1950, ông cho ra mắt truyện ngắn ‘Trăng Đồng Nội’ đăng trên Tiểu Thuyết Thứ Bẩy. Câu chuyện tản cư đượm màu sắc lãng mạn trong không khí thơ mộng của những ngày đầu kháng chiến đã chinh phục ngay được nhiều độc giả. Những tiểu thuyết ‘Hoàng tử của lòng em’, ‘Cánh hoa trước gió’.., ông đã viết với lối văn bay bướm, tình tứ rất thích hợp với những chuyện tình ướt át.. Trong cuộc sống riêng tư, Nguyễn Minh Lang đã có mốí tình với nữ ca sĩ Tâm Vấn của đài phát thanh Hà Nội, nhưng khi đất nước chia đôi thì Nguyễn Minh Lang ở lại còn người ca sĩ kia thì dứt khoát lên đường vào Nam. Đặc biệt là ngoài nghiệp văn chương, Nguyễn Minh Lang còn hành nghề may âu phục, âu cũng là điều lạ với một người chuyên viết những tiểu thuyết thuộc loại diễm tình.
Một nhà thơ trẻ đang lên là Hoàng Phụng Tỵ với thi phẩm được nhiều người biết đến là tập “Hương Thơ Mùa Loạn”. Năm 1951, ông bị động viên vào khóa 1 trường sỹ quan trừ bị Nam Định và sau đó năm 1953, ông được cử làm huấn luyện viên cho các lớp Cao Đẳng Quân Sự (PMS – Préparation Militaire Supérieure) tại các trường trung học ở Hà Nội. Trong các buổi học về quân sự học đường này, ông thường hoà mình với các học sinh, chuyện trò thân mật, và sẵn sàng trả lời, không phải các câu hỏi liên quan đến nhà binh mà là các câu hỏi có tính cách tò mò về các chuyện văn nghệ mà ông biết rõ. Chẳng hạn chuyện tình giữa văn sĩ Nguyễn Minh Lang và ca sĩ Tâm Vấn, hoặc có phải nữ danh ca Minh Đỗ có chồng là người nhạc sĩ chơi đại hồ cầm trong ban nhạc đài phát thanh Hà Nội, có phải nhà văn Bùi Xuân Uyên là con nữ sĩ Tương Phố, tác giả thiên ‘Giọt Lệ Thu’ của thời Nam Phong Tạp Chí xa xưa?
Nhưng viết kịch mà được nhiều người biết đến hơn cả có lẽ là Hoàng Công Khanh với vở kịch thơ “Bến Nước Ngũ Bồ” đã được diễn nhiều lần trên sân khấu Nhà Hát Lớn thành phố Hà Nội. Hoàng Công Khanh còn viết nhiều tiểu thuyết như “Trại Tân Bồi”, “Yêu chỉ một lần”, “Mẹ tôi sớm biệt một chiều thu”, “Mối tình đầu”, …phần nhiều mang hơi hướm lãng mạn và đầy mùi vị tiểu tư sản, rất được độc giả ưa thích. Thế nhưng vào những ngày đất nước sắp chia đôi, những ngày Hà Nội chờ đón “quân ta” trở về thì Hoàng Công Khanh cho ra mắt tác phẩm viết vội mang tên là “Quan điểm văn nghệ nhân dân”. Thái độ trở cờ của Hoàng Công Khanh đã bị công kích kịch liệt vì đầu năm 1954, tác phẩm “Mối Tình Đầu” của ông, được quảng cáo là món quà cưới cho những cặp tình nhân, còn chưa ráo mực thì giữa năm 1954, ông đã vội ‘đón gió’ ca tụng văn nghê “nhân dân” hòng lập công với những chúa trùm văn nghệ mới ở ngoài khu sắp sửa vào thành.
Có một nghệ sĩ đặc biệt, không thuộc thành phần trẻ nhưng cũng không hẳn thuộc lớp tiền chiến, đó là Tạ Tỵ. Gọi là nghệ sĩ vì Tạ Tỵ là một người làm văn nghệ toàn diện. Ông viết văn, làm thơ và còn là một hoạ sĩ, một họa sĩ nổi tiếng về những bức tranh lập thể. Ông là người đi tiên phong ở Hà Nội trong truờng phái họa này của Picasso, đã trưng bày các họa phẩm ở Nhà Hát Lớn và Nhà Khai Trí Tiến Đức bên Hồ Hoàn Kiếm. Tạ Tỵ viết nhiều truyện ngắn đăng trên các tạp chí, rồi gom góp lại thành tác phẩm xuất bản có tên là “Những Viên Sỏi”.
