Mô hình dân chủ nào cho Việt Nam? [2]
Mô hình dân chủ nào cho Việt Nam? [1]
Bán tổng thống chế là một thể chế gồm có một số đặc điểm của tổng thống chế và đại nghị. Đặc điểm chính là sự phân chia quyền lực giữa 3 bộ phận của chính quyền: nguyên thủ quốc gia (tổng thống), chính quyền (thủ tướng) và quốc hội.[1] Tổng thống được dân bầu trực tiếp nhưng phải chia quyền hành pháp với thủ tướng do quốc hội chọn lựa. Ngay cả khi tổng thống được quyền đề cử thủ tướng, vị thủ tướng này phải được sự chấp thuận và phải chịu trách nhiệm trước quốc hội và chỉ có thể bị bãi nhiệm bởi quốc hội.[2] Lợi điểm chính là tránh được khuynh hướng độc tài và chuyên quyền. Nhưng nhược điểm lớn nhất của bán tổng thống chế là có thể dẫn đến vấn nạn bế tắc lãnh đạo và “chính phủ đồng sinh” khi tổng thống và thủ tướng thuộc hai đảng đối lập hoặc bất đồng quan điểm về đường lối và chính sách lãnh đạo quốc gia. Ví dụ như tại Pháp vào năm 1988, Tổng thống Mitterand thuộc cánh tả nhưng phải làm việc chung với thủ tướng Chirac thuộc cánh hữu.[3] Mitterand đã tuyên bố thẳng thừng là sẽ không hợp tác và sẽ không ký sắc lệnh về các chính sách xã hội mà Chirac muốn cải cách.[4] Tình trạng lưỡng đầu chế đối nghịch với nhau như vậy không phải là một hệ thống chính trị lý tưởng cho các quốc gia có ước vọng chuyển tiếp từ độc tài đến dân chủ.
Mô hình nào cho Việt nam?
Tổng thống chế xuất hiện trong thời kỳ dân chủ phôi thai và non trẻ với sự ra đời của nền Đệ nhất Cộng Hòa Việt nam tại Miền Nam Việt nam qua Bản Hiến Pháp năm 1956. Sau khi vị Hoàng Đế sau cùng của Triều Nguyễn bị truất phế qua cuộc trưng cầu dân ý vào tháng 10 năm 1955, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm được chọn làm vị tổng thống đầu tiên của Việt Nam Cộng Hòa. Một quốc hội lập hiến đã được bầu ra để soạn thảo hiến pháp. Ngày 26 tháng 10 năm 1956, một bản Hiến pháp gồm có 10 Thiên và 98 Điều khoản được Quốc hội thông qua và cũng chính ngày này đuợc chọn là ngày Quốc Khách của Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa.[5]
Thiên thứ nhất của Hiến pháp 1956 gồm có các Điều khoản căn bản và minh định Việt nam là “một nước Cộng Hòa, Độc lập, Thống nhất, lãnh thổ bất khả phân”. Thiên thứ hai liệt kê quyền lợi và nhiệm vụ của người dân gồm có các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do đi lại, tự do nghiệp đoàn và quyền đình công được công nhận. Thiên thứ ba gồm có Điều khoản từ 30 tới 47 xác nhận rằng tổng thống lãnh đạo quốc dân và nắm toàn quyền hành pháp. Thiên thứ tư bao gồm các điều khoản liên quan tới vai trò và quyền hạn của quốc hội và Thiên thứ năm xác nhận vai trò của các thẩm phán dưới sự kiểm soát của Bộ Tư Pháp. Theo nhận xét của Bùi Như Hùng, “chưa có một Hiến Pháp nào trên thế giới đạt được 2 khía cạnh: Tiên tiến và bảo vệ Truyền thống Dân tộc trong mục đích phát triển toàn diện con người như Hiến Pháp VNCH 1956”.[6]
