WordPress database error: [Expression #1 of ORDER BY clause is not in GROUP BY clause and contains nonaggregated column 'oldsite_dcvwp.wp_posts.post_date' which is not functionally dependent on columns in GROUP BY clause; this is incompatible with sql_mode=only_full_group_by]
SELECT YEAR(post_date) AS `year`, MONTH(post_date) AS `month`, count(ID) as posts FROM wp_posts WHERE post_type = 'post' AND post_status = 'publish' GROUP BY YEAR(post_date), MONTH(post_date) ORDER BY post_date DESC

 
|

“Tiếng nói của chúng tôi cho các blogger bị bách hại“

LGT: Lần đầu tiên, tổ chức nhân quyền Phóng viên Không Biên giới và tổ chức Thiên chúa giáo misso đã làm việc chung với nhau và đưa ra chiến dịch Thỉnh nguyện thư #freeLy yêu cầu trả tự do cho blogger, nhà báo công dân và linh mục đang bị quản thúc Nguyễn Văn Lý. Hai tổ chức này muốn nhấn mạnh rằng quyền tự do thông tin và tự do tôn giáo không thể tách rời nhau. Mở đầu chiến dịch này là buổi Thảo luận bàn tròn ngày 26 tháng 1 vừa qua tại Berlin (DĐVN21 đã đưa tin).

Xin ký tên ủng hộ thỉnh nguyện thư (song ngữ Đức và Anh) của missio và Phóng viên Không biên giới, ký tên tại đây 
Tổ chức missio đã phỏng vấn TS Dương Hồng Ân, điều hợp viên của Diễn Đàn Việt Nam 21 và đăng trên trang mạng missio. Sau đây là bản dịch của Nguyễn Quang.

—————————————————————–

Tác giả: Marta Wajer (missio)

Bản dịch: Nguyễn Quang (Diễn Đàn Việt Nam 21)

* * *

LM Nguyễn Văn Lý. Ảnh báo C.A.N.D

LM Nguyễn Văn Lý. Ảnh báo C.A.N.D

Tự do thông tin và tự do tôn giáo không thể tách rời. Chính vì vậy tổ chức misso và tổ chức Phóng viên Không Biên giới đang cùng kêu gọi trả tự do cho blogger, nhà báo công dân và linh mục đang bị giam giữ Nguyễn Văn Lý. Đó là lý do tại sao họ đã khởi xướng một bản kiến nghị Petition vào ngày 26 tháng Giêng. Trong loạt bài của missio “Tiếng nói của chúng tôi cho các blogger bị bách hại” các blogger khác diễn tả tại sao họ hỗ trợ chương trình hành động này. Hôm nay tiến sĩ Dương Hồng-Ân, điều hợp viên của blog “Diễn Đàn Việt Nam 21″, lên tiếng.

Ông cảm nhận gì khi nghe tin về tình trạng nhân quyền ở Việt Nam ?

Đầu tiên tôi nghĩ ngay đến nhiều người can đảm ở Việt Nam dù ở hoàn cảnh khó khăn và nguy hiểm cho chính bản thân mà vẫn tranh đấu cho dân quyền và nhân quyền. Tôi xin tỏ lòng kính trọng và chân thành biết ơn những mẫu người cương trực này.

Ai cũng rõ, các chế độ độc đoán thường không tuân thủ những thỏa ước và nghĩa vụ quốc tế mà họ đã ký kết. Ngay chính quyền Việt Nam mặc dù là thành viên trong Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc cũng công khai xem thường các quyền tự do báo chí, tư tưởng và tôn giáo ngay tại đất nước mình. Các nhà hoạt động nhân quyền và các nhà báo Blogger phê bình nhà nước bị đối xử ngược đãi một cách có hệ thống.

Để bịt miêng những người đối lập, đồng thời để lừa bịp dư luận thế giới, người cầm quyền ở Hà Nội đã áp dụng những phương pháp xảo quyệt. Nhiều nhà hoạt động cho nhân quyền bị đưa ra tòa với các cáo buộc ngụy tạo như trốn thuế hay phạm tội hình sự. Mới đây các Blogger còn bị côn đồ tấn công và hành hung dã man.