Còn nhiều người nữa, nhiều văn nghệ sĩ khác đã góp phần vào thị trường chữ nghĩa của Hà Nội thời bấy giờ như Vĩnh Lộc với tiểu thuyết “Bừng Sáng”, Triều Đẩu với thiên phóng sự “Trên vỉa hè Hà Nội”, Trúc Sĩ với “Kẽm Trống”, …
Và về bộ môn kịch thì không thể quên được Vũ Khắc Khoan với kịch bản “Thằng Cuội”. Ông là giáo sư Việt Văn các lớp Đệ Tam và Đệ Nhất trường Trung Học Nguyễn Trãi, tại đây ông lập ra sân khấu Côn Sơn để các học sinh diễn kịch trong các buổi văn nghệ tất niên của trường mà một diễn viên học sinh ông đặc biệt qúy mến về tài năng là Long Cương, niên khóa 1953-1954 học lờp đệ tam ban C. Vũ Khắc Khoan cũng đã cùng với Phan Tại lập ra Hoa Quỳnh Kịch Xã, có sự đóng góp của thi sĩ Vũ Hoàng Chưong.
Ở Hà Nội thời đó, ngoài Hoa Quỳnh Kịch Xã còn có Sông Hồng Kịch Xã với những chiều kịch mùa hè, những đêm kịch mùa thu, tất cả đều diễn ở Nhà Hát Lớn Hà Nội. Các đoàn kịch này đã trình diễn các vở “Lên Đường”, “Cô Gái Nước Tần”, “Kiều Loan” của Hoàng Cầm, “Vân Muội”, “Tâm Sự Kẻ Sang Tần” của Vũ Hoàng Chương”, “Bến Nước Ngũ Bồ” của Hoàng Công Khanh, “Thằng Cuội” của Vũ Khắc Khoan, … Có lần trường kịch nổi tiếng của Tàu là “Lôi Vũ” của Tào Ngu đã được công diễn mấy buổi liên tiếp. Nhưng đây là một trường hợp đặc biệt. Những đoàn kịch như Sông Hồng hay Hoa Quỳnh đều không phải là những đoàn nhà nghề trình diễn thường trực, những diễn viên đều là tài tử cho nên tên tuổi không mấy ai nhớ được.
Khán giả kịch có tính chất chọn lọc, không như khán giả bình dân của cải lương, chẳng hạn đoàn Kim Chung, Tiếng Chuông Vàng Thủ Đô ở rạp Tố Như phố Hàng Bạc, có khi một vở tuống diễn cả mấy tuần liền mà người coi vẫn đông đảo. Người xem thuộc lòng tên những diễn viên đoàn Kim Chung của ông bầu Trần Viết Long như Kim Chung, Kim Xuân, Ngọc Toàn, Ba Hội, hay của các đoàn khác như Ái Liên, Bích Hợp, và Huỳnh Thái “Cây Sái cuả Bắc Việt”. Năm 1952, đoàn kịch Quốc Gia danh tiếng của Pháp từ Paris qua diễn ở Nhà Hát Lớn Hà Nội mấy vở kịch cổ điển như Les Misanthropes của Molière, Homère của Corneille, và Iphigénie của Racine nhưng chỉ được mấy buổi rồi cũng không còn khán giả nữa. Trái lại, năm 1953, đoàn cải lương Phụng Hảo từ Sài Gòn ra Hà Nội với các danh tài như Phùng Há, Bích Thuận, Thanh Loan, Ba Vân, … trong các vở tuồng mà nổi tiếng nhất là Phụng Nghi Đình. Sau khi trình diễn ở Nhà Hát Lớn 2 tuần liền, đoàn chuyển về rạp Porte d’Or ở phố Hàng Buồm mà vẫn đông khách cho nên còn diễn thêm hơn một tuần nữa mới trở vào Nam.
Một chiều kịch vào đầu hè năm 1950, trong lúc chờ đợi đổi màn, có các ca sĩ ra hát phụ diễn. Tôi nhớ khi đó nam ca sĩ Kim Tiêu ra hát bài Tiếng Hát Sông Lô do Phạm Duy sáng tác để ca tụng chiến thắng quân Pháp trên sông Lô năm 1947. Phạm Duy lúc ấy còn ở ngoài kháng chiến, và bài hát này của ông đã được truyền về Hà Nôi, nhưng chưa hề được trình diễn chính thức vì có những lời ca chửi rủa quân Pháp nặng nề. Vậy mà giữa Nhà Hát Lớn trong lòng Hà Nội, Kim Tiêu đã hát theo nguyên bản lời ca với những câu:
Trên nước sông Lô, giặc lên ăn cướp dân ta
Quân cướp tham ô ngày nao đã chết không ngờ
….