Nhưng cũng có nhiều nhận định ngược lại và khá tiêu cực. Theo Nguyễn Kha thì “trên thực tế của 7 năm cai trị, Tổng thống Diệm tập trung trong tay những quyền hành “hợp hiến” to lớn mà Quốc hội chỉ là một bộ phận phụ thuộc được dùng để luật hóa các quyết định chính trị của hành pháp mà thôi”.[7] Tương tự như vậy, Gs Nguyễn Văn Bông nhận xét rằng “những điều kiện cấu tạo bản Hiến pháp 1956 cùng một số điều khoản đặc biệt ví dụ như Điều khoản 98 cho phép tổng thống trong nhiệm kỳ lập pháp đầu tiên có thể tạm đình chỉ những quyền công dân được nêu trong Thiên thứ hai đã tạo điều kiện cho chế-độ Ngô- Đình-Diệm có phương-tiện loại trừ các đoàn-thể quốc-gia độc-lập, phát động phong-trào suy-tôn mở đường cho một chế-độ độc-tài cá-nhân…Một sự tập trung quá mức quyền hành cùng sự thủ-tiêu đối-lập và sự hiện-diện của một chính đảng duy-nhất đã đưa chế-độ Ngô Đình Diệm lần lần đi đến một chế-độ quyền-hành cá-nhân áp-dụng những phương-tiện chuyên-chế mà tiếng súng ngày 1-11-1963 đã đưa vào dĩ-vãng”.[8]
Có lẽ Gs Bông đã quá khắt khe với Hiến Pháp 1956 và nền Đệ Nhất Cộng hòa dù “phôi thai và còn nhiều khuyết tật song đã phản ánh đúng ý nghĩa của từ ngữ Cộng Hòa và ý nguyện của toàn dân Việt Nam”.[9] Vai trò của Tổng Thống Ngô Đình Diệm trong nền Đệ Nhất Cộng Hòa nên được thẩm định trong bối cảnh lịch sử của sự chuyển tiếp từ một xã hội phong kiến quân chủ chuyên chế dưới sự bảo hộ của chế độ thực dân Pháp sang một thể chế cộng hòa. Dù sao đi nữa, Hiến pháp VNCH 1956 đã đặt nền tảng cho một hệ thống chính chị dân chủ tổng thống chế và ghi nhận vai trò của quốc hội và tư pháp cùng với các quyền lợi căn bản của công dân theo đúng xu hướng đương thời.
Hiến pháp VNCH 1967 của nền Đệ Nhị Cộng Hòa là một sự tiến bộ so với Hiến pháp 1956. Hiến pháp 1967 bảo đảm những quyền tự do căn bản của người dân và nêu rõ nguyên tắc tam quyền phân lập mà trong đó, ba cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp được phân nhiệm và phân quyền rõ ràng. Ngoài ra, Hiến pháp 1967 cũng công nhận quyền đối lập chính trị của dân đối với nhà nước. Điều 97 và 98 của Hiến Pháp ghi nhận vai trò của Hội Đồng các Sắc Tộc đại diện cho đồng bào thiểu số. Điều 100 và 101 xác nhận “Quốc Gia khuyến khích việc tiến tới chế độ lưỡng đảng và công nhận sự định chế hóa đối lập chính trị”.
Nhược điểm lớn nhất của Hiến pháp 1967 cũng như các bản hiến pháp tổng thổng chế khác là tập trung tất cả quyền hành trong tay của một cá nhân, nhất là trong giai đoạn chiến tranh khi tổng thống được nắm quá nhiều quyền lực. Cần phải có một vị tổng thống tài ba và đức độ xuất chúng mới mong có thể kết hợp và tận dụng được tất cả tài nguyên và nhân sự giúp nước và cứu nước. Là một quốc gia nhỏ bị kẹp giữa các gọng kìm bởi các siêu cường quốc mà đặt hết vận mạng tổ quốc trong tay của một cá nhân thì quả thật là quá mạo hiểm. Vì vậy, mô hình dân chủ thích hợp nhất cho Việt nam là đại nghị chế với một quốc hội đa đảng và đa nguyên để phản ảnh tính đa dạng của xã hội mà trong đó tất cả mọi thành phần dân tộc đều có quyền hạn và trách nhiệm tham gia và đóng góp trong tiến trình xây dựng đất nước.
