WordPress database error: [Expression #1 of ORDER BY clause is not in GROUP BY clause and contains nonaggregated column 'oldsite_dcvwp.wp_posts.post_date' which is not functionally dependent on columns in GROUP BY clause; this is incompatible with sql_mode=only_full_group_by]
SELECT YEAR(post_date) AS `year`, MONTH(post_date) AS `month`, count(ID) as posts FROM wp_posts WHERE post_type = 'post' AND post_status = 'publish' GROUP BY YEAR(post_date), MONTH(post_date) ORDER BY post_date DESC

 
|

Tìm về Cội nguồn: Người Hà Nội, người giả dối hay người Việt?

LTG.

Giời ạ!

Các bạn Hà Lội cứ việc nhận mình là người Hà Nội cho oai – tôi đây chẳng biết nói năng ‘nàm thao’ cho phải đạo! Mẹ tôi là người Hà Nội chính gốc con nai vàng ngơ ngác của Lưu Trọng Lư trước khi các bác đỉnh cao trí tuệ san bằng giai cấp thủ đô để mọi người ở khắp nơi đổ về nhập cư và chiếm cứ gia cư và tài sản của đám tư bản và trí thức mại sản này. Ngay cả Bà Ba Bủng theo lệnh trên vào độ Cách mạng mùa Thu năm ấy cũng phải sơ tán chạy mất dép theo những người như mẹ tôi vào Nam.

Để bây giờ các bạn gốc gác Hà-Nam-Ninh hoặc bất cứ nơi quê hương hang hốc nào đó cũng tự hào mình là người Hà Nội thủ đô ‘đầu lão của đất lước’! Oải thật!

Bên trên là comment của người viết khi tình cờ vào trang Facebook của một người bạn Hà Nội có post bài “Tôi Không Tuyển Người Hà Nội” từ Vietnamnet (Bài này không còn tìm thấy trên VNN, nhưng vẫn còn đọc được trên TTXVA), đại ý:

“Hơn chục năm lăn lộn trên thương trường, tôi gần như không tuyển người Hà Nội vào công ty, những vị trí nhân sự chủ chốt đều do người ngoại tỉnh nắm giữ.

Cách đây chỉ một tuần, do quá bực mình, tôi chỉ thẳng mặt một cậu nhân viên rồi nói:

‘Mày đi thẳng ra khỏi công ty đi, những thằng như mày, chỉ dựa dẫm gia đình, sinh ra sướng sẵn rồi, nên không bao giờ làm được việc nếu không chịu khó rèn luyện đâu. Mày đừng bao giờ coi khinh người nhà quê, người ngoại tỉnh, mày nhìn xem, năng lực, những cái mày làm được, liệu có bằng người ta không?’

Cậu này, người Hà Nội gốc, vốn do một ông sếp gửi gắm, là cháu ông ta. Do cần phải quan hệ, tôi buộc phải nhận vào, nhưng làm việc thì không ra gì mà còn hay chém gió, hay coi thường người khác. Hơn chục năm lăn lộn trên thương trường, tôi gần như không tuyển người Hà Nội vào công ty, những vị trí nhân sự chủ chốt đều do người ngoại tỉnh nắm giữ.”

Tôi đọc và để ý thấy những lời góp ý/comments hầu hết đều có ý chê bai, dè bỉu tác giả, một người ngoại tỉnh vào Hà Nội ăn học thành tài, làm chủ một công ty lớn, trở nên giàu có, nhưng chính ông vẫn không chấp nhận được tính trịch thượng, biếng nhác, và ỷ lại của người Hà Nội (đời nay). Không biết bao nhiêu kẻ khinh khi, miệt thị tác giả ‘nhà quê’ này là người Hà Nội đời nay, nhưng rõ ràng những phê phán góp ý của họ mang nhiều tính tự tôn, tự đại mà theo tâm lý học hàm ý che đấu tính tự ti mặc cảm của mình. Ngẫm lại bỗng thấy buồn cười cho chính những người thủ đô, tự hào và tự gán cho mình gốc gác Hà Nội. Không hiểu đến thời đại nào thì hai câu thơ sau đây còn có thể được ví von về người Hà Nội một cách không gượng ép?