Hai ngàn quân cướp vùi thân
Trên dòng sông Lô Giang
Súng thần công vang vang …
Khán giả đã nhiệt liệt vỗ tay hoan hô và Kim Tiêu đã phải hát lại bài này một lần nữa. Đây là một hiện tượng biểu hiện tâm lý chung của nhiều người dân Hà Nội trong những năm 1950 đến 1953. Đã bỏ vùng hậu phương về thành để chấp nhận sống dưới quyền kiểm soát của quân Pháp, thế nhưng người ta vẫn có cái khuynh hướng có thể gọi là “vọng kháng chiến”, ghét Pháp và miệt thị chính quyền quốc gia do quốc trưởng Bảo Đại lãnh đạo. Một lần khác, cuối năm 1951, trong giờ Sử ở lớp đệ tứ trường Văn Lang, giáo sư Trương Hoàng Minh sau khi giảng bài xong đã kể cho học sinh nghe chuyện đại hội hòa bình tổ chức tại Đông Đức vừa mới chấm dứt. Ông cho biết trong đại hội này, phái đoàn nước VNDCCH khi tiến vào hội trường đã được hoan hô nhiệt liệt, được đoàn viên nam nữ các nước anh em ôm hôn thắm thiết vì đang nêu gương tranh đấu giành độc lập chống thực dân Pháp. Học sinh đã rú lên, suýt xoa tỏ lòng sung sướng và hoan nghênh giáo sư đã không sợ bị bắt bớ nguy hiểm đến bản thân. Vào thời gian đó, nhiều tờ báo ở Hà Nội đã không dấu diếm thái độ thân kháng chiến, họ cho như thế mới đúng là trí thức tiến bộ. Các vở kịch thơ của Hoàng Cầm như ‘Lên Đường’, ‘Cô gái nước Tần’ có nội dung đề cao lòng yêu nước đã được đăng trên báo, được diễn trên sân khấu. Ngay kịch tác gia Đoàn Phú Tứ, trước khi hồi cư về thành, cũng đã nói: “Vào sống ở Hà Nội nhưng sẽ không làm gì phương hại đến kháng chiến”.
Thực ra, thái độ này cũng không phải là hoàn toàn nghịch lý. Tôi xin kể một chuyện mà tôi đã tận mắt chứng kiến.
“Vào một trưa hè năm 1951, tôi và vài người bạn lên tắm ở hồ bơi bên chùa Trấn Quốc, lúc đó có tất cả khoảng hai, ba chục người vừa nam vừa nữ. Mọi người đang vui vẻ đùa nghịch, bơi lội thì thình lình có 4 tên lính Pháp lưng đeo súng trường, dắt 2 con chó săn to lớn từ ngoài đường Cổ Ngư đi vào. Thấy chúng tôi đang tắm, chúng liền suỵt cho 2 con chó nhẩy xuống hồ tắm hùng hục bơi qua bơi lại. Chúng tôi, nhất là mấy chị phụ nữ, vội vã lên bờ hoặc lên ngồi trên cầu nhảy. Một thanh niên lớn tuổi tự động đến nói phải quấy với mấy tên Pháp, yêu cầu chúng gọi hai con chó lên vì đây là hồ cho người bơi lội chứ không phải để cho loài chó tắm. Lập tức 4 tên lính Pháp vây quanh anh thanh niên này, sừng sộ to tiếng nói mày là Việt Minh hả, có muốn tao bắt vào cho an ninh, phòng nhì tra xét không. Anh thanh niên sợ hãi lí nhí nói mấy câu dường như là xin lỗi, còn chúng tôi cũng sợ không dám có thái độ gì để bênh vực, riêng mấy chị phụ nữ vội rút vào trong phòng thay đồ. Doạ dẫm một hồi, chán rồi 4 tên lính cũng gọi 2 con chó lên và nghênh ngang ra đi. Chúng tôi cảm thấy vô cùng tủi nhục trước thái độ hèn hạ của chính mình, nhưng không ai dám có hành động gì e mang vạ vào thân”.
Bằng những hành động thất nhân tâm như thế, thêm vào là những cơ quan như cảnh sát, công an, phòng nhì, an ninh quân đội, nơi nào cũng ỷ thế có quyền bắt giữ, tra hỏi, thành ra làm sao người dân có cảm tình với đội quân chiếm đóng được. Hơn thế nữa, vào thời gian này, cộng sản chưa lộ rõ bộ mặt thật. Chưa có đấu tố, chưa có cải cách ruộng đất, cái hào quang kháng chiến vẫn còn rực rỡ, đó là điều giải thích cho cái thái độ có phần nghịch lý của người dân trong thành: theo Pháp, sống với Pháp mà vẫn ghét Pháp, vẫn chống Pháp.
