WordPress database error: [Expression #1 of ORDER BY clause is not in GROUP BY clause and contains nonaggregated column 'oldsite_dcvwp.wp_posts.post_date' which is not functionally dependent on columns in GROUP BY clause; this is incompatible with sql_mode=only_full_group_by]
SELECT YEAR(post_date) AS `year`, MONTH(post_date) AS `month`, count(ID) as posts FROM wp_posts WHERE post_type = 'post' AND post_status = 'publish' GROUP BY YEAR(post_date), MONTH(post_date) ORDER BY post_date DESC

 
|

Hội chứng Hậu Thuộc địa

Tháng tư, 1956, người Pháp chính thức cuốn cờ và triệt thoái khỏi miền Nam Việt Nam chấm dứt chế độ thực dân Pháp sau ngót một thế kỷ. 80 năm có lẻ ở Nam Kỳ và 60 năm ở Bắc Kỳ.

Miền Nam lúc bấy giờ có khoảng 7000 người Việt quốc tịch Pháp. Người ta ghi nhận đã có hơn 6000 người trong số đó xin hồi tịch.

Những người có “máu mặt” như quý ông đại sứ Trần Văn Chương, y sĩ Trần văn Đôn, cha ruột của tướng Trần Văn Đôn và một số sĩ quan như tướng Trần Văn Minh, Trần Văn Đôn đều hồi tịch, tự động xé bỏ quốc tịch Pháp.

Đây có thể coi như cuộc trở về của một số “đứa con hoang đàng” (Enfant prodige) theo một nghĩa trong Thánh Kinh đã kể lại- một sự trở về nhà cha như một cuộc làm hòa giữa quá khứ-tương lai-. Quá khứ thì khép lại, tương lai thì mở ra.

Nhưng xé bỏ một tờ căn cước có đủ để người ta quay trở về cội nguồn với con người Việt Nam không? Xóa đi một cái ranh giới địa lý hay ranh giới pháp lý chỉ cần làm một cử chỉ “cái roẹt” là xong, nhưng cái ranh giới tinh thần là công việc còn lại của mỗi người, có khi làm cả đời không xong!

Cuộc hồi tịch này diễn ra thầm lặng đến nhiều người không hay biết vì không ai muốn nó được công khai hóa trên mặt báo và được hiểu là một điều đương nhiên phải như thế.

Chế độ thực dân chính thức không còn nữa và người Mỹ đến thay thế chỗ của người Pháp.

Phần ông Diệm – ở bình diện cơ chế – coi như ông đã thực hiện được hai bước trong tiến trình ba bước chính trị của ông: Bài Phong, Phản Đế, Diệt Cộng.
Nhưng ở mặt tinh thần, nước Pháp xa cách Việt Nam 16 000 cây số, vậy mà về mặt tâm tư thì nhiều người Việt Nam sinh sống ở VN cảm thấy “gần” nước Pháp hơn là người hàng xóm của mình. Cựu Thủ tướng Trần Văn Hữu còn đi xa hơn, vào năm 1946 có chủ trương tách Nam Việt Nam ra khỏi Quốc Gia VN. Những người như thế đã được ông Bảo Đại mời ra lập chính phủ vào ngày 6-5-1950!

Chưa kể tệ hại hơn nữa, nhiều người Việt-gốc Pháp còn khinh văn hóa Việt, lối sống Việt vì họ coi là quê mùa, hủ lậu..Điển hình như trong Lục tỉnh Tân Văn, số hai, có bài viết lên giọng dạy đời nhận xét:

“Người Annam hay dùng chữ Nho mà ta ít hay hiểu lý cao kỳ…ăn cắp chữ Tàu dùng qua chữ Quốc Ngữ … song việc dùng câu chữ Tàu như vậy thì chẳng phải lẽ, thiếu gì cách nói, sao lại dùng tiếng chi bậy bạ vậy?
(Trích bài Dùng sái nghĩa, LTTV, số 2 trong Tuyển tập các số LTTTV)

Trích dẫn đoạn văn trên chỉ muốn gián tiếp nói điều này: Phê phán những kẻ sùng bái dùng chữ Nho” tiếng chi bậy bạ- ” thì bản thân họ, những người phê phán lại sùng bái thứ chữ -xì xà xì xồ- nghe đến ngứa lỗ tai!
Cái tâm lý trên chỉ muốn nói lên một điều rằng Hội Chứng Hậu Thuộc Địa tưởng rằng đã qua rồi, nhưng thật ra nó còn kéo dài dài trên nhiều mặt sau đây…

Hội chứng trọng thi cử

Tổ chức thi cử ở mọi cấp vẫn nặng nề trường ốc – học ba năm thi một giờ – vẫn lấy kết quả thi cử là thước đo nhân tài. Tiểu học thi theo tiểu học, trung học đệ nhất cấp rồi đệ nhị cấp đến hai lần thi tú tài 1, tú tài 2. Lên đại học thi tuyển.

Tôi nhìn lại, việc thi cử không mang ý nghĩa chứng nhận một trình độ đã học. Nó mang tính “đầy đọa” con người.

Nhiều vị ra đề thi phải hỏi hóc búa, đề toán phải có câu hỏi “lừa” được thí sinh mới là trứ danh. Thời trước nhiều giáo sư nổi tiếng chỉ nhờ cái tài “Hóc Búa” với thí sinh như giáo sư Hoàng Cơ Nghị, giáo sư Nguyễn Văn Lúa. Gặp giáo sư Lúa chấm pháp văn là “lúa đời” có nhiều hy vọng được 1, 2 gậy, ngay cả 0 nữa.

Cái lề lối thi cử ấy có từ thời tây thuộc địa. Đó chỉ là những rào cản, chẳng thấy Khai phóng gì cả (Ở đây xin không đề cập đến lề lối thi cử của các cụ nhà Nho).

Việc thi cử ấy trước đây rập theo chương trình thi cử của hệ thống giáo dục Pháp tương đương với các bằng: Certificat d’études primaires élémentaires. Brevet d’enseignement primaire supérieur. Brevet élémentaire và Brevet supérieur.

Nhưng không tránh được nó làm hao tổn tinh thần cho học sinh mới 11, 12 đã học như “quốc kêu mùa hè”. Nhưng cái rào cản tú tài 1 và 2 mới giết chết và làm hao mòn tuổi trẻ.

Không có lý gì 100 học sinh tiểu học tiếp tục học lên, rơi rớt dọc đường, ùn tắc chặt cứng ở rào cản tú tài và đại học như nêm cố như nút chặn tương lai. Và không chắc đến 10 người được bước vô cửa chính của Đại Học.

Họ bị vứt ra đời với hai bàn tay trắng. Không nghề nghiệp, không tương lai. Cả một thế hệ thanh niên sụp xuống hố, chôn vui cả tuổi trẻ.

Mặc dầu có những hạn chế do thi cử, nền giáo dục thời Đệ nhất Cộng hòa VNCH- từ cấp tiểu học trung học- phát triển rầm rộ sau đó bị chặn đứng với rào cản tú tài.

Năm 1954-1955, chúng ta có 363.160 học sinh tiểu học. 6 năm sau lên con số lên đến trên một triệu: 1.001 757 học sinh.

(trích: Sáu năm hoạt động của chính phủ VNCH, Hồ Đắc Huân, tr. 645).

Một phần ở cấp Trung tiểu học, người Mỹ “thong thả nhúng tay vào” do các cố vấn Mỹ từ trường đại học Ohio. Họ trách nhiệm nghiên cứu, hướng dẫn đưa ra các dự án như: giáo dục cộng đồng, giáo dục tổng hợp, giáo dục chuyên nghiệp và kỹ thuật. Sau này, dần dần chế độ thi cử được thông thoáng hơn. Do sự cố vấn của Mỹ, các kỳ thi tiểu học, trung học được bãi bỏ.

 

Nhớ họ mà giáo dục được cải tiến nhiều

Nói về việc thi cử ảnh hưởng Pháp, xin dùng cuốn sách Một chút lịch sử Y Khoa Đại Học đường của giáo sư Trần Ngọc Ninh để dẫn giải . Ngoài tác giả là giáo sư TNN còn các bác sĩ Hoàng Tiến Bảo, Trần Xuân Ninh, Nguyễn Lương Tuyền (Thiếu bài của giáo sư Hoàng Tiến Bảo, mặc dầu có tên ở trang bìa sách) đều chỉ nhấn mạnh tới sự thành lập Phẫu Nhi Khoa và Phẫu Khoa trực Nhi mà không đủ điều kiện để giới thiệu các khoa khác? Đối với một người ham học hỏi thì cũng mong muốn được biết sự hình thành và phát triển của ngành Y khoa Sài gòn nói chung ra sao như lời giới thiệu của bác sĩ Trân Đình Thắng trong lời nói đầu:” Y Khoa đã tiến một bước dài, Y khoa đã tiến một bước lớn”.

Nhưng điều quan trọng hơn nữa là cũng mong muốn được biết kết quả về số bác sĩ được đào tạo ở miền Nam là bao nhiêu? Nhiều ít như thế nào? và tại sao lại nhiều ít?
Được biết( theo Wikipedia), từ năm 1947 đến 1954 , cả trong Nam lẫn ngoài Bắc, số tốt nghiệp y khoa bác sĩ vào khoảng 130 người- Một con số ít hơn cả thời gian mới thành lập năm 1902!

Cắt nghĩa về sự ít oi này thì người ta đổ cho chiến tranh. Trong Nam làm gì có chiến tranh như ngoài Bắc mà mỗi năm cũng chỉ đào tạo được 5-10 bác sĩ ?

Nhưng từ năm 1955 trở đi đến 1975 ở trong Nam được chia ra hai thời kỳ: thời kỳ 1955-1966 chịu ảnh hưởng Pháp. Số ra trường còn rất ít.

Từ 1966 bắt đầu chịu ảnh hưởng Mỹ, mỗi năm lấy 200 sinh viên, nhờ đó số bác sĩ tăng lên rất nhiều.

Kết quả từ 1947 đến 1975, haI trường y khoa Hà Nôi và Saì gòn thì tính từ 1954 trở đi, miền Nam có khoảng 2300 bác sĩ.

Giai đoạn 54-1966 là giai đoạn ảnh hưởng giáo dục Y Khoa Pháp cho thấy kết quả số lượng thấp- và thấp đáng ngại, thấp đáng phải lên án khi không đếm xỉa gì số phận những bệnh nhân chết oan vì không thầy, không thuốc !

Cuốn sách cũng không giúp người đọc nắm được con số các bác sĩ chuyên khoa được đào tạo trong số gần 2000 bác sĩ ra trường.

Ngành giải phẫu vốn là niềm hãnh diện của giới bác sĩ Y Khoa Sài Gòn với các giáo sư thạc sĩ Nguyễn Hữu, Phạm Biểu Tâm, Trần Ngọc Ninh.

Có tài liệu nào cho phép chúng ta biết được có bao nhiêu bác sĩ chuyên khoa giải Phẩu đã được đào tạo bởi chính tay ba vị thầy kể trên !! Cứ giả dụ rằng mỗi năm ba giáo sư(giáo sư Ninh về nước trễ vì đi du học) nhận 5 học trò thì trong 21 năm, ít lắm chúng ta cũng có được 200 bác sĩ giải phẫu?

Những băn khoăn thắc mắc của người viết là khi chiến cuộc leo thang, hàng ngày có hàng trăm thương bệnh binh gửi về các bệnh viện trên toàn miền Nam như bệnh viện Cộng Hòa, Duy Tân Đà Nẵng vv.. Các bác sĩ Việt Nam đang giải phẫu tại các nơi ấy học giải phẫu ở đâu, bởi thầy nào để có thể làm được đủ mọi loại giải phẫu trong hoàn cảnh thập tử nhất sinh của các thương bệnh binh?

Hội chứng bằng cấp ở Pháp

Việc học, việc thi cử là để đi đến chỗ có được bằng cấp.

Thi cử càng khó khăn thì bằng cấp càng có giá trị. Bằng ngoại quốc thì có giá hơn bằng trong nước. Cùng học ở ngoại quốc, nhưng bằng đậu ở Pháp có giá hơn bằng ở Tân Tây Lan, ở Anh quốc, Thụy Sĩ hay Bỉ.

Hội chứng Hậu thuộc địa rõ ràng là ở chỗ này:

Bằng cấp là thước đo chiều cao tinh thần và định vị xã hội. Ngay chính bản thân ông Diệm cũng không tránh khỏi cái bệnh bằng cấp trong đầu.

Trong cách xưng hô, ông Diệm chỉ gọi bằng Ngài những người như ông Vũ Văn Mẫu, ông Vũ Quốc Thúc vì họ có bằng thạc sĩ luật (thường các người khác ông gọi trống không). Sau này tôi mới vỡ lẽ ra là việc nhỏ, việc lớn gì ông Diệm cũng để mắt vào. Như việc bổ nhiệm một ông quận trưởng-chức vị nhỏ nhoi- vị quận trưởng tương lai cũng phải vào trình diện cho ông Diệm “coi tướng”

Vậy mà việc bổ nhiệm những chức vụ viện trưởng, khoa trưởng, việc chuyển hóa tiếng Việt ở đại họcvv.. ông hầu như không mấy quan tâm? Vì ông Diệm nể những người có bằng cấp?

Bằng cấp là một giấy mua vé vào đời bằng cửa lớn, cơ hội thuận tiện cho những hợp đồng hôn nhân cân bằng tính toán giữa sắc đẹp, tiền bạc và bằng cấp. Người đời từng nói: Phi cao đẳng bất thành phu phụ.

Những bằng từ trường Pháp ở Việt Nam và nhất là từ nước Pháp thì vẫn là nhất. Oai hơn nữa nếu là bác sĩ học và ở Pháp.

Cái oai ấy được bác sĩ thiếu tướng Vũ Ngọc Hoàn viết:

“Các quan tây công sứ, các quan đầu tỉnh Việt Nam còn nể vì các quan đốc tờ, hèn chi trước mặt thầy thuốc tây, ta chẳng thấy người dân run sợ, khúm núm. Địa vị đã cao trọng trong xã hội, lại bị ngoại cảnh chi phối dần dà các quan đốc tờ sống xa rời dân chúng, giam mình trong một tháp ngà trưởng giả. Phải thú nhận một điều là đa số các thầy thuốc ngày xưa đều có ít nhiều tác phong quan liêu, nhưng điều đó có thể cắt nghĩa được là vì bộ mặt phong kiến của xã hội và trình độ thấp kém của dân trí thời đó”.
(trích Quân Y quân lực VNCH, IBID, Vũ Ngọc Hoàn, tr. 21)

Đáng nhẽ cần viết thêm rằng:

Đồng thời nó tạo ra những huyền thoại chung quanh những bằng cấp đạt được ấy và khi “vinh quy bái tổ” thì đúng là cảnh áo gấm về làng trở thành những vị ăn trên ngồi chốc, giữ những địa vị then chốt trong môi trường đại học và ngoài đại học.