Dù chế độ đàn áp thô bạo những người khác chính kiến, vẫn có những triển vọng tốt trong cuộc đấu tranh cho nhân quyền. Số người trong nước muốn thực thi quyền tự do tư tưởng, tự do ý kiến càng ngày càng phát triển, khiến chế độ rơi vào „vòng lẩn quẩn“. Càng nhiều người bị bắt giữ thì càng có thêm nhiều tiếng nói phản đối sự cai trị độc đoán của chế độ độc tài Hà Nội. Đây chỉ là vấn đề thời gian, liệu đảng cộng sản Việt Nam còn chịu được áp lực này bao lâu nữa.

Chúng tôi ở phương Tây có thể làm gì cho các Blogger ở Việt Nam ?

Những nhà hoạt động nhân quyền Việt Nam đau lòng nhận thấy không có tình đoàn kết quốc tế và thiếu sự quan tâm của báo chí thế giới. Cuộc phản kháng thầm lặng chống lại nhóm quyền lực ở Việt Nam rất tiếc đã không tạo ra được các tựa đề lớn trên báo chí. Thay vào đó người ta thường đọc được các bài phóng sự du lịch thông tin về danh lam thắng cảnh và giá biểu thuận lợi ở những nơi nghỉ mát.

Chính vì khiếm khuyết, thiếu xót này mà sự hỗ trợ của phương Tây cho phong trào nhân quyền ở Việt Nam mang một ý nghĩa trọng đại. Công luận, chính giới, các nhà hoạt động nhân quyền và các tổ chức nhân quyền Đức nên tranh đấu công khai cho các Blogger Việt Nam. Thưc tế đã minh chứng, áp lực quốc tế không hẳn không hiệu quả. Ít nhất trong ba trường hợp, các Blogger được nhiều người biết đến đã được trả tự do nhờ sự can thiệp của quốc tế. Những cuộc gặp gỡ giữa các chính trị gia Đức với blogger Việt Nam trong khuôn khổ công du Việt Nam của họ cũng rất hữu ích. Tôi xin nhắc đến các cuộc đàm luận của Trưởng khối nghị sĩ Liên Minh Dân Chủ Thiên Chúa Giáo (CDU) ở Quốc Hội liên bang, ông Volker Kauder, của Bộ trưởng Kinh tế liên bang, ông Sigmar Gabriel, của thứ trưởng tư pháp liên bang, ông Christian Lange v.v… với với một số nhà hoạt động Việt Nam. Đặc biệt dư luận chú ý đến chuyến viếng thăm Việt Nam của Đức Hồng Y Reinhard Marx hồi tháng giêng 2016. Đức Hồng Y Marx đã tiếp chuyện với các tín hữu, những nhà bất đồng chính kiến và cả đại diện chính quyền. Trong các cuộc tiếp xúc Đức Hồng Y ông đã tỏ ý rất hỗ trợ cho tự do tôn giáo ở Việt Nam.

Tại Đức những người Việt bất đồng chính kiến, các Blogger người Việt và các nhóm người Việt hoạt động cho nhân quyền đã tự đảm nhận nhiệm vụ yểm trợ các Blogger ở quê nhà bằng nhiều cách. Họ thông tin cho công luận Đức về những vụ vi phạm nhân quyền ở Việt Nam, vì hầu như báo chí Đức hiếm tường thuật về các sự bách hại chính trị ở Việt Nam. Họ chuyển dịch các tin tức do các Blogger soạn bằng Việt ngữ qua Đức ngữ và phổ biến rông rải cho công luận qua điện thư hay trên các trang báo mạng. Qua những hình thức này họ trở thành người phát ngôn ở các nước phương Tây cho các Blogger trong nước. Trong chương trình hoạt động của người Việt lưu vong còn có các cuộc biểu tình thầm lặng tại chỗ và hội thảo có sự đóng góp của người Đức. Họ cũng rất mong muốn được sự hợp tác của các tổ chức, các nhóm hoạt động cho nhân quyền và giới blogger Đức.