Sau văn, thơ, và kịch thì đến phần nhạc. Nhạc ở Hà Nội trong những năm 1948-1954.
Cuối năm 1948 khi hồi cư về Hà Nội, tôi đã hết sức xúc động mỗi khi nghe bài Ngày Về của Hoàng Giác do Ngọc Bảo ca. Những câu
Tung cánh chim tìm về tổ ấm
Nơi sống bao ngày giờ đằm thắm
đã thực sự thấm vào tâm hồn vì sao nó hợp với hoàn cảnh lúc ấy đến thế!
Nói về nhạc thì phải nói ngay đến đài phát thanh Hà Nội, nơi có chương trình ca nhạc hàng ngày. Hà Nội thời đó làm gì có các đại nhạc hội mà chỉ thỉnh thoảng có phụ diễn ca nhạc tại các rạp chiếu bóng trước khi chiếu phim với một ban nhạc tài tử dăm bẩy người kể cả ca sĩ. Cho nên chúng tôi ngóng chờ mỗi buổi tối để đón nghe chương trình “Ban Đàn Việt Nhạc” của đài phát thanh từ 7 giờ tới 7 giờ 30 phút, thời gian chỉ vỏn vẹn có nủa giờ. Ca sĩ ở Hà Nội hiếm hoi lắm! Tôi nhớ hát thường trực tại đài lúc đầu chỉ có nữ ca sĩ Minh Đỗ và nam ca sỉ Ngọc Bảo, sau có thêm các ca sĩ Tâm Vấn và Quách Đàm (Khuất Duy Đàm, chú ruột của ca sĩ Khuất Duy Trác). Thỉnh thoảng có ca sĩ ngoài vào hát thêm vài bài chẳng hạn như nhạc sĩ Hoàng Giác. Ban nhạc, khi giới thiệu ca sĩ, thì gọi là Cô Minh Đỗ, là Tài Tử Ngọc Bảo: “ … xin giới thiệu bài ‘Tiếng Thời Gian’ của Lâm Tuyền do Cô Minh Đỗ ca - bài ‘Tôi bán đường tơ’ của Thẩm Oánh do Tài Tử Ngọc Bảo ca”. Minh Đỗ là ca sĩ có giọng hát điêu luyện, nổi tiếng với những bản nhạc bán cổ điển hay có hơi hướm bán cổ điển. Cô có chồng là Thái Ban, người nhạc sĩ chơi đại hồ cầm trong Ban Đàn Việt Nhạc. Còn Ngọc Bảo là người ca sĩ có giọng hát thiên phú, hơi dài, mạnh mà êm. Hè năm 1953, Ngọc Bảo được hãng đĩa mời sang Pháp để thu đĩa một số bài hát cùng với ban nhạc người Pháp. Cũng năm 1953, vợ chồng Ngọc Bảo có mở một cửa hàng mỹ phẩm trên phố Hàng Gai khúc gần hồ Hoàn Kiếm và dần dần Ngọc Bảo không còn xuất hiện đều đặn trên đài phát thanh nữa. Điều đáng ghi nhận là trong khi đài phát thanh Hà Nội có cặp Ngọc Bảo – Minh Đỗ thì đài phát thanh Huế có cặp Châu Kỳ – Mộc Lan và đài phát thanh Sài Gòn có cặp Mạnh Phát – Minh Diệu, tất cả đều cùng nổi tiếng một thời.
Các ca sĩ thời gian này hầu hết đều đơn ca, hiếm thấy có song ca. Chưa từng thấy song ca nam nữ Ngọc Bảo-Minh Đỗ hay song ca đôi nữ Minh Đỗ-Tâm Vấn, … Chỉ một lần vào dịp đầu thu năm 1952, tại Nhà Hát Lớn trong một buổi văn nghệ nào đó, có cặp ca sĩ Tâm Vấn và nhạc sĩ Canh Thân dắt tay nhau ra nhún nhẩy song ca mấy bài hát thể điệu swing nhộn nhịp của Canh Thân như ‘Túi Đàn’, ‘Đi với tôi đến chốn trời xa’. Lối trình diễn sống động mà ngổ ngáo của cặp Tâm Vấn – Canh Thân vào lúc đó thật lạ, mới thấy lần đầu. Mãi đến những năm 1953, 1954, Hà Nội mới có ban hợp ca Hạc Thành của nhạc sĩ Trần Nhật Bằng, ban tứ ca đầu tiên ở Hà Nội với 4 anh em Nhật Bằng, Nhật Phượng, Thể Tần, Hồng Hảo, và tất nhiên là có song ca của hai chị em Thể Tần – Hồng Hảo và của hai anh em Nhật Bằng – Nhật Phượng. Ban Hạc Thành có thể coi như rập khuôn theo ban hợp ca Thăng Long của 4 anh em Hoài Trung, Hoài Bắc, Thái Hằng, Thái Thanh, là một ban Mini Thăng Long.