Về vấn đề giáo dục cấp Đại Học xem ra chính quyền Đệ Nhất Cộng Hòa ít can thiệp trực tiếp thô bạo vào việc đào tạo, vào chương trình giáo dục, vào tổ chức thi cử vv.
Vì Tổng thống Diệm nghĩ rằng tổ chức giáo dục tương đối đã có nề nếp, là tốt nhất. So với các lãnh vực khác, chính phủ ông Diệm cần quan tâm giải quyết như vấn đề kinh tế, bình định và phát triển nông thôn, phát triển quân đội.

Gọi là huyền thoại vì những bằng cấp ấy cũng có mặt tối của nó.

Chỉ riêng các lãnh vực khoa học nhân văn như sử học, triết học, văn học cho tôi thấy rằng sự chọn lựa đề tài liên quan đế luận án thì 10 người hết cả 10 đều chọn các đề tài liên quan đến VN.

Đây là một chọn lựa tạm gọi là “ăn gian”.

Chọn đề tài VN vì nó có lợi cho ứng viên mà bất lợi cho người chấm, vì họ không thể đọc được tiếng Việt, không có kiến thức chuyên ngành liên quan đến luận án. Vậy thì họ chấm cái gì, căn cứ trên tiêu chuẩn gì để cấp bằng tiến sĩ Quốc Gia của Pháp?

Có một luận án để lấy bằng tến sĩ quốc gia về văn chương đề cập đến tiểu thuyết Việt Nam, giai đoạn 1925-1945. Làm sao giáo sư Pháp chấm luận án đủ khả năng hiểu biết về các tác giả Việt Nam như Trần Tiêu, Thế Lữ, Xuân Diệu, Vũ Trọng Phụng, Nam cao, Nhất Linh,Thạch Lam, Khái Hưng, Tú Mỡ, Lưu Trọng Lư? Đành chấm Phương pháp làm luận án, cách tìm tòi làm research? Rồi chính thí sinh làm luận án, nhiều khi tiếng Việt cũng chưa thông- chữ Hán mù tịt- có khi cũng chẳng đọc được đầy đủ về tiểu thuyết tiếng Việt. Nhưng làm thì cứ làm.
Vì thế, khi về VN dạy, thay vì dạy Quốc văn, ông lại dạy văn chương Pháp (trừ trường hợp giáo sư Thanh Lãng). Còn phần Quốc Văn thì lại nhường chỗ cho các vị giáo sư ở trong nước như Phạm Văn Diêu, Lê Hữu Mục, Vũ Khắc Khoan..vv..
Phần đông các giáo sư dạy triết khi làm luận án ở bên Tây đều chọn Triết lý Đông Phương cho “dễ”. Dễ không hàm ý triết học Đông Phương dễ, dễ ở chỗ người tây Phương không rành rẽ chữ Hán, chữ Phạn(đây là nói trước 1975) nên viết gì thì viết. Nhưng về thì dạy triết lý Tây Phương, nhường lại môn triết học Đông Phương cho các vị tự học ở trong nước như : Nguyễn Duy Cần, Nguyễn Đăng Thục, Nguyễn đủ loại. Đúng là học một đằng dạy môt nẻo.

Nhìn chung, việc làm luận án chỉ nhằm mục đích kiếm mảnh bằng- một bước nhảy- hơn là từ đó mở đường cho việc nghiên cứu tìm hiểu thêm về chuyên ngành.
Mảnh bằng tiến sĩ là bước mở đầu cũng như bước kết thúc việc học hỏi thêm.

Đọc một số các đề tài luận án tại Pháp cho thấy làm một luận án Tiến sĩ văn chương xem ra không lấy gì làm khó khăn – nói ” phách “một chút thì phải nói là dễ. Có nhiều đề tài luận án thật ra chỉ đáng là bài khảo cứu mà người ta có thể viết xong trong vài tháng.

Chẳng hạn như luận án tiến sĩ của bà Nguyễn Thị Ninh L’exode des Vietnamiens du Nord, après les accords de Geneve trình năm 1980, tại Lyon thì có gì đáng kể. Chỉ sợ bà còn viết bậy bạ theo tài liệu tuyên truyền của cộng sản, vì thời đó làm gì có những thống kê về số tầu, về số chi phí, về số người di cư như bây giờ!! Tôi dám chắc bà viết không đầy đủ vì thiếu tài liệu!! Hay một luận án khác về địa lý nhân văn: La Population de Saigon!!!!
Chú thích: về một số luận án tiến sĩ tại Pháp:

-BXB: Le roman Vietnamien contemporain: Tendances et évolution du Roman Vietnamien contemporain 1925-1945
-BTP: La politique de paix préconisé par Nguyen Truong To face au défi occidental au XIX sièle.
- TTL: Les catholiques Vietnamiens pendant la guerre d’Indépendance, 1945-1954.
- VNC: Political and Social Change in Viet Nam between 1940-1946
- NTA: Bibliographie critique sur les relations entre le Viet Nam et l’Occident. luận án tiến sĩ Quốc Gia: La monarchie des Nguyen de la mort de Tu Duc à 1925, 1987.
- PCD: Evolution de la situation économique et sociale de la paysannerie Vietnamienne de 1861 à 1945
- TTT: Les Concessions agricoles Francaises au Tonkin de 1884- à 1918, 1993.
- PTMLC : Huynh thuc Khang 1876-1947: dans le courant des réformistes du Trung Ky, sous la domination coloniale Francaise , 1996
- TVT: L’enseignement traditionnel en Annam, 1942
- CL: La politique de J.L de Lanesan en Indochine, 1952
- NMT: L’Annam dans la littérature francaise, 1932
- TVK: La musique vietnamienne traditionnelle, 1961
- NTN: L’exode des Vietnamiens du Nord, après les accords de Geneve, 1980.
- NVP: L’armée Vietnamienne 1949-1957, 1980
- CHT: Les missionnaires et la politique coloniale francaise au Viet Nam, 1857-1914, 1969.
- LTL: Population de Saigòn, 1969
-NVP : La Société Vietnamiennne de 1882 à 1902, d’après les écrits des auteur Francais, 1969
- VDH: La place du Catholicisme dans les relations entre la France et le VietNam de 1851 à 1870, 1970.
- LMH: L’âme Vietnamienne à travers sa littérature populaire, 1973
- PDB: Poètes Vietnamiens et poésie francaise (1913-1945), 1988.
- NXT: Les Francais dans le cycle de “La nuit Indochinoise.
- DVT : La Psychologie du paysan du delta, Étude surn la culture Vietnamienne, 1974 .
-NTH: Études de la littérature vietnamienne, 1978
-TTL: Vo Phien: culture nationale, lectures occidentals, 2001.
- NTTH : L’enseignement du francais à Ho Chi Minh ville depuis 1975, 2006.

Đã thế, những giáo sư có bằng tiến sĩ quốc gia ở Pháp về thì được xếp giáo sư thực thụ. Nhưng nếu đỗ tiến sĩ ở Thụy Sĩ hay Bỉ thì chỉ được xếp là giảng sư. Thanh Lãng có tiến sĩ tại Thụy Sĩ và có nhiều công trình nghiên cứu văn học hơn bất cứ giáo sư văn chương nào ở đại học văn khoa Sài Gòn chỉ được coi là giảng sư.

Trong khi một giáo sư với luận án tiến sĩ về tiểu thuyết VN giai đoạn 1925-1945 tại Paris, mặc dầu dạy Pháp văn, mặc dầu sau đó không có bất cứ công trình nghiên cứu lớn nhỏ nào trở thành giáo sư thực thụ

Điều gì xảy ra ở văn khoa thì có thể xảy ra ở Luật Khoa hay Y Khoa chăng? Ở những nơi ấy có điều chi giống, điều chi khác, điều chi hay hơn hay là tồi tệ hơn Văn Khoa?

Ít lắm thì khi viết xong phần này, tôi cũng tự giải tỏa cho mình một “huyền thoại” trước đây coi việc đỗ tiến sĩ ở ngoại quốc chắc phải giỏi lắm lắm!! Dù không có cơ hội đọc các luận văn tiến sĩ, nhưng chỉ đọc các đề tài luận án cũng có thể hiểu phần nào nội dung các luận án ấy được xếp ở trình độ nào?

Từ luận án tiến sĩ ở Văn khoa suy diễn ra các luận án tiến sĩ luật khoa, thạc sĩ luật khoa đến luận án tiến sĩ Y Khoa. Giá có bao giờ được may mắn chỉ cần đọc các đề tài các luận án chắc cũng đủ mãn nhãm lắm rồi!

Đại học Y khoa Sài gon có 16 giáo sư thực thụ. 7 giáo sư diễn giảng, 27 giảng sư và 41 giảng nghiệm viên. Tôi thực sự không biết những ai được coi là giáo sư thực thụ, những ai là giảng sư.

Có bao nhiêu vị học ở Mỹ về được coi là giáo sư thực thụ trong số 16 người? Những Đào Hữu Anh Hoàng Tiến Bào, Vũ Quỹ Đại, Nguyễn Khắc Minh, Đỗ Thị Nhuận, Bùi Duy Tâm, Nguyễn Ngọc Giệp được xếp vào loại nào? Lại có bao nhiêu vị bác sĩ trong danh sách đã làm luận án trong Bibliographie des theses của giáo sư Nguyễn Đức Nguyên và có chân trong ban giảng huấn được xếp vào giảng sư hay giảng nghiệm viên. Đã có bác sĩ nào là học trò của các thạc sĩ giáo sư VN được phong làm giáo sư?

Ai biết xin chỉ dùm

Hội Chứng đào tạo theo tây là tốt nhất

Cách đào tạo rập theo Tây có thể bắt đầu bằng các bằng tú tài. Chẳng hạn các chương trình triết học lớp đệ nhất nhái nguyên con triết Tây của Pháp. Cách phân chia các môn luận lý, đạo đức, tâm lý, siêu hình học là chương trình của Tây từ thập niên 1945-1950.

Nhất là càng lên cao ở trình độ Đại Học thì từ giáo sư đến chương trình học, việc thi cử đều theo Tây cả.

Quy chế sinh viên nội trú của trường Y Khoa đại học Sài Gòn là tiêu biểu điển hình thừa hưởng cái di sản của Pháp để lại – một điển hình nô lệ cách đào tạo của Pháp: Khắt khe, khó khăn, bảo thủ, ít ỏi.

Với việc thâu hồi chủ quyền đại học ngày 11-5-1955. Khoa trưởng Y Khoa đầu tiên là giáo sư Phạm Biểu Tâm. Niên học 1954-1955, toàn miền Nam có 2.154 sinh viên. Qua năm 1959-1960, số sinh viên tăng lên 9.007 người, trong đó Sài Gòn có 7924, Huế, có 1.083 người.

Có bao nhiêu sinh viên y khoa từ năm 1954 đến 1959?

Trích: Sáu năm hoạt động của chính phủ, Hồ Đắc Huân, trang 651

Ở trong Nam, trường Y Khoa được gọi là Centre d’Études médicales de Saigon, trụ sở tại đường Testard. Kết quả khóa thi năm 1949, có 39 bác sĩ Y Khoa.Thế là nhiều đấy.
Cũng theo tài liệu Sáu năm hoạt động của chính phủ thì trên toàn quốc, ta có 130 y sĩ vào năm 1954, sang năm 1960, miền Nam tự do có 184 .. Giả dụ trên toàn cõi có 130 y sĩ thì 3/4 ở miền Nam- nghĩa là khoảng 96 người .. Sáu năm sau, đào tạo thêm được mỗi năm trên dưới 15 người?

Điều đó có ý nghĩa gì?

Những con số dưới đây còn làm ngạc nhiên nhiều người, khi trường Y Khoa Hà Nội được mở nằm 1902 thì đến năm 1939 đã có 139 bác sĩ và 216 y sĩ Đông Dương. .
Trích Indochine, Pierre Brocheux, trang 257-25

Số lượng ít ỏi theo cách đào tạo như vậy có phù hợp với thực trạng và nhu cầu y tế của miền Nam không? Vấn đề là nhu cầu hay phẩm chất? Vấn đề nào là ưu tiên số một của ngành Y Khoa?

Theo giáo sư Trần Ngọc Ninh (Y khoa bác sĩ, 1923, 405 Hai Bà Trưng Sài gòn. Theo Niên lịch công đàn), người đã trải qua những kinh nghiệm đắt giá về chế độ sinh viên nội trú. Ông viết :

“Những năm đầu tiên của chế độ nội trú có một người đậu mỗi năm, mở đầu(1936) là anh Mai Sĩ Đoàn đã chết vì bệnh lao, rồi đến anh Trần Văn Bảng, anh Tôn Thất Tùng, anh Đặng Văn Chung, anh Phạm Biểu Tâm, anh Đinh Văn Thắng, anh Nguyễn Đình Cát, mỗi người một năm. Đến năm 1942 mới lấy hai người đậu, anh Nguyễn Hữu(giáo sư y khoa, bác sĩ giám đốc viện giải phẫu, sài gòn, theo tài liệu Niên lịch công đàn) và anh Nguyễn Văn Thành.

Trích: Một chút lịch sử y khoa, Đại Học Đường Sài Gòn, giáo sư Trần Ngọc Ninh, trang 35

Cũng theo giáo sư Ninh, kể từ 1966 trở về sau hằng năm có đến 25 đến 50 sinh viên được tuyển làm nội trú.

Tại sao mãi đến năm 1966 vấn đề sinh viên nội trú mới được mở rộng? Phải chăng vì chế độ học theo Pháp đã cáo chung? Cũng vào năm nay, một ông tướng võ biền Nguyễn Cao Kỳ đã phát lệnh đả phá trường Tây và chấm dứt liên hệ ngoai giao với Pháp!

Trường Y Khoa đưới cái dù của pháp như con nòng nọc đứt đuôi Giáo sư Pháp bỏ về nước. Bằng bác sĩ Y Khoa ở VN không còn được nhận tương đương với bằng Pháp.
Cũng theo giáo sư TNN là từ năm 1945 đã có việc sinh viên bãi khóa để đòi hỏi hủy bỏ chế độ nội trú ” bất công và thiếu nhân đạo”. Cũng từ năm 1945 đã có những soạn thảo về việc xử dụng tiếng Việt trong Y Khoa noi gương người khởi đầu xử dụng tiếng Việt trong ngành Khoa học là giáo sư Hoàng Xuân Hãn.

Những tiết lộ của giáo sư TNN là quý giá và rất quan trọng.

Ý hướng như thế là quá tốt đẹp. Vậy mà 30 chục năm sau, trường Y khoa vẫn giữ “giấc ngủ trưa”gò ép chế độ nội trú và việc chuyển ngữ tiếng Việt. Những ai là người trách nhiệm kìm hãm đà tiến và sự phát triển y khoa Sài Gòn trong tầm ngưỡng vọng theo kịp thế giới như bác sĩ Thắng mong đợi?

Và để đến nỗi sau này sinh viên y khoa Sàigon phẫn uất rồi bùng nổ bung ra, một phần do việt cộng dật giây đã biểu tình đòi hỏi việc chuyển ngữ tiếng Việt cũng như nới lỏng quy chế nội trú.

Đó là phản ứng tiêu cực chống đối các thầy, nhưng lại rất tích cực vì hai mục tiêu đòi hỏi rất chính đáng-đáng nhẽ phải được thực hiện từ lâu- đã không làm, đã nhất định giữ nguyên trạng tình trạng Hậu Thuộc địa theo lối đào tạo chính quy của Pháp.

