Bài học yêu nước qua tấm gương Ngô Đình Diệm
Trong buổi thuyết trình với Sinh viên cao học khoa Quản trị kinh doanh của trường Đại Học Quốc Gia Hà Nội, một sinh viên đặt câu hỏi “tại sao nước Đức đã phát triển một cách nhanh chóng và trở thành nước giầu nhất Âu châu mặc dù đất nước họ bị tàn phá nặng nề sau thế chiến thứ hai?“. Người viết đã trả lời rằng, „trong những thập niên gần đây những quốc gia phát triển nổi bật là Nhật, Đức, Hàn quốc, Do Thái và Đài Loan. Đặc tính rõ rệt chung của 5 Dân tộc này là lòng yêu nước và tự hào Dân tộc. Một thí dụ nhỏ là khi sản xuất một cái muỗng (thìa) mang tên nước họ, vì tính tự hào Dân tộc họ cố sức sản xuất cái muỗng (thìa) với chất lượng cao nhất để xuất cảng ra nước ngoài để người tiêu dùng nể nang Dân tộc họ. Do đó sản phẩm của họ được mua nhiều và đất nước họ được phát triển“.
Trong hai bài “Thời nào Dân Việt sướng nhất?“ người viết đã so sánh mức lương người dân trong các thời đệ nhất, đệ nhị Cộng hoà với mức lương người dân Việt vào năm 2006 là năm có thể nói là sung túc nhất của thời kỳ XHCN trước khi xảy ra những cuộc khủng hoảng liên tục từ năm 2008. Kết quả cuộc so sánh là người dân trong thời đệ nhất Cộng hoà có mức lương cao nhất mặc dù tài chánh hỗ trợ từ nước ngoài vào nước ta thời đấy thấp nhất.
Tại sao thời đệ nhất Cộng hoà người dân sống sướng hơn thời năy mặc dù chế độ đó đã chấm dứt trước đây 49 năm? Chẳng lẽ người dân Việt thời bấy, theo logic được trên đây, yêu nước hơn các thời kỳ về sau? Việc chứng minh lòng yêu nước của người dân Việt thời bấy giờ rất khó khăn, chúng ta cùng lật lại những trang sử để cùng xem xét lòng yêu nước của lãnh tụ thời đó đại diện qua Tổng Thống Ngô Đình Diệm và bào đệ của ông.
Trong bài nhận xét ngắn này, chúng ta cùng tìm hiểu thân thế của Tổng thống Diệm là nền tảng hun đúc con người và cũng là nền tảng cho mọi quyết định hành động của ông. Sau đó chúng ta cùng xem xét một số tình huống ông giải quyết trên nển tảng quyền lợi đất nước hay quyền lợi bản thân?
Thân thế
Thân sinh của Tổng thống Ngô Đình Diệm là cụ Ngô Đình Khả, người đã sáng lập trường Quốc Học Huế là ngôi trường đầu tiên tại Việt Nam dậy theo chương trình Đông và Tây, và làm tới chức Thượng Thư Phụ Đạo Đại Thần thời Vua Thành Thái. Cụ Khả là bạn thân của các nhà cách mạng nổi danh thời đó như các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Kỳ Ngoại Hầu Cường Để. Do mưu toan một cuộc cách mạng ôn hoà của Vua Thành Thái bị bại lộ, thực dân Pháp gán cho nhà Vua chứng bịnh điên, ép các quan trong triều đình ký sớ xin Vua thoái vị rồi đưa đi an trí ở Phi châu. Riêng chỉ có một mình cụ Ngô Đình Khả không ký, sau đó cụ từ quan và bị thực dân Pháp cho tước mọi quyền lợi, bổng lộc. Gia đình cụ sống rất khó khăn, cảm phục khí phách của đồng liêu, cụ Tôn Thất Hân đã ngần giúp cụ Khả mỗi tháng 10 đồng để chi dùng.[1]
Ngoài người cha ruột ông Diệm còn có một cha đỡ đầu đã đóng góp rất nhiều trong việc giáo dục tinh thần ông là Thượng Thư Nguyễn Hữu Bài. Khi người Pháp tham lam muốn đào mả Vua Tự Đức để lấy của thì Thượng Thư Nguyễn Hữu Bài là người duy nhất trong triều đình chống đối. Cho nên dân chúng miền Trung kính trọng khí tiết của hai cụ đã truyền tụng với nhau rằng: „Đày Vua không Khả, đào mả không Bài“
LM Trần Qúy Thiện đã mô tả nền giáo dục mà TT Diệm đã được hấp thụ như sau:
“Ngoài việc hấp thụ những đức tính cao đẹp và lòng yêu nước nồng nàn của thân phụ và nghĩa phụ, cậu Diệm còn chịu ảnh hưởng sâu đậm của nền giáo dục Nho Giáo và Thiên Chúa Giáo. Thực vậy, nếu Nho Giáo đã hun đúc ông Diệm thành một con người thanh liêm, tiết tháo và cương trực thì nền giáo dục Thiên Chúa Giáo đã đào tạo ông Diệm thành một con người đày lòng bác ái, vị tha và công chính.[2]“
Trước khi lìa đời, cụ Khả căn dặn ông Diệm rằng:
„Diệm con có đủ đức tính cần thiết để trở thành người lãnh đạo tốt, con phải lãnh đạo.“
và cụ nói với các con:
„Các con phải cùng với nó (ông Diệm) dành lại nền độc lập hoàn toàn, thì mới thực hiện được công cuộc cải tạo xã hội, xoá bỏ bất công được“.
Tất cả các con cụ đã thề sẽ cùng với ông Diệm thực hiện bằng được ước nguyện của cụ[3].
Khi Vua Bảo Đại lên ngôi vào năm 1932, nhà Vua đã mời ông Ngô Đình Diệm lúc đó là Tuần vũ Phan Thiết làm Thượng Thư Bộ Lại (Thủ tướng). Trong chức vụ quan trọng này ông đề xướng hai điều với chính quyền bảo bộ Pháp: một là thống nhất Trung và Bắc Kỳ theo Hòa ước Giáp Thân 1884 và hai là cho Viện Nhân dân Đại biểu Trung Kỳ được quyền tự do thảo luận mọi vấn đề. Vì không được toàn quyền Pháp Pasquier chấp nhận, ông từ chức ngày 12 tháng 7 năm 1933[4].
Ông Diệm trở về sống tại nhà của thân sinh gần Huế và đi dậy học Thiên Hựu (Providence). Ông từ chối mọi sự mời mọc của Nhật, Việt Minh, Bảo Đại và không tham gia vào bất cứ chính quyền nào lập sau Đệ Nhị Thế Chiến. Có một lần ông bị Việt Minh bắt và giải đến Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh mời ông tham gia chính phủ nắm bộ nội vụ nhưng ông từ chối.
Năm 1951, ông Diệm qua Mỹ sống phần lớn trong các chủng viện Maryknall, Lakewood, Ossining và đi vòng quanh nước Mỹ để vận động độc lập cho Việt Nam. Tháng 5 năm 1953 ông sang Pháp, Bỉ. Tháng 6 năm 1954 ông nhận lời mời của Quốc trưởng Bảo Đại trở về Việt Nam làm Thủ tướng.
Giáo hội ở trong quốc gia chứ không phải quốc gia ở trong giáo hội
Dưới thời Pháp các chủng viện Công giáo không chịu ảnh hưởng, kiểm soát bởi chính quyền. Vào năm 1958/59 Tổng thống Ngô Đình Diệm cho thay đổi luật Chủng viện Công giáo, điều luật mới xếp hệ thống giáo dục Chủng viện Công giáo tương đương với các trường tư thục, dưới sự chi phối của Nha Tư thục. Hàng giáo phẩn Công giáo coi đây là một cưỡng chế tự do tôn giáo. Các Linh mục nhiều điạ phận đồng loạt đứng lên phản đối. Đức Khâm sứ Toà thánh trực tiếp can thiệp nhưng Tổng Thống Diệm nhất định không thay đổi. Một số Linh mục xin vào yết kiến, Tổng thống nghe xong rồi trả lời rất ngắn ngủi „Giáo hội ở trong quốc gia chứ không phải quốc gia ở trong giáo hội[5]“.
Chủ quyền quốc gia, quyền lợi Tổ quốc là trên hết
Năm 1961 cộng sản gia tăng khủng bố nên Tổng thống Diệm cần phải tăng cường quân đội. Hoa kỳ cũng cho tăng viện trợ quân sự và lợi dụng tình thế họ đòi hỏi Tổng Thống Diệm phải cải cách, „biến miền Nam Việt Nam thành một chế độ chính trị dân chủ theo kiểu Mỹ và để người Mỹ đồng cai trị miền Nam[6]“. Đòi hỏi này Tổng Thống Diệm không chấp thuận và đề nghị chính phủ Mỹ ký kết với Việt Nam một hiệp nghị phòng thủ song phương tương tự như Mỹ đã ký kết với Đại Hàn nhưng không được Tổng Thống Kennedy đáp ứng. Một số chính khách Mỹ, trong đó có Đại sứ Elbridge Durbrow với chủ chương cứng rắn là buộc Tổng Thống Diệm chấp nhận đề nghị cải cách của Mỹ. Nếu không thì lật đổ ông và kiếm người thay thế.
Có lần ông Nhu đặt câu hỏi với ông John Mecklin, một người Mỹ có chủ trương lật đổ TT Diệm, Giám đốc sở báo chí Hoa Kỳ kiêm phát ngôn viên toà Đại sứ Mỹ tại Sàigòn, tại sao chính phủ Mỹ không giúp Việt Nam như kiểu giúp Tito ở Nam Tư là viện trợ vật chất nhưng không xâm phạm vào hiện tình của xứ được giúp đỡ? Qua cuốn sách của ông John Meklin được xuất bản vào năm 1965 mang tựa đề „Mission in torment: an intimate account of the U.S. role in Vietnam“ (Sứ mệnh trong đau khổ: một mật báo về vai trò của Mỹ tại Việt Nam) đòi hỏi cải cách của Mỹ được nêu trên dẫn đến việc thành lập một chính quyền trong bóng tối thuộc Toà Đại sứ Mỹ, nhiệm vụ của chính quyền trong bóng tối này là xét những việc cần làm sau đó đốc thúc chính quyền miền Nam Việt thi hành.
Đại úy Lê Châu Lộc cho biết trước khi tiếp xúc với Đô đốc Felt vào năm 1962, Tổng thống Diệm rất đăm chiêu, đọc kỹ nhiều tài liệu và thảo luận với rất nhiều người. Trong phần người Mỹ muốn đưa quân vào tham chiến tại Việt Nam, Tổng thống Diệm đã nói với Đô đốc Felt với đại ý như sau:
“Trong cuộc chiến đấu chống lại Cộng sản quốc tế chúng tôi cần sự giúp đỡ. Ngó quanh khắp thế giới không ai có thể giúp chúng tôi, ngoài người MỹNhưng cuộc chiến này tế nhị lắm! không chỉ thuần tuý giao tranh bằng súng đạn, mà có cả chiến tranh tâm lý, có công tác tuyên truyền. Chúng tôi vừa mới đuổi được người Pháp đi sau bao nhiêu năm chúng tôi chịu ssự đô hộ của họ. Nếu bây giờ người Mỹ lại tới đây, hiện diện trên đất nước tôi bằng những đạo quân tác chiến. Người dân Nông thôn vốn chất phát, họ sẽ nghĩ rằng người Mỹ đến đây cũng chẳng khác chi người Pháp trước kia. Như thế tôi biết làm sao giải thích cho đồng bào tôi hiểu. Vì dân tôi rất nặng lòng với nền độc lập, không muốn chủ quyền bị xâm phạm… Tôi mong rằng người Mỹ hiểu cho tôi. Vì nếu tôi chấp nhận cho quân đội tác chiến Mỹ ở đây, tôi nói làm sao với dân tôi bây giờ?[7]“
Trong cuộc đi viếng vùng Tràm chim với Tổng Thống Diệm và một số Bộ trưởng, Đại sứ Nolting có dò ý yêu cầu chính phủ Việt Nam Cộng Hoà cho Mỹ sử dụng căn cứ Cam Ranh, tháng 3.1963 đại ttướng Harkins lại ngỏ ý qua ngã tướng Khánh, nhưng Tổng Thống Diệm đều từ chối[8]
Tháng 10 năm 1963 nhân dịp về thăm nhà tại Huế Tổng Thống Diệm đã hàn thuyên rất lâu với cụ Võ Như Nguyện, một cựu cộng sự viên thân tín mà Tổng Thống Diệm đã quen biết từ thuở ông thường đi lại với cụ Phan Bội Châu. Tổng thống cho cụ Nguyện biết mưu toan của Mỹ muốn làm cuộc đảo chánh và nguy hiểm đang chờ ông:
„Sẽ nguy hiểm lắm! Mỹ sẽ chơi sỏ tôi. Nếu tôi accepter (chấp nhận) những chuyện của hắn (thay đổi cho Mỹ đem quân vào Việt Nam) thì yên, nhưng còn chi uy tín của Tổng Thống, còn chi uy tín của nước Việt Nam.[9]“
Trong quyển „Bên giòng lịch sử“ Linh mục Cao Văn Luận đã viết lại cuộc gặp gỡ của ông với TT Diệm vào tháng 10,1963, sau cuộc viễn du Hoa kỳ ông đã đề nghị với TT Diệm:
„-…Bây giờ, thưa cụ chúng ta cần người Mỹ, lệ thuộc nhiều vào người Mỹ, chịu ảnh hưởng nặng nề vì sự thương hay ghét của họ. Nếu không vì những lợi ích thiết thực mà phải cải tổ chính phủ, thì cũng nên vì để làm hài lòng người Mỹ mà cải tổ, để họ khỏi phá hoại. Cụ cũng đã hiểu câu châm ngôn “ai chi tiền thì kẻ đó cai trị”. Hiện nay người Mỹ đang chi tiền. Nếu cụ cứng rắn quá sẽ bị bẻ gẫy.