Đài phát thanh Hà Nội trong các năm 1948-1950 có một chuyên viên kỹ thuật người Sài Gòn, nhưng đồng thời cũng là một nhạc sĩ sáng tác. Đó là Trần Văn Nhơn tức APNC. Không thấy có ai, kể cả tác giả nữa, cắt nghĩa APNC là viết tắt của những chữ gì, hay có ý nghĩa gì, như thời tiền chiến đã có văn thi sĩ Đái Đức Tuấn mang biệt hiệu là TCHYA, có nghĩa là ‘Tôi CHẵng Yêu Ai’, rồi lại có ông văn sĩ Trần Quang Trân lấy tên là NGYM tức ‘NGười Yêu Mợ’. Các ông văn nghệ sĩ thật là rắc rối! Trần Văn Nhơn hẳn phải nặng lòng yêu mến Hà Nội nên năm 1949 ông đã sáng tác bài ‘Ảo Ảnh Chiều Thu” với câu mở đầu “Kinh thành Thăng Long trong bóng sương chiều”, rồi đến bài ‘Hà Nội 49” với câu “Bước men quanh hồ Hoàn Kiếm gió thu, chiều úa”. Sang năm 1950, ông cho ra mắt bài Sài Gòn Xa Hoa. Trong khi 2 bài về Hà Nội có tiết điệu êm đềm, lả lướt thì bài về Sài Gòn đã thật nhộn nhịp tưng bừng như nhịp sống quay cuồng của cái thành phố mà Trần Văn Nhơn đã diễn tả trong điệp khúc:
Sài Gòn là viên ngọc trân châu của Á Đông
Sài Gòn là nơi người viễn khách thường lui tới
Tửu điếm, Trà đình, Đại Thế Giới
Kim Chung, nơi vùi chôn xác con người đảo điên.
Nhưng sau đó thì không thấy Trần Văn Nhơn sáng tác thêm bài nào nữa, và rồi không nghe nói tới ông, không biết tung tích của ông, ngay cả ở Sài Gòn sau cuộc di cư năm 1954.
Thủa ấy, nhà xuất bản lớn nhất, ấn hành hầu hết các bản nhạc từ cả 3 miền Bắc, Trung, Nam là nhà xuất bản Tinh Hoa ở Huế. Tại Hà Nội có nhà xuất bản Thế Giới ở phố Huế củng in và phát hành một số ít các bản nhạc nhưng trình bày không đẹp và không được phổ biến rộng rãi bằng nhà Tinh Hoa. Các nhạc bản của Tinh Hoa bìa trước thường có hình ảnh phong cảnh thích hợp với nhạc phẩm, 2 trang giữa in bản nhạc và trang bìa sau có hình tác giả bài hát hoặc hình ca sĩ hoặc in danh sách các bản nhạc của nhà xuất bản theo số thư tự. Giá 1 bản nhạc là 5 đồng, bằng giá tiền một bát phở.
Khoảng năm 1950, khi xem bản nhạc Bến Xuân của Văn Cao do Tinh Hoa ấn hành với những câu mở đầu
Nhà tôi bên chiếc cầu soi nước
Em đến tôi một lần
Bao lũ chim rừng họp đàn trên khắp bến xuân
thì lần đầu tôi được biết đây mới chính là tên và lời của bản nhạc mà trước kia tôi cứ tưởng đó là bài Đàn Chim Việt. Thời gian sau Cách Mạng Mùa Thu Tháng Tám năm 1945, cùng với các bản nhạc cách mạng như Tiến Quân Ca, Diệt Phát Xít, Nhớ Chiến Khu.., tôi, lúc đó còn là cậu bé trên 10 tuổi, đã say mê hát bài Đàn Chim Việt mà lời ca khác hẳn với lời của bản Bến Xuân này mà tôi mới được biết.