Pháp dạy làm sao, đào tạo kiểu nào, ta đào tạo kiểu đó.

Mặc dù rất kính phục giáo sư TNN, nhất là về phạm vi văn hóa- mà nay chỉ có mình ông đứng ra đứng mũi chịu sào, vì ông Hữu bỏ đi Pháp từ thời đó, ông Phạm Biểu Tâm không còn nữa.

Nhưng luận cứ cho rằng:

“Nhưng vấn đề vô cùng phức tạp và có rất nhiều khía cạnh trong đó có sự dung hòa giữa nhu cầu giữ phẩm chất cho nền y học Việt Nam là một trách nhiệm mà giáo dục y khoa không thể không cân nhắc”.

Trích Tran Ngoc Ninh, IBID, trang 3
Tôi không dám lạm bàn đến Phẩm chất đại học. Nhưng tôi dám nói rằng quy chế nội trú y khoa là bất công đối với đa số sinh viên.

Đây là luận cứ có giá trị biện hộ hơn là giá trị chứng thực. Tôi đã hỏi một số bác sĩ thì phần đông đều ca thán về cách đào tạo của trường Y Khoa Sai Gòn. Nhiều người nhìn nhận khi ra trường còn ngù ngà ngù ngờ. Nói một cách hơi quá đáng, rành đỡ đẻ không hẳn phải nhờ thầy mà là nhờ kinh nghiệm đỡ đẻ do y tá truyền lại. Nếu không có bác sĩ Trần Đình Đệ, học hậu đại học về sản khoa ở Mỹ về thì ngành này đi đến về đâu?

Dù câu chuyện trên đây hé lộ một phần nhỏ sự thật cho thấy cách đào tạo của Y Khoa Sài Gòn vấp váp về nhiều mặt: Chương trình học lỗi thời, chậm lụt, kỹ thuật kém không thực tế, không bám sát vào nhu cầu y tế VN, nhiều chương trình học viển vông chỉ dùng cho nghiên cứu chuyên ngành, lý thuyết xuông, học mà không hành, học bằng mắt, học bằng xem mà không học bằng tay.

Học để là bác sĩ hơn là để làm bác sĩ.

Phương pháp giảng dạy, cách dạy, cách truyền đạt không nhằm đối tượng được truyền đạt mà nhằm chủ yếu người truyền đạt, tùy thuộc vào cá tính người truyền đạt- đôi khi phô trương và cả dấu nghề- đôi khi giữ tài liệu cho riêng mình-đôi khi lấy cái giỏi của mình làm cớ cho sự khinh miệt người khác.
Dĩ nhiên không thiếu nhiều thầy thương học trò, hết lòng chỉ dẫn.

Trò có mắt đế biết ơn thầy theo đúng đạo Thầy-Trò.

Nhưng một số sai lầm trên là những sai lầm từ căn bản- sai lầm về chủ đích giáo dục và triết lý giáo dục.

Dạy là truyền đạt mà nếu kết quả không đạt được thì lỗi ở người truyền đạt không phải người được truyên đạt. Trồng cây ăn trái mà không cho trái thì lỗi ở người làm vườn. Hai năm đầu y khoa là hai năm lý thuyết vô tích sự.

Chế độ dạy tiếng Pháp đi ngược lại quyền lợi sinh viên và tình tự dân tộc.

Chế độ nội trú (tôi không nói đến các resident ở Hoa Kỳ) cực kỳ khắt khe trong tuyển chọn tạo ra những ưu đãi tuyệt đối, quyền lực tối cao nơi ông thầy, hãnh tiến nơi người được tuyển chọn trong nỗi nhục nhã của những kẻ không được chọn và không đếm xỉa đến thành phần đa số còn lại. Giai cấp giữa giai cấp- bạn bè đồng nghiệp người cao kẻ thấp- bất công trong nhiệm vụ và sứ mạng phục vụ-lý tưởng, sự say mê trở thành đui què, thất vọng -nhẫn nhục trở thành sự khôn ngoan theo bước chân Hàn Tín-.
Cái đa số là mục đích của giáo dục và là triết lý giáo dục chứ không phải cái thiểu số.

Đa số hay thiểu sổ nếu không nắm được nguyên tắc ấy, làm giáo dục là phản giáo dục.

Cái lỗi lầm về giáo dục kéo dài chỉ người trong cuộc mới hiểu cho thấu.

Nhưng tôi vẫn tin vào lời phát biểu của giáo sư Trần Ngọc Ninh viết:

“Trong nghề bắn cung, chỉ có thể có một người giỏi nhất. Trong việc mổ không có vấn đề ấy. Trong sự dạy học, người thầy phải mong rằng học trò giỏi hơn thầy”

Trích Trần Ngọc Ninh, Ibid, trang 55.

Nhưng mặt khác, tôi vẫn nghe được những tiếng nói lỗi nhịp và lạc điệu.

Một bác sĩ trẻ học trò cha giáo sư Lichtenberger sau ngao ngán kể lại rằng có lần thầy bảo rằng nếu các anh không được học đến nơi đến chốn thì sau này chẳng khác gì các anh cầm dao mổ giết người một cách hợp pháp.

Đã có bao nhiêu những chẩn đoán, cầm dao giết người một cách hợp pháp? Vì không được đào luyện đến nơi đến chốn? Thế nào là đến nơi đến chốn? Học theo tây- không theo Mỹ- là đến nơi đến chốn?

Một vị khác cho biết cours về Hộ Sản bằng tiếng Pháp của một giáo sư dày cả trăm trang, đọc chẳng hiểu gì cho lắm. Nhưng khi có một vị giáo sư học từ Mỹ về cho một cái cours ngắn tóm tắt, mỏng hơn nhiều, đọc dễ hiểu, dễ nhớ hơn .. Nhưng nắm được ngay điều gì cănn bản y sĩ phải làm theo thứ tự ra sao cứ thế mà làm?

Trăm trang dài khác cái ngắn hơn ở cái gì ? Có cần tranh luận đến trở thành tranh chấp già-trẻ, tranh chấp theo Pháp hay Mỹ. Hay chỉ cần so sánh cái cours 100 trang và cái cours ngắn trang là đủ?

Ý kiến của các vị giáo sư thạc sĩ là đúng hay những ý kiến của sinh viên nhỏ nhoi phản ánh đúng thực trạng giáo dục Y khoa Sài gòn là đáng được nghe, được trân trọng?
Chỉ từ khi ra Hải ngoại, nhiều vị bác sĩ mới có dịp quay lưng ra ngoài cửa hang động(diễn giải theo môt huyền thoại Hy Lạp bàn về Kiến Thức thực-giả) để nhìn thấy ánh sáng mặt trời thay vì chỉ nhìn thấy bóng của chính mình và cảnh vật bên ngoài lay động phản chiếu trên bức tường hang động.
Cũng cái vị giáo sư học hộ sản từ Mỹ về cho cái “cours dài vài trang” đã không được các đàn anh theo tây ngấm ngầm ngăn cản không được bước vào phòng mổ. Chỉ đến lúc ông dời nhiệm sở cũ đi chỗ khác mới có dịp thi thố tài năng của mình.

Nếu điều này là có thực thì rõ ràng có sự kỳ thị, sự tranh chấp, sự đố kỵ giữa hai phe già, trẻ, theo Pháp, theo Mỹ.

Kẻ duy nhất chịu thiệt thòi trong cuộc tranh chấp này là các sinh viên Y Khoa Sài gòn.

Tôi đọc một vài bài viết hồi ký về chuyện đi thực tập của các sinh viên y khoa. Tôi có cảm tưởng đang đọc một đoạn mô tả “đám rước”, chỉ thiếu cờ xí, võng lọng và não bạt hơn là một buổi thực tập. Hầu hết từ người đi trong đoàn rước đến người đứng “ngoài vòng, đứng xa xa” chỉ là những khán giả đứng quan sát .. Đúng là phúc cho ai được làm nội trú, làm con cưng của thầy, vì y khoa dành cho họ.

Cách đào luyện khắt khe như thế hoặc có mục đích đào luyện thiên tài, hoặc nhân danh giữ gìn phẩm chất y khoa, hoặc chỉ là một hình thức kềm kẹp nhau không cho ai ngóc đầu lên được? Những ranh giới mong manh giữa các điều vừa kể trên có thể biến một điều tốt nhất, lý tưởng nhất trở thành tồi tệ nhất, đáng đỏ mặt. Cái tốt, cái xấu đan xen nhau- ranh giới rất mù mờ- bảo rằng lý tưởng cũng được- bảo rằng bảo thủ, bè phái, cố chấp cũng được- bảo rằng bảo vệ quyền lợi cũng được- mà một kẻ bàng quan đứng ngoài đôi khi chỉ hiểu được cái hiện tượng, cái xuất hiện, cái nghe nói, không nắm được cái “yếu tính” của người trong cuộc.

Đó cũng là giới hạn của kẻ viết bài này- Một kẻ ngoài cuộc-. Cho nên sẽ có kẻ trách, kẻ tán đồng.

Chế độ nội trú ấy vẫn tồn tại từ 1945, vẫn kéo dài ít nhất đến 1966, không một ai lên tiếng. Biết mà không nói. Hàn Tín đâm ra có vẻ nhiều!

Chậm một năm là thiệt thòi một năm cho sinh viên, chậm 20 chục năm thì thiệt thòi 20 chục năm.

Vì thế, năm 1958 viện trưởng đại học Huế muốn mở thêm trường Y khoa vì thấy rằng Việt Nam thiếu bác sĩ trầm trọng. Cứ 30.000 ngàn ngườ mới có một bác sĩ. Trong khi tại Phi Châu là 20.000/ một bác sĩ. Sự thiếu hụt bác sĩ là nguyên do từ đâu?

Chỉ rất tiếc không ai đã từng học ở Mỹ về có đủ uy thế để cố vấn cho ông Diệm ngay từ 1955!

Hội Chứng tôn sùng tiếng Pháp và ngại chuyển hóa tiếng Việt

Mới đây nhất tại Hải Ngoại, tôi được một người bạn tặng cho tập san quân y: Quân Y Quân Lực VNCH.(Le corps de Santé. Des forces armées de la République du Viet Nam). Đây là một tài liệu hữu ích cho thấy 95% nam bác sĩ tốt nghiệp đều là quân y sĩ.

Chiến trường miền Nam đã ngốn 95% lực lượng y sĩ cho nhu cầu Quân đội. Đó là một phát lộ làm ngạc nhiên nhiều người không ở trong nghề.
Và biết bao nhiêu thương bệnh binh VNCH đã được cứu sống nhờ các vị ân nhân là quân y sĩ này. Họ xứng đáng được tôn vinh nhất trong ngành Y sĩ. Nhìn họ phần đông hào hùng trong bộ quân phục thêm con rắn trên ve túi áo cho biết họ là ai, không phải thứ thường. Chẳng những thế, để kiếm thêm tý tiền cà phê cà pháo, tiền bao đào, tiền soa mạt chược, ngay cả tiền trợ cho vợ trẻ, con thơ với đồng lương ít ỏi của một y sĩ trung úy mới ra trường .. Họ đã cứu sống được bao nhiêu bệnh nhân ở những vùng quê, quận lỵ hẻo lánh.

Bác sĩ thiếu tướng Hoàn giả dụ rằng một ngày không có các bác sĩ này thì sẽ ra sao?

Tôi cũng ghi nhận một nhận xét “hết lòng” của Y Sĩ Trung Tá Phạm Viết Tú đối với thương bệnh binh:

“Bây giờ đây, một số đã ra đi vĩnh viễn, một số khác đang sống vất vưởng nơi quê nhà, chịu mọi sự đắng cay và thiếu thốn về vật chất cũng như tinh thần, do thù hận và kỳ thị. Một số nhỏ khác có lẽ đang sống một cuộc sống không kém khó khăn tại các nước dân chủ tự do. Cuộc chiến vừa qua tại Việt Nam, các thương bình VNCH đã thực sự bị bỏ rơi và bị nhiều thiệt thòi nhất. Biết đến bao giờ các anh hùng tử sĩ, các chiến sĩ VNCH mới được vinh danh trở lại?

Trích Quân Y quân lực VNCH, bài Tổng Y viện Duy Tân trong cuộc chiến chống Cộng (1967-1972), Y sĩ trung tá Phạm Viết Tú, trang 309

Điều ngạc nhiên là tập tài liệu này được in và xuất bản năm 2000, nhưng nội dung các bài viết hầu hết bằng hai thứ tiếng Việt và Pháp.

Chắc hẳn Ban Biên tập có một dụng ý gì đó nên có chủ trương như vậy không tiện nói ra chăng!

Tôi cũng quay ngược lại quá khứ vào những năm xa xôi đầu thời kỳ thuộc địa Pháp năm 1860, nhà Chung công giáo đã lập trường Adran, được gọi là trường Pháp-Việt. Đô đốc La Grandière là người đã mời các sư huynh(Frères des écoles Chrétiennes)sangVN điều khiển trường.

Sang năm sau, đến lượt các dì phước dòng áo trắng(Soeurs Saint Paul de Chartres) lập trường học cho các trẻ em nữ.

Xem L’Ouvre Francaise d’Enseignement au VN, A. Rivalen, tạp chí France-Asie, số 125-126, Sài Gòn 1956.

Tiếng Pháp chính thức du nhập trở thành sinh ngữ chính trong nền giáo dục Việt Nam. Vì vậy, việc dùng tiếng Pháp như một sinh ngữ chính được áp dụng tại một số trường công giáo thuộc hệ thống La San cũng như hệ thống các trường bà sơ có gốc gác dòng mẹ ở Tây đã kéo dài trong nhiều năm.

Lúc đầu không nói làm gì, nhưng việc nó được duy trì và kéo dài trong nhiều năm trong một tình thế đất nước và lịch sử đã sang trang là một trái chiều khó chấp nhận.
Điều đó nó tố cáo một thái độ chậm lụt, không thức thời, trì trệ và thiếu tinh thần dân tộc.

Trong khi các trường công giáo khác trên toàn miền Nam không ở trong quỹ đạo La San thì vấn đề dạy tiếng Việt đi theo hướng chung của hệ thống giáo dục toàn miền Nam.

Kể từ đó, nhiều trường học công giáo được mở ra trên khắp VN, nhất là sau 1954 đã không ở trong quỹ đạo của hai trường đó. Và cũng tạo được những thành quả không kém ai.

Riêng hệ thống trường Tây công giáo, họ dễ dàng tạo được uy tín trong giới trung lưu thành thị. Ai có tiền của, có địa vị xã hội- bất kể thành phần tôn giáo nào – đều muốn cho con theo học tại các trường trên và thường phải trả một giá học phí cao.

Nó tạo ra hai hệ thống giáo dục, một cho con nhà dân giả, một cho giới thượng lưu, có tiền có của.

Sỉ số học sinh các trường này tăng vọt lên mức trần 2000 học sinh mỗi năm. Có con học ở đây thì yên tâm nhiều bề và không khỏi có niềm hãnh diện thầm kín của bậc làm cha mẹ.