Ông Diệm có dáng suy nghĩ, lo lắng, chú ý hơn lúc đầu một chút:
- Nếu bây giờ chúng ta nhượng bộ Mỹ một bước thì Mỹ sẽ đòi thêm, biết nhượng bộ đến bao giờ cho vừa lòng họ? Tôi muốn võ trang cho Bảo An, Dân Vệ, Thanh niên Chiến Đấu, Mỹ không chịu. Tôi muốn tăng cường quân đội, Mỹ từ chối không chiụ cấp vũ khí và phương tiện, Mỹ chỉ mưốn đưa quân sang Việt Nam thôi[10]“.
Trân quý mạng sống người dân, mạng sống người lính
4 giờ chiều ngày 01.11.1963 đại sứ Lodge lần thứ hai trong ngày gọi điện thoại nói chuyện với Tổng Thống Diệm, đề nghị anh em Tổng thống Diệm rời dinh Gia Long đến tỵ nạn tại Toà đại sứ Mỹ và sau đó sẽ thu xếp để anh em ông xuất ngoại, nhưng Tổng thống Diệm đã từ chối. Đến 4:30 Tướng Đôn điện đàm cùng Tổng thống Diệm yêu cầu ông từ bỏ mọi quyền hành và xuất ngoại vì quân đội đã đứng lên đảo chánh và đã vây chặt thành Cộng Hoà cùng dinh Gia Long. Tổng thống Diệm nói như quát trong điện thoại „Quân mô? Vây ở mô?“. Thực sự lực lượng đảo chánh không đáng kể. Sư đoàn 5 còn ở ngoài đô thành. Phú Lâm, Khánh Hội, Chợ Lớn, Cầu Chữ Y, Thị Nghè còn bỏ trống. Các Tướng lãnh tưởng rằng, khi đọc hiệu triệu trên đài phát thanh thì các cánh quân của Quân đoàn ÌI (trong đó có sư đoàn 5) đã vây chặt thành Cộng Hoà và dinh Gia Long. Trên thực tế quân đảo chính còn rời rạc, lẻ tẻ, chưa vượt qua được cầu Phan Thanh Giản và cầu Thị Nghè vì bị Lữ Đoàn Phòng vệ Phủ Tổng Thống chận lại.[11]
Đại Tá Duệ đã tường thuật rằng, ông được báo cáo từ nhiều nguồn cho biết phòng thủ ở Bộ Tổng tham mưu rất sơ sài chỉ có một số tân binh quân dịch ở Quang Trung lên tăng cường mà thôi nên ông đề nghị Tổng thống cho quân kéo lên đánh thẳng vào Bộ Tổng tham mưu bắt các Tướng.Tổng thống không đồng ý và ra lệnh qua sĩ quan tùy viên rằng [12]:
„Bảo Duệ đừng nóng nảy, Tổng Thống đang liên lạc với các tướng lãnh để cố tránh đổ máu“
Cụ Cao Xuân Vỹ lúc đó ở cạnh Tổng thống Diệm lên tiếng đồng ý với ý kiến của Đại tá Duệ bị Tổng thống Diệm lên tiếng trách:
„Tôi là Tổng tư lệnh quân đội. Tôi lại ra lệnh cho quân đội đánh quân đội à? Tôi còn mặt mũi thấy quân đội nữa không? Có chi thì ngồi giải quyết, chứ quân đội là để chống Cộng, sao lại đem đánh nhau?[13]“
Trong bài phỏng vấn với ông Minh Võ, cụ Cao Xuân Vỹ cho biết lúc đó không phải chỉ có Lữ đoàn Phòng vệ phủ Tổng thống xin lên tấn công mà còn đại đội Biệt kích thuộc Lực lượng Đặc biệt cũng báo cáo là phòng vệ các Tướng ở Bộ Tổng tham mưu rất yếu, xin được cùng 2 tiểu đoàn của Lữ đoàn Phòng vệ Phủ Thổng thống đột kích bắt sống các Tướng đảo chánh. Nhưng Tổng thống Diệm.
Từ nhà thờ Cha Tam Chợ Lớn, sáng ngày 02/11/1963 Tổng thống Diệm đã liên lạc với các Tướng đảo chánh và các Tướng đã cho xe „rước“ Tổng thống và ông cố vấn Nhu về Bộ Tổng tham mưu.
Theo tiết lộ của LM Jean, ông đã thuyết phục anh em Tổng thống Diệm không nên gặp các tướng đảo chánh, nhưng hai ông từ chối[14]:
„Xin Tổng thống và ông Cố vấn nghĩ lại. Chính tôi sẽ dưa Tổng thống và ông Cố vấn đến một nơi an toàn nhất.“
Tổng Thống Diệm:
„Cảm ơn Cha, tôi thấy không có gì nguy hiểm cả. Cá nhân tôi đã dâng trọn cho Chúa và Mẹ Maria nhưng tôi vẫn còn là nguyên thủ quốc gia. Tôi còn trách nhiệm với dân.“
Tổng thống Ngô Đình Diệm và Cố vấn Ngô Đình Nhu bị các tướng đảo chánh mà Tổng thống Johnson gọi là “bọn ác ôn côn đồ đáng nguyền rủa” (a goddam bunch of thugs) ra lệnh giết chết trên chiếc xe M113 sau khi họ đón hai ông từ nhà thờ Cha Tam.
Phản ứng sau cuộc sát hại TT Ngô Đình Diệm và Cố vấn Ngô Đình Nhu
Khi đuợc tin ông Diệm bị lật đổ, ông Hồ Chí Minh nói với ký giả cộng sản danh tiếng, Wilfrid Burchett: „Tôi không thể ngờ rằng tụi Mỹ ngu đến thế“”.
Nguyễn Hữu Thọ nói với báo Nhân Dân: „Sự lật đổ Diệm là một món quà mà Trời ban cho chúng tôi.“
Khi tướng Võ Nguyên Giáp và những đồng chí còn sống sót của ông gặp Ông McNamara ở Hà Nội tháng 11 năm 1995, họ nói rằng: „Chính sách Kennedy ở Việt Nam sai lầm hết chỗ nói. Ngô Đình Diệm là một người có tinh thần quốc gia, không khi nào ông chịu để cho người Mỹ dành quyền điều khiển chiến tranh, và sự người Mỹ dành quyền đã đưa người Mỹ đến thất bại đắt giá. Cho nên, kết quả của cuộc đảo chánh lật đổ ông Diệm năm 1963 là sự kết thúc sớm [sự hiện diện] Hoa Kỳ ở Việt Nam, một điều đáng làm cho người ta ngạc nhiên“ [15]
Những người gần gũi Tổng thống giờ phút cuối kể lại cho họ hàng, bè bạn về cách hành xử của Tổng thống mặc dù cái chết bản thân mình đang cận kề, nhưng nhất quyết không để người khác phải đổ máu để bảo vệ bản thân ông. Nên dân chúng đã truyền nhau câu vè:
„Đày Vua không Khả,
đào mả không Bài,
hại dân không Diệm“
Bài học từ Tổng thống Ngô Đình Diệm
Lòng yêu nước, tinh thần Dân tộc là sợi dây chắc chắn nhất, bền bỉ nhất và chân thành nhất liên kết mọi con dân của Dân tộc.Vì sự liên kết đó dựa trên một nền tảng duy nhất là quyền lợi Dân tộc, Tổ quốc. Tổ quốc Việt Nam đã được cha ông chúng ta gầy dựng và gìn giữ từ hơn 4000 năm qua cho dù phải trải qua nhiều cuộc chiến với kẻ thù xâm lược. Dân tộcViệt Nam đáng tự hào là có được những trang sử oai hùng với Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi vv… Dân tộc và đất nước chỉ được phát triển thực sự, nếu những tinh hoa của Dân tộc được phát huy.
Tổng Thống Ngô Đình Diệm là một tấm gương sáng về cho sự thanh liêm, lòng yêu nước, tính tự cường, sự bảo vệ độc lập và chủ quyền của đất nước mà mọi con dân nước Việt cần phải nuôi dưỡng và phát huy. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, gìai đoạn đen tối nhất của lịch sử Việt Nam. Giai đoạn mà chính người Việt lại đàn áp, bắt bớ, đánh đập, giam tù đồng bào của mình, bởi vì họ thổ lộ lòng yêu nước lên tiếng đòi hỏi quyền lợi Dân tộc, đòi hỏi chủ quyền đất nước. Giai đoạn mà lòng ái quốc, tinh thần Dân tộc bị trừng phạt, hèn nhát, tinh thần vọng ngoại được ban thưởng. Chính sách này rõ ràng nhằm tiêu diệt Dân tộc Việt Nam.
Là người Việt Nam, chúng ta phải có trách nhiệm bằng mọi cách hoá giải Quốc nạn hiện nay để giao lại cho thế hệ sau một Tổ quốc Việt Nam tốt đẹp hơn Tổ quốc mà chúng ta đã nhận lại từ thế hệ trước.
Xã hội biến chuyển không ngừng, đặc biệt là tốc độ biến chuyển xã hội trong giai đoạn toàn cấu hoá hiện nay rất nhanh đến độ khó lường trước được. Chế độ chính trị tại Việt Nam do đó sớm muộn rồi cũng sẽ thay đổi không bằng cách này cũng bằng cách khác.
Những trang lịch sử Việt Nam sau này chắc chắn sẽ không ca tụng ông Tổng Bí thư A, Chủ tịch B, Thủ tướng C có được gia tài kếch sù trị giá 10 tỉ Mỹ kim mà lịch sử sẽ nguyền rủa các ông đã không thi hành trách nhiệm của mình đối với đất nước mà chỉ biết lợi dụng chức vụ vơ vét của công làm giầu bản thân và gia đình để mặc người dân phải sống vất vưởng, khổ cực.
Nhưng lịch sử Việt Nam sẽ ca ngợi các ông bà trong ban lãnh đạo Đảng và Nhà nước CSVN tương tự như lịch sử thế giới hiện nay đang ca ngợi Gorbachov và lịch sử Miến Điện sẽ ca ngợi Chính quyền Quân nhân Miến Điện. Nếu các ông, bà vì Nước, vì Dân từ bỏ quyền lợi cá nhân, đấu tranh bảo vệ chủ quyền của Dân tộcViệt Nam, đồng thời thực hiện một cuộc cách mạng dân chủ ôn hoà tương tự như ở Miến Điện. Vì đó là điều kiện triệt hạ hệ thống tham nhũng rất hệ thống và qui mô hiện hữu từ vài chục năm qua trên đất nước Việt Nam và đó cũng là điều kiện để mọi tầng lớp người dân Việt hết lòng, hết sức tham gia tái kiến thiết quê hương.
Tháng 11 năm 2012
© Nguyễn Hội
© Đàn Chim Việt
————————————————–
[1] Nguyễn văn Minh: Giòng họ Ngô Đình giấc mơ chưa đạt.
[2] LM Trần Quý Thiện: Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm Với Những Bài Học Lịch Sử.
[3] Nguyễn văn Minh: Giòng họ Ngô Đình giấc mơ chưa đạt.
[4] Có tài liệu ghi ngày 01.09.1933
[5] Quốc Đại: Ai giết anh em Ngô Đình Diệm, tr. 112, nhà xuất bản Thanh Niên 2003 (xuất bản trong nước)
[6] Hoàng Ngoc Thành; Thân Thị Nhân Đức: Những Ngày Cuối Cùng Của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, Tr.198.
[7] Vĩnh Phúc: Những Huyền Thoại và sự thật về chế độ Ngô Đình Diệm, Tr. 462-464, Nhà xuất bản Tam Vĩnh 2006
[8] Quốc Đại: Ai giết anh em Ngô Đình Diệm, tr. 477, nhà xuất bản Thanh Niên 2003 (xuất bản trong nước)
[9] Vĩnh Phúc: Những Huyền Thoại và sự thật về chế độ Ngô Đình Diệm, Tr. 488, Nhà xuất bản Tam Vĩnh 2006
[10] Cao Văn Luận: „Bên Giòng Lịch Sử“ http://truyen.catbui.info/re.php?keng=9783
[11] Nguyễn Hữu Duệ: Nhớ Lại Những Ngày Ở Cạnh T.T. NGÔ ĐÌNH DIỆM; Quốc Đại: Ai giết anh em Ngô Đình Diệm, tr. 470, nhà xuất bản Thanh Niên 2003 (xuất bản trong nước)
[12] Quốc Đại: Ai giết anh em Ngô Đình Diệm, tr. 521-522, nhà xuất bản Thanh Niên 2003 (xuất bản trong nước)
[13] Vĩnh Phúc: Những Huyền Thoại và sự thật về chế độ Ngô Đình Diệm, Tr. 579, Nhà xuất bản Tam Vĩnh 2006
[14] Quốc Đại: Ai giết anh em Ngô Đình Diệm, tr. 549, nhà xuất bản Thanh Niên 2003 (xuất bản trong nước)
[15] Tôn Thất Tùng: Cộng sản nghĩ sao về Tổng thống Ngô Đình Diệm?
Đọc mấy cái còm của người chống cộng thấy họ chịu khó sáng tác và bôi đen lịch sử thiệt, không biết mục đích là họ loè bịp người khác hay họ nói xong hỉ hả tự sướng vơi nhau, vì tự sáng tác cho nên mới có chuyện chính họ chửi nhau trên diễn đàn này, mỗi đám sáng tác một kiểu rồi tri trét nhau, gọi nhau là chó, như vậy họ chẳng lừa bịp được ai, cũng chẳng tự sướng được trong những người chống cộng, họ như những người mù, thấy ai cũng lấy gậy phang vì sợ.