Tôi còn nhớ vào năm 1946, có đoàn văn nghệ từ Hà Nội lên Sơn Tây ra mắt khán giả ở rạp hát duy nhất của thành Sơn tại phố Cửa Tiền và toán nhi đồng mười mấy đứa chúng tôi đã được anh cán bộ phụ trách dẫn vào coi. Đoàn văn nghệ thủ đô này có các nghệ sĩ tên tuổi đương thời như ca sĩ và nhạc sĩ Phạm Duy, các ca sĩ Thương Huyền, Mai Khanh, …Trong các tiết mục trình diễn. tôi nhớ nhất là hình ảnh trong màn ca vũ bài Đàn Chim Việt do 3 chị em Mai Sinh, Mai Dậu, Mai Ngân trình diễn. Mai Sinh và Mai Dậu lúc đó chừng 18 đến 20 tuổi, còn Mai Ngân nhỏ hơn hẳn, khoảng 14, 15 tuổi. Cả 3 chị em đều mặc áo dài đỏ, trên vai khoác một tấm lụa trắng mỏng. Khi màn sân khấu từ từ vén lên, Mai Sinh tiến ra sân khấu, vừa đi vừa vung vẩy hai tay ngang vai như đôi cánh chim, vừa ngâm
Chiều nay run rẩy tha đôi cánh
Một bóng sơn ca đến lạc loài
Về đâu …….Về đâu……
Ngay lập tức, từ hậu trường hai chị em Mai Dậu và Mai Ngân bước ra nhập với Mai Sinh, cả ba cùng nhịp nhàng vừa múa với giải lụa trắng vừa hát tiếp
Về đây khi gió mùa thơm ngát
Ôi lũ chim giang hồ
Bao cánh đang cùng rập rờn trên khắp cố đô
Thì ra khi cách mạng Mùa Thu tới thì Bến Xuân phải biến thành Đàn Chim Việt để phục vụ cho cách mạng, vì thế mới có Đàn Chim Việt nhớ chiến khu với cái cảnh “hoàng hôn Thái Nguyên tung hoành”, cái thủa “trời Bắc Sơn kia thời vung cánh”, rồi “nhớ ai trên mấy đồi Yên Thế”, và hình ảnh “chim đang bay qua Bắc sang Trung”…
Văn Cao theo kháng chiến cho đến sau tháng 10-1954 mới trở về Hà Nội, nhưng ông đã không còn sáng tác nữa sau bài Trường Ca Sông Lô năm 1947. Phạm Duy đến tháng 5-1951 mới hồi cư, nhưng ông và gia đình Thăng Long cũng chỉ ở Hà Nội một thời gian ngắn rồi vào Sài Gòn lập nghiệp. Các nhạc sĩ kỳ cựu nhất ở Hà Nội có lẽ là Thẩm Oánh và Dương Thiệu Tước. Nhưng rồi nhạc sĩ họ Dương cũng vào Nam lấy nữ ca sĩ Minh Trang để lại gia đình ở Hà Nội có cô con gái học trường Trưng Vương. Ông có căn nhà nhỏ một tầng kiểu biệt thự quét vôi trắng xóa ớ con phố nhỏ không có lề đường, gần phố Huế, quãng có hiệu sách của thi sĩ Hồ Dzếnh đi vào. Đêm giao thừa Tân Mão đầu năm 1951, chúng tôi đã thức nghe chương trình tân nhạc đặc biệt đón xuân của đài phát thanh Hà Nội và đã nghe lần đầu bài ‘Hồn Xuân’ của Thẩm Oánh
Hồn Xuân, bát ngát hương xuân
Ngập trời, óng chuốt thanh tân
và bài ‘Xuân Tươi’ của Dương Thiệu Tước
Gió xuân đến mơn man trên cánh hồng tươi thắm
Bấy oanh yến tưng bừng vui đón chào mừng xuân
Nhạc sĩ Canh Thân về thành trong khoảng năm 1951. Ông là tác giả bài hát nổi tiếng ‘Cô Hàng Cà Phê’ rất được giới trẻ ưa thích, cùng các bản nhạc vui tượi, nhộn nhip như ‘Đi với tôi đến chốn trời xa’, ‘Túi Đàn’, ‘Khúc Ca Mùa Hè”,…Canh Thân còn là một ca sĩ, là cậu của nghệ sĩ cải lương Ái Liên, từng hát tân nhạc phụ diễn trong gánh cải lương Ái Liên với cái tên Tony Thân. Đầu năm 1954, ông sáng tác một bài nhạc thật đặc biệt, có những câu hát như lời nói thường. Tôi không nhớ tên bài này, tả cảnh con chó của nhà giàu, mở đầu bằng
Hôm qua tôi trông thấy một con chó nhà kia
Tôi thấy nó ăn mà tôi thèm
…..
Anh bồi lại lấy trứng gà đập vào
Bốn chiếc trứng xinh đẹp sao
Mà chó thì liếm một loáng là hết ngay
rồi ông kết luận
Rằng nó sướng thế,
Rằng nó sướng hơn thằng tôi nhiều.