Tại Á châu, những quốc gia áp dụng đại nghị chế khá thành công gồm có Ấn Độ, Nhật Bản, Thái Lan, Mã Lai và Tân Gia Ba. Ngoại trừ Thái Lan trong thời gian Thủ Tướng Thaksin Shiniwatra cầm quyền, các quốc gia này đều duy trì được tình trạng an ninh và chính trị ổn định giúp họ chú trọng vào việc phát triển kinh tế, văn hóa và xã hội. Riêng tại Nhật Bản, giới thương gia Nhật kể từ thế kỷ 19 đã du nhập nhiều sách vở về thể chế dân chủ đại nghị từ Âu Châu và Hoa Kỳ. Có nhiều học giả xuất ngoại để tìm hiểu phương thức cai trị ở những nơi khác trên thế giới. Vào năm 1860, Shimmi Buzen-no-Kami đã tới Hiệp Chủng Quốc để quan sát và học hỏi về sinh hoạt của Quốc Hội Hoa Kỳ. Vào năm 1861, Yukichi Fukuzawa ghé thăm Âu Châu và thu thập tài liệu về hệ thống dân chủ đại nghị. Vào năm 1881, Thiên Hoàng Minh Trị đã gửi một phái đoàn do Ito Hirobumi dẫn đầu đến các quốc gia ở Âu Châu để nghiên cứu hiến pháp và sau đó Bản Hiến Pháp Minh Trị đã được soạn thảo và ban hành vào ngày 11 tháng 2 năm 1889. Cuộc tổng tuyển cử đầu tiên được tổ chức vào ngày 1 tháng 7 năm 1889 và phiên họp đầu tiên của quốc hội đã diễn ra vào ngày 25 tháng 11 năm 1889. Dân chủ đại nghị tại Nhật cũng không bị gián đoạn trong thời gian Đệ Nhị Thế Chiến khi một cuộc tổng tuyển cử đã được tổ chức trong tháng 4 năm 1942 để đối phó với tình trạng chiến tranh. Sau khi Nhật tuyên bố đầu hàng vào ngày 15 tháng 8 năm 1945, hiến pháp đã được tu chính để nới rộng các quyền tự do của người dân và một bản hiến pháp mới bảo đảm cho hơn 25 quyền tự do căn bản của công dân Nhật đã được ban hành trong tháng 5 năm 1947.[10] Như vậy để thấy Việt Nam đã đi sau các quốc gia khác về cơ chế chính quyền tới hàng trăm năm. Thật ra trong thời kỳ Minh Trị, Việt nam cũng có Nguyễn Trường Tộ là một học giả lỗi lạc đi xa và học rộng. Đáng tiếc là những bản kiến nghị và điều trần canh tân đất nước của ông chỉ như là những tiếng kêu gào lẻ loi trong sa mạc và đã không được Triều Đình Huế trọng dụng.[11]
Không có một mô hình nào là hoàn toàn hay hoàn hảo. Mô hình nào cũng có ưu điểm và nhược điểm của nó. Điều quan trọng là phải nhận thức và tận dụng hết ưu điểm và giới hạn mọi nhược điểm khi áp dụng thể chế dân chủ đại nghị cho Việt Nam.
Thể chế liên bang?
Có một số người cho rằng Việt Nam nên theo hình thức liên bang để giới hạn xu hướng chuyên quyền của chính quyền quốc gia và bảo đảm quyền lợi của các nhóm thiểu số bằng cách phân chia quyền lực giữa chính quyền trung ương và các chính quyền tiểu bang hoặc địa phương. Thật ra những nơi có thể chế liên bang như Hoa Kỳ, Gia Nã Đại hoặc Úc Đại Lợi đều có bối cảnh lịch sử và địa lý rất khác với Việt Nam. Họ là những quốc gia tương đối còn non trẻ khi người da trắng bước chân lên các lục địa hoang dã và rộng lớn hơn 200 năm về trước. Nhiều nhóm người da trắng đã thành lập các tiểu bang (states) trên các lục địa này. Vì nhu cầu thuơng mại và ngoại giao nên các tiểu bang này quyết định sát nhập thành một thể chế liên bang. Hiến pháp liên bang phân định một số quyền lực giới hạn cho chính quyền liên bang mà cụ thể là các quyền hành làm luật liên quan tới các lãnh vực thương mại xuyên bang, quốc phòng và ngoại giao. Tất cả các quyền hành khác được các tiểu bang giữ lại. Ngoài ra, hiến pháp cũng chỉ định thượng viện đại diện và bảo vệ cho quyền lợi cho các tiểu bang không phân biệt diện tích và mức độ dân số ví dụ như Wyoming của Hoa Kỳ có khoảng nửa triệu dân so với California có 40 triệu nhưng cả hai tiểu bang đều được 2 thượng nghị sĩ đại diện trong Thượng Viện. Tương tự như vậy, New South Wales có dân số đông hơn Tasmania 1400% lần nhưng cả hai tiểu bang có đồng số thượng nghị sĩ trong Thượng Viện Úc.[12]