Rồi từ đó, hai hệ thống trường Nam và Nữ ấy vẫn giữ độc quyền “quy chế trường tây”.

Sau này, tại Sài Gòn, chỉ còn lại hai trường duy nhất dạy chương trình Pháp là trường Marie-Curie để dạy trung học và 2 trung tâm giáo khoa Colette và St-Exupéry để dạy tiểu học.
Như thế, có đến hai hệ thống giáo dục trung tiểu học: một hệ mà tuyệt đại đa số là trường Việt, một thiểu số còn giảng dạy bằng tiếng Pháp.
Ở bậc đại học, chỉ còn lại hai nơi vẫn duy trì giảng dạy bằng tiếng Pháp: Đó là Viện đại học Đà Lạt và trường Y Khoa Sài Gòn.
Chúng ta không bàn đến trường Y Khoa Ở Hà Nội lúc đầu vào năm 1902 khi mới thành lập. Việc giảng dạy bằng tiếng Pháp là điều đương nhiên phải như thế trong chế độ bảo hộ.
Chúng ta cũng không đề cập đến những năm từ 1947-1954 dưới thời các chính phủ Nguyễn Văn Xuân- Nguyễn Phan Long- Trần Văn Hữu-Nguyễn Văn Tâm- Bửu Lộc vì bản thân những vị này theo Tây. Ngay trong Hiệp định Élysée có điều khoản ghi:

” Bộ Quốc Gia giáo duc Việt nam sẽ tổ chức một nền giáo dục từ tiểu học đến đại học. Tiếng Pháp được ưu đãi và sẽ là tiếng công dụng ngoại giao ở Việt Nam, được dạy ở bậc tiểu học và bắt buộc dạy từ trung học trở lên “.

Trích Viêt Nam máu lửa, Nghiêm Kế Tổ, trang 151

Nhưng những cơn gió chính trị đã có lúc quét người Pháp ra khỏi vùng ảnh hưởng ở Việt Nam dưới thời chính phủ Trần Trọng Kim. Trong khoảnh khắc, quân Pháp nhường chỗ cho quân Nhật và Tổng Tư Lệnh Nhật tuyên bố:

“Người Nhật trao trả độc lập cho VN để cùng nhau lập khối Đại Đông Á”.

Bảo Đại trao trọng trách cho Trần Trọng Kim lập chính phủ ngày 17-4-1945

Trong một tình tthế cực kỳ cam go với nạn đói đang hoành hành tại Bắc Việt, ông Hoàng Xuân Hãn vẫn đưa ra chương trình cải tổ giáo dục ở Huế. Cùng với quý ông như Nguyễn Dương Đôn, Nguyễn Huy Bảo, linh mục Nguyễn Văn Hiền, Tạ Quang Bửu, Ưng Quả, Nguyễn Thúc Hào, Phạm Đình Ái, Đào Duy Anh và Ngô Đình Nhuvv.. Ông Hoàng Xuân Hãn đưa ra chương trình cải cách giáo dục bằng cách dùng tiếng Việt làm sinh nghữ chính trong giáo dục Việt Nam .

Mặc dầu chính phủ Trần Trọng Kim chỉ đứng vững sau mấy tháng. Chương trình Hoàng Xuân Hãn vẫn là Kim Chỉ nam cho các chương trình giáo dục sau này.
Hoàng Xuân Hãn cũng là người đã thực hiện được cuốn Danh từ khoa học ..điều đó cho thấy rằng những viện cớ việc chuyển ngữ các danh từ khoa học là điều bất khả thi chỉ che dấu một sự ngụy biện trá hình của một tình trạng vọng ngoại và vong bản?

Khi đã quét sạch bóng dáng người Pháp ra khỏi xứ này thì không có bất cứ lý do nào chính đáng để biện hộ- như giữ gìn phẩm chất giáo dục- được nữa.
Tiếng Việt của người Việt, cho người Việt, giữ gìn trong sáng tiếng Việt là bổn phận người Việt, v.v…

Trường đại học Đà lạt còn có thể chấp nhận được việc giảng dạy bằng tiếng Pháp, vì toàn bộ các giáo sư là các linh mục người ngoại quốc mượn từ bên Giáo Hoàng Chủng viện Pio 10 sang dạy cho sinh viên Đại Học Đà Lạt (trừ hai ba giáo sư người Việt).

Nhưng còn trường y khoa Sai gòn, ngoài một số các giáo sư người Pháp, phần lớn còn lại là giáo sư người Việt. Giáo sư người Việt có đủ khả năng dạy Y Khoa bằng Việt được không?

Đó là câu hỏi đặt ra cần có câu trả lời.

Vấn đề dạy tiếng Việt ở Đại học là trách nhiệm của các khoa trưởng, viện trưởng mà không bị bất cứ chi phối nào từ thẩm quyền cao hơn?

Đối với riêng môn Triết học ở miền Nam ngay từ thời Đệ nhất Cộng Hòa, dưới sự “bảo trợ” của luật sư Đào văn Tập đã soạn được một cuốn sách mỏng(256 trang) in và tái bản hai lần gọi là Danh Từ Triết Học. Tham vọng của nhóm soạn thảo là thực hiện được một cuốn tự điển danh tiếng như tự điển Lalande của Việt Nam .. Nhóm này gồm LM. Cao Văn Luận, Đào văn Tập, Nguyễn Văn Trung, Trần Văn Tuyên và Linh Mục Xuân(Corpet). Nhưng chẳng may luật sư Đào Văn Tập mệnh yểu, cả chương trình thực hiện Bộ Bách khoa Tự Điển không có cơ hội thực hiện.

Ngoài ra, linh mục Trần Văn Hiến Minh, một mình, đã soạn được bộ Từ Điển Danh từ Triết Họ và thần học, in photocopy và 21-1. năm. Cuốn sách dày hơn 400 trang, mỗi trang vào khoảng 13 danh từ được dẫn giải theo nghĩa từ nguyên và các nghĩa khác nhau tùy theo mỗi triết gia. Công chung có hơn 5000 ngàn chữ ..

Không có thứ chữ nào dù là khoa học, dù chuyên môn lại không thể không chuyển ngữ được. Nếu chưa chuyển dịch được thì tạm để nguyên chữ.
Cái vấn đề là chuyển ngữ cái đầu trước khi chuyển ngữ.

Hội chứng Hậu thuộc địa do sư muốn duy trì tiếng Pháp nó gợi nhắc đến các chính Phủ Nguyễnn Văn Xuân, Nguyễn Văn Tâm, Trần văn Hữu thời 47-54. Nhưng nó không thể chấp nhận được sau năm 1955 vì nó chứng tỏ sự lạc hậu lỗi thời và thiếu chính trị.

Tại Viện Đại Học Huế, có mở thêm phân khoa y khoa vào năm 1959 và ở nơi đây đều được dạy hoàn toàn bằng tiếng Việt khi giáo sư là người Việt. Sau này đại học Minh Đức cũng dạy bằng tiếng Việt một cách suông sẻ.

Vậy thì Y khoa Sài Gòn lấy lý do gì để biện minh cho việc cứ dạy tiếng Pháp mặc dầu biết rằng một số không nhỏ sinh viên học chương trình Việt sẽ không nghe kịp, không hiểu kịp.

Tôi không trả lời thay cho ai được và trách nhiệm tinh thần của người thầy dạy là truyền đạt. Nếu không truyền đạt được thì ý nghĩa việc giáo dục là gì!
Cái tinh thần gò bó ấy, cụ Trần trọng Kim gọi là tinh thần Học Phiệt:

“Ở xã hội ta ngày nay có một hạng người, nghe nói đến nước mình thì ngây ngây ngây như người ngoại quốc; sử nước mình không biết, tiếng nói nước mình thì chỉ biết qua loa, đủ dùng trong sự giao thiệp hằng ngày”

Trích Nguyễn Văn Y. Nhà Giáo, Sài gòn, 1973, trang 132.

Và cộng sản đã lợi dụng dịp tranh chấp này đưa ra những luận điệu về hùa trong tờ Hồn Trẻ như sau:

“Vấn đề đấu tranh đòi chuyển ngữ ở Đại Học Y Khoa được Hồn Trẻ làm hậu thuẫn, đăng nguyên văn nghị quyết 5 điểm của “Ủy Ban vận động chuyển ngữ đại học và chống trường ngoại quốc ở Việt nam và Hồn Trẻ bình luận:

“Sau các buổi hội thảo về vấn đề chuyển ngữ, sinh viên Y Khoa đã biểu lộ quyết tâm đẩy mạnh vấn đề làm chuyển biến một hiện tượng chậm tiến và nô lệ hãy còn tồn tại. Tuy nhiên công việc hãy còn dở dang vì ý kiến bảo thủ của một số giáo sư viện cớ nào là nếu học tiếng Việt thì sinh viên sẽ kém ngoại ngữ, nào là việc dạy sẽ khó khăn. Hồn trẻ thấy tất cả mọi lý do nêu ra đều không có lý do. Chỉ có một lý do độc nhất là có một số người cho đến nay vẫn còn mang nặng đầu óc nô lệ, không nô lệ chính trị mà nô lệ tư tưởng, nô lệ mặc cảm, hay mang các bệnh lười, chỉ theo thói quen mà không chịu cải tiến.

Hồn Trẻ cương quyết đứng về phía anh em sinh viên và sẽ ủng hộ đến cùng”.

Trích Trui rèn trong lửa đỏ, Tập Ký sự truyền Thông Thành Đoàn, tập 1, trang 140

Việc tranh chấp tại trường Y Khoa giữa hai khuynh hướng theo Pháp và theo Mỹ.

Việc tranh chấp giữa hai nhóm theo Pháp và theo Mỹ đã được giáo sư Trần Ngọc Ninh nhắc tới với những lời giải thích còn chưa được rõ ràng.

Người ta còn nhớ là ngay từ tháng 10/1958, giáo sư Jason đã làm một bản phúc trình: Report on proposed medical Center for Viet Nam về các vấn cơ sở, nhân viên và học trình. Sau nhiều buổi thương thuyết giữa Mỹ và các giáo sư trường Y khoa đã không đem lại kết quả cụ thể gì.

Lý do tại sao không đem lại kết quả gì thì không được rõ.

Chú thích: Mỹ có nhiều tổ chức khác nhau nhằm hỗ trợ Việt Nam về giáo dục như các cơ quan: USAID, phụ trách quản lý giáo dục, cấp học bổng, đào tạo sinh viên. AID: Lo đào tạo trí thức, cán bộ giáo dục U .S. I. S. Sở thông tin Hoa Kỳ trắc nhiệm các sinh hoạt văn hóa, thư viện, dạy tiếng Anh vv..Cho đến năm 1969, có 469 người được đi du họ tại mỹ ..Tổng số sinh viên Y, Nha, Dược năm 1973-1974 là 2610 …

Cái thế chính trị của người Pháp không còn nữa. Dựa vào yếu tố gì để ngả theo Pháp? Và trên thực tế, Pháp đã giúp được gì cho trường Y khoa: vấn đề đào tạo nhân sự, cung cấp giáo sư, cung cấp dụng cụ y khoa, trường sở, tài liệu sách vở?

Đã có thêm bao nhiêu giáo sư tốt nghiệp từ Pháp về?

Những xung khắc đối đầu giữa hai phía giữa giáo sư trẻ và giáo sư già đã được giáo sư Trần Ngọc Ninh xác nhận rõ tính chất của cuộc tranh chấp:
“Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng là sự tranh chấp quyền hành giữa các nhân viên giảng huấn trẻ và nhóm giáo sư già giữ quyền hành trong trường qua Hội Đồng Khoa. Nhóm trẻ trách rằng nhóm già chèn ép và ngăn chặn sự tiến thủ của các người trẻ (..).. Nhóm trẻ quy tụ lại trong sự trách móc rằng nhóm già chịu ơn của thực dân Pháp nên cố duy trì ảnh hưởng của Pháp ở trường Y Khoa. Những người không muốn đi vào chính trị nói rằng các ông già bảo thủ.
Các giáo sư không tuyên bố lập trường, nhưng có ý trách rằng bọn trẻ theo mỹ một cách quá khích.
Về phía Hoa Kỳ, tuy có một chương trình y khoa mới do Giáo sư J.M May thảo ra với sự đóng góp của giáo sư Việt Nam, Nhưng từ Wagshington có những áp lực để bỏ chương trình ấy mà theo chương trình của một trường y khoa Hoa Kỳ để cho sự trao đổi giáo sư được thuận tiện.
Cuộc tranh chấp lên đến cao độ đi đến vệc bãi nhiệm khoa trưởng là giáo sư Phạm Bửu Tâm và bầu lên một ủy ban gồm 5 người để điều hành việc trường: Đó là các bác sĩ Ngô Gia Hy, Trần Anh, Nguyễn Ngọc Huy, Nguyễn Thế Minh và Lê Minh Trí.

Tôi là người mà sự học đã hoàn toàn ở Pháp. Tôi cũng chủ trương ít ra là trong một thời kỳ chưa biết bao lâu là phải đào tạo một lớp nhân viên giảng huấn ưu tú theo con đường hẹp của các kỳ thi tuyển”.

Trích: Một chút lịch sử Y Khoa Đại Học Đường Sài Gòn, 1954-1975, giáo sư Trần Ngọc Ninh, trang 155-156.

Giáo sư TNN đã khẳng định, đó là tranh chấp quyền hành. Như vậy là đủ rồi.

Linh mục Cao Văn Luận cũng đã tiết lộ việc tranh chấp tại Y Khoa Sài Gòn như sau:

“Người thứ nhất tôi đến tìm là ông Costler, phó giám đốc cơ quan Viện trợ Hoa Kỳ. Ông tỏ vẻ hiểu biết và cho tôi biết rằng Hoa Kỳ có thể giúp đỡ Việt Nam rất nhiều về Khoa Học Kỹ thuật, nhưng không thể giúp gì cho y khoa được. Từ ba năm nay, Hoa Kỳ cũng muốn giúp đỡ y khoa Việt Nam phát triển, nhưng vì sự cạnh tranh giữa hai khuynh hướng Pháp và Mỹ nên đành bó tay”.

Tôi hứa với ông ta là trong đại học y khoa Huế, tương lai vấn đề cạnh tranh ảnh hưởng giữa Pháp và Mỹ sẽ không thành vấn đề. Ông hứa sẽ nghiên cứu sự yêu cầu giúp đỡ của tôi và sẽ thông báo sau”.

Sau đó, cha Cao Văn Luận đã đi gõ cửa tòa đại sứ Pháp. Đây là nội dung cuộc trao đổi giữa hai bên:
“Nơi thứ hai mà tôi tìm đến là tòa đại sứ Pháp. Ông tham vụ tòa đại sứ Pháp trả lời cho tôi biết rằng chính phủ Pháp hiện đã dốc các nỗ lực giúp cho đại học Y khoa Sài gon và thấy khó có thể giúp thêm cho đại học y khoa Huế, vì vậy không thể hứa điều gì ngay lúc này, nhưng sẽn nghiên cứu và cho biết sau”.