Có lẽ Canh Thân là người đầu tiên và cũng là cuối cùng làm loại nhạc với đề tài như vậy.
Vừa là nhạc sĩ vừa là ca sĩ ở Hà Nội còn có Hoàng Giác.
Trong những năm 1948-1954, Hoàng Giác nhà ở phố Cầu Gỗ, chỉ cách Hồ Hoàn Kiếm 1 khúc đường ngắn. Phố Cầu Gỗ, nằm thẳng góc với phố Hàng Đào, một đầu trông ngay ra Hồ Gươm, có nhiều nhà hàng quen thuộc với giới thanh niên học sinh Hà Nội như Cà Phê Tùng, Cà Phê Giảng, Phở Đông Mỹ, … Nhạc sĩ Hoàng Giác còn là một ca sĩ nổi tiếng với giọng hát trầm ấm, nổi tiếng cả về ngâm thơ nữa. Tuy không phải là ca sĩ thường trực nhưng ông cũng thỉnh thoảng hát trong ban đàn Việt Nhạc của Đài Phát Thanh Hà Nội và trong những buổi văn nghệ tại Nhà Hát Lớn, và đôi khi trong các buổi phụ diễn tân nhạc.
Vào những năm khoảng 1952-1954, Hoàng Giác nhập ngũ với cấp bậc hạ sĩ quan, phục vụ tại Phòng Năm, Tâm Lý Chiến thuộc Đệ Tam Quân Khu tại Hà Nội. Trong thời gian này, dường như vào năm 1953-1954, ông sáng tác bản nhạc “Chú Cai”, nhịp điệu vui nhộn, với những câu mở đầu
Từ ngày tôi lên Cai
Việc làm rất nhiều
Tinh sương cho đến tối
Lắm cái lôi thôi ….
Từ ngày tôi lên Cai
Việc làm rất nhiều
Binh ngoan cho nốt tốt
Lười, cho coóc-vê (corvée)
Sau năm 1954, Hoàng Giác ở lại Hà Nội, và trong nhiều năm, các sáng tác của ông đã không còn được hát nữa. Tuy nhiên những bài như Ngày Về, Mơ Hoa. Quê Hương đến nay vẫn còn truyền tụng, riêng bản ‘Chú Cai’ vì mới sáng tác chưa được bao lâu nên đã sớm bị rơi vào quên lãng, và chắc lúc này không mấy người còn nhớ đến bài hát vui này nữa.
Hà Nội còn nhiều nhạc sĩ khác, như Nguyễn Văn Khánh với các ca khúc thích hợp cho đàn lục huyền cầm Hạ Uy Di như ‘Thu’, ‘Chiều Vàng’, ‘Nỗi Lòng’,… như Hoàng Trọng nổi tiếng là ‘vua’ Tango với các sáng tác ‘Phút Chia Ly’, ‘Đường Về’, ‘Ngàn Thu Áo Tím’, … , Nguyễn Túc, Nguyễn Thiện Tơ, … nhưng các nhạc sĩ này thường kín tiếng, không thường xuất hiện nên ít được nói tới.
Thời ấy, muốn học nhạc lý, hòa âm, âm điệu, giai điệu hay học piano ở Hà Nội thì phài đến Âm Nhạc Học Xá của cụ Giám Đốc Duyệt ở gần hồ Thuyền Cuông. Tại đây còn có nhạc sư Nguyễn Văn Diệp dạy violon, cây violon số một của Hà Thành.
Học Accordéon thì đã có lớp Huyền Trân ở đường Hàm Long, gần phố Huế. Cô Thúy Nga xuất thân từ trường này, sau 1954 vào Sài Gòn đã tạo được tiếng tăm là cô ca sĩ đeo accordéon lên sân khấu biểu diễn vừa kéo đàn vừa cất giọng ca. Thế rồi cô trở thành Bà Hoàng Thi Thơ.