Dần dần, quyền hành của chính quyền liên bang ngày càng được nới rộng vì sinh hoạt kinh tế và giao thương ngày càng phát triển xuyên biên giới. Chính quyền liên bang nắm quyền đánh thuế nhưng tiểu bang lại chịu trách nhiệm chi tiêu và điều hành các hệ thống và dịch vụ y tế, giáo dục và an ninh công cộng. Hai cấp chính quyền thường xuyên đổ lỗi cho nhau nhất là khi không cùng đảng phái. Thể chế liên bang cũng đòi hỏi phải có lưỡng viện quốc hội có thể dẫn đến sự bế tắc chính sách hoặc chính quyền bị tê liệt khi hạ viện và thượng viện do các đảng phái đối lập hoặc có khuynh hướng đối nghịch nắm quyền. Đó là chưa kể sự phí phạm rất lớn cho người đóng thuế vì phải nuôi dưỡng quá nhiều tầng lớp chính quyền và chính trị gia ví dụ như tại Úc chỉ với dân số hơn 20 triệu mà có cả một hệ thống chính quyền và quốc hội liên bang cùng với 8 hệ thống chính quyền và quốc hội tiểu bang và lãnh thổ với gần 2 triệu công chức.[13]
Chắc chắn là Việt Nam cần có một chính quyền dân cử với một quốc hội đa nguyên nhưng không nhất thiết phải dưới hình thức của một hệ thống dân chủ lượm thượm lê thê hục hặc từ tiểu bang đến liên bang hoặc từ hạ viện tới thượng viện.
Thể thức đầu phiếu
Không phải thể chế đại nghị nào cũng dẫn đến một quốc hội đa đảng và đa nguyên. Ví dụ như tại Úc, thông thường thì chỉ có hai đảng lớn có thành viên trong Hạ Viện. Hệ thống hoặc thể thức đầu phiếu đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Có 4 thể thức đầu phiếu thường được áp dụng: “ai tới trước thắng” (first past the post), “đa số ưu tiên” (majority preferences), “tỷ lệ đại diện” (proportional representation) và hình thức thứ tư là một sự hỗn hợp của 3 loại trước (mixed voting system). Cũng có sự khác biệt ngay bên trong của mỗi hệ thống đầu phiếu. [14]
Với thể thức “ai tới trước thắng”, ứng cử viên nào được nhiều phiếu nhất sẽ được coi như thắng cử và đại diện cho đơn vị cử tri. Ví dụ như có 5 ứng cử viên trong một đơn vị cử tri, A được 30% số phiếu, B được 25%, C được 20%, Đ được 15% và E được 10%. A sẽ đắc cử và trở thành dân biểu. Hệ thống này được áp dụng tại Anh Quốc và có một vài lợi điểm. Thứ nhất là nó đơn giản và dễ hiểu. Ai có nhiều phiếu nhất sẽ thắng. Công tác đếm phiếu và kết quả bầu cử cũng diễn ra rất nhanh. Có một mối quan hệ rõ ràng giữa vị dân biểu đại diện cho cử tri trong đơn vị bầu cử và cử tri có thể liên lạc và bày tỏ ý kiến với vị dân biểu đại diện cho họ trong vùng. Thể thức này thường xuyên tạo kết quả có lợi cho các đảng lớn và giúp họ dễ dàng chiếm đa số ghế trong quốc hội để thành lập chính quyền mà không cần phải dựa vào một liên minh hoặc sự hỗ trợ của các đảng nhỏ khác.
Nhưng hình thức này cũng thường tạo ra một chính quyền thiếu dân chủ. Dựa vào thí dụ được nêu ở trên thì chính quyền có thể chiếm đa số ghế trong quốc hội chỉ với 30% số phiếu bầu. Trong cuộc bầu cử 2005 tại Anh Quốc, Đảng Lao Động thắng chính quyền và chiếm 55.2% số ghế trong Quốc Hội chỉ với 35.5% số phiếu bầu. Trong khi đó Đảng Tự Do Dân Chủ thắng được 22% số phiếu bầu nhưng chỉ giành được 9% số ghế trong quốc hội.