Trích Cao Văn Luận, Ibid, trang 11-12

Theo như lời tiết lộ của ông Costler là sự tranh chấp kéo dài từ ba năm nay, tức là bắt đầu khoảng năm 1955.. Và người Mỹ thất vọng vì không giúp gì được cho Y khoa Sài Gòn nên cũng không có ý định giúp y khoa Huế.

Phần Tham vụ tòa đại sứ Pháp cho biết đã tốn công của để giúp y khoa Sài Gòn nên không đủ phương tiện giúp y khoa Huế.

Qua viên Tham vụ tòa đại sứ Pháp, người ta thấy rõ ràng cánh giáo sư thân Pháp đã chọn lựa dứt khoát đứng về phía Pháp và chiếm được ưu thế, hất cẳng Mỹ ra ngoài..

Cũng theo giáo sư Trần Ngọc Ninh:

“Kinh nghiệm của Mỹ đã thất bại khi trường Harvard giúp trường Đài Loan, trường California ở San Fransisco giúp trường Djakarta là hai thí dụ lớn nhất, là hai thất bại điển hình. Chúng tôi cũng không muốn thất bại, nên ông Khoa trưởng Phạm Biểu Tâm, thay mặt Hội Đồng Khoa, đã từ chối trường ILLinoi, từ chối trường Seattle, từ chối mấy trường khác nữa và đưa ra lời đề nghị hợp tác với Hội Y Sĩ Hoa Kỳ để nhờ Hội tuyển mộ hộ Giáo sư tham quan trên căn bản cả nước cho trường của chúng tôi.
Tôi hiểu rằng Hội Y Sĩ Hoa Kỳ(AMA) chưa bao giờ làm công việc ấy, chưa bao giờ có thể nghĩ rằng có thể làm cái việc ấy. Các ông nói là một phiêu lưu, tôi nói là một thách thức.

Tôi dứt lời thì Ủy ban xin rút ra để họp riêng trước khi ra mắt báo chí, và sau đó yêu cầu tôi cùng ho[. báo với họ.Trung tướng Humphreys cũng ngồi vào bàn.Ủy ban công khai tuyên bố sự cộng tác của Hội Y sĩ Hoa Kỳ vào việc cải tổ giáo dục y khoa tại Việt Nam.

Trường thuốc mới được khánh thành một năm sau và là sự nghiệp độc nhất có thể làm cho nhân dân Hoa Kỳ hãnh diện được ở Việt Nam”.

Trích Trần Ngọc Ninh, Ibid, trang 31-32

Giáo sư Trần Ngọc Ninh không cho biết những lý do gì đã khiến giáo sư Phạm Biểu Tâm năm lần bảy lượt từ chối tất cả sự giúp đỡ của các trường đại học Hoa Kỳ.
Có thể cho đến nay cũng ít ai có may mắn biết rõ những nguyên nhân chính của sự từ chối này !! Có thể suy đoán là các vị giáo sư có trách nhiệm trong Hội Đồng Khoa đã chọn Pháp như một người tài trợ chính cho trường Y Khoa.

Tôi không biết những lý do bên trong tại sao lại từ chối, nhưng với tư cách một người dân thường chẳng có liên quan gì đến trường Y khoa. Tôi cảm thấy tiếc hùi hụi, chúng ta đã bỏ mất nhiều cơ hội để cho các sinh viên hoặc bác sĩ đi tu nghiệp tại nhiều trường Đại học danh tiếng trên đất nước Mỹ. Chúng ta kêu thiếu nhân viên giảng huấn (96 người). Nhưng chúng ta lại từ chối những cơ hội bằng vàng cho sv đi tu nghiệp.

Cho nên sự chọn lựa Pháp là một chọn lựa thiếu chính đáng, không đếm xỉa quyền lợi của sinh viên Y Khoa cả.

Nhưng sau đó, sự tranh chấp vượt ra khỏi khuôn viên đại học y khoa trở thành một vấn đề chính trị. Thủ tướng Trần Văn Hương chỉ định người học trò cũ của mình là bác sĩ Lê Minh Trí (Y khoa bác sĩ, 1926, 96 Phan Đình Phùng, sài Gòn)làm tổng trưởng giáo dục. Việc bổ nhiệm này nhằm thay đổi và cải tiến trường Y Khoa trong chiều hướng thân Mỹ và nhận sự tài trợ của Mỹ. Nhưng chỉ sau 4 tháng nhậm chức, ông bị cộng sản sát hại.

Xin ghi lại lời tường thuật của những tên khủng bố cộng sản:

“Đến năm 1968 lại xuất hiện một tên tay sai có tầm cỡ hơn: Bộ trưởng Giáo Dục và Thanh Niên Lê Minh Trí. Là một trí thức tay sai đế quốc Mỹ..(..) Hắn đòi giải tán các tổ chức hợp pháp của sinh viên, học sinh. Hắn cũng đã chủ trương chiếm và tiến tới dẹp bỏ trụ sở Tổng H sinh viên ở số 4 Duy Tân. Trừng trị kịp thời con rắn độc này là một nhiệm vụ chính nghĩa, quang vinh. Ban quân sự Thành Đoàn được Thành Ủy giao cho nhiệm vụ vinh quang ấy. Đồng chí Ba Tung, phó ban đội trưởng tiếp đánh.Ba Tung cùng với Ngô Văn Thừa khẩn trương bám sát nhận mặt, nghiên cứu quy luật đi về của hắn. Ba Tung đề xuất cách đánh: xử dụng lựu đạn, bỏ thuốc nổ cực mạnh C4 của Mỹ ném vào xe lúc chúng đang chạy đến ngã tư – có tốc độ giảm – phương án tác chiến được nghiên cứu và xác định rất khoa học. Để có lựu đạn, Ba Tung phải làm hai cái đồng hồ điện kiểu của lực lượng võ trang Thành Đoàn và đưa cho vợ mang lên tận Hốc Môn đổi cho đơn vị biệt động huyện Ba Tung có được hai quả M.6 mừng quá Ngày 6 tháng 1 năm 1969, lúc 7 giờ 50, một trong hai quả lựu đạn ấy nổ ngay trong xe của tên Lê Minh Trí, lúc xe của nó chạy trên đường Nguyễn Du rẽ qua đường Hai bà Trưng.
Trích Trui Rèn trong lửa đỏ, trang 110 .

Tôi được xem tấm hình bác sĩ Trí bị ám sát. Ông nằm trên đường, mặc áo chemise trắng lỗ chỗ vết màu trên người, thắt cà vat, nằm vắt chân chữ ngũ xem như hãy còn tỉnh. Cạnh đó đã có quân cảnh cầm súng đứng gác. Nhưng chưa thấy xe cứu thương tới. Đưa vào nhà thương thì đến chiều ông chết. Người tài xế cũng chết ngay tại chỗ.

Riêng người cận vệ chỉ bị thương nhẹ.

Hai ông Thiệu – Kỳ cũng như Thủ tướng Trần văn Hương sau đó đều đến phúng điếu. Ông Hương khóc cho người học trò cũ uổng mạng. Về phía Mỹ, có đại sứ Bunker.

Cái chết của bác sĩ Lê Minh Trí, Trần Anh là những mũi tên tẩm thuốc độc giết hai ba mạng người một lúc, nhưng cũng nhờ đó dịu bớt một mối đau thương của Y Khoa Sài Gòn.

Quả thực đã có một thời nhiễu nhương không đáng do những Hội chứng Hậu Thuộc Địa để lại tạo ra những tranh chấp của một xu hướng bảo thủ và một xu hướng muốn đổi mới!
Quả thực đã có một thời như thế!

56 Phản hồi cho “Hội chứng Hậu Thuộc địa”

  1. Tien Pham says:

    “Cùng với ngôn ngữ rối rắm và khó học với giống, đực, giống cái và giống pê đê (nghe tiếng, biết người – người dở thì tiếng cũng dở) nên việc học càng trở nên khó khăn hơn…”

    Nếu tôi là Thiên Kim (TK), tôi sẽ kô vội vã đánh giá tiếng Pháp như vậy. Chính vì văn phạm Pháp văn có giống đực, giống cái, và các chủ từ, tĩnh từ, túc từ, etc., phải chia theo, nên Pháp văn rất chính xác. Vì phải đặt câu văn cho ra hồn, eg., giống cái, số nhiều, nên khó hơn Anh văn. Vì khó hơn, nên kô ai muốn học và xử dụng. Ngoài cái sự nhiêu khê trong Pháp văn, tầm ảnh hưởng chính trị là phần đóng góp mạnh nhất. Chẳng hạn như vào thời xa xưa, Tây Ba Nha là 1 đế quốc. Khắp nơi đều xử dụng tiếng Tây Ba Nha. (Quý vị có biết tại sao Christopher Columbus hay Ferdinand Magellan đi kiếm thuộc địa cho Tây Ba Nha, mà kô phải cho Anh hay Pháp kô? Đế quốc Spain (Espagnol) chỉ lụi tàn sau 1 trận hải chiến với Anh, thời nữ hoàng Elizabeth.)

    Đức bị thua trận thời Đệ Nhất Thế Chiến, nên các quyền lợi bị mất hết, kể cả thuộc địa! Đây cũng là 1 lí do chính gây ra Đệ Nhị Thế Chiến. Nước Đức đòi “chia lại bản đồ thế giới,” và kô muốn bị “ăn hiếp” nữa.

    Người Pháp chiếm Đông Dương làm bàn đạp đi ngược lên Trung Hoa, 1 thị trường vô cùng rộng lớn, nhân công vô cùng rẻ.

  2. Thien Kim says:

    Người Pháp đến “khai hóa” nước Việt rồi ra đi, chỉ có chúng ta ở lại để giải quyết hậu quả.
    Nhìn lại mẫu quốc trong thế chiến thứ hai, mới thấy sự thảm hại của nó. Diện tích hơn 550.000 km2 với gần 40 triệu dân và hàng tá thuộc địa thuộc loại “khủng” như Đông dương, vậy mà thua Đức với chỉ hơn 350.000 km2, hơn 60 triệu dân – không có thuộc địa. Thật nhục nhã và khó biện minh. Về mặt này thì Pháp thua cả VN. Vì sao?
    Thứ nhất, hệ thống giáo dục của Pháp là giáo dục đỉnh cao, khác với những hệ thống khác là giáo dục phổ thông. Cùng với ngôn ngữ rối rắm và khó học với giống, đực, giống cái và giống pê đê (nghe tiếng, biết người – người dở thì tiếng cũng dở) nên việc học càng trở nên khó khăn hơn, người học được là người phải có trí nhớ tốt để hiểu và chấp nhận sự rối rắm ấy (vậy liệu có giỏi thực không?). Tư duy giáo dục cũng rối rắm tương ứng.
    Thứ hai, hệ thống hành chính và luật lủng củng, đã tổng thống còn thủ tướng. Đặc biệt, hệ thống luật mới rối, các bộ luật phải có các nghị định hướng dẫn và văn bản tiếp theo để áp dụng, dẫn đến sự tùy tiện mất tính nhất quán. Điều này khác xa với hệ thống common law vốn rất ưu việt của Anh, Mỹ.
    Chính vì vậy, người Pháp cũng gieo rắc những hạt giống xấu ấy xuống các thuộc địa, trong đó có VN. Cứ xem những cựu thuộc địa của Anh mà thèm, nào Singapore, Hongkong, Macau, Malaysia…Giá mà Nữ Hoàng Anh đã để mắt đến chúng ta, thay vì mấy ông parler francaise bảo thủ.
    Đôi lúc hơi quá buồn, có người cho rằng bao giờ những người học và làm theo mẫu quốc ở VN mà chết hết đi, thi nước Việt mới khá.
    Cám ơn tác giả đã dày công viết về hậu thuộc địa.
    Thiên Kim

  3. Tien Pham says:

    “Đinh Văn Lô học lực khoảng tú tài”

    Tui là học trò cũ của thầy Lô, xin LNĐ cho tui gửi lới hỏi thăm. Vào khoảng năm 1980, thầy Lô lúc áy dạy Toán ở trường Nguyễn Thượng Hiền, khu dãy nhà tôn. Lớp tui nằm ở phía trước, khu dãy nhà lầu, do cô Du Tuyết Thanh (người Bắc, nhờ vậy mà tui mới biết được hệ TH ở ngoài Bắc là hệ 10 năm,) làm chủ nhiệm. Thầy Lô chỉ có đứng lớp tui có 2 tiết, dạy thế cho bà thầy chính (tui quên mất tên. Chỉ biết bà cũng là người Bắc vào Nam sau 1975.) “Một chùa cũng còn thầy, bán chùa cũng còn thấy” (nhất tự vi sư, bán tự vi sư), cho tui gửi lời hỏi thăm thầỳ.

    • Lão Ngoan Đồng says:

      Thanks a lot !

      Ông bác ruột phía mẹ tôi là người rất tuyệt vời :-) !
      Tôi thương và qúi ông ấy lắm lắm bạn ơi. Mẹ tôi thường mời ông “sông đất” mỗi năm.
      Rất tiếc tôi không được học ông một giờ nào, nhưng nghe đồn ông dậy khá lắm !?
      Tôi cũng ko học ông Đinh Tiến Lãng, mặc dù thuở nhỏ sống chung một nhà với ông.
      Ông Lãng khá nổi tiếng ở trường tư thục Trường Sơn, nằm trên đường Lê Văn Duyệt quận Ba, SG.
      Dậy ở đó toàn giáo sư danh tiếng, như Nguyễn Sĩ Tế, nhà viết kịch Vũ Khắc Khoan, Phạm Kế Viêm, Võ Thế Hào …
      Ông Hào chịu khó học lên cao và sau làm giảng viên ở đại học Khoa học thì phải. Hình như ông Hào khuyên ông Lãng đi học lại, nhưng rồi bị tổng động viên ông Lãng đi lính và dậy ở trường Thiếu Sinh quân Vũng Tàu. Còn ông Viêm dậy toán ở Võ bị Đà Lạt !
      Ông Viêm với ông Lãng là bạn thân với nhau. Tương tự ông Trần Nho Mai, giám học ở trường trung học Hưng Đạo trên Đà Lạt, và giáo sư Sử Địa Nguyễn Khắc Ngữ. Vì thế tô gọi các ông này là cậu, như gọi ông Lãng vậy. Các ông này gọi mẹ tôi là chị và đối xử như chị ruột mình vậy, nhất là ông Mai và ông Ngữ !
      Gặp lại ông Viêm ở Paris, tôi vẫn giữ cách xưng hô như ngày xưa !

      Phía bên ngoại tôi hầu như sống chết với cái nghề “bán cháo phổi” !
      Dì ruột tôi là ĐINH THỊ LỘC, giáo viên tiểu học lớp nhất, khá nổi tiếng ở trường Chí Hòa (hồi mới di cư vào Nam và hiệu trưởng thời đó hình như là ông Cao Văn Thái hay ông Hà Mai Anh, tôi ko nhớ rõ), sau sang dậy ở trường Trần Qúi Cáp, với hiệu trưởng là nhà giáo nổi tiếng Bảo Vân Bùi Văn Bảo.
      Bà Lộc coi như người mẹ thứ hai của tôi, bởi bà kèm tôi học thời học tiểu học; lên trung học là bà em Đinh thị Kim Phúc, chị ông Đinh Tiến Lãng. Bà này kèm tôi học tiếp theo đến đệ tứ là năm chế độ cụ Diệm bị đổ. Tôi cũng ti toe biểu tình chống cụ Diệm ở trường trung học Nguyễn Trãi, sau khi học sinh toàn trường Chu Văn An biểu tình chống cụ Diệm.