Chẳng thơm cũng thể hoa nhài

Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An.

ng hnTheo thiển ý, hai câu này khó có thể áp dụng theo đúng ý của nó để mô tả nét trang nhã của người Hà Nội đời nay, kể từ sau cách mạng tháng Tám khi Đảng Cộng sản ra đời và chiến tranh giai cấp đã tước mất đi nhiều vẻ thanh lịch của Hà Nội. Chớ vội nói đến điển tích của thời kỳ vàng son và phong kiến của nhà Hán với cổ thành Trường An của họ. Khoan hẵng nói đến những gì gần hơn của Việt-Nam: một bài thơ do Nguyễn Công Trứ chắp bút, một Hoa Lư huy hoàng, cố đô đầu tiên của Việt tộc được Lý Thái Tổ đổi tên là Tràng An, cũng như Đại La trở thành kinh đô Thăng Long. Hai câu thơ trở nên ca dao trên chính là lời ngợi ca – trên bình diện tao nhã – một Hà Nội của Việt Nam một thời bình an nào đó, mà có lẽ những người như tôi, như những người trẻ khác thích o ép nó thành một Hà Nội thời thượng của riêng mình.

Và đó chính là nỗi chán chường và bực dọc của tôi (xem Lời Tác giả/chapeau bên trên).

Thật thế, về Việt Nam nhiều lần tôi cảm nhận và học hỏi được nhiều điều. Không ít những chuyện muốn thu thập là những lần lân la ra đất Bắc. Để tìm về cội. Để tìm về thực. Để tìm về hư. Để tìm về cái còn cái mất. Khuất tất và khắc khoải. Ngay lần đầu tôi đã nôn náu thấp thỏm tìm về vẻ đẹp, vẻ nên thơ trang nhã của Hà Nội, bao năm nhận thức qua thi ca và văn chương quốc ngữ. Những chuyện kể của họ hàng người lớn, kể cả những huyền thoại và nhiều giai đoạn lịch sử còn chưa quên trong tâm khảm.

Đầu thập niên ’90 khi nhiều người trong Nam vẫn chưa dám ‘bén mảng’ ra Hà Nội, bất chấp lời khuyên của bác tôi (di cư ’54) ở Sàigòn: “Này cháu ngoài đấy người ta trí trá lắm không như trong Nam đâu nhé…” Tôi, một người chân ướt chân ráo từ xứ cờ Hoa trở về, vẫn cứ đơn thân độc mã lặn lội ra Hà Nội – nhất là một người sinh trưởng trong Nam trưởng thành ở Mỹ như tôi chưa bao giờ đặt chân, chưa bao giờ biết đến quê hương miền Bắc hoặc được tiếp thu trong hiện thực hình ảnh của một thời thơ mộng – vì khi sinh ra đất nước chia đôi và chiến tranh dày xéo. Tôi không thiếu lý do và những ý nguyện tốt lành khi về thăm quê mẹ mong tìm lại nét ‘hoa nhài’ năm xưa thay vì chỉ là những hoài cảm.

Để rồi với thời gian, bộ mặt thật của Hà Thành ngày càng nhếch nhác hơn khi các ông trong Bộ Chính trị và bí thư thành ủy càng cố sức chạy đua cho kịp với Sàigòn, càng chạy đua càng ‘lệch lạc’, càng sái buổi chợ. Bằng cách đòi hỏi tiền đầu tư của nước ngoài – trước khi họ muốn đầu tư trong Sàigòn – phải đổ vào ‘mở mang’ (một cách vô lối thiếu có quy hoạch của thành phố!). Hà Nội đã bước chệch hướng văn hóa còn sót lại của nó. Lý do các nước ngoại quốc thích đầu tư trong Nam thật dễ hiểu: sau bao năm tiếp xúc và làm ăn với nước ngoài, dân Sàigòn đã trở nên sành sỏi và thiện nghệ, hiểu biết và tháo vát hơn người anh em miền Bắc. Không kể bản chất cởi mở, thân thiện, thật thà, thông thạo đường lối, biết giao du, hơn dân Hà Nội, cho nên các công ty Tây phương vẫn thích làm ăn với Sài gòn. Thời 90 cho đến sau 2000, đố ai tìm được một người thợ biết may một bộ complet cho tử tế ở Hà Nội (Bắc), chưa nói đến máy ảnh, máy vi tính. Ngay cả xe ôtô, xe Honda, thợ thuyền Hà Nội thường lâm bệnh ‘chữa lợn lành thành lợn què’.