Hình thức “đa số ưu tiên” giải hóa được tình trạng bất công của “ai tới trước thắng”. Trong thể thức này, cử tri phải đánh số ưu tiên cho các ứng cử viên. Ứng cử viên nào đạt được hơn 50% số phiếu ưu tiên một sẽ thắng. Bằng không thì đếm số ưu tiên kế tiếp. Kết quả là chính quyền lúc nào cũng được thành lập bởi một chính đảng chiếm được hơn 50% đa số phiếu. Các cuộc bầu cử chính quyền liên bang Úc và các tiểu bang áp dụng hình thức này.
Tuy nhiên, cách đếm phiếu này thường có lợi cho hai đảng lớn và bất lợi cho những đảng nhỏ. Ví dụ như trong cuộc bầu cử chính quyền liên bang Úc vào năm 2010, Đảng Xanh chiếm được hơn 10% số phiếu nhưng chỉ có 1 ghế trong Hạ Viện với 150 dân biểu. Hệ thống này có chiều hướng duy trì thể chế lưỡng đảng và loại hẳn các khuynh hướng thiểu số.
“Tỷ lệ đại diện” là một hình thức công bằng và đa nguyên nhất. Ví dụ như sau cuộc bầu cử Quốc Hội Do Thái với tổng cộng 120 ghế trong năm 2003, Đảng Likud thắng 29.4% số phiếu và có được 37 ghế. Đảng Lao Động thắng 14.5% số phiếu và có được 19 ghế. Shinui với 12.3% phiếu và 15 ghế, Shas với 8.2% phiếu và 11 ghế, National Union với 5.5% phiếu và 7 ghế, Meretz với 5.2% phiếu và 6 ghế, Mafdal với 4.2% phiếu và 5 ghế, YhT với 4.3% phiếu và 5 ghế, Hadash với 3% phiếu và 4 ghế, Am Ekhad với 2.8% phiếu và 4 ghế, Balad với 2.3% phiếu và 3 ghế. YAB và United Arab List chiếm 2.2% và 2.1% và đều được 2 ghế. Thể thức bầu cử này được sử dụng tại nhiều quốc gia dân chủ châu Âu và chính phủ liên minh là những trường hợp bình thường và được mọi người chấp nhận.[15] Ngoài tính công bằng và dân chủ ra, hệ thống này cũng khuyến khích các chính đảng tuyển chọn ứng cử viên thuộc các nhóm thiểu số và nữ giới để tranh giành và gia tăng số phiếu. Nhưng theo ví dụ của Do Thái, có tới 13 đảng phái trong quốc hội “quá đa nguyên” và chính phủ Do Thái luôn luôn là một liên minh lỏng lẻo có thể tan rã bất cứ lúc nào. Ngoài ra, không có một sự liên hệ rõ ràng giữa cử tri và dân biểu đại diện. Cử tri không biết phải liên lạc với vị dân biểu nào khi có vấn đề thắc mắc hoặc khiếu nại. Tệ hơn hết là thể thức này có thể tạo điều kiện cho những nhóm cực đoan có tiếng nói trong quốc hội ví dụ như trong thời Cộng Hòa Weimar tại Đức,[16] những phần tử quá khích trong Quốc Hội đã tạo cơ hội cho đồ tể Hitler chiếm hết quyền hành và khởi động cuộc chiến tranh thế giới thứ hai làm cho hơn 60 triệu người bị tử vong.
Hình thức đầu phiếu hỗn hợp được áp dụng tại một số quốc gia như Tân Tây Lan và Nga. Một nửa số ghế trong quốc hội được bầu theo thể “ai tới trước thắng”. Phân nửa còn lại theo “tỷ lệ đại diện”. Trong cuộc bầu cử Quốc Hội Tân Tây Lan vào năm 2005, Đảng Lao Động thắng 41.1% số phiếu và chiếm được 50 ghế trong một quốc hội với tổng số 120 ghế. Đảng Quốc Gia thắng 39.1% số phiếu với 48 ghế. New Zealand First thắng 5.7% số phiếu với 7 ghế, Đảng Xanh 5.3% phiếu với 6 ghế, Đảng Maori thắng 2.1% phiếu với 4 ghế, United Future thắng 2.6% với 3 ghế, ACT NZ thắng 1.5% với 2 ghế và Đảng Cấp Tiến thắng 1.1% với 1 ghế. Kết quả là có 2 đảng lớn và 6 đảng nhỏ trong quốc hội.