TƯ TƯỞNG CHÓ, NÃO TRẠNG CHÓ, Ý THỨC CHÓ
Tư tưởng chó là tư tưởng chỉ có biết chủ, chỉ có theo chủ. Đó là tư duy không vươn lên khỏi loài chó. Ngày nay tư tưởng của mọi người VN tiến bộ, yêu nước, yêu dân tộc không phải là kiểu tư tưởng chó, tư duy kiểu chó nữa, nhưng phải biết vươn lên tầm nhân văn rộng rãi, vươn lên tính văn minh phổ quát, vươn lên tinh thần khách quan, phát triển lớn lao của thời đại công nghiệp, kỹ thuật và khoa học về mọi mặt, nhân văn xã hội cũng như cơ bản tự nhiên. Tinh thần tiến bộ đó là tinh thần hòa đồng, vượt lên mọi đảng phái, vượt qua mọi cá nhân. Tinh thần nhân văn này chỉ biết có sự phát triển, sự tiến bộ của đất nước, tính nhân quyền và hạnh phúc của mọi người nói chung. Cho nên những kẻ u tối lạc loài, cứ hở ra ra lên giọng điệu chống cộng hay không chống cộng, tôn thờ đảng này hay đảng khác, tôn thờ cá cá này hay cá nhân khác một cách mê muội, ngu si, ích kỷ, quả đều là tư duy kiểu chó, quả đều là tư tưởng kiểu chó cả. Tại sao ngày nay lại chỉ biết hoặc là “chống cộng” hoặc là “cộng sản”, hoặc chỉ biết hoặc là “chưởi HCM” hoặc là “tôn vinh HCM”. Đó đều là nhứng đầu óc, những não trạng kiểu chó, chỉ biết chủ, giống như chó của mỗi kẻ đạo chích nào đó mà không còn cần biết gì đến mọi người, đến xã hội, đến dân tộc chung nhất cả. Bởi mọi tư tưởng chó đều tai hai, đều chó má trong thời đại hiện đại, cần phải dẹp bỏ đi mọi tính cách của chó để vươn lên làm ngưởi, không đội đầu tư tưởng nào, ý hệ nào, cá nhân nào, bởi vì đó chỉ là não trạng kiểu chó, đã được huấn luyện giống chó, mà cần phải vươn lên sự tự do, dân chủ đúng nghĩa cần thiết khách quan của mọi người. Tức con người VN ngày nay nói chung đều phải có tư tưởng độc lập, tự chủ, không phải chỉ chống HCM theo kiểu cám tính, cá nhân, cũng không phải “học theo, làm theo lời Bác” trong ý thức nô lệ của một dân tộc nô lệ, của những con người nô lệ theo kiểu não trạng như trên kia đã nói. Ngày nay sự phân biệt chó hay không chó của mỗi cá nhân con người VN cũng như toàn thể nhân dân, dân tộc, đất nước VN chính là như thế.
ĐẠI NGÀN
(17/11/12)
Ngôn là Người!
Nghe lời nói, đọc ngôn ngữ của ai đó viết ra, cộng với tướng mạo…cũng có thể cho phép chúng ta đánh giá về người đó khá chính xác!
Nhìn tướng mạo của ông Diệm và đọc câu này thì những ai có óc nhận định khách quan cũng có thể đánh giá cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm là người thế nào:
Trích bài chủ:…”Cụ Cao Xuân Vỹ lúc đó ở cạnh Tổng thống Diệm lên tiếng đồng ý với ý kiến của Đại tá Duệ bị Tổng thống Diệm lên tiếng trách:
“Tôi là Tổng tư lệnh quân đội. Tôi lại ra lệnh cho quân đội đánh quân đội à? Tôi còn mặt mũi thấy quân đội nữa không? Có chi thì ngồi giải quyết, chứ quân đội là để chống Cộng, sao lại đem đánh nhau?[13]“.
Bấy nhiêu đó cũng có thể hiểu được rằng, TT Ngô Đình Diệm là người quý sinh mạng binh lính và nhân dân VN đến dường nào!
Từ đó suy ra…tất cả những cáo buộc nào: trả thù, đàn áp…chỉ là vu khống và bịa đặt của những kẻ ích kỷ, tị hiềm vì danh lợi mà muốn hất đổ ông!
HỒ VÀ DIỆM
Hồ thì quyết chí Mác Lê
Diệm thì quyết liệt chống nhau với Hồ
Ôi thôi nghiêng ngữa cơ đồ
Non sông đất nước dễ nào hay chi
Chết đi mười triệu con người
Nước nhà xơ xác tiêu điều vì đâu
Đến nay mà vẫn còn rầu
Bóng Hồ bóng Diệm vẫn hầu chưa đi
Bao người còn khóc tỉ ti
Nhớ Hồ nhớ Diệm biết gì núi sông
Ôi thôi con cháu Lạc Hồng
Vì đâu xui khiến ra nông nỗi này
Nhìn trời, nhìn nước, nhìn mây
Nỗi buồn dân tộc biết ngày nào qua
THƯỢNG NGÀN
(17/11/12)
Người Hà nội hỏi :
“Các Cụ ơi, các Cụ giải lao chút đi, cho tép riu hỏi chút, cái vụ đảo Ba bình sự thực là như thế nào, xin ý kiến các Cụ chứ không phải là chọc ngoáy đâu nhé, Kính các Cụ!”
“Kụ” Trúc Bạch trả lời : (yêu cầu Người Hà Nội đọc cho kỹ để đừng thắc mắc nữa)
Sau hai quả bom nguyên tử của Mỹ thả xuống Trường Kỳ và Quang Đảo (Nagasaki & Hiroshima) thì Nhật đầu hàng vô điểu kiện, và theo quyết định tại hôi nghi Yalta, phe đồng minh đã giao cho Nga giải giới quân nhật ở Mãn Châu, còn từ Vạn Lý Trường Thành trở xuống thì giao cho Trung Hoa (TH); Phe TH cộng sản của Mao (do tướng Chu Đức chỉ huy) thì giành nhiệm vụ từ sông Dương Tử lên phía bắc để “phối hợp” với quân Nga, còn từ sông Dương Tử trở xuống tới vĩ tuyến 16 cùng các vùng quần đảo ở Biển Đông là do quân Tầu Tưởng Giới Thạch đảm trách (từ vĩ tuyến 16 trở vào là do quân Anh đảm nhiệm – và quân Anh đã cho quân Pháp lén trở lại Đông Dương) .
Đó là lý do tại sao quân Tầu Tưởng đã có mặt tại Ba Bình; Và vào thới điểm quân Tầu Tưởng có mặt tại Ba Binh (cũng như tại miền bắc) thì VN đang dưới sự lãnh đạo của chính phủ Hồ Chí Minh (cướp chinh quyền từ tay chình phủ trần Trong Kim) …
Sau khi lợi dụng được quân Tầu Tưởng (qua việc đút lót hàng vạn lạng vàng cho tướng Lư Hán) để tiêu diệt các lực lương QG chống Pháp , Hồ Chí Minh lại ký hiệp ước sơ bộ với Pháp ngày 6/3/46, rước quân Pháp từ miền Nam ra Bắc để thay thế quân Tầu Tưởng ; Rồi sau khi nhờ Pháp đẩy được quân Tầu Tưởng, thì Hồ Chí Minh lại cầu viện quân Tầu Mao để đánh Pháp…và cũng vì quá “bận rộn” như thế nên Hồ Chí Minh đã quên rằng vẫn có một số quân Tầu Tưởng còn đóng ở Ba Bình .
Sau chiến thằng ĐBP – ông Hồ – lại theo lệnh Mao ký HĐ/ Giơ Ne Vơ 1954 để chia đôi đất nước. ..Từ vĩ tuyến 17 trở ra là do Hồ Chí Minh lãnh đạo, còn từ vt/17 trở vào trong thì do chính phủ Liên Hiệp Pháp mà Bảo Đại làm quốc Trưởng , …cho đến khi Ngô Đình Diệm “lật” Bảo Đại thì VN cũng rút ra khỏi LHP luôn và thành lập VNCH….
Đầu tháng sáu năm 1956, sau khi thành lập chinh phủ VNCH, Ngô Đình Diệm đã ra tuyên cáo xác nhận chủ quyền của VN trên các quần đảo Hoàng Sa và Trưởng Sa – bao gồm cả Ba Binh – nhưng vì không đủ sức nên chỉ ra tuyên cáo mà không có quân trú đóng; Trớ trêu thay, chỉ 15 ngày sau khi Ngô Đình Diệm ra tuyên cáo thì tại Hà Nội, Hồ Chí Minh ra lệnh cho thứ trưởng ngoại giao VNDCCH là Ung Văn Khiêm tuyên bố rằng :
Theo các dữ liệu lịch sử của VN Nam thì Hoàng Sa và Trường Sa là thuộc chủ quyền của Trung Quốc !
Và hai năm sau (tháng 8/1958) thì Phạm Văn Đồng đã có công hàm chính thức để “xác lập” việc này
Trong xuốt thời gian từ 1959 (ngày Hồ Chí Minh thành lập MTDT/GPMN) cho mãi tới tháng tư năm 1975, VNCH đã quá vất vả để chống đỡ làn sóng tấn công tàn bạo của CS, bị cầm chân khắp bốn vùng chiến thuật, nên không còn tâm trí hay sức lực để “đòi” lại Ba Bình từ tay Đài Loan, và thậm chí, khi quân Tầu (với sự tiếp tay của CS Hà Nội) tấn công Hoàng Sa, VNCH đã quyết liệt chiến đấu, nhưng sức cùng lực kiệt đành phải thua .
Tóm Lại : Quân Tầu Tưởng có mặt tại Ba Binh để tước khí giới quân Nhật từ khi VN còn dưới quyền quản lý của Hồ Chí Minh, và sau khi Hồ Chí Minh chia đôi đất nước thì các chính phủ Quốc Gia VN và VNCH (sau này) chỉ có khả năng ra tuyên cáo chủ quyền mà không có khả năng “đòi lại” bằng quân sự ( Việc tuyên cáo chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa của Chính phủ Quốc Gia VN đã được thủ tướng Trần Văn Hữu tuyên bố trước hội nghị San Francisco năm 1951, và không có quốc gia nào phản đối) .
Chú ý, Trong khi các chình phủ Quốc Gia VN và VNCH luôn khẳng định Hoàng Sa, Trường Sa là của VN (nói chung) thì Hồ Chí Minh và đảng CSVN lại nhiều lần tuyên bố “Ghi nhận, tán thành và tôn trọng” tuyên bố chủ quyền trên 80% Biển Đông , bao gồm cả “Tây Sa và Nam Sa” – tức Hoàng Sa và Trường Sa – là của Trung Cộng …chỉ vì Hồ cho rằng HS-TS là do “ngụy” quản lý chứ không phải là của VN.
Thế nên có thơ rằng :
Văn tự mua , bán Biển Đông
Bác Hồ ra lệnh chú Đồng viết thay
Viết rằng : “Thôi, kể từ nay.
Tất cả thứ này, là của bác Mao !
Còn chuyện đắt rẻ ra sao ?
Lời lỗ, giá cả thấp cao mặc….tình .
Biển – Đảo chẳng phải của mình
Mình bán cũng chẳng tội tình chi mô !”
Chú Đồng vâng theo bác Hồ
Ký tên, đóng dấu,“phô tô” gởi liền .
Để nhanh nhanh có được tiền
Mua súng, mua đạn ưu tiên hàng đầu
Chống Mỹ là yêu nước…Tàu
Nghĩa vụ quốc tế không lâu đã thành ….
…Tội Hồ “Bán Nước” rành rành !
Cho nên Biển Đảo thôi đành…
Mất không !
Việc Ngô Đình Diệm tuyên bố chủ quyền VN trên Biển Đông và Hoàng Sa – Trương Sa tháng sáu năm 1956, và 15 ngày sau thì thứ trưởng ngoại giao VNDCCH Ung Văn Khiêm tuyên bố Hoàng Sa và Trường Sa là của TQ, Người Hà Nội có thể đọc thêm tài liệu này :
On 15 June 1956, two weeks after the RVN reiterated the Vietnamese claims to the Truong Sa Islands, the DRV Second Foreign Minister told the PRC Charge d’Affaires that “according to Vietnamese data, the Xisha and Nansha Islands are historically part of Chinese territory.”[65] Two years later, the PRC made a declaration defining its territorial waters. This declaration delineated the extent of Chinese territory and included the Truong Sa. In response, the DRV Prime Minister, Pham Van Dong, sent a formal note to PRC Premier Zhou Enlai stating that “The Government of the Democratic Republic of Viet Nam respects this decision.”[66]
——————————————————————————–
Ngày 15 tháng 6 năm 1956, hai tuần lễ sau khi Việt Nam Cộng Hoà (RVN) tái xác nhận chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Trường Sa, Thứ trưởng Ngoại giao của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (DRV) đã nói với Ban Thường Vụ của Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa (PRC) rằng “theo những dữ kiện của Việt Nam thì quần đảo Hoàng Sa (Xisha) và quần đảo Trường Sa (Nansha) là một bộ phận lịch sử của lãnh thổ Trung quốc” . Hai năm sau đó, Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa đã ra bản tuyên bố xác định lãnh hải của họ. Bản tuyên bố này đã vạch ra rõ ràng cái khoảng khu vực của lãnh thổ Trung quốc có bao gồm cả Trường Sa . Để đáp lễ, Thủ tướng Viêt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (DRV), Phạm Văn Đồng đã gởi một bản công hàm đến Thủ tướng Trung quốc Chu Ân Lai, nhấn mạnh rằng “Chính Phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà tôn trọng quyết định này”.
Trích và lược dịch từ Vietnamese Claims to the Truong Sa Archipelago by Todd Kelly
và A Journal of the Southeast Asian Studies Student Association
Đọc thêm tài liệu này :
Palawan Sun: Bắc Việt Nam ủng hộ Tuyên bố 1958 của Trung Quốc
When in 1957 China protested Vietnam’s move in Robert Island, Saigon was already in control also of two other islands of the Crescent Group: Pattle and Money Islands. The three South Vietnamese held islands are on the western side of the Crescent Group. Then in August 1958 Saigon took over Duncan Island in the eastern sector of the Crescent, thus facing the Amphitrite Group. Two weeks later the PRC government declared its sovereignty over the whole of the Paracels. They were supported by North Vietnam.