      Ông Bùi Văn Bảo là bố nhà báo (đời) nổi tiếng Bùi Bảo Trúc, có thời làm phát ngôn viên chính phủ VNCH thời Thiệu.
      Bùi Bảo Trúc cỡ tuổi chị ruột tôi và cả đám được ông Lô kèm Toán Lý Hóa ở nhà riêng miễn phí, để luyện thi Trung học đệ nhất cấp. Ông Lô và ông Bảo là bạn thân nhau từ ở ngoài Bắc, bởi ông Bảo dậy tiểu học ở Thái Bình, vốn là quê nội và quê ngoại của tôi.

      Ông rất tốt tính và hồi bé gặp mặt ông thường dúi cho vài đồng sài chơi.
      Qua Mỹ hai lần tôi đều ghé thăm ông và gia đình bên ngoại ở Quận Cam và Milpitas.

      Ông Lô đã qua đời vì bệnh già; ông Lãng do chai gan bởi uống rượu quá nhiều.

      Cám ơn đã hỏi thăm và qua đây kể chuyện ngày cũ đầy thương cảm.

      Lại Mạnh Cường

      TB:
      Ông Lô làm hiệu trưởng ở trường trung học Cần Giuộc và dậy tư ở một số trường, trong đó có trường Văn Lang ở đường Xóm Chùa, sau đổi tên là đường Nguyễn Hữu Cảnh, do ông Nguyễn Hữu (?) Cầu làm hiệu trưởng.
      Tại đó có ông Hà Ngọc Toàn dậy Việt văn rất nổi tiếng. Các ông Cầu, Toàn, Lô … hình như cùng thời với nhau thì phải, nên chơi thân với nhau. Tôi biết khá rõ về ông Hà Ngọc Toàn , bởi ông cũng dân Thái Bình (làng An Bồi) và chú họ bên chồng của một bà dì ruột của tôi. Đám Bắc kỳ di cư 54 dậy học ở trường Văn Lang khá đông, bởi quen bíêt với ông hiệu trưởng Cầu. Trường Văn Lang là trường tư thục lớn, có tiếng tăm và khá lâu đời ở SG. Gần đó có hai trường khác là Việt Nam học đường và nhất là trường Huỳnh Thị Ngà, do bà Huỳnh thị Ngà người Nam làm hiệu trưởng. Ông Lô cũng dậy ở đó.
      Một trường do người Nam làm hiệu trưởng nổi tiếng ở quận Nhất là trường Huỳnh Khương Ninh, ở đường Huỳnh Khương Ninh, gần sát với đất Thánh Tây (tức nghĩa đại của Tây với nhiều mộ đẹp mà đại tướng Lê Văn Tỵ cùng anh em cụ Diệm chôn ở đây trước 1975 và mả ko xây cất cũng ko bia mộ) và trường dậy nửa Việt nửa Pháp là Les Lauriers, hình như ở đường Đinh Công Tráng !

  4. DeFactor says:

    Ông Lục bôi vôi vào mặt cho những ai chống lại ông Diệm kể cả việc bôi bát lịch sử nói về anh hùng dân tộc(vua Quang Trung), một pro Catholic như vậy viết lịch sử thì có trung thực hay không? xin ông đừng xem thường đọc giả, cám ơn Lão Ngoan Đồng

    • D.Nhật Lệ says:

      Ngay chữ DeFactor là có vấn đề bất minh rồi,Anh ngữ không ra Anh ngữ,
      Pháp không ra Pháp,Latin không ra Latin (De facto,không phải DeFactor).
      Ý đồ đâm thọc hơi bị lộ ! Nên tinh ranh hơn nữa nhé !

  5. D.Nhật Lệ says:

    Nói một cách đừng thành kiến gì cả thì kiểu viết của Nguyễn Văn Lục dễ gây hiểu lầm cho người khác,chứ
    không phải ông cố tình bóp mép sự thật như có bác phàn nàn.Tôi cũng cho là NVL.không tham khảo nhiều
    tài liệu mà chỉ duy nhất tài liệu của gs.TNN.nên lý luận phiến diện là điều không thể tránh khỏi.
    Tại sao tôi nói kiểu viết của NVL.dễ gây hiểu lầm ? Có lẽ NVL.học trường tây quen viết bài bằng tiếng tây,
    do đó ông viết và lý luận bằng tiếng Việt có phần khó khăn,đôi chổ ông hơi dễ dãi với cách dùng chữ cho
    nghiêm túc.Điển hình như câu viết về đại học Y khoa Huế mở năm 1959 ” và ở nơi đây hoàn toàn được dạy bằng tiếng Việt khi giáo sư là người Việt”.Viết thế sẽ gây hiểu lầm rằng nơi đây chỉ có giáo sư Việt
    nên dạy bằng tiếng Việt.Thật ra,môt số giáo sư người Tây Đức thì dạy bằng tiếng Pháp là ngôn ngữ mà
    họ thành thạo như tiếng Đức.
    Điều nữa là ông dùng chữ thiếu nghiêm túc khi kể tên như Nguyễn Duy Cần,Nguyễn Đăng Thục,Nguyễn
    đủ loại ? Ông lại còn mỉa mai ‘đám rước’ để mô tả những cuộc thực tập lâm sàng trong bệnh viện với thày dạy y khoa v.v. Không hiểu sao ông lại ‘cay đắng’ như thế chẳng biết ? Sở dĩ ông viết vậy có lẽ ông muốn
    chứng minh hội chứng hậu thuộc địa qua việc chí trích cách thảo luận bằng Pháp ngữ giữa thầy trò ?
    Công bình mà nói,có sự cạnh tranh đến mức đối đầu giữa 2 trường phái Y khoa giữa Pháp và Mỹ.Đối
    đầu không phải loại bỏ hay triệt tiêu lẫn nhau mà là vì khó trong việc hổ trợ về phương tiện hoặc nhân sự.
    Theo tôi,sách y khoa của Pháp thiên về mô tả từng chi tiết rất lê thê,dài dòng nên học rất chán như Cơ
    thể học nhưng sách Mỹ gọn và dễ nhớ hơn nhiều,có lẽ họ thiên về thực tế.
    Có điều đáng chỉ trích là sự kỳ thị điạ phương.Lm.Cao Văn Luận không gặp khó khăn với người nước
    ngoài nhiều như với giáo sư người Việt ở đại học Y khoa Sài Gòn.Khi giáo sư Lê Tấn Vĩnh,nổi tiếng
    trong giới Y khoa Pháp là cộng sự của giáo sư Lelong về làm khoa trưởng Y khoa Huế thì ông bị giới
    giáo sư Y khoa Sài Gòn xa lánh như muốn cô lập ông khiến ông chỉ làm có 3 tháng phải từ chức mà
    trở lại Pháp ? Điều này lẽ ra nên được NVL.kể vào hội chứng hậu thuộc địa,hơn những cái vớ vẩn khác
    trong bài viết của ông !
    (Chuyện ngoài lề về gs.Đinh Tiến Lãng.Tôi học tập chung với ĐTL.và thấy ông bị trầm cảm nặng thì phải
    nhưng nhiều người lại nghi ngờ ĐTL.giả điên để được về sớm.Không biết đúng sai thế nào ? Có điều
    là ông bất đắc chí thì hợp lý hơn,nên sinh ra trầm cảm chăng ?).

    • Lão Ngoan Đồng says:

      Xin “giả nhời” riêng về ông Đinh Tiến Lãng nhớ :-) !

      Tôi ở chung nhà với ông Lãng lúc học lớp nhì (lớp 4) cho đến đệ tứ (lớp 9), rồi ông Lãng về ở chung nhà mới xây của ông Lô cho đến khi vượt biên sang Mỹ.

      Lúc nhỏ mình sợ ổng gần chết, bởi thỉnh thoảng bị bà ngoại tôi mách, nên ổng đập cho anh tôi “thừa sống thiếu chết” !
      Cũng như coi ổng là “thần tượng”, bởi nghe gia đình bảo là ông học giỏi và lại là giáo sư toán nổi tiếng thời đó ! Coi như ngang ngửa với Phạm Kế Viêm, hai ông này là đàn anh khá xa của Đinh Đức Mậu sau này (nổi tiếng dậy Toán ở Chu Văn An)

      Ổng bị tổng động viên và rồi biệt phái về dậy Toán ở trường Thiếu Sinh quân Vũng Tàu. Nhân một lần thi đậu lên lớp, tự thưởng mình tôi theo bạn bè lái xe Honda dame ra chơi Vũng Tàu, và tìm vào đó thăm ổng, đâu khoảng đầu thập niên 70.

      Sau 1975 cậu cháu tôi cả lũ đi tù CS, và ban đầu cùng nằm ở trại tập trung Trảng Lớn dành cho cấp “oái”! Ông Lãng ở chung chổ với con trai và hai ông con rể của ông Lô (tất cả đều là trung oái quân y; còn một ông con trai ông Lô là trung úy Dù Đinh Đức Chính đi tù ở ngoài Bắc từ trận Đường Chín Nam Lào cũng với đại tá lữ đoàn trưởng Thọ)

      Ông Lãng vốn con út, thường được gia đình chiều chuộng, lại thông minh học giỏi, nên các chị và các cháu kính nể, thêm nữa được đời “đãi ngộ” với một thời kiếm tiền như nước và được tiêu tiền thả dàn, nên có phần hơi bị kiêu (chả khác gì ông Viêm vậy). Rồi tự nhiên bị đi tù CS trong hoàn cảnh ngặt nghèo, nên đâm ra hụt hẫng, và dễ sinh ra thất chí mà bị trầm cảm (depression) !

      Tôi cũng tương tự như thế sau khi được thả tự do tạm, bởi trong tù mình là thằng “sướng nhất” (ko có gì phải lo nhiều), bất thần ra tù trở thành tên “tệ hại” nhất, bởi mất tự do khi bị quản chế kiểu như giam lỏng ở nhà, đi đâu cũng phải khai báo công an khu vực, bị mang ra tổ dân phố kiểm điểm …, nghĩa là thua cả anh đạp xích lô, hay chị bán hàng rong ngoài đường !

      Chính Nguyễn Gia Kiểng đã dụng ngôn rất hay, khi tả đó là SỰ PHÁ SẢN TOÀN BỘ của người dân dưới chế độ VNCH ! Mất sạch, mất toàn bộ … từ vật chất đến tinh thần qua cái gọi là đại thắng mùa Xuân 1975 của CS.

      Tôi còn nhớ rõ là đã vấn kế ông Đinh Văn Lô là phản ứng ra sao lúc Dương Văn Minh đầu hàng ? Bác tôi bảo thì cùng lắm CHẾT CHỨ SAO !
      Nói thì dễ, nhưng thực hiện không dễ chút nào, nhất là tuổi trẻ mới ra ràng và đầy nhựa sống mà lại bị lâm vào nghịch cảnh thật trớ trêu.

      Sau 75 hoàn cảnh ai ai cũng khó khăn, nên tôi không gặp lại ông Lãng, cho nên tôi ko rõ lắm khi nào ông được thả ra và đi vượt biên sang Mỹ ra sao ? Chỉ biết ông đi rất sớm

      Ông Lãng qua Mỹ sống bình thường, có thời làm cho hãng điện nguyên tử ở bang Washington vài năm; rồi move về Milpitas ở cùng chị gái và làm “trợ giáo” cho các giáo viên Toán của trường trung học Mỹ ở đó.

      Cậu cháu tôi gặp lại nhau lần đầu hè 1994, nhưng cũng ít nói chuyện ngày xưa lắm. Thú thật tôi vẫn “ngại” nói chuyện tay đôi với ổng, cho dù ông đã “hết thời” !
      Lần gặp lại thứ hai vào hè 2002, bà vợ iêu qủi của tôi tò mò cả gan tra vấn chuyện tình cảm của ổng và ổng lại thẹn thò (như giai mới nhớn) kể sơ sơ về chuyện tình cảm ngày cũ.

      Ổng được bạn bè qúi mến, bởi chịu chơi hết mình với bạn, thích đàn đúm với lắm thói hư tật xấu (chơi xì phé, uống rượu tây và hút Lucky Luke như điên), cũng như tổ chức chơi thể thao cuối tuần (dám mua bàn pingpong ván ép vốn làm cho cố vấn Mỹ của nhà đồ gỗ nổi tiếng Phan Văn Nhị vào 1960, cùng các đồ xịn made in France), sinh hoạt văn nghệ như ngâm thơ (ổng khoái ngâm bài thơ của Thâm Tâm Khanh có câu “đưa người ta không đưa qua sông /sao có tiếng sóng ở trong lòng … và bài Tây tiến của Quang Dũng), đọc truyện của nhà xuất bản La Roche (?) đa phần là loại “livre de poche”, như bộ truyện trinh thám với nhân vật có nick là “Le Saint”, La Vingcinquième Heure …

      Thế hệ của ông chịu ảnh hưởng văn hóa Pháp rất sâu đậm, mặc dù khoái hút Lucky Luke, hay Pall Mall và uống rượu Whisky, chứ ko thấy uống Cognac hay Champagne !

      Lão Ngoan Đồng

      • Lão Ngoan Đồng says:

        Sorry, tên nhà xuất bản nổi tiếng của Pháp là Hachette, ko phải La Roche !
        Hachette có những loại sách bỏ túi (livre de poche) đọc rất hay.
        Ngày xưa tuy kém tiếng Pháp, nhưng tôi cũng cố mày mò tra tự điển đọc một vài quyền, chẳng hạn GIỜ THỨ HAI MƯƠI LĂM , sau khi tình cờ xem phim cùng tựa đề, quay theo tác phẩm trên. Anthony Quin đóng cực hay chung với người đẹp gốc Ý Virna Lisa. Tìm mua lại phim này mà hổng có. Tiếc ui là tiếc !

        Lão Ngoan

      • D.Nhật Lệ says:

        Cám ơn LNĐ.đã cho biết khá rõ về cậu Đ.T.Lãng của ông.Nguời ta nói
        ‘có tài có tật’ và trong trường hợp này gs.Lãng còn bị nghịch cảnh ảnh
        hưởng nên ông L.đã phản ứng khác người hơn.
        Có điều dễ lầm Đinh Tiến Lãng với Đinh Viết Lãng cùng là dân Bắc Kỳ
        di cư 1954-55 (không phải Công giáo).

      • Lão Ngoan Đồng says:

        Dear D.Nhật Lệ,

        Cám ơn những mỹ cảm dành cho ông Đinh Tiến Lãng :-) !

        Học trò ổng ở trường thiếu sinh quân Vũng Tàu, nhắc đến ông với nhiều thương mến, nhưng vốn sẵn tính “nhất qủi nhì ma thứ ba học trò”, đã nhắc đến giáng đi “chấm phảy” của ổng mà tôi ko để ý kỹ !