Tuy thế, ‘không ít’ người Hà Nội thích phô trương tánh cao ngạo, đầy tự ái, sĩ diện (bộ mặt thay vì ‘danh dự’) hão của mình, một phần có lẽ để khỏa lấp khiếm khuyết của họ. Trong “Bên Thắng Cuộc” Quyển I, Huy Đức đã thuật lại vấn đề ‘nhạy cảm’ như sau:

“Là một người Quảng Trị hoạt động ở Nam Bộ hàng chục năm, ông Lê Duẩn hiểu và rất nhạy cảm trước các vấn đề Nam-Bắc. Trước năm 1975, nhiều cán bộ miền Nam ra thăm miền Bắc đã hết sức ngỡ ngàng khi nhìn thấy cảnh nghèo nàn của “hậu phương lớn.” Một lần, Ban Thống nhất thấy tâm trạng của các đại biểu miền Nam không vui, lãnh đạo ban nói với ông Đậu Ngọc Xuân, thư ký của “anh Ba” Lê Duẩn: “Các đồng chí ấy nói không tốt về miền Bắc, anh về nói anh Ba nên gặp họ.”

Theo ông Đậu Ngọc Xuân: “Tôi về nói: ‘Có đoàn ra thăm’. Anh Ba gật đầu: ‘Tốt’. Tôi thưa: ‘Kết quả ngược lại, các đồng chí bên Ban Thống nhất nhờ anh gặp làm công tác tư tưởng trước khi họ về’. Anh Ba cho mời họ tới, đoàn gồm hai phụ nữ và ba nam. Anh Ba hỏi: ‘Các đồng chí ra thăm miền Bắc thấy gì?’ Họ thật lòng nói, đi thăm chợ Đồng Xuân mà không thấy hàng hóa gì cả, miền Bắc nghèo quá. Anh Ba nói: ‘Các đồng chí không hiểu. Cái giàu có, cái vĩ đại của Miền Bắc là ở chỗ gia đình nào cũng có bàn thờ, con họ vào Nam là đi vào chỗ chết, thế mà họ vẫn đi, trong khi ở lại thì được đi Liên Xô, Trung Quốc’. Rồi anh Ba hỏi: ‘Ở trong R, các đồng chí có được dạy, ta đánh được Mỹ là nhờ truyền thống 4000 năm của Việt Nam không? Các đồng chí người ở đâu? Việt Nam! Nếu nhận người Việt Nam, không năm đời, thì mười đời cũng là gốc Bắc. Ra đây là tìm về nòi giống, cội nguồn’. Khi đoàn ra khỏi phòng, ông Lê Duẩn bảo tôi: ‘Chú xuống Viện Lịch sử, tìm một nhà sử học dẫn họ đi đến tận nơi thăm đền thờ Hai Bà Trưng, Bà Triệu’. Khi họ đi về, anh Ba hỏi: ‘Đã hiểu cội nguồn dân tộc chưa?’ Họ nói: ‘Hiểu’. Anh Ba gật đầu: ‘Bây giờ về được rồi’.”

Tháng Giêng năm 1976, theo đề nghị của ông Lê Duẩn, ông Đậu Ngọc Xuân và ông Trần Phương, theo đường bộ, đi xe vào thẳng Sài Gòn. Ông Xuân kể, trước khi đi, Lê Đức Thọ dặn: “Vào Nam muốn làm việc được, người ta kêu uống rượu, phải uống”. Tới Sài Gòn đã là cuối tháng Chạp, ông Lê Duẩn bảo: “Năm nay ta ăn Tết ở đây, chú nào muốn về thì về trước.” Ông Đậu Ngọc Xuân đã ở lại.

Sáng mùng Một Tết Bính Thìn, bà Nguyễn Thị Thập bên Hội Phụ nữ mời tiệc, ông Lê Duẩn tới, mâm cỗ đã “bày la liệt” nhưng ông không ngồi vào bàn. Khi các nữ lãnh đạo hội mời, ông nói: “Ăn Tết làm gì, con cái miền Bắc chết ở Trường Sơn chưa ai nói tới đã nói là dân miền Bắc vào đây vơ vét hàng hóa.” Theo ông Đậu Ngọc Xuân thì trước đó khi nghe bên công an báo cáo “miền Bắc vào đây vơ vét từ cái quạt máy, xe đạp,” ông Lê Duẩn tức lắm nhưng ngay khi đó ông không nói gì.