Thể thức nào thich hợp nhất cho Việt Nam? Trong một xã hội bình thường có 4 khuynh hướng thiên hữu, thiên tả, cực hữu và cực tả. Trong một cuộc phổng vấn với Đài RFA vào ngày 24/10/2011, Hòa Thượng Thích Quảng Độ Đệ Ngũ Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất cũng đã có ý kiến và cổ xúy cho một thể chế đa đảng đa nguyên và góp ý là “Chỉ cần ba đảng thôi, là trung lập này, khuynh tả, khuynh hữu này. Ba khuynh hướng chính về chính trị”. Điều quan trọng là làm thế nào để cân bằng ước muốn đa nguyên nhưng tránh tình trạng quốc hội bị phân tán bởi có quá nhiều đảng phái hoặc là bị các nhóm quá khích xâm nhập có thể đưa quốc gia đến chỗ diệt vong. Một quốc hội “lưỡng đảng” không đáp ứng được nguyên tắc đa nguyên nhưng một quốc hội phân tán với “thập bát sứ quân” như Vanuatu chắc chắn sẽ không có lợi cho sự ổn định và phát triển quốc gia. Dựa trên kết quả của các cuộc bầu cử tại Do Thái và Tân Tây Lan, nếu số phiểu tối thiểu được đặt ở 5% tổng số phiếu bầu thì Quốc Hội Do Thái chỉ còn 6 đảng và Quốc Hội Tân Tây Lan còn 4 đảng chia ghế với nhau. Việt Nam không có sức mạnh như siêu cường quốc Hoa Kỳ và cũng không có diện tích rộng lớn như Gia Nã Đại hay Úc Đại Lợi. Để có một quốc hội đa đảng và đa nguyên nhưng không bị phân tán với quá nhiểu đảng nhỏ thì Việt Nam không cần áp dụng một thể chế liên bang mà có thể áp dụng phương thức bầu cử “tỷ lệ đại diện” với tiêu chuẩn là các chính đảng phải đạt ít nhất 5% tổng số phiếu mới có được tiếng nói trong quốc hội. Tuy không có mối quan hệ rõ ràng giữa dân biểu và cử tri nhưng trên thực tế thì việc này không phải là một điều quan trọng. Là đảng viên của các chính đảng thì các dân biểu phải đi theo chính sách của đảng. Trong thời đại “điện số” hiện nay, bất cứ cá nhân hay nhóm người nào cũng đều có thể gửi kiến nghị hoặc đạo đạt nguyện vọng tới chính phủ hoặc quốc hội qua các phương tiện truyền thông điện tử.
Kết luận
Có thể tin tưởng rằng Việt nam tất yếu sẽ tiến đến một hệ thống chính trị dân chủ. Không có một chế độ độc tài, tham nhũng, gian ác và cam tâm bán nước làm nô lệ cho ngoại bang nào có thể tồn tại mãi mãi và cưỡng lại bánh xe tiến hóa của lịch sử. Vấn đề chỉ là thời gian. Có hai yếu tố chính quyết định chế độ độc tài cộng sản hiện nay sẽ ra đi sớm hay muộn. Đó là sự bưng bít thông tin và phản kháng có tổ chức. Đảng Cộng sản VN đã không còn che dấu được sự thật với bằng chứng cụ thể là trong thời gian gần đây, Thủ tướng CSVN Nguyễn Tấn Dũng đã nêu đích danh và lên án các trang mạng được coi là “phản động” như Dân Làm Báo, Quan làm Báo và Biển Đông. Chỉ trong vài năm nữa thì các phương tiện thông tin hiện đại như là Ipad và Iphone sẽ tràn ngập thị trường Việt nam và mọi người dân Việt nam sẽ có thể tiếp cận thông tin trung thực từ trong lòng bàn tay. Chỉ một bàn tay đen tối và dối trá của chế độ sẽ không che nổi sự thật dưới ánh sáng mặt trời. Việc còn lại là tổ chức hóa đấu tranh và phản kháng. Đã đến lúc các tổ chức phong trào đấu tranh trong và ngoài nước liên kết thành một mặt trận hoặc liên dân chủ để rút ngắn thời gian.[17] Nhưng trước tiên phải đồng thuận được một mục tiêu chung. Mô hình đại nghị với phương thức bầu cử tỷ lệ đại diện nêu trên có thể là một mẫu số chung và là chất keo nối kết các tổ chức và phong trào dân chủ. Quần chúng cần phải biết hệ thống nào sẽ thay thế cho chế độ hiện nay trước khi họ quyết định hỗ trợ cho các phong trào đấu tranh dân chủ. Đặc biệt nhất là đối với các nhân viên an ninh, quân đội và dân sự đang phục vụ cho chế độ, một mục tiêu đấu tranh trong sáng, rõ ràng và minh bạch sẽ có tác động đến thái độ bất phục tùng hoặc bất hợp tác của họ.