        Theo lời mẹ tôi kể lại, hồi học PCB, tức dự bị Y khoa ở Hà Nội, ông bị tai nạn lưu thông rất nặng, phải nằm bệnh viện rất lâu, với kết quả là một bên mặt bị dập nên nhìn kỹ thấy hơi bị lép so với bên kia, một chân bị gẫy xương nên chân cao chân thấp, cho nên đi hơi bị thọt !

        Riêng ổng thì ông ngoại tôi thương và kỳ vọng nhiều nơi thằng con trai út, đặt tên “hơi bị ngon” là Đinh Tiến Lãng, có ý như bắt chước tên của vị vua khai sinh ra nhà Đinh là Đinh Tiên Hoàng !

        Tên của ông làm một số người và cả tôi nhớ đến học giả NGUYỄN TIẾN LÃNG !
        Thụy Khê có bài viết khá hay về ông này

        [trích]
        Nguyễn Tiến Lãng sinh ngày 9/9/1909 tại huyện Văn Lãng, tỉnh Thái Nguyên (nguyên quán làng Hội Xá, phủ Mỹ Ðức, tỉnh Hà Ðông) trong một gia đình có truyền thống nho học. Cha làm tri huyện. Anh cả là Nguyễn Mạnh Bổng (bút hiệu Mân Châu). Anh rể là thi sĩ Tản Ðà. Các bút hiệu khác: Hán Thu, Thượng Uyển. Học trường Bưởi, lycée Albert Sarraut rồi đại học Luật khoa Hà Nội. Ngay khi còn ở trường Bưởi, Nguyễn Tiến Lãng đã nổi tiếng xuất sắc về văn chương, những bài luận văn của ông được thày trao cho toàn quyền Robin đọc. Robin cảm mến tài nghệ người học trò nghèo nên cố gắng giúp đỡ cấp học bổng vào lycée Albert Sarraut.

        1930, Nguyễn Tiến Lãng làm tùy viên báo chí tại tòa Khâm sứ Bắc kỳ, rồi phủ toàn quyền Ðông Dương, đồng thời dạy văn chương ở Hà Nội và viết báo trong Nam, ngoài Bắc và Paris. 1934, làm bí thư cho toàn quyền Robin. Từ 1936, được Bảo Ðại bổ nhiệm chức Giám đốc Kho Lưu Trữ, Nghiên Cứu, Dịch Thuật và Báo Chí tại hoàng cung, kiêm bí thư của Nam Phương hoàng hậu. Năm 1939, ông tháp tùng nhà vua và hoàng hậu công du nước Pháp, nhân dịp này ghi tên học Ðại học Văn khoa và trường Cao đẳng Thực hành (Ecole Pratique des Hautes Etudes) tại Paris. 1940, kết hôn với cô Phạm Thị Ngoạn, con gái Phạm Quỳnh (bà Phạm Thị Ngoạn sau này cũng là một nhà nghiên cứu, có những công trình nghiêm túc viết bằng tiếng Pháp về Kiều, Phạm Quỳnh và Tạp chí Nam Phong). Nguyễn Tiến Lãng tiếp tục ngành quan lộ, làm Phủ thừa ở Nha Trang, Huế và Hội An. 1945 được thăng Phủ Doãn Ðà Lạt. Tháng 8 năm 1945, ông về Huế nghỉ hè và thăm gia đình vợ, cùng lúc Cách Mạng Tháng Tám bùng nổ. Ngày 23 tháng 8 năm 1945 ông bị Việt Minh bắt cùng với Phạm Quỳnh tại biệt thự Hoa Ðường ở Huế. 1951 được trả tự do, về Hà Nội và đầu năm 1952 cùng gia đình sang Pháp sinh sống; trở lại làm bí thư cho Hoàng hậu Nam Phương ở Cannes từ 1952 đến 1956. Sau đó dạy học, rồi làm công chức tại Bộ Quốc gia Giáo dục Pháp. Nguyễn Tiến Lãng chuyên về bác ngữ học (philologie) Việt Nam và lịch sử Việt Nam. Ông mất tại Antony, ngoại ô Paris, năm 1976.
        [hết trích]

  6. Vũ duy Giang says:

    Bài tường thật sát với sự thật”Hậu thuộc đia”Pháp ở VNCH,nhất là về biến chuyển của giáo dục Y học,từ các”Quan Y”(mandarins)mê Pháp,qua các Quan Y”mê Mỹ”,trong đó có GS.Đào hữu Anh tu nghiệp từ Mỹ về,đã leo lên tới chức Khoa trưởng Y Khoa.

    Sau này có”Quan Y mê Mỹ” viết(ở Mỹ đầu những năm 2000) về lịch sử trường Y Khoa VN(từ thời Pháp thuộc,đến 30.04.1975)đã “Hậu trả đũa”các”Quan Y mê Pháp”,bằng cách”quên” ghi tên trong số người dậy Y Khoa,một thạc sĩ Y Khoa Sản phụ VN, cũng hoàn toàn tốt nghiệp tại Pháp,như các GS.Nguyễn Hữu, Phạm Biểu Tâm, hay Trần Anh(chỉ tu nghiệp ở Pháp)!

    Phải chăng đó là một loại”Hội chứng hậu VNCH”,như hội chứng mặc đồ rằn ri,để sống lại thời xa xưa,còn trong hiện tại,thì”nói trước,quên sau” như những người mắc bệnh”lú lẫn” Althzeimer?!

    • LẠI MẠNH CƯỜNG says:

      Dear Vũ duy Giang,

      1/
      CON GÀ GANH (GHÉT) NHAU TIẾNG GÁY !

      Theo tôi đó là bệnh chung của loài người, như tôi quan niệm là con người vốn ác, bởi có lòng tham không đáy (hebzucht) !

      Ta xem trong cùng một thế hệ đã có những tranh chấp, chứ đừng nói giữa người thế hệ đi trước với thế hệ đi sau thường có kèn cựa nhau tùm lum ! Và chuyện này ở mọi giới trong mọi lãnh vực.
      Nói đâu xa, trong cộng đồng người Việt hải ngoại cũng có sự kèn cựa nhau ở từng quốc gia với nhau, và ngay trong cùng quốc gia tạm dung.

      Chẳng qua khác nhau về cách nhìn sự việc, như quan niệm sống, lối học, tôn giáo, thẩm mỹ etc etc etc, cũng như phe đảng !

      2/
      Tuy nhiên ní nuận theo người CS, MÂU THUẪN ĐỂ TIẾN BỘ !
      Có lẽ cũng đúng một phần nào chứ ko phải nói khơi khơi đâu !

      Còn theo Nho giáo thì lại lý luận khá bác học:
      QUÂN TỬ ĐỒNG NHI BẤT HÒA, TIỂU NHÂN HÒA NHI BẤT ĐỒNG !

      Còn theo dân chủ đa nguyên thời thượng, TÔN TRỌNG SỰ KHÁC BIỆT !

      Riêng tôi thấy điều này thật đúng, bởi thế giới vốn đa nguyên, đừng buộc đồng phục trong tư tưởng và hành động. Và theo như tinh thần của đa nguyên và cả Nho giáo tuy khác nhau, nhưng vẫn có thể bàn luận mà đạt tới những đồng thuận (agreement/ consensus) để kết đoàn và hành động.
      Còn lỡ có những “ân oán giang hồ” trong quá khứ, thì cũng dùng hình thức bất bạo động qua đối thoại, mà giảng hòa (reconciliation), đạt tới những đồng thuận dân tộc, vì nghĩa cả, tức đại cuộc chính là tương lai của đất nước và giống nòi.

      Thí dụ rõ nét nhất là ở Âu châu chính một số nước thù nghịch với nhau, như Pháp, Đức … đã làm lành để kết thành các tổ chức mạnh như Cộng đồng Than Thép, rồi Cộng đồng Kinh tế Âu Châu , rồi Liên Âu. Giữa dân tộc Đức hai miền Đông và Tây cũng thế.
      Tại Nam Phi giữa dân da trắng và dân da màu, sau khi lật đổ chính quyền phân biệt chủng tộc da trắng Apartheid. Hay ở Úc, Canada, Anh …. chính phủ phải làm hòa với dân (thổ dân da đỏ, Aborigines; một số người nhà nghèo hay con mồ côi bị phân biệt đối xử bằng sự đưa sang Úc ….). Rồi giáo hội Kitô La Mã cũng đang cố hoà giải với nạn nhân bị lạm dục tình dục etc etc etc

      2/
      Nhìn tổng quát như thế ta thấy rõ, sự tranh chấp hai trường phái theo Pháp (École francaise) và trường phái theo Mỹ (École américaine) là chuyện tự nhiên trong đại học thời VNCH. Chẳng phải riêng gì ở trường Y Sg mà cả ở trường công chánh Phú Thọ và nhiều trường khác nữa. Ngay cả giữa hai trường Y Sg và Huế cũng có phân biệt, rồi sau này là trường Y tư Minh Đức !

      Tôi còn nhớ một chuyện tức cười là bác sĩ sản phụ khoa Trần (Nguyễn ?) Duy Khương tốt nghiệp ở Đức về làm việc ở b/v Nguyễn Văn Học, thế mà còn bị hạnh hoẹ phải đi thi lại lấy bằng tương đương ! Trong khi ông Phó Bá Đa học dang dở hậu đại học Phẫu Khoa (Post- graduated Surgery) ở Mỹ về lại qúi như vàng ! Chuyện nực cười là thế đó bạn ơi ! Thời nào cũng phải có “cổ cánh” hết !

      4/
      Ông ĐÀO HỮU ANH bắt đầu học Y ở Hà Nội, di cư và tốt nghiệp đại học Y ở SG năm 1958.
      Được gửi đi học Hậu đại học bên Mỹ thời khoa trưởng Phạm Biểu Tâm về môn Cơ thể Bệnh học
      (đại học Misouri trong năm năm và lấy American Board về môn này)
      Về nước và leo dần lên chức giảng sư rồi giáo sư, và đảm nhận nhiều năm chức phó khoa trưởng và có lúc quyền khoa trưởng.
      Về chuyên môn làm phó trưởng khu CƠ THỂ BỆNH LÝ trường Y. Cũng như là người điều hành chính cho chương trình hậu đại học Cơ thể Bệnh lý do giáo sư Mỹ đảm nhận phần giảng dậy.
      Ông Anh cũng chính là người đào tạo đám lóc chóc “Préparateur” (nghiệm chế viên) bọn tôi trên khu mỗi ngày.
      Di tản sang Mỹ ông Anh thi tương đương và làm lại giáo sư Bệnh Học (Pathology) ngay ở một đại học Mỹ.

      Giáo sư NGUYỄN HUY CAN tốt nghiệp Y khoa Hà Nội và di cư vào Nam; đậu Thạc sĩ Y khoa môn Cơ thể Bệnh lý vào đầu thập niên 60.
      Chức vụ là TRƯỞNG KHU cơ thể bệnh lý trường Y. Ông giữ chức vụ này cho đến khi tự ý rời khỏi nước nhân khi được mời đi dự hội nghị quốc tế năm 1973. Ông Anh ko hế hé môi comment một lời nào hết về sự việc này !

      Trong ba năm tôi làm việc ở khu trên (1972-1974), không hề thấy có sự kèn cựa nào giữa hai ông trưởng và phó, mặc dù ông Can đã không còn “sống” bằng nghề Cơ thể bệnh lý, chỉ giữ vài giờ giảng cua trên giảng đường cho sinh viên năm thứ hai.
      Ông Đào Hữu Anh mới thực sự là người “sống chết” với nghề riêng, và mọi sinh hoạt ở trong khu, cũng như cho trường Y, cho tận tới giờ phút “lâm chung” của VNCH.
      Ông Đào Hữu Anh luôn luôn thủ phận vai em, mặc dù quyền hạn của ông lớn mạnh hơn ông Nguyễn Huy Can.
      Ngược lại ông Can được chúng tôi xem là “BON PAPA”, cũng đặc biệt qúi và trọng ông Anh !
      Ông thúc đẩy gần như buộc bọn préparateur phải dự thi nội trú và dành mọi dễ dàng cho sự chuẩn bị thi này.
      Sang Paris ông mở phòng mạch tư và đã về hưu nhiều năm qua

      Đây chính là gương sáng chói cho chúng tôi nói riêng và cho tập thể trường Y SG nói chung.
      Đến nay tôi vẫn tự hào mình có hai ông thày đầu ngành cực kỳ khiêm tốn, làm gương cho mình noi theo.

      Lại Mạnh Cường

      • Vũ duy Giang says:

        Thạc sĩ Y khoa môn SẢN PHỤ”hoàn toàn học và tốt nghiệp tại Pháp”,bị”quên tên” trong sách viết về lịch sử trường Y ở VN,KHÔNG phải là GS.Nguyễn huy Can(tốt nghiệp ở VN,và di tản ở Paris).Ông ĐH.Anh(cũng dân Thái Lọ!)đã cải chính là có viết tên ông này, nhưng tại sao”nhà xuất bản”lại quên?!

        Sẽ có dịp trao đổi sau về dân”Thái Lọ” !

    • LẠI MẠNH CƯỜNG says:

      Sorry xin đính chính: “Quân tử hòa nhi bất đồng, Tiểu nhân đồng nhi bất hòa”

      • Lão Ngoan Đồng says:

        Dear Vũ Duy Giang,

        1/
        Tôi ngờ rằng (I’m afraid), anh phản ánh có phần chưa đúng ở đoạn sau đây:

        Sau này có”Quan Y mê Mỹ” viết (ở Mỹ đầu những năm 2000) về lịch sử trường Y Khoa VN (từ thời Pháp thuộc,đến 30.04.1975) đã “Hậu trả đũa” các ”Quan Y mê Pháp”, bằng cách ”quên” ghi tên trong số người dậy Y Khoa, một thạc sĩ Y Khoa Sản phụ VN, cũng hoàn toàn tốt nghiệp tại Pháp, như các GS.Nguyễn Hữu, Phạm Biểu Tâm, hay Trần Anh(chỉ tu nghiệp ở Pháp)!

        2/
        Theo chỗ tôi biết anh hình như ám chỉ giáo sư thạc sĩ Sản Phụ Khoa TRẦN ĐÌNH ĐỆ, giám đốc dưỡng đường (Clinic) tư Dung Anh rất lớn, ở trên đường Công Lý, sau 75 đổi thành “Nam Kỳ Khởi Nghĩa” (tiêu Công Lý / Đồng Khởi vùng lên mất Tự Do). Dưỡng đường Dung Anh sau 75 bị CS lấy và đổi thành Viện Y học Dân tộc thành Hồ.

        Ông Trần Đình Đệ (phân biệt với giáo sư thạc sĩ Phẫu khoa Trần Quang Đệ làm viện trưởng viện Đại học SG, mà giáo sư Nguyễn Văn Tấn làm phó thờ tôi là sinh viên), học Y ở trường Y trong Nam, sau đó sang Pháp thi thạc sĩ và về nước 1956, hình như làm giám đốc bảo sanh viện Từ Dũ (?).
        Ông trình luận án năm 1947 tại Sài Gòn, với đề tài DONNÉES ANATOMIQUES SUR LE NOUVEAU-NÉ VIETNAMIEN.