——————————————————————————–
Vào năm 1957 khi Trung quốc phản đối sự chiếm đóng của Việt Nam tại đảo Robert, thì chính quyền Sài Gòn đã hoàn toàn kiểm soát hai đảo khác trong nhóm Crescent: đảo Pattle và đảo Money. Ba (3) đảo mà (chính quyền) Nam Việt Nam chiếm giữ nằm bên phía tây của nhóm Crescent. Rồi đến tháng 8 năm 1958, (chính quyền) Saigon lại chiếm giữ thêm đảo Duncan nằm bên khu vực phía đông của nhóm đảo Crescent, đối diện với nhóm Amphitrite. Hai tuần sau đó, chính phủ Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa tuyên bố chủ quyền của họ trên toàn bộ Quần đảo Hoàng Sa. Họ đã được ủng hộ bởi (chính phủ) Bắc Việt Nam.
Trích và lược dịch từ A History of Three Warnings By Dr. Jose Antonio Socrates
và Palawan Sun Online
Vụ tranh chấp đảo Hoàng Sa và Trường Sa thời VNCH được đưa vào chi tiết trong môn Quốc Tế Công Pháp ở trường Luật của VNCH. Theo tôi biết, thì hồi năm 1956 đó có một số nước kể cả Tàu, Đài Loan, Phi, Mã Lai tranh chấp chủ quyền những đảo này. Sau khi VNCH đưa ra những chứng cớ lịch sử, cuối cùng TT Ngô Đình Diệm gửi ra đó 1 đại đội Thủy Quân Lục Chiến và lập trạm viễn thông trên vùng đất đó; từ đó mấy nước kia im luôn.
Tình Sử Hồ Chí Minh .
Một người vợ Trung Quốc khác của Hồ Chí Minh (胡志明的另一个中国爱人)
Dương Thành Vãn Báo (Báo Dương Thành buổi chiều) 羊城晚報, 12-11-2011
Tác giả: Đinh Đông Văn
*Hình Hồ Chí Phèo với các đồng chí Nga Sô khi hắn bắt đầu làm tay sai cho Cộng sản./-
Trần Hiểu Nông ghi lại lời của cha là Trần Bá Đạt[1]: “Thời trẻ Hồ Chí Minh đã từng kết hôn. Vợ ông ta là một người Hạ Môn, nhưng đã mất rất sớm. Sau đó ông ta sống độc thân một thời gian rất dài. Sau khi cách mạng Việt Nam thắng lợi, ông muốn cưới một người Phúc Kiến làm vợ, nhưng Trung ương Đảng Việt Nam không đồng ý, ông không thể không phục tùng quyết định của Trung ương Đảng Việt Nam, vì vậy ông không bao giờ tái hôn nữa”.
Thực ra, người phụ nữ thứ nhất phải là Tăng Tuyết Minh. Người phụ nữ thứ hai là Lâm Y Lan.
Năm 1930, Hồ Chí Minh bị truy bắt ở Việt Nam, không chốn dung thân, thông qua liên lạc viên cầu sự trợ giúp từ Tỉnh ủy Quảng Đông Đảng Cộng sản Trung Quốc đang còn trong vòng bí mật. Đào Chú[2] bố trí cho nữ đảng viên Đảng cộng sản (Trung Quốc) Lâm Y Lan giả làm vợ Hồ Chí Minh, đồng thời dặn dò nhất hiết phải đảm bảo an toàn cho Hồ Chí Minh.
Lúc đó Hồ Chí Minh 40 tuổi, ông cảm thấy Lâm Y Lan đặc biệt giống người yêu Nguyễn Thanh Linh đã hi sinh, ông viết trong nhật ký: “Cô ta giống hệt Nguyễn Thanh Linh cả về lời nói cử chỉ lẫn tính cách sở thích. Ánh mắt vừa chạm nhau, tôi đã tự thấy mình sẽ không còn là một kẻ vô thần thuần túy nữa. Tôi cho đây tất cả đều là ý trời”.
Không lâu sau, Hồ Chí Minh bị bắt, trước lúc chia tay, ông lấy cuốn nhật ký của mình giao cho Lâm Y Lan và nói: “Anh để trái tim mình lại bên em, hãy nhận lấy đi!” Ba hôm sau, Hồ Chí Minh được giải cứu. Ông hỏi Lâm Y Lan: “Đọc xong nhật ký của anh rồi chứ gì! Anh tin rằng đóa hoa lan trong trái tim anh sẽ không bao giờ khô héo”. Lâm Y Lan không ngăn được tình cảm nhào vào lòng Hồ Chí Minh.
Vào những năm 50 của thế kỷ trước, Lâm Y Lan đã là cán bộ cao cấp, nhưng vẫn ở một mình. Khi Đào Chú quan tâm đến chuyện hôn nhân của bà, bà mới nói vẫn còn yêu Hồ Chí Minh. Đào Chú hỏi: “Ông ta có yêu bà không?” Đáp: “Ông ấy bảo tôi đợi ông”.
Hồ Chí Minh sang thăm Trung Quốc vào những năm 50, yêu cầu gặp lại người bạn cũ Lâm Y Lan. Mao Trạch Đông lập tức cho gọi Đào Chú và Lâm Y Lan lên Bắc Kinh. Đúng lúc Hồ Chí Minh chuẩn bị lên máy bay về nước, Lâm Y Lan chạy đến bên ông, hai đôi bàn tay nắm chặt lấy nhau. Trước khi máy bay cất cánh, Lâm Y Lan lấy cuốn nhật ký trả lại cho Hồ Chí Minh, nhưng Hồ Chí Minh nhẹ nhàng đẩy lại và nói: “Bên mình anh không có em, rất lâu rồi anh không còn viết nhật ký nữa, cứ để nó lưu lại nơi em làm kỷ niệm!”.
Năm 1958, Hồ Chí Minh 68 tuổi, có mời Đào Chú sang thăm cùng đi câu. Ông nói: “Tôi và Lâm Y Lan yêu nhau đã hơn 20 năm, vì sự nghiệp cách mạng mà đã lỡ tuổi thanh xuân. Bây giờ tuổi đã cao, muốn nhanh chóng được đoàn tụ với Y Lan. Mong anh khi về nước thử thăm dò thái độ của Chủ Tịch Mao Trạch Đông và Thủ tướng Chu Ân Lai xem sao, nếu họ tán thành, tôi muốn đưa Y Lan đến Hà Nội cử hành hôn lễ bí mật để thỏa nỗi mong muốn đã ấp ủ từ nhiều năm”.
Mao Trạch Đông nói: “Chúng ta khuyến khích tự do yêu đương, tự chủ hôn nhân. Thế nhưng việc này lại liên quan đến mối quan hệ giữa hai Đảng và hai nước Trung-Việt, không thể khinh suất được”. Còn khi Bộ chính trị Đảng cộng sản Việt Nam họp để thảo luận về việc này, số ý kiến phản đối đã vượt quá số ý kiến tán thành.
Hồ Chí Minh không biết làm thế nào đành viết thư cho Lâm Y Lan: “Y Lan thân yêu, chúng ta không có duyên tái hợp. Em đã nghe kể về tình yêu tinh thần của Plato chưa? Hãy để cho tâm hồn của hai chúng mình mãi mãi hòa làm một!”
Lâm Y Lan trả lời: Nếu là trên trời xin làm đôi chim liền cánh, nếu là dưới đất xin làm đôi cây giao cành. Trời dài đất rộng có lúc tận, còn mối tình này không bao giờ cạn. Năm 1968, Lâm Y Lan lâm bệnh mất. Trước lúc lâm chung, bà nhờ người gửi trả cuốn nhật ký cho Hồ Chí Minh. Một năm sau, Hồ Chí Minh cũng qua đời, trong lúc hấp hối vẫn còn gọi tên Lâm Y Lan.
(Trích từ “Tham khố văn sử” số 17 năm 2011)
[1] Trần Bá Đạt (1904 – 20.9.1989,
[2] Đào ChúNguồn: http://vietsuky.wordpress.com/2012/01/31/63-mot-nguoi-vo-trung-quoc-khac-cua-ho-chi-minh/ Danlambao: Ngày 30/08/2006 tờ báo Tin nhanh Văn hóa, kỳ 421 của Trung Quốc đã đăng bài viết về “thâm cung bí sử” này.
“Tôi để trái tim tôi lưu lại với em”
Người dịch Viêm Hoàng Xuân Thu, Quan Công Nhân
Năm 1930, trong lúc khu hành chính tại Bạch Sắc bị khủng bố, các địa bàn khác cũng đang bị địch tăng cường lùng bắt các “phần tử cộng sản”. Lúc ấy, Hồ Chí Minh đã đến Quảng Châu. Xuất phát từ suy nghĩ bảo vệ an toàn cho mình, ông ta nhờ tỉnh ủy bí mật ở Quảng Đông giúp đỡ. Tỉnh ủy Quảng Đông cử Đào Chú sắp xếp cho Hồ Chí Minh cùng một nữ đảng viên cộng sản tên là Lâm Y Lan đóng giả làm một cặp vợ chồng để bảo vệ Hồ Chí Minh.
Hôm ấy, Hồ Chí Minh tìm đến chỗ ở mới, vừa mới bước vào đến cửa liền đứng sững người lại vì kinh ngạc, vì người phụ nữ đang đứng trước mặt ông ta rõ ràng là người mà ông ngày đêm tưởng nhớ : Nguyễn Thanh Linh. Tựa hồ như trong giấc chiêm bao, Hồ Chí Minh liền hỏi : “Thanh Linh, em … em chưa chết ư ?” Cô gái cũng ngỡ ngàng chưa hiểu được chuyện gì, nhìn kỹ ông ta rồi nói : “Ông có phải là Hồ Chí Minh ? Tôi họ Lâm, tên gọi là Y Lan”. Hồ Chí Minh lúc ấy mới biết là mình đã nhận nhầm người, vội mỉm cười nhận lỗi : “Xin lỗi cô, tôi thất thố quá !”.
Lát sau, Hồ Chí Minh mới chậm rãi kể lại : 10 năm về trước ông ta có yêu một người con gái tên là Nguyễn Thanh Linh, nói đến chuyện ấy lại động lòng rơi lệ, gạt tay lau nước mắt lưng tròng. Hồ Chí Minh viết trong nhật ký : “Tôi phát hiện ra rằng tự bản thân mình cũng không thể là một con người “vô thần”, nhất định là tấm lòng chân tình của tôi đã làm cảm động đến Thượng đế, tôi quyết không để một lần nữa phải chia ly cô ấy”.
Để yểm hộ cho Hồ Chí Minh triển khai công việc tại Quảng Đông, Hương Cảng, Lâm Y Lan đã thực hiện vai trò như một người vợ thực sự, chăm sóc lo liệu cho Hồ Chí Minh từng ly từng tí trong mọi sinh hoạt hàng ngày. Hồ Chí Minh cảm động vô cùng, nhưng lại lo rằng thời cơ vẫn chưa chín muồi, sợ bị Lâm Y Lan cự tuyệt, cuối cùng cũng không dám biểu lộ ra tình yêu của mình. Về phần Lâm Y Lan thì thấy rằng Hồ Chí Minh đã dốc hết bầu tâm sự với mình, nên cũng từ rất sớm trong trái tim đã thầm hứa hẹn những điều tốt đẹp, nhưng lại nhận thấy chưa đến lúc nói ra tình cảm của mình một cách rõ ràng nên cũng lại im lặng.
Không lâu sau, do bị kẻ phản bội bán rẻ, Hồ Chí Minh bị bắt. Lúc sắp chia tay, Hồ Chí Minh ôm hôn Lâm Y Lan, lấy khăn tay lau nước mắt trên khuôn mặt cô và nói : “Kiên cường lên em, đừng để kẻ địch nhìn thấy chúng ta yếu mềm”, nói xong liền lấy ra từ trong người một quyển nhật ký được giấu kỹ đưa cho Lâm Y Lan và nói : “Tôi để trái tim lưu lại với em, hãy giữ lấy nhé !”.
Ba hôm sau, Hồ Chí Minh được cứu ra, ông ta mang hoa lan đến tặng Lâm Y Lan, nhìn thấy Lâm Y Lan với thái độ ngại ngùng, Hồ Chí Minh nói : “Em đã xem qua quyển nhật ký chưa ? Tôi tin tưởng rằng hoa lan trong trái tim này mãi mãi không bao giờ khô héo”.
Dự định bí mật tổ chức hôn lễ tại Hà Nội
Bánh xe lịch sử đã lăn chuyển đến thập niên 50 của thế kỷ 20, đất nước TC được “giải phóng”. Lúc ấy, Lâm Y Lan đã là cán bộ lãnh đạo cao cấp của tỉnh Quảng Đông, Hồ Chí Minh cũng đã về nước tiếp tục thực hiện sự nghiệp cách mạng.
Hồ Chí Minh kể từ khi tạm biệt Lâm Y Lan, lòng yêu thương nhớ nhung ngày càng thêm da diết. Vài năm sau đó, Hồ Chí Minh nhận lời mời đến thăm TC, nhân tiện đó đã đề nghị chủ tịch Mao Trạch Đông thu xếp cho mình được gặp lại các bạn cũ cùng hoạt động ở Quảng Đông để ôn lại chuyện cũ. Chủ tịch Mao Trạch Đông lập tức điện cho tỉnh ủy Quảng Đông bố trí cho Đào Chú, Lâm Y Lan và một vài người khác đến Bắc Kinh để gặp mặt Hồ Chí Minh.
Năm 1958, tại Hà Nội, bên bờ sông có hai người bạn già ngồi thong thả buông câu, họ chính là Đào Chú và Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh nói với Đào Chú một cách rất nghiêm túc : “TC có câu nói : Trẻ là vợ chồng, già làm bạn. Tôi và Lâm Y Lan thương yêu nhau đã trên 20 năm, cũng bởi vì sự nghiệp cách mạng mà làm lỡ đi tuổi thanh xuân, giờ đây cả hai người tuổi tác đều đã cao, tôi càng cảm thấy cô đơn gấp bội lần, cho nên càng muốn sớm được cùng Lâm Y Lan đoàn tụ. Mong ông khi trở về bên ấy xin ý kiến của Mao chủ tịch và thủ tướng Chu Ân Lai giúp xem giải quyết việc này như thế nào ? Nếu quả là Mao chủ tịch và Chu thủ tướng tán thành thì tôi định là sẽ đón Lâm Y Lan về Hà Nội và bí mật tổ chức hôn lễ, đấy chính là đạt đuợc nguyện vọng đã ấp ủ từ bấy nay của tôi”.