Ở Hà Nội, những năm 1950-1953 có phong trào học và chơi Lục huyền cầm Hạ Uy Di. Chiều tối, đi ngang mấy đường phố vắng thường văng vẳng từ trong nhà có tiếng đàn Hạ Uy Di lả lướt. Có nhiều lớp dạy đàn, nhưng không lớp nào đông người học bằng lớp của William Chấn, thày dạy Hạ Uy Cầm số một của Hà Nội. Những nhạc khúc nổi tiếng của đảo Hawaii đã thường được nhắc nhở tới như Aloha Oe, Just Say Aloha, Hilo March, Malihini Mele, Olabapa Dja, On the beach at Waikiki, cũng như những bản nhạc Việt có âm điệu thích hợp với Hạ Uy Cấm đã tự nhiên được nhiều người biết đến như ‘Chiều Vàng’, ‘Thu’ của Nguyễn văn Khánh, ‘Suối Mơ’, ‘Bến Xuân’ của Văn Cao, ‘Trở Về Bến Mơ’ của Ngọc Bích, ‘Tình Nghệ Sĩ ‘, ‘Lá Thư ‘ của Đoàn Chuẩn, ‘Du Âm’ của Nguyễn Văn Tý, …
Học Tây Ban Cầm có nhiều nơi dạy, nhưng Tạ Tấn, người chơi Tây Ban Cầm hay nhất Hà Nội, có đông học trò nhất. Nhiều khi phải chờ hàng tháng mới có chỗ học. Ông cũng dạy Hạ Uy Cầm nhưng chỉ là phụ, Tây Ban Cầm mới là chính. Tạ Tấn, từ thời tiền chiến, là tác giả của mấy nhạc khúc ‘Hương Thanh Bình’, ‘Bên Sông Vắng’, … không nhiều, nhưng bài nào cũng có hồn. Ông có cửa hàng bán sách nhạc và nhạc khí tại số nhà 14 phố Bảo Khánh, con đường từ phố Hàng Trống đâm thẳng xuống Hồ Gươm gần Đền Vua Lê, cách trường trung học Trương Hán Siêu không xa. Ông dạy theo phương pháp và sách của Carulli, bộ gồm 2 cuốn, nhưng ít người học đến hết cuốn thứ hai. Ông dạy từng người, mỗi lần nửa giờ, 1 tuần 2 lần, nhiều nhất là 2 người, mỗi lần 1 giờ. Có một điều ít người biết, Tạ Tấn còn là một danh thủ về bơi lội của những năm 1945 về trước, từng ở trong phái đoàn đại diện Bắc Kỳ vào Sài Gòn tranh giải vô địch bơi lội Đông Dương. Gần giữa năm 1954, Tạ Tấn sáng tác bản nhạc ‘Khi ánh chiều rơi’ và bài hát đã được trình bày trên đài phát thanh Hà Nội. Bản nhạc theo thể điệu Rumba thật êm dịu, lả lơi và thơ mộng:
Chiều dần buông, gieo u sầu về khắp trần gian
Buồn vương vấn, áng mây chiều lờ lững dần tan
Nhìn bầy chim bay về ngơ ngác tìm đàn
Kìa hoàng hôn đem màn đêm …
Sương khắp nơi non ngàn.
Tạ Tấn sáng tác ‘Khi Ánh Chiều Rơi’ được nửa năm thì quân kháng chiến vào tiếp thu Hà Nội, và rồi số phận của bản nhạc lãng mạn này hẳn cũng giống ‘Chú Cai’ của Hoàng Giác, cũng không còn được phép trình bày trước khán giả, trên đài phát thanh, và vì bản nhạc mới ra đời, chưa được phổ biến rộng rãi cho nên chắc nó đã rơi vào quên lãng và ngày nay hẳn không mấy người còn biết đên nữa.
Ngoài Ban Đàn Việt Nhạc chinh thức của đài phát thanh Hà Nội, còn có mấy ban nhạc tài tử được biết đến nhiều là ban nhạc Đỗ Liên và ban nhạc Văn An Hoàng Nhân. Hai ban nhạc này thỉnh thoảng cũng chơi trên đài phát thanh và trình bày trong các buổi chiếu bóng đặc biệt như các màn phụ diễn. Ban Đỗ Liên là ban đàn chuyên chơi nhạc Hạ Uy Di, và Đỗ Liên là người đứng đầu ban nhạc. Trên sân khấu, ban nhạc gồm có Đỗ Liên xử dụng cây đàn Hạ Uy Di điện, tiếng đàn chinh, 2 người chơi Ukilili, và 2 người chơi Tây Ban Cầm nhạc đệm. Có 2 hay 3 ca sĩ riêng của ban nhạc, đôi khi có ca sĩ bên ngoài vào hát thêm. Ban Văn An Hoàng Nhân có 2 người đứng đầu là Văn An và Hoàng Nhân, cả 2 đều chơi Tây Ban Cầm. Ngoài ra còn có 3, 4 nhạc công khác và vài ca sĩ trong đó có 1 nữ ca sĩ hát rất hay mà tôi không nhớ tên. Văn An là học sinh trường Nguyễn Trãi, niên khóa 1953-1954 học lớp đệ nhị A, ban Khoa Học Thực Nghiệm. Nhưng tôi không hề thấy anh chơi cho ban nhạc nhà trường vào những dịp tất niên hay cuối niên học.
(còn tiếp)
© Đỗ Văn Minh
© Đàn Chim Việt