Theo ý ông tại sao tự do thông tin và tự do tôn giáo không thể tách rời ?

Không có tự do thông tin, ngôn luận và tư tưởng thì không thể có tự do tôn giáo. Không thể chấp nhận được tình trạng nhà nước có thể chọn lựa và chỉ định ai („một công dân bình thường“) được phép tham dự thánh lễ và ai („một công dân phê bình chế độ“ ) không được phép. Đây là điều mà „Ban tôn giáo chính phủ“ muốn đạt được. Ban này kiểm soát mọi hoạt động của từng tôn giáo và kiềm chế sự trao đổi thông tin giữa các tín hữu. Hai nhà lãnh đạo tôn giáo, Linh Mục Nguyễn Văn Lý và Hòa Thượng Thích Quảng Độ không được hành sử quyền tự do tư tưởng, tự do ý kiến. Cụ thể là cả hai vị đều bị giam giữ nhiều năm trong tù cũng như quản thúc tại gia.

Bản tiếng Đức: “Unsere Stimme für verfolgte Blogger”, 25. Februar 2016 / Marta Wajer, missio

Diễn Đàn 21 gửi đăng

2 Phản hồi cho ““Tiếng nói của chúng tôi cho các blogger bị bách hại“”

  1. Bút Thép VN says:

    Thời nay và cả trong thời chiến tranh, CSVN và khối CS thường liên kết với nhau, đồng loạt tung ra những thông tin để lừa gạt công luận, kể các thông tin bịa đặt vu khống.

    Báo chí thời VNCH, báo chí phương tây và cả các nước tự do thì ngược lại, họ coi thường những tin tức chiến tranh hoặc liên quan đến chính trị, nhưng lại đặt nặng những tin giật gân để giật khách.

    Có lẽ đây cũng là hậu quả đưa đến kiện tụng giữa báo Người Việt và báo Sàigòn nhỏ?

    Việc đấu tranh ở VN rất đơn lẻ và rời rạc, ngay cả việc LM Nguyễn Văn Lý bị tù đày bao nhiêu năm rồi, vậy mà giáo hội Công giáo cũng mặc kệ, ai chết mặc bay. Thật đáng buồn?

  2. Trần Vinh says:

    24/02/2016 – Hội Đồng Liên Tôn tại Việt Nam gồm các vị đại diện của các tôn giáo Phật Giáo, Cao Đài, Công Giáo, Phật Giáo Hòa Hảo, Tin Lành hôm 23-2-2016 lên tiếng tố cáo CSVN đã hành hạ Mục Sư Nguyễn Công Chính.

    Trong Thư tố cáo của Hội Đồng Liên Tôn đề cập đến sự hành hạ của CSVN đối với Mục Sư Nguyễn Công Chính như sau:

    “Cách đây 5 năm, vào ngày 28-04-2011, đang khi thi hành nhiệm vụ mục tử, dẫn dắt cộng đoàn tín đồ, Mục sư Nguyễn Công Chính đã bị tống giam, sau đó ra tòa, bị khép vào điều 87 bộ luật Hình sự cộng sản là “phá hoại chính sách đoàn kết dân tộc” – một tội danh không hề có trong nền pháp lý văn minh của nhân loại– rồi bị một bản án bất công và khủng khiếp là 11 năm tù. “

    Thư viết tiếp rằng, “Dĩ nhiên, bản thân Mục sư và công luận trong lẫn ngoài nước đều phản đối phiên tòa man rợ và bản án tàn bạo này, mà chỉ cái chế độ Cộng sản chà đạp con người và căm thù tôn giáo mới có. Do đó, Mục sư Nguyễn Công Chính đã bị nhà cầm quyền –qua tay bộ Công an và các quản tù- trả thù một cách khốc liệt từ đó đến nay. Theo chứng từ của bà Trần Thị Hồng, người vợ hiền đau khổ của ông, thì vị tù nhân lương tâm này đã phải gánh chịu những đòn thù như sau:

    “a- Sau khi bị bắt cho đến phiên phúc thẩm, Mục sư Nguyễn Công Chính đã bị nhốt vào trại giam T20 thuộc tỉnh Gia Lai. Tại đây, để bắt ông nhân tội, cai tù đã thường xuyên dùng roi điện, gậy cao su, bình xịt hơi cay tra tấn ông.