Sau khi Đào Chú về đến Bắc Kinh liền truyền đạt ngay ý nguyện của Hồ Chí Minh với Trung ương Đảng và Mao chủ tịch. Mao chủ tịch trầm ngâm giây lát rồi mới nói : “Chúng ta đề xướng “tự do yêu đương, tự chủ hôn lễ”, cá nhân tôi ủng hộ yêu cầu của Hồ chủ tịch, thế nhưng sự việc này quả là một việc “nhỏ mà không nhỏ”, nó có liên quan đến quan hệ giữa hai đảng và hai nước Việt – Trung, không thể lơ là được”. Thủ tướng Chu Ân Lai cũng nhận thấy rằng cần thiết phải bàn bạc với các đồng chí trong Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam về việc này.
Lê Duẩn giơ tay phải rồi lại bỏ xuống
Trong phòng họp của Bộ chính trị Trung ương Đảng cộng sản Bắc Việt. Hồ Chí Minh và Lê Duẩn ngồi đối diện nhau, hai bên bố trí chỗ ngồi cho các ủy viên. Tất cả mọi người trong phòng họp đều ngồi lặng im không lên tiếng. Cuối cùng, Hồ Chí Minh đập bàn đứng dậy nói : “Tôi chịu như vậy đủ rồi ! Tôi không muốn sống như một con người khác nữa ! Tôi cũng có những quyền lợi của mình để tự đưa ra quyết định chứ, lần này các anh đừng mong thuyết phục tôi !”
Lê Duẩn không hề tỏ ra nóng nảy, bình tĩnh điềm đạm nói : “Cụ Hồ, cụ đừng quá nóng vội ! Phàm là làm việc gì thì cũng phải suy tính cho kỹ, không thể không tính trước tính sau, tôi cũng vì lo cho cụ mà muốn khuyên cụ thế này. Chẳng phải cụ đã từng nói : vì Việt Nam thống nhất nên trọn đời không lấy vợ ? Câu nói ấy có ảnh hưởng rất lớn, một khi mà cụ đã vi phạm vào lời hứa đó có nghĩa là chúng ta hủy bỏ sự nghiệp giải phóng miền Nam thiêng liêng, như thế không chỉ ảnh hưởng tới hình tượng “người cha già dân tộc” của cụ đối với nhân dân, mà còn làm mất đi thanh danh của Đảng cộng sản Việt Nam. Vì vậy, tôi thà bị cụ quở trách, căm ghét cũng không thể để nhân dân trách cứ chúng ta là phạm nhân thiên cổ !”
Hồ Chí Minh vẫn không giữ nổi bình tĩnh, nói : “Đúng là tôi đã nói câu nói ấy, thế nhưng con người không phải là thần thánh, ai không phải trải qua ? Vả lại, nhân dân cũng không chỉ nhìn vào lời nói của tôi, điều quan trọng là công việc của tôi như thế nào chứ. Tôi tin rằng nhân dân sẽ lượng thứ cho tôi !”
Hồ Chí Minh thấy Lê Duẩn không nói một lời, nghiến chặt răng nói : “Đã như thế, bàn bạc không thống nhất được thì mọi người biểu quyết, dựa theo nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số để giải quyết vấn đề này. Ai đồng ý với tôi xin giơ tay”.
Hồ Chí Minh đưa mắt nhìn bốn bên, số ủng hộ và phản đối cũng tương đương nhau, đang nhìn xem thái độ Lê Duẩn thế nào. Lúc ấy, Lê Duẩn ngập ngừng giơ tay phải lên rồi đột nhiên lại hạ xuống, thở dài nói : “ Tôi không thể hại cụ được !”
Điều khiến Lê Duẩn bất ngờ là Hồ Chí Minh đã không những không nổi giận đùng đùng, chửi mắng ầm ĩ, ngược lại ông ta chỉ cười gượng một cách khô khan rồi bước ra bên ngoài.
Giữa lúc hấp hối vẫn nhớ đến Lâm Y Lan
Tình yêu của Hồ Chí Minh với Lâm Y Lan đã ảnh hưởng rất lớn đến tinh thần Lâm Y Lan, bà ta mất vào năm 1968, trước lúc lâm chung cũng không quên lấy ra quyển “nhật ký tình yêu” mà Hồ Chí Minh tặng cho mình và nhờ người chuyển cho Hồ Chí Minh, cũng nhắn nhủ Hồ Chí Minh không nên quá buồn phiền.
Hồ Chí Minh nhận được tin người yêu thương mất, buồn không muốn sống nữa, lệ rơi như mưa. Cách một năm sau đó, ngày 02/09/1969, Hồ Chí Minh cũng đột ngột qua đời, giữa lúc hấp hối vẫn còn nhắc đến tên Lâm Y Lan.
Mối tình bi kịch giữa Hồ Chí Minh với người yêu Trung Quốc
(Trích từ: 胡志明 http://baike.baidu.com/view/63018.htm#4_4)
Trong những năm tháng đặc biệt, lãnh tụ Hồ Chí Minh của Cách mạng Việt Nam đã để lại mối tình cách mạng tấm tức suốt đời ở Trung Quốc.
Năm 1930, Trung Quốc đang lâm vào cảnh khủng bố trắng, Hồ Chí Minh đến Quảng Châu. Để yểm hộ cho việc triển khai công tác của Hồ Chí Minh ở Quảng Đông và Hồng Kông, Tỉnh ủy Quảng Đông đã bố trí nữ đảng viên Đảng cộng sản Trung Quốc Lâm Y Lan giả làm vợ Hồ Chí Minh. Lâm Y Lan đã chăm sóc hết mức mọi sinh hoạt ăn ở của Hồ Chí Minh, khiến cho ông vô cùng cảm kích, nhưng mãi vẫn không dám thổ lộ tình yêu. Không lâu sau, Hồ Chí Minh bị bắt vì bọn phản bội bán rẻ. Trước lúc chia tay, ông lấy cuốn nhật ký quý báu trao cho Lâm Y Lan và nói: “Anh để trái tim mình lại bên em, hãy nhận lấy đi!” Ba hôm sau, Hồ Chí Minh được giải cứu. Ông tặng hoa lan cho Lâm Y Lan và tình yêu của hai người cuối cùng đã bắt đầu.
Sau khi Trung Quốc mới được thành lập, Hồ Chí Minh về nước tiếp tục sự nghiệp cách mạng còn chưa hoàn thành. Sau khi xa cách Lâm Y Lan, nỗi nhớ của Hồ Chí Minh ngày càng nặng thêm. Khi được mời đến thăm Trung Quốc, ông xin Mao Trạch Đông bố trí cho gặp lại bạn cũ ở Quảng Đông để ôn lại tình xưa. Mao Trạch Đông lập tức gọi điện cho Tỉnh ủy Quảng Đông, Đào Chú và Lâm Y Lan… đến Bắc Kinh gặp mặt Hồ Chí Minh. Đúng lúc Hồ Chí Minh chuẩn bị lên máy bay về nước, ông thấy Lâm Y Lan chạy về phía mình. Hai người đắm đuối nhìn nhau rất lâu và đều không ngăn được những dòng lệ.
Năm 1958, Hồ Chí Minh trịnh trọng nói với Đào Chú nguyện vọng muốn đón Lâm Y Lan đến Hà Nội để cử hành hôn lễ bí mật. Sau khi về đến Bắc Kinh, Đào Chú chuyển ý của Hồ Chí Minh lên Trung ương Đảng và Mao Chủ tịch. Mao Chủ tịch trầm ngân giây lát rồi nói: “Cá nhân tôi ủng hộ lời yêu cầu của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thế nhưng việc này lại liên quan đến mối quan hệ giữa hai Đảng và hai nước Trung-Việt, nên không thể khinh suất được”. Chu Ân Lai cũng nói: “Nên bàn bạc với các đồng chí bên Đảng Cộng Sản Việt Nam một chút, nếu như họ đồng ý, thì chúng ta quyết không làm hòn đá cản đường”.
Thế nhưng, trong phòng họp của Bộ Chính trị Trung ương Đảng Bắc Việt, một vị lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam (Lê Duẩn) đã điềm tĩnh nói với Hồ Chí Minh: “Anh đã từng nói rằng Việt Nam còn chưa giải phóng thì anh sẽ suốt đời không lấy vợ, câu nói này có ảnh hưởng rất lớn, một khi Bác đã phản bội lại lời hứa đó, thì có nghĩa là chúng ta đã từ bỏ sự nghiệp thiêng liêng giải phóng Miền Nam, điều này không chỉ làm tổn hại đến hình tượng Cha già dân tộc của anh, mà ngay cả Đảng cộng sản Việt Nam cũng sẽ vì thế mà mất hết sạch danh tiếng. Cho nên, tôi thà bị anh trách móc, thù ghét, chứ không thể để cho dân chúng Việt Nam chửi mắng chúng ta là kẻ tội nhân ngàn đời”.
Nghe xong, Hồ Chí Minh vô cùng nản lòng, cười một cách đau khổ, bỏ chỗ ngồi đi ra… Lâm Y Lan lúc này đang nằm trong bệnh viện thành phố của Quảng Châu mỏi mắt trông chờ, rồi điều bà trông đợi lại là một mẩu thư ngắn của Hồ Chí Minh: “Y Lan thân yêu, chúng mình không có duyên tái hợp. Em đã nghe tình yêu tinh thần của Plato chưa? Xin hãy để linh hồn của hai đứa chúng ta mãi mãi hòa làm một!” Y Lan đặt lá thư lên bậu cửa sổ, để cho gió lành cuốn nó đi. Bà nhìn theo lá thư bay lượn trong gió, lặng khóc thầm. Mối tình giữa Hồ Chí Minh và Y Lan đã đánh một cú quá lớn vào tinh thần Y Lan, bệnh tình của bà bắt đầu trở nên xấu đinăm 1968, Lâm Y Lan mất, trước lúc lâm chung, bà còn không quên nhờ người giao trả lại cuốn “Nhật ký tình yêu” mà Hồ Chí Minh đã tặng cho mình, đồng thời dặn lại ông hãy ghìm nén nỗi đau. Hồ Chí Minh đã sốc khi nhận được tin người yêu mất, đau đớn chẳng muốn sống, nước mắt giàn giụa… Sau đó một năm, cũng chính là vào sáng sớm ngày 2 tháng 9 năm 1969, Hồ Chí Minh cũng đã qua đời. Trong lúc hấp hối, ông còn đã gọi tên Lâm Y Lan…
(Trung Quốc) Bách Độ Bách Khoa.
胡志明与中国恋人的悲剧情缘
Đọc thêm:
Tăng Tuyết Minh, người vợ Trung Quốc của Nguyễn Ái Quốc
Hoàng Tranh
“Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sống độc thân suốt thời gian dài lâu nhưng hoàn toàn không phải Người suốt đời không lấy vợ. Thực ra, Hồ Chí Minh từng có một giai đoạn sống trong hôn nhân chính thức. Đó là vào thời kì những năm 20 đầu thế kỉ XX khi người tiến hành công tác cách mạng tại Quảng Châu, Trung Quốc. Nói cụ thể là vào tháng 10 năm 1926, Hồ Chí Minh từng lấy cô gái Quảng Châu Tăng Tuyết Minh làm vợ, đã cử hành hôn lễ, sau khi cưới đã chung sống với nhau hơn nửa năm. Vào tháng 5 năm 1927, sau khi rời Quảng Châu, Hồ Chí Minh đã mất liên lạc với vợ và từ đó không thể gặp lại nữa. Từ đó, đôi tình nhân ấy, người không bao giờ đi bước nữa, người không một lần nào nữa cưới vợ, mỗi người một phương trời, đều sống độc thân cho đến khi từ biệt cõi đời này.”
“Tăng Tuyết Minh, người vợ Trung Quốc của Hồ Chí Minh, quê ở huyện Mai tỉnh Quảng Đông, sinh tháng 10 năm 1905 ở thành phố Quảng Châu. Thân phụ của Tuyết Minh là Tăng Khai Hoa, thời trẻ một mình đến Đàn Hương Sơn (Honolulu) lúc đầu làm công, sau buôn bán ; khi tích luỹ được ít vốn liếng, trở về nước tiếp tục buôn bán, gia cảnh khấm khá, vui vẻ. Người vợ đầu của ông Tăng Khai Hoa họ Phan, sinh được hai trai một gái. Sau khi bà Phan bị bệnh mất, ông lấy bà vợ kế họ Lương là người huyện Thuận Đức sinh được 7 cô con gái nữa. Tăng Tuyết Mai là con út, bởi vậy những người quen biết Tăng Tuyết Minh thường gọi cô là “ cô Mười ”. Khi cô 10 tuổi thì người cha qua đời, để lại một chút bất động sản. Bà Lương thị cùng Tuyết Minh sống qua ngày nhờ vào tiền thuê nhà, gia cảnh không được như trước. Năm 1918, mới 13 tuổi, Tuyết Minh đã bắt đầu theo chị là Tăng Tuyết Thanh, một y sĩ sản khoa, học việc hộ lí và đỡ đẻ. Đầu năm 1923, người chị ấy đưa Tăng Tuyết Minh đến Phiên Ngu để học Cao đẳng tiểu học. Nửa năm sau, Tăng Tuyết Thanh chẳng may lìa đời, Tăng Tuyết Minh mất đi nguồn chu cấp, ngay tháng 7 năm ấy phải vào trường Hộ sinh Quảng Châu học tập. Tháng 6 năm 1925, Tăng Tuyết Minh tốt nghiệp trường trợ sản, được ông hiệu trưởng giới thiệu đến trạm y tế La Tú Vân làm nữ hộ sinh. Chính thời gian này Tăng Tuyết Minh làm quen với Hồ Chí Minh lúc ấy đang tiến hành công tác cách mạng ở Quảng Châu.”