Bà Bảy Huệ, phu nhân của ông Nguyễn Văn Linh, đỡ lời: “Thưa anh Ba, đấy chỉ là số ít. Chúng em không bao giờ nói thế”. Ông Lê Duẩn tiếp: “Các chị không nói nhưng nghe ai nói phải vả vào mặt họ chứ. Có những việc ở trong này tôi đã phải giấu đồng bào miền Bắc, ví dụ như chuyện các chị để cho bộ đội chết đói ở Trường Sơn. Xương máu con người ta, người ta không tiếc, giờ mua cái quạt thì các chị kêu ca”. Theo ông Đậu Ngọc Xuân, nghe ông Lê Duẩn nói đến đó, “các chị Nam Bộ khóc như mưa.” (pp. 252-253)

Đấy là thời Lê Duẩn, nhưng hồi tháng Bảy năm nay (2013), nhân buổi họp giữa chủ tịch Trương Tấn Sang với tổng thống Obama tại Nhà Trắng, Nguyễn Hùng một nhà báo của BBC Việt ngữ, một bộ phận của thông tấn Anh quốc mà ai cũng biết 100% nhân viên được tuyển chọn là người Bắc – không biết bao nhiêu là người Hà Nội – đã phân tích và phê bình chuyện dịch thuật của 2 thông ngôn viên cho hai vị quốc trưởng trong bài: “Rớt mất đối tác toàn diện vì dịch thuật” một bài đầy cảm tính, thiếu trung thực. Vì thiên kiến sẵn có, anh Nguyễn Hùng đã tự ý chọn người thông ngôn của ông Sang và khen lấy khen để, cho rằng anh này “nói tiếng Việt giọng Bắc” trong khi đó trong suốt hơn khoảng 10 phút dịch thuật, không ai nghe anh (thông ngôn) ta nói một ngôn ngữ nào ngoài Anh ngữ. Và trong thực tế, khi tìm ra ngọn ngành thì người dịch cho chủ tịch Trương Tấn Sang chính là Phạm Xuân Hoàng Ân, con trai của ông Phạm Xuân Ẩn, gián điệp khét tiếng của Việt Cộng (The Perfect Spy) một người miền Nam. Điều này cho thấy tính kỳ thị vùng miền của anh Nguyễn Hùng rất nặng. Quý vị đọc giả sẽ không đọc được câu hàm ý chê bai “nói tiếng Việt giọng Bắc” này vì đã có người khiếu nại lên BBC nên cụm từ chia rẽ phân biệt vùng miền nay đã bị loại bỏ.

Mục đích bài viết này muốn nói lên một não trạng, một tật thói cần phải loại bỏ cùng với những giả dối, lấp liếm mà chế độ Cộng sản đã thâm nhập vào phong hóa Việt Nam trong suốt 3/4 thế kỷ qua, cầu mong rằng trong giai đoạn này người Việt cần phải hiệp thông với nhau nhằm bài trừ chuyện đặc quyền, đặc lợi của đảng Cộng Sản hay bất kỳ một phe phái nào, hãy đối xử với nhau trong tinh thần bình đẳng và tử tế với ưu điểm và đặc tính thuần Việt. Còn chuyện:

Chẳng thơm cũng thể hoa nhài

Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An

thì còn tùy vào cách xừ thế và phong thái cũng như văn hóa của từng con người, không tùy thuộc vào vùng miền. Do vậy ai cũng có thể là con người thanh lịch xứ Tràng An!