[18] Sự hỗ trợ của thành phần an ninh và quân đội là một yếu tố cần thiết trong nỗ lực lật đổ chế độ độc tài toàn trị. Ngay cả sau khi phong trào dân chủ thành công, quốc gia vẫn cần họ (ngoại trừ một nhóm thiểu số vẫn ngoan cố đặt quyền lợi cá nhân hoặc đảng phái trên sinh mệnh của dân tộc) tiếp tục đóng đúng vai trò quốc phòng bảo vệ lãnh thổ và lãnh hải. Khi nào một triệu người dân tràn xuống quảng trường Ba đình mà quân đội án binh bất động thì đó sẽ là ngày cáo chung của chế độ độc tài toàn trị hiện nay và ngày đó sẽ mở ra một kỷ nguyên mới – một kỷ nguyên đại nghị đa nguyên và đa đảng “tã trắng thắng cờ hồng” như cố ngục sĩ Nguyễn Chí Thiện hằng mong ước.
© Nguyễn Văn Thân
© Đàn Chim Việt
[1] Canas V “The Semi-Presidential System” ZaoRV (2004) 95-124, 102
[2] Shugart MS “Semi Presidential Systems: Dual Executive and mixed Authority Patterns” Graduate School of International Relations and Pacific Studies. University of California San Diego 2005, 1-21, 9
[3] Meisler S “Mitterand, Chirac clash over racial conflict in distant New Caledonia” www.latimes.com 29/8/1987
[4] Mcquire KA “President Prime Minister Relations, Party System and Democratic Stability in Semi Presidential Regimes: Comparing the French and Russian Models” Texas International Law Journal Volume 47 Issue 2, 2012, 427-454, 440
[5] Thiện Ý “Sự hình thành nền Cộng Hòa và chế độ VNCH tại Việt Nam” www.vietvungvinh.com 26/10/2011
[6] Bùi Như Hùng “Phân tích Hiến Pháp Đệ Nhất Cộng Hòa” www.buinhuhung.com 26/10/2010
[7] Nguyễn Kha “CHẾ ĐÔ NGÔ ĐÌNH DIỆM Từ Hiến Pháp phi dân chủ đến Chính trị phản dân quyền” www.sachhiem.net/LICHSU/N/NguyenKha.php 4/12/2010
[8] Nguyễn Văn Bông “Nhận Xét về Hiến Pháp Đệ Nhất Cộng Hòa” Trích từ Luật Hiến Pháp và Chính Trị Học (Lý thuyết đại cương thế giới chính trị hiện đại) www.thuvienhoasen.org 9/11/2011
[9] Thiện Ý “Sự hình thành nền Cộng Hòa và chế độ VNCH tại Việt Nam” www.vietvungvinh.com 26/10/2011
[10] Huda KMN “The state of Parliamentary Democracy: Worlwide Reflections” Asian Affairs Vol 27 No 1 January-March 2005, 5-23, 9-10
[11] Vinh S, Department of History and Classics, University of Alberta, Canada “Nguyen-Truong-To and the Quest for Modernization inVietnam” Japan Review 1999, 11 “Paralells between Nguyen-Truong-To and early Meiji intellectuals” 55-74, 69
[12] Hartcher P “Obama is storming home” www.smh.com.au 3/11/2012
[13] Australian Bureau of Statistic Year Book Australia 2012 http://www.abs.gov.au/ausstats/abs@.nsf/Lookup/by%20Subject/1301.0~2012~Main%20Features~Public%20service~91
[14] Newman G & Bennett S “Electoral Systems” Parliament of Australia Department of Parliamentary Services 21 February 2006, 1-26, 7-8
[15] Norris P “Choosing Electoral Systems: Proportional, majoritarian and Mixed Systems” 1-12 http://www.hks.harvard.edu/fs/pnorris/Acrobat/Choosing%20Electoral%20Systems.pdf
[16] Newman G & Bennett S “Electoral Systems” Parliament of Australia Department of Parliamentary Services 21 February 2006, 1-26, 21
[17] Chắc có nhiều người sẽ đặt câu hỏi làm sao để thành lập được một mặt trận hoặc liên minh dân chủ? Đây là một đề tài rộng lớn và phức tạp vượt quá phạm vi của bài viết này và có lẽ phải là chủ đề của một bài viết khác.