“(…) Tháng 11 năm 1924, Hồ Chí Minh từ Mạc Tư Khoa đến Quảng Châu, lấy tên là Lý Thuỵ, làm việc tại phòng phiên dịch của cố vấn Borodin, thuộc Hội Lao Liên của Tôn Trung Sơn, trú ngụ tại nhà hàng của ông Bào tại quảng trường Đông Hiệu. Sau những giờ làm công tác phiên dịch, Hồ Chí Minh dành nhiều thì giờ và tâm sức vào công việc liên kết và tổ chức các chiến sĩ cách mạng Việt Nam, sáng lập tổ chức cách mạng Việt Nam, huấn luyện cán bộ cách mạng Việt Nam trong công tác. Trong thời gian ấy, những thanh niên cách mạng Việt Nam đến Quảng Châu trước như Hồ Tùng Mậu, Lâm Đức Thụ đều trở thành trợ thủ đắc lực cho Người. Lâm Đức Thụ cùng người vợ Trung Quốc của ông là Lương Huệ Quần chính là ông mối bà mối cho cuộc hôn nhân của Hồ Chí Minh và Tăng Tuyết Minh.”
“Lâm Đức Thụ vốn tên là Nguyễn Công Viễn, người huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình, Việt Nam, sinh năm 1890 (cùng tuổi với Hồ Chí Minh). Hồ Chí Minh cùng với gia đình Lâm Đức Thụ có thể nói là chỗ giao hảo nhiều đời. Hai người quen biết nhau từ thuở thiếu thời, lại cùng chí hướng. Năm 1911, Hồ Chí Minh đến châu Âu tìm chân lí cách mạng, gần như đồng thời, hưởng ứng lời hiệu triệu của nhà chí sĩ chống Pháp lão thành Phan Bội Châu, Lâm Đức Thụ muốn Đông du qua Nhật, nhưng khi nổ ra Cách mạng Tân Hợi, Phan Bội Châu tới Trung Quốc, sáng lập Việt Nam Quang phục hội ở Quảng Châu, Lâm Đức Thụ theo Phan Bội Châu đến Quảng Châu và gia nhập hội đó. Đầu năm 1922, một số thanh niên nhiệt huyết trong Việt Nam Quang phục hội cảm thấy thất vọng về cánh già bảo thủ nên đã li khai Quang phục hội để lập ra một đoàn thể cấp tiến hơn là Tâm tâm xã. Sau khi đến Quảng Châu, Hồ Chí Minh rất nhanh chóng liên hệ được với Tâm tâm xã và quyết định cải tạo tổ chức này thành một tổ chức cách mạng chân chính của giai cấp vô sản Việt Nam. Hồ Chí Minh vốn quen biết Lâm Đức Thụ từ trước nên ở Quảng Châu Người coi Lâm là cốt cán có thể tin cậy.”
Tăng Tuyết Minh ở tuổi 20
“Lâm Đức Thụ hoạt động ở Quảng Châu một thời gian khá lâu. Ở đây ông đã lấy cô gái Trung Quốc Lương Huệ Quần làm vợ. Mẹ của Lương Huệ Quần là một thầy thuốc đã mở tại thành phố Quảng Châu một dịch vụ y tế. Lương Huệ Quần có làm công tác y tá tại đó. Năm 1925, Tăng Tuyết Minh tốt nghiệp trường Bảo sinh trợ sản, qua sự giới thiệu của ông hiệu trưởng đã tới cơ sở dịch vụ y tế của mẹ Lương Huệ Quần làm cô đỡ nên đã nhanh chóng quen biết với Lương Huệ Quần và trở nên thân thiết. Lương Huệ Quần lớn hơn Tăng Tuyết Minh 3 tuổi nên cô thường gọi là “ chị Quần ”, hai cô đối xử với nhau như chị em ruột.”
Nguyễn Ái Quốc ở tuổi 30
“Lâm Đức Thụ sau năm 1927 đã từng bước phản bội, li khai hàng ngũ cách mạng Việt Nam làm không ít điều nguy hại cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Nhưng tại thời điểm mấy năm Hồ Chí Minh mới đến Quảng Châu thì ông ta cũng là một thanh niên cách mạng hăng hái có triển vọng. Hồ Chí Minh chẳng những được Lâm Đức Thụ phối hợp và chi viện trong công tác mà còn được Lâm giúp đỡ cả về mặt kinh tế. Hồ Chí Minh thậm chí đã đem cả chuyện trăm năm của mình phó thác cho Lâm Đức Thụ. Mùa hè năm 1926, Hồ Chí Minh đề xuất với Lâm Đức Thụ rằng do việc công quá bận rộn, anh cũng muốn tìm một cô gái Trung Quốc để tiện trong cuộc sống nơi cư trú có người chăm sóc. Lâm Đức Thụ cùng với vợ là Lương Huệ Quần bàn bạc thấy Tăng Tuyết Minh là đối tượng thich hợp bèn giới thiệu cho Tăng Tuyết Minh và Hồ Chí Minh làm quen với nhau. Hồ Chí Minh sau khi gặp mặt Tăng Tuyết Minh đã rất có cảm tình với cô gái Quảng Châu có gương mặt trái xoan, da trắng nõn điềm đạm, đoan trang, thông minh, sáng dạ, vì vậy sau giờ làm thường hẹn gặp và trò chuyện với cô. Nơi gặp gỡ thường là nhà Lương Huệ Quần. Cảm tình của đôi bên ngày càng sâu sắc, nhanh chóng đi đến trao đổi về hôn lễ. Thời gian này Hồ Chí Minh thường đưa Tăng Tuyết Minh đến nhà hàng của ông Bào để gặp phu nhân họ Bào và tranh thủ ý kiến của bà về việc hôn nhân của họ. Phu nhân họ Bào nhiệt liệt tán thành việc kết hôn của họ. Thế nhưng bà mẹ Tăng Tuyết Minh ngay từ đầu không đồng ý cuộc hôn nhân này vì thấy Hồ Chí Minh là một nhà cách mạng phiêu lưu bạt xứ, ở không định nơi, con gái lấy người như vậy rồi sẽ khổ đau một đời. Đúng vào lúc ấy người anh hai của Tăng Tuyết Minh là Tăng Cẩm Tương, sau một thời gian sang Mỹ học tập đã trở về Quảng Châu. Anh gặp Hồ Chí Minh, dùng tiếng Anh trò chuyện, thấy Hồ Chí Minh có học vấn rất tốt, lão luyện và cẩn trọng, lại tâm huyết với sự nghiệp, vì thế anh đã thuyết phục bà mẹ đồng ý với cuộc hôn nhân này.”
“Hồ Chí Minh gặp Tăng Tuyết Minh luôn luôn. Một mặt, cố nhiên, anh thích tính giản dị, đoan trang, thông minh, chăm chỉ của cô gái ; mặt khác anh cũng cảm thấy cô còn non nớt, cần phải giác ngộ chân lí cách mạng hơn, hiểu đời hơn nữa và nâng cao năng lực hoạt động hơn. Vì vậy anh động viên Tuyết Minh thôi việc nữ hộ sinh ở cơ sở dịch vụ y tế và tham gia học tập ở một lớp huấn luyện vận động phụ nữ. Lúc ấy Ban phụ vận của Trung ương Quốc dân đảng Trung Quốc do Hà Hương Nghi chủ trì, đang dự định mở một cơ sở huấn luyện vận động phụ nữ tại Quảng Châu nhằm bồi dưỡng cán bộ phụ nữ trong nước. Hồ Chí Minh thông qua sự quen biết trực tiếp với các vị Chu Ân Lai, Đặng Dĩnh Siêu, Lí Phú Xuân, Thái Sướng, xin được hai suất cho Tăng Tuyết Minh và Lương Huệ Quần cùng vào học lớp huấn luyện vận động phụ nữ. Kì ấy, lớp khai giảng ngày 16 tháng 9 năm 1926 và kết thúc vào ngày 16 tháng 3 năm 1927, thời gian học tập là nửa năm. Quảng Châu thời ấy là trung tâm của cách mạng Trung Quốc. Trong quá trình lớp huấn luyện phụ vận tiến hành, người ta chẳng những đã mời không ít các đồng chí có trách nhiệm của Đảng cộng sản Trung Quốc đến giảng mà còn tổ chức cho học viên tham gia các hoạt động xã hội. Nhờ được học tập, quả nhiên Tăng Tuyết Minh tiến bộ rất nhanh, trong khoá học, được bạn đồng học là Trịnh Phúc Như giới thiệu, cô đã gia nhập Đoàn Thanh niên xã hội chủ nghĩa.”
“Do Hồ Chí Minh lại thúc giục nên hôn lễ của hai người đã được cử hành vào tháng 10 năm 1926. Lúc ấy Hồ Chí Minh 36 tuổi, còn Tăng Tuyết Minh 21. Địa điểm tổ chức hôn lễ là nhà hàng Thái Bình trước Ty Tài chính ở trung tâm thành phố. Đó cũng là địa điểm mà một năm trước đấy Chu Ân Lai và Đặng Dĩnh Siêu mời khách đến dự lễ kết hôn của mình. Tham dự hôn lễ có phu nhân Bào La Đình, Thái Sướng, Đặng Dĩnh Siêu và một bộ phận học viên khoá huấn luyện phụ vận. Phu nhân họ Bào tặng một lẵng hoa tươi. Mấy ngày đầu sau lễ cưới, Hồ Chí Minh và Tăng Tuyết Minh tạm trú trong Tổng bộ Thanh niên cách mạng đồng chí hội, vốn là nơi nghỉ ngơi của Hồ Chí Minh. Lúc ấy, Hồ Chí Minh đang chủ trì khoá huấn luyện chính trị đặc biệt thứ III của Việt Nam, do học viên khá đông nên địa điểm học tập đã chuyển từ Tổng bộ Thanh niên cách mạng đồng chí hội đến phố Nhân Hưng ở đường Đông Cao. Mấy ngày sau Hồ Chí Minh và Tăng Tuyết Minh dọn đến trú ngụ ở quán của ông Bào, lúc đầu dùng bếp tập thể, sau tự nấu nướng. Hồ Chí Minh bận rộn công tác, mọi việc nhà đều do Tăng Tuyết Minh quán xuyến. Cô chăm sóc chu đáo mọi sự ăn uống, sinh hoạt thường ngày của Hồ Chí Minh, giúp cho anh từ tuổi 21 đã xa nhà bôn tẩu, làm “ kẻ phiêu diêu ” góc bể chân trời, thì nay sau 15 năm lại có được cảm giác ấm áp “ ở nhà mình ”. Hồ Chí Minh rất mãn nguyện về cô vợ Trung Quốc của mình. Sau ngày cưới, Hồ Chí Minh từng nhiều lần đàm đạo với Lâm Đức Thụ, Lương Huệ Quần về vợ mình, đều nói rõ điều đó.”
Uyên ương chia lìa đôi ngả
“Thế nhưng phúc chẳng dài lâu. Ngày 12 tháng 4 năm 1927, mới nửa năm sau khi Hồ Chí Minh với Tăng Tuyết Minh kết hôn, Tưởng Giới Thạch phản bội cách mạng, phát động cuộc chính biến phản cách mạng tại Thượng Hải, tình thế ở Quảng Châu cũng chuyển biến theo. Trước đó, chính phủ Quốc dân đã rời tới Vũ Hán. Trụ sở của đoàn cố vấn Lao Liên cũng rời tới Vũ Hán. Và tất nhiên, Hồ Chí Minh cũng phải chuyển đến Vũ Hán. Trung tuần tháng 5, Hồ Chí Minh lưu luyến chia tay với Tăng Tuyết Minh, trước lúc lên đường dặn đi dặn lại Tăng Tuyết Minh : “ Em phải bảo trọng, đợi tin tức của anh ; ổn định nơi chốn một chút là anh đón em ngay ”. Thế rồi, Hồ Chí Minh rời Quảng Châu, chuyển đến Vũ Hán, rồi lại chuyển đến Thượng Hải, đi đường Hải Sâm Uy, khoảng giữa tháng 6 năm 1927 đến Mạc Tư Khoa. Sau đó, Hồ Chí Minh lại vội vàng đến Đức, Pháp, Bỉ, Thuỵ Sĩ, Italia… tạm ngừng công tác, cuối cùng, tháng 8 năm 1929, đến Thái Lan.”
Lev Trotsky và Nguyễn Ái Quốc năm 1924 ở Moskva
“Do Tưởng Giới Thạch phản bội, thành Quảng Châu rơi vào giữa một cuộc khủng bố trắng. Sau khi chia tay với Hồ Chí Minh, Tăng Tuyết Minh một mình về sống với mẹ và những người thân. Trong hai năm, từ tháng 7 năm 1927 đến tháng 6 năm 1929, Tăng Tuyết Minh vào trường Anh văn Kiêm Bá và trường Trung học nữ sinh Tân Á học tập. Thời gian đầu, cô còn giữ được liên hệ với một số đồng chí cách mạng quen biết ở cơ sở huấn luyện phụ vận. Về sau do Quốc dân đảng ngày càng đàn áp tàn bạo các đảng viên cộng sản, các đồng chí mà Tăng Tuyết Minh quen biết đều rời Quảng Châu, mối liên hệ về tổ chức của cô với đoàn viên Đoàn Thanh niên xã hội chủ nghĩa Trung Quốc cũng bị gián đoạn. Tháng 7 năm 1929, Tăng Tuyết Minh rời Quảng Châu, về quê nhà của mẹ ở Thuận Đức, làm nữ hộ sinh tại một trạm y tế tư ở thị trấn Lặc Lưu. Đầu năm 1930, cô lại chuyển đến làm nữ hộ sinh ở y xá Quần An của Dư Gia Viên, thị trấn Lạc Tòng, huyện Thuận Đức.”