    Ngoài ra, gần cả 2 năm trời, họ không cho ông gặp gia đình, một kiểu hành hạ tinh thần hết sức vô nhân đạo, nhằm gây hoảng loạn tâm lý và đánh gục ý chí tù nhân.

    “b- Sau phiên tòa phúc thẩm, Mục sư Chính bị chuyển đến trại giam An Phước, tỉnh Bình Dương. Tại đây, tuy ông được gặp mặt vợ con, nhưng công an đều ghi âm ghi hình mọi lời nói cử chỉ của ông và thân thuộc, nhằm khủng bố không cho ông tiết lộ sự thật về thảm trạng của mình. Tuy nhiên Mục sư vẫn dũng cảm vạch trần những hành vi tàn ác của các cai ngục đối với ông, nhất là có lần kề dao vào cổ để bắt ông nhận tội ngõ hầu được hưởng sự khoan hồng của nhà nước. Đồng thời, ông nhắn nhủ gia đình nỗ lực kêu oan cho ông.

    “c- Không chấp nhận việc đánh đập tra tấn, Mục sư Chính đã viết đơn tố cáo các biện pháp ngược đãi tù nhân trong nhà ngục. Chính vì thế, hiện nay ông bị biệt giam, chẳng được tiếp xúc với các bạn tù. Ngoài ra, cai tù còn xúi giục tù xã hội đen gây hấn đánh đập ông, không cho ông sử dụng nước sinh hoạt trong nhiều tháng, cấm ông nhận sách tôn giáo, cản trở việc chức sắc đồng đạo đến thăm ông, và không chăm sóc ông đầy đủ về mặt y tế, dù ông mang nhiều thứ bệnh. Tất cả đã khiến tình trạng sức khỏe của ông lâm cơn nguy hiểm.

    “d- Chưa hết, với cung cách “phạt chùm” có từ thời Cải cách Ruộng đất, nhà cầm quyền CS tỉnh Gia Lai không ngừng sách nhiễu và hăm dọa gia đình Mục sư Chính. Ngay khi ông chưa bị bắt, nhà nguyện do gia đình ông xây dựng và phụ trách tại Kon Tum đã bị ủi sập, khiến họ phải đi thuê nhà để ở. Nhưng thuê ở đâu, công an địa phương cũng đến bắt chủ nhà trục xuất họ. Cho đến nay, họ phải dời chỗ dời nhà đến 23 lần. Sau ngày Mục sư bị bắt, bà Trần Thị Hồng và 4 con thơ thường xuyên bị công an tỉnh Gia Lai canh gác trước nhà và theo dõi trên đường. Tối đến, chúng ngang nhiên khóa cổng nhốt họ lại. Mỗi ngày 4 đứa con bước chân đến trường trong lo âu vì công an cứ bám đuôi. Về nhà thì sợ không dám bước ra khỏi cổng. Chúng biến nhà của vợ con Mục sư thành nơi giam giữ. Bản thân bà Hồng thì đã nhiều phen bị đối xử tàn tệ, đánh đập và lăng nhục.”

    Lá Thư cũng kêu gọi, “- Khẩn thiết kêu gọi các chính phủ dân chủ năm châu, các tổ chức nhân quyền quốc tế, các tổ chức tôn giáo hoàn vũ luôn nhớ rằng chế độ CS tại Việt Nam không ngừng coi tôn giáo là thù cũng như các nhà đấu tranh cho tự do dân chủ là địch. Xin Quý vị đừng bỏ quên các tù nhân lương tâm tại đất nước chúng tôi.”

Phản hồi