[18] Sharp G “From Dictatorship to Democracy: a Conceptual framework for Liberation” The Albert Einstein Institution 4th Edition 2010, 63-64
Đây là việc chung cho tất cả dân việt nam trong cũng như ngoài nước không cs hay cs .làm sao để đóng góp và xây dựng một việt nam công bằng xã hội là một chuyện không dể dàng,nhưng không phải không làm được.chắc chắn là cs không nhường quyền cái thứ nhất là quyền lợi, thứ hai là sợ trả thù làm cho họ càng hung tàn hơn bao giờ hết.sau bao nhiêu vụ tàn sát của cs từ bắc vào nam dân việt nam sợ ,sợ đến nỗi không dám thể hiện tình yêu nước ,thì làm sao để nói đến chính trị chính em.
có nhiều người mong việt nam sẻ có một mùa xuân á ráp ,đó là ước muốn của dân vn , nhưng chưa thể xảy ra được vì các nước đó có đảng đối lập ở trong quốc hội bao đời thì dể tạo nên một mùa
xuân. việt nam là độc đảng thì không có đất cho đảng đối lập,tuy nhiên thời cơ đã đến rất phương tiện thuận lợi cho cho sự thay đổi theo xã hội tiên tiến,qua thông tin đại chủng, internet ,phone ,web ,facebook, nhưng dân việt nam có muốn thay đổi chưa… theo phỏng đoán thì hiện nay có khảng 10 nghìn đảng viên tại chức hay về hưu,thì mỗi đảng viên làm anh ̉ hưởng năm đến mười người trong gia tộc vì quyền lợi cá nhân như vậy vẫn còn đông hơn những người muốn thay đổi. nên chưa có đủ gió tạo nên mùa xuân .việt nam hiện nay theo một chủ nghĩa trá hình để khoe khoang cho thế giới chúng ta có một chế độ công bình gấp ngàn lần dân chủ mỹ.đúng vậy cán bộ cs giàu hơn bán bộ mỹ .dân việt nam thiếu cơm chỉ ăn bánh vẻ. việt nam hiện nay không còn người cs nữa đã chết hay già nên nhược khí.mô hình chính trị việt nam hiện nay là tập đoàn mafia .như con rắng độc trăm đầu họ sẵn sàn bảo vệ nhau và cũng có thể thanh trừng nhau khi cần thiết theo phương thức hạ cánh an toàn để bao che liệu cs bao che được bao lâu đó là tuỳ thuộc vào dân.
muốn xây dựng một cái nhà vững chắc thì phải cần kỹ sư và kiến trúc sư trước . và xây dựng một xã hội cũng vậy.không tốn kém nhiều cho việc thăm dò theo phương pháp bỏ phiếu qua internet.
lập một trang web vừa quảng cáo vừa thăm dò lòng dân .có hiến pháp hiện hành của cs.và những gì dân việt nam muốn thay đổi cho hiến pháp mới. họ có sự so sánh .
muốn có một xã hội tạm công bằng ,phải có tam quyền phân lập,và tránh tình trạng lạm quyền dân chủ,ví dụ như khi and làm cán bộ không làm tư nhân. tối cao bảo vệ đảng đối lập và gia đình họ.
ba hệ thống ,trung ương ,tỉnh, địa phương, theo lối dân chủ canada ,hay cũng không quan trọng lắm ,miễn sao tránh lạm quyền, hiến pháp phải vững chắc là căn nhà việt nam sẻ xăy cao.
mong muốn thay
Câu no’i hay : “Khi nào một triệu người dân tràn xuống quảng trường Ba đình mà quân đội án binh bất động thì đó sẽ là ngày cáo chung của chế độ độc tài toàn trị hiện nay và ngày đó sẽ mở ra một kỷ nguyên mới “