“Thời gian này, Hồ Chí Minh có hai lần nhờ người mang thư và gửi thư liên hệ với Tăng Tuyết Minh, nhưng đều không kết quả. [...] Sau khi đến Thái Lan, Người lấy tên là Đào Cửu, tiến hành công tác tuyên truyền và tổ chức cách mạng trên đất Thái Lan. [...] đã hơn một năm Hồ Chí Minh li biệt với Tăng Tuyết Minh, nhớ nhung da diết. Nơi đây cách Trung Quốc tương đối gần, nhờ người chuyển thư cũng tiện, bèn cầm bút viết thư cho Tăng Tuyết Minh. Hồ Chí Minh cũng nghĩ đến thời cuộc biến loạn, tình huống thiên biến vạn hoá, thư có đến được tay vợ hay không, thật khó dự đoán. Vì vậy, anh quyết định dùng lời lẽ ngắn gọn, hàm súc viết một bức thư ngắn, bảo cho biết mình vẫn bình an và thăm hỏi người thân. Nội dung bức thư đó như sau : “ Từ ngày chia tay với em, đã hơn một năm trôi qua. Nhớ thương khắc khoải, chẳng nói cũng hiểu. Nay mượn cánh hồng, gửi mấy dòng thư để em yên tâm, đó là điều anh mong mỏi, và cầu cho nhạc mẫu vạn phúc. Anh trai vụng về, Thuỵ ”.
Thư gửi Tăng Tuyết Minh bị Mật thám Đông Dương chặn được ngày 14.8.1928, hiện tàng trữ tại C.A.O.M. (Aix en Provence). Xuất xứ : Daniel Hémery, HO CHI MINH De L’Indochine au Vietnam, Gallimard, Paris 1990, tr.145.
PHIÊN ÂM : Dữ muội tương biệt, chuyển thuấn niên dư, hoài niệm tình thâm, bất ngôn tự hiểu. Tư nhân hồng tiện, Dao ký thốn tiên, Tỷ muội an tâm, Thị ngã ngưỡng/sở vọng. Tinh thỉnh Nhạc mẫu vạn phúc. Chuyết huynh Thuỵ.
DỊCH : Cùng em xa cách Đã hơn một năm Thương nhớ tình thâm Không nói cũng rõ. Cánh hồng thuận gió Vắn tắt vài dòng Để em an lòng Ấy anh ngưỡng vọng. Và xin kính chúc Nhạc mẫu vạn phúc. Anh ngu vụng : Thuỵ (Bản dịch của N.H. Thành)
“ [...] Không rõ người mang thư sơ suất, hay là anh ta vốn dĩ không thể tin cậy, mà bức thư đó đã nhanh chóng lọt vào tay cơ quan mật thám Pháp ở Đông Dương, cuối cùng thành vật lưu trữ tại Cục hồ sơ can án quốc gia của nước Pháp. Năm 1990, trong dịp kỉ niệm 100 năm sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Gallimard ở Pháp đã cho ra mắt bạn đọc cuốn sách Hồ Chí Minh – từ Đông Dương đến Việt Nam, giữa tranh ảnh minh hoạ trong sách có bản in chụp bức thư bằng Trung văn nói trên của Hồ Chí Minh gửi cho vợ, với những dòng thuyết minh : “ Thư của Nguyễn Ái Quốc (tức Hồ Chí Minh) viết cho vợ. Chuyển tới cơ quan đặc vụ Đông Dương ngày 14 tháng 8 năm 1928 ”. [...] Một tác giả tên là Bùi Đình Kế trên báo Nhân Dân của Việt Nam, số ra ngày 19 tháng 5 năm 1991 đã dẫn lại bức thư đó trong bài nhan đề Về một tài liệu liên quan sinh hoạt cá nhân của Nguyễn Ái Quốc. Bài báo đã phân tích và phỏng đoán bức thư đó liệu có phải của Hồ Chí Minh hay không. Tuy nhiên, đã không đưa ra được kết luận rõ ràng. Thực ra, bức thư đó chính xác là do Hồ Chí Minh viết. Một là, đối chiếu với những thư cảo Trung văn của Hồ Chí Minh thì bức thư đó hoàn toàn ăn khớp với bút tích của người. Hai là, lúc Hồ Chí Minh viết bức thư đó cách thời điểm chia tay với Tăng Tuyết Minh đúng là hơn một năm như nói ở trong thư. Ba là, tên kí dưới thư Thuỵ đúng là bí danh Hồ Chí Minh dùng trong thời gian ở Quảng Châu. Bốn là, Tăng Tuyết Minh từ nhỏ mất cha, chỉ có mẹ lúc ấy còn sống, và Hồ Chí Minh nắm rõ điều đó, nên trong thư chỉ vấn an nhạc mẫu. Căn cứ những điều trên, bức thư đó do Hồ Chí Minh viết, không còn nghi ngờ gì nữa. Thư viết xong đã rơi vào tay mật thám Pháp, đó là điều Hồ Chí Minh đã không thể lường trước được.
“Lúc ấy, Hồ Chí Minh công tác ở Thái Lan đến tận tháng 11 năm 1929. Sau đó, Người được Quốc tế Cộng sản cử đến Hương Cảng, triệu tập hội nghị thống nhất ba tổ chức cộng sản thành một đảng cộng sản. “ Hội nghị thống nhất ” đã khai mạc tại Hương Cảng ngày 3 tháng 2 năm 1930, chính thức tuyên bố thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Sau hội nghị, tháng 3 năm đó Hồ Chí Minh trở lại Thái Lan, tháng 4 lại đến Hương Cảng. Sau, nhiều lần lại từ Hương Cảng đến Thượng Hải, tiến hành công tác tuyên truyền và tổ chức cách mạng trong Việt kiều tại tô giới Pháp ở Thượng Hải. Lúc ấy, các đảng viên cộng sản Việt Nam Hồ Tùng Mậu, Nguyễn Lương Bằng… cũng đang hoạt động trong Việt kiều ở Thượng Hải. Đầu tháng 5 năm 1930, Hồ Chí Minh lại viết một bức thư nữa từ Thượng Hải gửi Tăng Tuyết Minh. Bức thư này gửi qua Quảng Châu cho Tăng Tuyết Minh lúc ấy đang làm nữ hộ sinh ở cơ sở dịch vụ y tế tại Gia Dư Viên, thị trấn Lặc Lưu, huyện Thuận Đức. Nội dung yêu cầu Tăng Tuyết Minh mau mau đến Thượng Hải đoàn tụ. Trong thư có hẹn kì hạn và nói rõ nếu quá hạn đó mà Tăng Tuyết Minh không đến sẽ đành một mình xuất ngoại. Thế nhưng, với cả bức thư này nữa, cũng đã xảy ra chuyện ngoài ý muốn, Tăng Tuyết Minh cũng không sao nhận được. Tài liệu hồi ức do Tăng Tuyết Minh viết cũng như lời kể lại của bà qua thư từ trao đổi với tác giả bài này đều nói tới hoàn cảnh của sự cố này.
“Hoá ra, tháng 7 năm 1929 Tăng Tuyết Minh sau khi đã rời Quảng Châu, làm nữ hộ sinh ở trạm y tế của bác sĩ Dư Bác Văn mới mở ra ở thị trấn Lặc Lưu, huyện Thuận Đức, đến cuối năm. Đầu năm sau, cô lại chuyển đến làm nữ hộ sinh tại y xá Quần An của Sa Khiếu ở thị trấn Lạc Tòng cũng huyện Thuận Đức. Bức thư của Hồ Chí Minh chuyển đến cho trạm y tế của Dư Bác Văn ở thị trấn Lặc Lưu thì lúc ấy Tăng Tuyết Minh đã rời đi rồi. Trưởng trạm y tế Dư Bác Văn chẳng những không kịp thời chuyển thư đến Tăng Tuyết Minh mà ngược lại còn tự ý mở thư trước mặt vợ mình, lại còn gọi thêm cả nữ y sĩ Hoàng Nhã Hồng, xem trộm nội dung thư, sau đó đem đốt đi. Nửa năm sau khi xảy ra chuyện đó, Tăng Tuyết Minh trở lại Quảng Châu thăm mẹ và nhận lời mời đến dự lễ khai trương cơ sở y tế tại nhà một bạn đồng học cũ. Tại đây cô bất ngờ gặp lại nữ y sĩ Hoàng Nhã Hồng, người đã từng làm việc cùng tại thị trấn Lặc Lưu, huyện Thuận Đức. Nữ y sĩ đó đã đem toàn bộ sự việc tuôn ra hết ngọn ngành. Lúc ấy so với thời hạn Hồ Chí Minh hẹn gặp nhau ở Thượng Hải thì đã qua nửa năm. Tăng Tuyết Minh chỉ còn biết kêu khổ khôn nguôi, nuốt nước mắt vào lòng. Như vậy con người kia đã gieo tại hoạ khiến Tăng Tuyết Minh mất đi cơ hội được trở lại bên chồng, cũng gây cho cô một bi kịch suốt đời trong tương lai.”
Luật sư Loseby, người bảo vệ N.A.Q. ở Hồng Kông
“Đến cuối năm 1931, rốt cuộc Tăng Tuyết Minh cũng có được một cơ hội gặp Hồ Chí Minh nhưng lại là tại toà án của nhà đương cục Anh ở Hương Cảng xét xử Hồ Chí Minh. Tăng Tuyết Minh chỉ có thể nhìn thấy Hồ Chí Minh từ rất xa, còn Hồ Chí Minh thì hoàn toàn không biết vợ mình có mặt tại toà. Cuối những năm 20 – đầu 30 hoàn cảnh của các nhà cách mạng Việt Nam hoạt động tại Hương Cảng rất tồi tệ. Trong hàng ngũ cách mạng có kẻ phản bội, các cơ sở bí mật bị phá hoại, chính quyền thực dân Pháp và nhà đương cục Anh ở Hương Cảng cấu kết với nhau bắt bớ các chiến sĩ cách mạng. Hồ Tùng Mậu bị các nhà đương cục Anh bắt rồi giao cho mật thám Pháp “ dẫn độ ” về Việt Nam giam cầm. Hồ Chí Minh cũng bị các nhà đương cục Anh bắt ngày 5-6-1931, lí do là làm tay sai cho hội Lao Liên, âm mưu tiến hành hoạt động phá hoại tại Hương Cảng. Sau khi Hồ Chí Minh bị bắt, Quốc tế Cộng sản thông qua hội Chữ thập đỏ quốc tế kêu gọi cứu giúp. Tổ chức đó lại mời một luật sư tiến bộ người Anh ở Hương Cảng là ông Loseby bào chữa cho Hồ Chí Minh. Sau vài tháng bị giam giữ, Hồ Chí Minh bị đưa ra xét xử. Lần này đến Hương Cảng, Người lấy bí danh là Tống Văn Sơ. Nhưng sau khi bị bắt nhà đương cục Anh đã phát hiện đó chính là Lý Thuỵ, cũng tức là Nguyễn Ái Quốc. Lúc ấy rất nhiều báo Hương Cảng đưa tin. Cùng thời gian này, thân mẫu Tăng Tuyết Minh đang bị bệnh. Cô cùng mẹ đến Hương Cảng trú tại cơ sở chữa bệnh của anh cả là Tăng Cẩm Nguyên. Đọc được tin toà sẽ xét xử chồng mình là Lý Thuỵ liền nhờ bạn bè cũ cùng đến toà. Người đến dự thính xét xử rất đông. Tăng Tuyết Minh phải ngồi nghe cách xa phòng xử án. Nhìn thấy hình dáng tiều tuỵ của người chồng xa cách đã năm năm mà lòng khôn ngăn trăm mối ngổn ngang. Nhưng do khoảng cách khá xa, lại giữa toà án vợ chồng chẳng những vô phương trò chuyện mà Hồ Chí Minh thậm chí chắc chắn không hề biết Tăng Tuyết Minh đang ở trước mắt mình. Tăng Tuyết Minh muốn đến thăm nom nhưng có lời truyền ra rằng đây là một trọng phạm chính trị không được phép thăm hỏi, gặp gỡ. Tăng Tuyết Minh hỏi dò nhiều nơi và biết được rằng hội Hồng thập tự quốc tế và luật sư Loseby đang tìm cách cứu Hồ Chí Minh, tình cảnh có lẽ cũng sẽ chuyển biến, đành cùng thân mẫu trở về Quảng Châu, lòng hoang mang không biết làm sao.
N.A.Q. khoảng năm 1934 khi ra tù, trở lại Moskva.
Bà Tăng Tuyết Minh (ảnh chụp năm 1965, ở tuổi 60)
“Tháng 2 năm 1932, thân mẫu Lương thị của Tăng Tuyết Minh bệnh nặng qua đời, hưởng thọ 76 tuổi. Tăng Tuyết Minh chuyển đến công tác ở y xá Quần An ở huyện Đông Hoàn, vốn là cơ cấu phân chi của y xá Quần An huyện Thuận Đức, vẫn làm nữ hộ sinh. Lúc này, cha mẹ cô đều đã mất, anh em đông nhưng người thì đi xa, người thì chết sớm, Tăng Tuyết Minh côi cút độc thân, thật là buồn khổ. Năm 1943, sau tiết xuân, thầy giáo cũ là Trương Tố Hoa mở tại đường Long Tân ở Quảng Châu một phòng chẩn trị, có lời mời Tăng Tuyết Minh đến giúp sức. Cô bèn xin thôi việc ở Đông Hoàn, đến phòng chẩn trị của Trương Tố Hoa làm nữ hộ sinh và làm việc ở đó cho đến tận ngày (Trung Quốc) giải phóng. Sau khi nước Trung Quốc mới được thành lập, chính phủ tiến hành cải tạo và chỉnh đốn các cơ sở kinh tế tư nhân, thành lập các trạm vệ sinh bảo vệ sức khoẻ tại các khu. Tăng Tuyết Minh hưởng ứng lời kêu gọi của chính phủ, đã đến công tác tại trạm số 8 ở khu vực phía Tây. Về sau trạm này đổi gọi là Viện Vệ sinh Kim Hoa (nay là Viện Y học Trung y khu Lệ Loan). Tăng Tuyết Minh công tác ở đó, hành nghề nữ hộ sinh đến tận năm 1977 khi về hưu.”