© Nguyễn Khoa Thái Anh

© Đàn Chim Việt

Tags:

22 Phản hồi cho “Tìm về Cội nguồn: Người Hà Nội, người giả dối hay người Việt?”

  1. Hồ Bác Cụ says:

    “Các đồng chí người ở đâu? Việt Nam! Nếu nhận người Việt Nam, không năm đời, thì mười đời cũng là gốc Bắc”.(Lê Duẩn)

    Lê Duẩn chỉ cắt ngắn gọn lại y’ của Hồ chí minh mà thôi!!! Hồ chí minh (và sau này một tên sư quốc doanh tự nhận là con cháu dòng dõi của Hồ chí minh) muốn nói là “Nếu nhận người Việt Nam, không mười đời, thì vài chục đời trước cũng là gốc TÀU” Do đó, ngày nay đảng đang ra rả dạy cho con nít VN: Ta và Tàu là cùng nòi giống, là anh em, 4 chữ tốt mười sáu chữ dzàng khè!!! CSVN vừa mới ky’ xong thỏa thuận với TT Tàu Ly’ Khắc Cường để tiến dần đến việc 2 bên xài chung tiền Nhân Dân tệ. Hồ chí minh, Lê Duẩn, Võ Nguyên Giáp, và toàn bộ đảng CSVN rõ ràng đã bán nước VN cho Tàu rồi, mà các trí ngủ vẫn còn ồn ào tranh luận tìm cách sao cho đảng CSVN thay đổi Dân Chủ hơn????? B.S. hết!!! Phải đạp đổ cái đảng bán nước buôn dân đó đi mới hy vọng kíu nước, không có con đường nào khác!!!!

  2. DâM TiêNt says:

    Nhà futurism — tương lai học — tên là Kahn từng tiên đoán :
    Sau này, Việt Nam là cường quốc về kinh tế và văn hóa. (Nghe đã lỗ nhĩ ghê nơi!)

    Là nhà thiền học và ngâm cứu ghê gớm, DâM TiêN tôi OK cùng ý kiến của Kahn vè
    kinh tế VN tương lai sẽ sáng lòa, nhân vì cái vị trí ưu việt về quân sự cùng như giao
    thông của VN, nhút là về tiếm năng hầm mỏ các loại, dầu khí trùng trùng ngoài khoi..
    rừng vàng biển bạc, con gái VN đẹp lăm cơ @ — Xừ Triết khoe thế đó.

    Thiền sư Dâm tui dùng compas quay một vòng tròn ôm lấy lãnh thổ VN, thấy hiện
    ra một hình lưỡng nghi tuyệt đẹp cân xứng, đệ nhứt vô nhị khắp hoàn vũ đấy!

    Ấy à nhá, nhưng về Văn Hóa thì Dâm Tiên nghi ngờ lắm lắm, bởi Hà Lội bi giờ
    đạ được Nghệ tĩnh hóa, Hời hóa trong ngôn ngữ; và về tính khí dân Bắc Kỳ bi
    giờ đã bị cộng sản hóa, ăn gian nói dối làm bản chất, lường gạt làm kim chỉ nam,
    cướp giật làm lẽ sống… ôi thôi…ngàn năm con vật, ngàn năm con vật…

    Ngay Saigon yêu dấu của tôi và chúng ta , nay cũng bị Hà lội hóa mất zồi, mau mau
    kẻo Miền Nam cũa tui sẽ giống tụi cộng phỉ Bắc Kỳ ..thì nguy to.

    Cho nên DâM tui thiển nghĩ rằng, sau khi lũ Cộng Phỉ ngáp ngáp, thì chúng ta phải
    bỏ ra hàng vài, ba thập niên nữa, phục hồi nhân tính và văn hóa cho người V N
    chúng ta nói chung… Nên có một phong trào Tự lực văn đoàn nữa..–. Chờ mong!

    • Nguyễn Trọng Dân says:

      Hởi Người Hà Nội năm nào chưa nhuộm đỏ,

      Có ai còn nhớ GIẢN CHI không?
      Đây , khách chơi Nam Ky` xin tặng bài TẢN CƯ một thuở binh lữa của người dân Hà Nội

      TẢN CƯ

      Mây xám đầu non , gió cửa rừng
      Hoang vu trước mặt , giặc sau lưng
      TRANG THƠ ĐÊM VIẾT NGÂM RỒI XÉ
      CHÉN NƯỚC MÌNH PHA NHẤP LẠI NGỪNG
      Năm hết, quê người mưa Xuống nặng
      Gươm treo đời loạn , bạn ngồi dưng
      Trông nhau trong mái đầu chưa bạc
      Gằn giọng cười đau nuốt lệ mừng

      GIẢN CHI 1947

      VÀ BÀI THƠ HAY NĂM THU TÂN MÙI 1991

      THIỀN Ý
      Là vay là trả cuộc trăm năm
      Dâu bể lênh đênh cát bụi lầm
      Nắng hạ mưa thu dài đấp đổi
      Nước bầu cơm giỏ lạnh trầm ngâm
      “Một lần đã cháy hai lần mất”
      Nữa kiếp mong tu mấy kiếp lầm!
      THOÁT LƯỚI TƯƠNG LAI TRÒNG DĨ VÃNG
      MƯỜI PHƯƠNG KHÔNG TỊCH MỘT CHÂN TÂM

      Giản chi

      Giản Chi sanh hình như năm 1904, gốc Hà Đông thì phải , dân trường Bưởi , đã từng bán hết gia sản theo Việt Minh, sau bị lính Giáp tố quá mà bỏ chạy. Vào Nam 1954 , cùng với Nguyễn Hiến Lê , song kiếm hợp bích, dịch cuốn SỬ KÝ TƯ MÃ THIÊN rất hay

      Quá Vãng thọ 102 tuổi.

      Vạn kính

      Nguyễn Trọng Dân

      • Nguyễn Trọng Dân says:

        Ôi người Hà Nội xưa trước thời Tiền Chiến,

        ” Những người muôn năm cũ
        Hồn ở đâu bây giờ ?”

        Bài Ca Sông Dịch

        Ai Tráng Sĩ bao năm mài gươm dưới nguyệt?
        Còn tưởng nghe hồn thép múa sông sâu
        Kinh kha hề Khinh Kha !
        Vinh cho ngươi hề ba ngàn tân khách
        Tiễn ngươi đi, tiếng trúc nhịp lời ca

        Biên Thùy trống giục
        Nẻo Tần sương sa

        Gió thê lương quằn quại khói chiêu hà
        Tám phương trời khói lửa
        Một mũi dao sang Tần

        Ai trách Kinh Kha rằng việc người để lỡ
        Ai khóc Kinh Kha rằng thềm cao táng thân
        Ai tiếc đường gươm tuyệt diệu
        Mà thuơng cho cánh ta thần

        Ta chỉ thấy
        Tơi bời tướng sĩ thây ngã ha bên
        Một triều rối loạn , ngai vàng xô nghiêng
        Áo rách thân run hề ghê hồn bạo chúa

        Hùng khí nuốt sao Ngưu hề nộ khí nuốt xung thiên
        Một cánh tay đưa mà danh lừng thiên cổ
        Hiệp sĩ Kinh kha hề người thác đã nên..!

        Vũ Hoàng Chương chết năm 1976 với nổi đau khi nhìn thấy cảnh nước non lao thẳng cánh xuống dốc bần hàn & sợ hãi trước bầy Cộng Phỉ !

        Trời ơi , bao giờ nước tôi mới hết Cộng phỉ đây !

        Nguyễn Trọng Dân

  3. Khinh Binh says:

    Trích: “Chớ vội nói đến điển tích của thời kỳ vàng son và phong kiến của nhà Hán với cổ thành Trường An của họ”

    Tràng An là Hà Nội xưa đó ông thần! Chả dính gì tới hán hiếc đâu! Dốt!

    • Vân Nam says:

      Cẩn thận!!!

      Lý Thái Tổ đổi kinh đô cũ là Hoa Lư(Ninh Bình) thành tên mới là Tràng An. Ngài cũng đổi thành Đại La ra (thành)Thăng Long.
      Việc tác giả nhắc tới Tràng An bên Tàu là do liên tưởng, vô tình hay cố ý mà vua Lý cũng đặt kinh đô nước Nam trùng tên với kinh đô nước Tàu, mục đích là làm phong phú cho bài thôi (có thể cũng ‘khoe’ tí ti).
      Đừng vội kết luận cho đến khi …!

      • nguenha says:

        Đúng như vậy. Tràng An ở Ninh Bình rất đẹp. Nghe đâu Nhà nước VN đang xin UNESCO công nhận Tràng AN là di sản!

      • Khinh Binh says:

        Sau khi đăng ý kiến, tôi mới đọc hết bài thì biết là mình hơi sai. Ý kiến của chú đúng.
        Lỗi cũng vì tôi thấy tên tác giả thì tìm cớ chửi trước rồi đọc sau. Đáng kiếp!

Leave a Reply to Khinh Binh