Thế là từ sau lần trông thoáng thấy chồng ở Hương Cảng, không bao giờ Tăng Tuyết Minh gặp lại Nguyễn Ái Quốc nữa. Theo tác giả Hoàng Tranh, tháng 5-1950, thấy hình Chủ tịch Hồ Chí Minh đăng trên Nhân dân Nhật báo cùng với tóm tắt tiểu sử, bà tin chắc Hồ Chí Minh chính là chồng mình, nhất là sau khi tìm mua được cuốn Truyện Hồ Chí Minh (nhà xuất bản Tân Hoa). Bà đã “báo cáo với tổ chức”, đồng thời gửi mấy bức thư cho chủ tịch Hồ Chí Minh thông qua đại sứ Việt Nam tại Bắc Kinh là Hoàng Văn Hoan. Những bức thư ấy “đều như đá chìm biển khơi (…) thậm chí chúng có được gửi ra khỏi Quảng Châu hay không là điều còn đáng hoài nghi”. Tuy nhiên, một cán bộ lãnh đạo Quảng Châu đã tới gặp Tăng Tuyết Minh, trao cho bà lá thư của bà Thái Sướng (một trong những người đã tới dự tiệc cưới năm 1926 cùng với bà Đặng Dĩnh Siêu, vợ của Chu Ân Lai) “chứng thực Hồ Chí Minh chính là Lý Thuỵ cũng tức là chồng Tăng Tuyết Minh”. Cán bộ này cũng “ giải thích (…) lí do tại sao không tiện liên lạc với Chủ tịch Hồ Chí Minh, hy vọng Tăng Tuyết Minh hiểu và lượng thứ việc này, yên tâm công tác”. Vẫn theo sử gia Hoàng Tranh thì về phần mình, Hồ Chí Minh đã “từng thông qua Tổng lãnh sự Việt Nam tại Quảng Châu dò tìm tăm tích của Tăng Tuyết Minh, năm 1960 lại nhờ Bí thư Trung Nam cục Đào Chú dò tìm dấu vết của bà” song “việc trên đương nhiên không thể có bất kì kết quả gì ” vì “điều này vào thời ấy hoàn toàn không kì lạ”.
Bà Tăng Tuyết Minh đã “yên tâm công tác” cho đến năm 1977 mới về hưu, sau 52 năm tận tuỵ với nghề nữ hộ sinh. Theo Hoàng Tranh, gia đình bà theo đạo Công giáo từ đời ông nội, và bà “thường xuyên đi lễ ở giáo đường”. Bà “có thói quen ăn uống đạm bạc, không dùng cá thịt”, cuộc sống “vô cùng giản dị”, “luôn vui vẻ giúp người”…
“11 giờ 15 phút ngày 14 tháng 11 năm 1991, sau 86 năm trải qua con đường đầy lận đận long đong, tại nơi cư ngụ [687 đường Long Tân Đông, Quảng Châu], cụ bà Tăng Tuyết Minh đã bình yên nhắm mắt, thanh thản trút hơi thở cuối cùng”.
Hoàng Tranh
Toàn văn bài này, Hồ Chí Minh với người vợ Trung Quốc Tăng Tuyết Minh, đã đăng trên số tháng 11-2001 của tạp chí Đông Nam Á tung hoành (Dọc ngang Đông Nam Á), xuất bản tại Nam Ninh. Tác giả Hoàng Tranh (Huang Zheng) là nhà sử học, viện phó Viện Khoa học Xã hội Quảng Tây, tác giả cuốn Hồ Chí Minh với Trung Quốc (Nhà xuất bản Tân Tinh, Nam Ninh, 1990). Bản dịch của Minh Thắng. Theo thông tin từ Hà Nội, một tạp chí sử học có ý đăng bài này, những đã bị chặn lại.NGUỒN : Diễn Đàn số 121 (tháng 9.2001), tr. 17-20.
http://www.diendan.org/tai-lieu/bao-cu/so-121/tang-tuyet-minh-nguoi-vo-trung-quoc-cua-nguyen-ai-quoc/
*
Đọc thêm:
Không bao giờ đánh đổ được huyền thoại Hồ Chí Minh
QĐND – Chủ Nhật, 15/05/2011, 21:8 (GMT+7)
Bắc Hà (QĐND) – Tổng kết kinh nghiệm “Diễn biến hòa bình” – tiến hành cuộc “chiến tranh không có khói súng” ở nhiều nước XHCN, các thế lực thù địch cho rằng, muốn đánh đổ chế độ xã hội XHCN, thì không chỉ tiến công vào hệ tư tưởng, cường điệu các sai lầm, khuyết tật của Đảng Cộng sản, của cán bộ đảng viên mà còn phải “hạ bệ thần tượng”, đánh đổ “huyền thoại” – những người tiêu biểu nhất cho ý chí cách mạng, khát vọng của nhân dân, trí tuệ của dân tộc, làm sụp đổ tận gốc niềm tin của quần chúng đối với con đường cách mạng do Đảng Cộng sản dẫn dắt.
Về Chủ tịch Hồ Chí Minh, những kỳ tích của Cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX gắn liền với cuộc đời, sự nghiệp, đạo đức của Người, đã thật sự là một huyền thoại trong tâm thức của nhân dân ta và bè bạn quốc tế.
Hằng năm, cứ vào dịp Tháng Năm lịch sử, cả dân tộc ta vui mừng tổ chức ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh – người con ưu tú nhất của dân tộc, linh hồn của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX; người khai sinh ra Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nay là Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam; Người đã cùng Đảng ta lãnh đạo nhân dân cả nước làm nên Cuộc cách mạng Tháng Tám lịch sử và chống lại những kẻ thù xâm lược hung bạo nhất thời đại, giành lại độc lập dân tộc, các quyền công dân và quyền con người cho nhân dân ta, mở ra giai đoạn mới cho phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Cũng trong thời điểm đó, các thế lực thù địch lại dấy lên làn sóng xuyên tạc, vu cáo, bôi nhọ thân thế, sự nghiệp, đạo đức của Người, với tham vọng “đánh đổ huyền thoại Hồ Chí Minh”.
Khác với nhiều năm trước khi các thế lực thù địch thi nhau nói bậy, chửi càn…, năm nay chúng lại cạnh tranh, nói xấu nhau theo kiểu “lục súc tranh công” về các thủ đoạn chống Cộng. Có kẻ nói DVD “Sự thật về Hồ Chí Minh” do linh mục Nguyễn Hữu Lễ, một thầy tu phá giới và Trần Quốc Bảo, khổ công thực hiện đã không đáp ứng được cái mà chúng mong đợi, tức là trừ khử được cái huyền thoại về Hồ Chí Minh… Có kẻ còn cho rằng: DVD là “một thất bại”, vì đã không đánh đổ được huyền thoại Hồ Chí Minh, trái lại đã “remodel” (làm lại, củng cố) nó, thậm chí DVD “là một kế hoạch rất tinh vi và thâm độc, kín đáo và tài tình trong âm mưu duy trì và củng cố cái ngôi thần tượng Hồ Chí Minh trong lòng người dân Việt Nam và mãi mãi con cháu sau này”…
Việc những kẻ sản xuất ra DVD “Sự thật về Hồ Chí Minh” do Nguyễn Hữu Lễ và Trần Quốc Bảo tổ chức thực hiện với nguồn tài chính đáng ngờ thực ra chỉ là những điều nhặt nhạnh, gom góp lặt vặt, hoặc là “những suy luận chủ quan” theo kiểu “suy bụng ta ra bụng người”, hoặc những sự kiện chẳng có liên quan gì đến Hồ Chí Minh “mà chỉ là một sản phẩm chống Hồ Chí Minh, và chống Cộng sản, hoàn toàn vô giá trị” (Trần Chung Ngọc – Hoa Kỳ). Có người còn cho rằng, sản xuất DVD này là một thủ đoạn kiếm tiền một cách khéo léo của Nguyễn Hữu Lễ, Trần Quốc Bảo dựa vào các lực lượng cực hữu trong chính quyền Mỹ và những kẻ vẫn còn giữ hận thù với cách mạng Việt Nam.
Sau đây là một vài ví dụ chúng dẫn ra trong DVD này: Về ngày sinh và ngày mất của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng cho rằng Bác và những người Cộng sản Việt Nam là những người “không trung thực”. Nhận định đó hoàn toàn không khách quan, thiếu trí tuệ. Cũng như nhiều người, nhất là ở một quốc gia phong kiến, lạc hậu trước đây vì không có giấy khai sinh, không nhớ ngày sinh hoặc vì những lý do khác nhau, Cụ Hồ chọn ngày 19-5 làm ngày sinh của mình là bình thường, không có gì là không trung thực cả. Vì ở đây không có động cơ xấu xa nào. Còn về ngày mất của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thì hoàn toàn không gắn gì với Người. Về sự kiện này, trước khi có DVD trên một chục năm, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh đã nói: “Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời lúc 9 giờ 47 phút ngày 2-9-1969… Để ngày Bác mất không trùng với ngày vui lớn của dân tộc, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa III) đã quyết định công bố Chủ tịch Hồ Chí Minh mất vào lúc 9 giờ 47 phút ngày 3-9-1969. Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VI) cho rằng, nay cần công bố lại đúng ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời”.
Thêm một ví dụ khác, DVD của Nguyễn Hữu Lễ và Trần Quốc Bảo cho rằng: “Hồ bị Chủ nghĩa Mác mê hoặc” (trả lời phỏng vấn của Bùi Tín); “Hồ là tín đồ cuồng tín của chủ nghĩa Cộng sản” (trả lời phỏng vấn của Olivier Todd)… Sự thật thì sao? Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần nói rằng, Người lựa chọn Chủ nghĩa Mác – Lê-nin là vì học thuyết đó đã trả lời cho Người câu hỏi phải làm gì và làm như thế nào để cứu nước và giải phóng dân tộc. Đồng thời, Người sẵn sàng chọn lọc, học hỏi tất cả những tinh hoa trí tuệ của nhân loại, không phân biệt phương Đông hay phương Tây, kể cả những mặt tích cực của tôn giáo nhằm mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân. Bản Tuyên ngôn Độc lập do Người soạn thảo và Tuyên bố vào ngày mồng 2-9-1945 đã trích Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ năm 1776; Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp năm 1789 là một ví dụ. Trong một văn kiện khác, Người nói: Học tập Chủ nghĩa Mác – Lê-nin là “học tập cái tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người, và đối với bản thân mình,…là để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của nước ta”.
Vậy, huyền thoại Hồ Chí Minh là gì? Các thế lực thù địch dù có quỷ quyệt, thâm độc đến đâu cũng không thể đánh đổ được huyền thoại đó, là vì Huyền thoại Hồ Chí Minh là thành quả vĩ đại của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XX – là sự nghiệp giành và bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, mở ra con đường đưa dân tộc ta, Nhà nước ta, xã hội ta tiếp cận với các giá trị của nền văn minh nhân loại trong thời đại ngày nay. Đồng thời, bằng chính sự nghiệp đó dân tộc ta đã góp phần quan trọng mở ra thời đại cách mạng giải phóng cho các dân tộc thuộc địa trên toàn thế giới.
Huyền thoại đó chính là cuộc đời, sự nghiệp, trí tuệ, ý chí, tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh – một tấm gương hiếm có trong các vĩ nhân của nhân loại. Người đã dành trọn cả cuộc đời mình với những hoạt động cách mạng phong phú, đầy gian nan, nguy hiểm vì dân tộc Việt Nam, vì công cuộc giải phóng các dân tộc thuộc địa và vì nhân loại.
Huyền thoại đó sẽ không bao giờ có thể bị đánh đổ, bởi vì những thành quả của cuộc cách mạng Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng của Người lãnh đạo đã trở thành một trong những trang lịch sử đẹp nhất, đáng tự hào nhất của dân tộc ta. Huyền thoại đó sẽ không bao giờ có thể mất đi còn bởi vì đạo đức, lối sống của Chủ tịch Hồ Chí Minh là kết tinh văn hóa của dân tộc, là sự hội tụ văn hóa của cả phương Đông và phương Tây. Hơn nữa, đó còn là một dự báo về một nền “văn hóa của tương lai” của nhân loại../.
Bắc Hà
Cám ơn bạn Bắc Hà đã post bài viết trên!
Rất tiếc là hơi bị dài quá, nếu Bạn chia làm nhiều phần với lời bình thì đáng trân quý biết mấy!
Trích đoạn:…”Huyền thoại đó sẽ không bao giờ có thể bị đánh đổ, bởi vì những thành quả của cuộc cách mạng Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng của Người lãnh đạo đã trở thành một trong những trang lịch sử đẹp nhất, đáng tự hào nhất của dân tộc ta.”
Các Bạn nghĩ sao, trang sử của đảng csvn có đẹp thật không?
Làm sao có thể quên khi nhìn lại bản công hàm bán nước 1958 của Phạm Văn Đồng? Cảnh “Cải Cách Ruộng Đất” với hơn chục vạn người bị giết oan, và Tết Mậu Thân ở Huế với hơn năm ngàn nạn nhân bị chôn sống???
Trích đoạn:…”Huyền thoại đó sẽ không bao giờ có thể mất đi còn bởi vì đạo đức, lối sống của Chủ tịch Hồ Chí Minh là kết tinh văn hóa của dân tộc, là sự hội tụ văn hóa của cả phương Đông và phương Tây. Hơn nữa, đó còn là một dự báo về một nền “văn hóa của tương lai” của nhân loại ”
Làm sao có thể mất mát được một khi nó đã đi vào lịch sử! Cho dù bây giờ đảng có muốn cạo, nạo, vứt nó đi cũng không dễ dàng khi nhìn lại đạo đức của đảng với những hình ảnh dưới đây:
1) NGƯƠI VIỆT YÊU NƯỚC BIỂUTÌNH CHỐNG TRUNG CỘNG BỊ CÔNG AN ĐẠP VÀO MẶT!
2) Công An đánh đập 2 nhà báo của VOV
Phải chăng hành động trên đây là “ĐẠO ĐỨC” và là “SỰ HỘI TỤ VĂN HOÁ” của đảng csvn?