        Đào Hữu Anh : Y KHOA ĐẠI HỌC SÀI GÒN Nhìn lại 60 năm lịch sử
        [trích]
        Chuyến di tản năm 1954 đã mang thêm cho trường Y Saigon một số giáo sư như GS Phạm Biểu Tâm (Phẫu khoa), GS Nguyễn Hữu (Cơ thể học), GS Trịnh Văn Tuất (Hàm miệng), GS Nguyễn Đình Cát (Nhãn khoa), GS Auguste Rivoalen (Nội khoa), GS Montagné (Sản phụ). Sau đó ít lâu, GS Trần Ngọc Ninh (Chỉnh trực) từ Pháp về năm 1954, rồi tới các GS Trần Vỹ (Sinh lý học) năm 1956 và GS Trần Đình Đệ (Sản phụ khoa) năm 1956.
        Sau một vài năm, các giáo sư Pháp bắt đầu rút chân ra khỏi ban giảng huấn. Khởi đầu là việc GS Massias từ nhiệm, và GS Phạm Biểu Tâm lên thay thế năm 1955. GS Phạm Biểu Tâm là vị Khoa trưởng Việt Nam đầu tiên, có uy tín nhất của trường Y Saigon. Sau đó tới phiên các giáo sư Pháp khác từ từ rời khỏi Việt Nam, chỉ riêng có GS Rivoalen là còn tiếp tục giảng dậy cho tới năm 1962 ông mới trở về Pháp.
        [hết trích]

        Nói thêm là lúc tôi vào trường Y SG lớp dự bị (APM = Année Préparatoire en Médecine) niên khoá 67-68 thì giáo sư Nguyễn Quốc Hương môn Thần Kinh Nội khoa (Neuro med) cũng như giáo sư Trần Đình Đệ đã đi khỏi VN rồi. Lý do tại sao tôi ko rõ !
        Sau đó là khi tôi học năm thứ nhất niên khoá 68-68 thì giáo sư Trần Anh bị vixi ám sát chết chả khác gì giáo sư Lê Minh Trí, và cuối niên học giáo sư Nguyễn Hữu bỏ nước ra đi !

        Khi tôi đang làm nội trú ở Từ Dũ vào nửa đầu năm 1974 thì giáo sư Trần Đình Đệ đã từ Mỹ trở về thăm quê hương, đặc biệt là ở bảo sanh viện Từ Dũ.
        Ông đã giới thiệu với chúng tôi hai cái mới : thứ nhất là SIÊU ÂM áp dụng trong Sản Khoa (thời đó còn thô sơ lắm và hình như chỉ mới áp dụng hiệu ứng doppler / Effet Doppler thôi, cho nên chỉ cho hình ảnh hai chiều như hình học phẳng thay vì ba chiều tức có thêm chiều sâu như hiện nay và cũng chỉ đen trắng), và CHÂM CỨU, nhất là điện châm của Tàu được khoa học hóa và đem áp dụng vào Sản khoa. Chẳng hạn như khi sản phụ lầm bồn châm tê để cắt cửa mình (épisiotomie) và làm sanh không đau. Mổ lấy thai ra (Césarienne) cũng bằng châm tê vùng …
        Tôi đã được chứng kíên và tham dự một cuộc mổ Césarienne, cùng với bác sĩ đàn anh của bộ Y tế là bs Âu Nhật Chương. Kết quả hoàn toàn thất bại, phải gây mê toàn diện theo Tây Y. Gs Đệ giải thích, những cuộc mổ lớn có động chạm nhiều đến nơi có nhiều dây thần kinh, chẳng hạn màng bụng (phúc mạc; péritoine), thì cơ may thành công ít; chẳng hạn như Césarienne; còn mổ ruột dư coi thế ít đụng chạm đến màng bụng nên dễ thành công hơn. Tuy nhiên khi mổ ở những nơi sát gần ngoài da, như tuyến giáp trạng (Thyroid gland), thì tỷ lệ thành công khá cao. Đó cũng là một cách giải thích xem ra khá hữu lý.

        Đó là kỷ niệm riêng của tôi với thày Trần Đình Đệ. Cũng nói thêm là em ruột ông Đệ là bác sĩ Trần Đình Chương với tôi trước đó cũng đã quen biết nhau ít nhiều. Bởi khi anh Chương theo học chương trình hậu đại học Sản Phụ khoa, nên phải đi thực tập vài tháng ở khu dậy hậu đại học Cơ thể bệnh lý tại Trung tâm Giáo dục YK Gia Định là bệnh viện Nguyễn Văn Học cũ, thời giáo sư Mỹ Fergussen trông coi. Lúc đó tôi đang bắt đầu học năm thứ tư, đang làm préparateur ở khu này tại trường Y, nên được cử đi học thêm chuyên môn cũng ở đó với bác sĩ Chương và nhiều vị đàn anh khác đang theo học hậu đại học.

        Kết, cần cẩn trọng khi trích dẫn các tài liệu, cho dù góp ý vớ vẩn nơi đây, nhưng ở đề tài quan trọng !

        Lão Ngoan Đồng

      • D.Nhật Lệ says:

        Có 2 chi tiết sai nên được đính chính :
        -Trần Văn Tấn tiến sĩ Toán,chứ không phải Nguyễn Văn Tấn.Ts.TVTấn
        từng dẫn một phái đoàn sinh viên VN.gồm 5 người,tham dự Đại hội sinh viên quốc tế ở Malaysia khoảng năm 1970,có 3 sinh viên trong đó có 1 sv.Y khoa Huế.
        -Trần Quốc Hương,tên trùng với 1 cán bộ cao cấp trùm tính báo miền Bắc
        bị đoàn mật vụ trung phần của N.Đ.Cẩn tóm cổ trước 1963,thay vì Nguyễn Quốc Hương.

      • Lão Ngoan Đồng says:

        Tôi nhớ rõ lại là giáo sư BÙI QUỐC HƯƠNG bạn ơi.

        Cám ơn đã nhặt sạn dùm nhé :-) !

        Mình ko học và cũng chỉ nghe nói về ông, nên ko còn nhớ nổi đúng tên ông. Chỉ có gặp đệ tử ruột của ông là bác sĩ NGUYỄN NHẤT THÔNG khi đi thực tập ở đó thôi.
        Trên nguyên tắc ông giáo sư Hương dậy vài giờ môn Psychology, nhưng môn này bị bỏ vì ko có thày lúc ổng bỏ nước ra đi !

        Còn giáo sư phó viện trưởng Tấn, mình nhớ tới tên ổng là cũng hết hơi hết sức rồi bạn ạ. Vả chăng ổng ko cùng ngành nghề nên nhớ kỹ làm chi cho mệt. Mà tra cứu thì mất công đi hỏi mấy anh bạn học ở khoa học mới rõ.
        Mỗi năm chạy lên Viện Đại học ở gần hồ con rùa đường Duy Tân xin miễn học phí, với danh nghĩa là nhân viên của Viện (do làm nghiệm chế viên ở khu Anapath), và ông Tấn ký tên vào quyết định cho miễn nên nhờ vậy mà nhớ ổng.

      • Vũ duy Giang says:

        Có vẻ LNĐ muốn biết ai là Thạc Sĩ Sản Phụ”hoàn toàn học Y ở Pháp”, nên đã lần mò đến tận GS.Trần Đình Đệ,nhưng cũng KHÔNG phải đâu,vì như LNĐ viết rằng”học Y ở trường Y trong Nam,rồi sang Pháp thi Thạc sĩ”.Như vậy không phải”hoàn toàn học Y ở Pháp”(nghĩa là từ PCB lên tới chuyên môn sản phụ,và Thạc Sĩ).Vậy LNĐ phải
        “đoán” xa hơn cả Clinique Dung Anh sau GS.Trần đình Đệ nữa!

        D.Nhật Lệ đả phản hồi lời khuyên của LNĐ”cần cẩn trọng khi trích dẫn tài liệu,dù góp ý vớ vẩn nơi đây”,như khi trích dẫn nhầm tên Nguyễn,thay vì Trần văn Tấn,TS Toán(cũng học TS ở Pháp)về làm Phó VT đại học Saigon,hoặc góp ý vớ vẩn,cũng vì quá”dài dòng văn tự” khiến BĐH phải cắt ngắn LNĐ!

        Qua những phản hồi”dài dòng văn tự”của LNĐ,thì người đọc tự hỏi rằng:LNĐ”cùng nhau chơi thể dục,thể thao từ gần 15 năm qua.Đó là NHA sĩ Nguyễn văn Ba… Anh trên vợ chồng tôi 5 lớp”,thì phải chăng vợ chồng LNĐ cũng đều là NHA Sĩ?

        Nhưng phản hồi của LNĐ cho thấy LNĐ viết nhiều về các GS.dậy Y khoa hơn là Nha khoa,như GS.Nguyễn huy Can,mà không đả động gì đến Khoa trưởng Nha khoa Nguyễn huy Tiếp(anh của ông Can?).

        Ông GS. Đào hữu Anh cũng là dân Thái Bình,cũng như các ông Đinh tiến Lãng, Bùi huy Bảo,và BS.Phạm gia Cổn(nổi tiếng Quan Y, thiền sư, kiêm nhạc sĩ ở Cali) mà có thể nhầm với LNĐ,trước khi biết rằng LNĐ”sinh sau,đẻ muộn”(6 năm?)sau ông này,nhưng có cùng tham dự”Hội đồng hương Thái Bình” ở Cali không?

        Ông Đinh tiến Lãng giỏi dậy Toán như ông Đàm quang Hưng,nhờ vậy mà khỏi bị động viên,khi ông Lãng được đi dậy ở trường Thiếu Sinh Quân,và ông Hưng lên Dalat dậy ở trường Võ Bị,cùng thời với các ông Phạm kế Viêm(di tản ở Pháp,có mở tiệm ăn VN tại Paris),Võ thế Hào(đỗ TS.Toán ở đại học Công giáo Louvain,tại Bỉ).

        Dù sao cũng cám ơn LNĐ đã phản hồi cho biết tin tức của nhiều
        “người tài” của Thái Bình(chớ không Thái”lọ”như Nguyễn gia Kiểng!) và sự hiểu biết của LNĐ về các GS.Y khoa VN từ thời Pháp(thường gọi các GS là”Patrons”,hay”Mandarins”= các Quan Y!),Mỹ,VN,chớ tôi không muốn phân tranh gì khi viết”Quan Y yêu Pháp,hay Mỹ”,mà xin kết luận rằng phản hồi ngày 17 tháng 4 của Phan Uyên đã tóm tắt đúng lịch sử Y học của VN

      • Lão Ngoan Đồng says:

        Anh bạn ơi,

        Anh sai lầm khi xét người, và có nhiều thiên kiến.

        1/
        Tôi chả cần biết đến điều anh muốn đố, vì chả có ích lợi hay béo bổ gì cho tôi và ai khác !
        Vả chăng anh khá “stubborn”, tin chết vào điều mình nghĩ và cho mình là chân lý. Nên tôi tránh tranh luận sâu thêm, vì chỉ dẫn đến bất hòa và cãi nhau vô ích.

        Anh xem thử tôi phạm vào những sai lầm rất nhỏ nhặt, và chính ngay người sửa sai tôi cũng còn phạm sai khi sửa lại nữa đấy. Giáo sư Bùi Quốc Hương chứ không phải là Trần Quốc Hương !

        2/
        Về trường Y SG như đã nói, tôi nằm nơi “đắc địa”, nên tường tận khá nhiều chuyện, nhưng chỉ lộ ra khi cần thiết thôi.
        Ban Biên Tập có lẽ ko biết tí gì về trường Y, cũng như những sai lầm quá nhiều trong bài viết của Nguyễn Văn Lục, nên khi tôi dẫn chứng rõ ràng, qua các email trao đổi với các đồng nghiệp uy tín, như với các bác sĩ Từ Uyên, Nguyễn Lương Tuyền, Trần Mộng Lâm, các tài liệu từ nhiều phía …, họ ngang nhiên cắt không thương tiếc.
        Anyway, chuyện nhỏ như con thỏ, chả có gì ầm ĩ, nhưng tôi phải cảnh báo cho họ biết để cẩn trọng hơn nữa. Cũng như cho ông Lục hay là, ông ta mất một dịp may bằng vàng y để có thêm tài liệu mà tham khảo viết cho chính xác.

        3/
        Tôi e rằng chính anh có sai lầm, khi muốn muốn đề cập đến thạc sĩ NHI KHOA THÁI VĂN KIM, đã học hoàn toàn ở Pháp, về VN phục vụ ở bệnh viện Nhi Đồng vào khoảng đầu thập niên 70. Và trong bài viết ông Đào Hữu Anh không nhắc đến.

        Một thạc sĩ Y khoa chuyên về Sản Phụ Khoa vào năm tháng chót của VNCH, nói rõ là vào năm 1974, chính là giáo sư sản phụ khoa VŨ THIỆN PHƯƠNG, em rể một ông bác sĩ Thái Bình là bác sĩ Vũ (?) Hoạt, bạn cùng lớp với ông Đinh Tiến Lãng và làm trưởng ty y tế Gia Định thời VNCH.

        Lúc tôi làm nội trú ở Từ Dũ ông Phương mới sang dự thi và đậu thạc sĩ ở bên Tây, và ít người biết điều này. Đồng thời trong thời gian đó, ông Vũ Thiện Phương phổ biến cái mới nhất mà ông học được từ Singapore, cho mọi bác sĩ phục vụ ở Từ Dũ, chính là mổ buộc buồng trứng bằng cách đi qua túi cùng Douglas (cul-de-sac de Douglas).
        Phương pháp mới này vừa mau, vừa an toàn, nhất là bệnh nhân sau khi mổ hân hoan thơ thới ra về, mà trên bụng không vết sẹo nào cả. Một số bác sĩ y tế như bà bác sĩ Trường đã lợi dụng trong ca trực, kéo bệnh nhân của mình vào trong bệnh viện, mượn đỡ đồ dùng, cùng y tá và kêu nội trú trực cùng phiên phụ mổ rồi hối lộ chút tiền dằn túi.
        Nội trú Kỳ Bộ Anh đã xin ông Phương bảo trở để làm luận án về phương pháp này.

        4/
        Phương Uyên, chứ ko phải là Phan Uyên, biết gọi là qua-loa-rơ-măng thôi anh bạn ạ. Từ từ tôi sẽ cho mọi người biết rõ thêm từng thâm cung bí sử trường Y, mà có lần trên Đàn Chim Việt made in Canada được Nguyễn Văn Lục hay bạn đọc ở đó góp ý đề cập thoáng qua.

        Chẳng hạn những cuộc “cách mạng trong cung đình” nổ ra thời ông Phạm Biểu Tâm làm khoa trưởng, bị lật đổ và tạm thời dẫn tới cái cơ chế điều hành được sinh viên gọi là “ngũ đầu chế”, trong đó theo tin đồn giáo sư Lê Minh Trí dự phần không nhỏ ! [Tin đồn tùm lum không rõ đâu là sự thật; như phe trẻ chơi phe già ? phe Mỹ chơi phe Tây? chính quyền thời Kỳ muốn xâm phạm chế độ đại học tự trị ? bla bla bla.]

        Giáo sư Vũ Thị Thoa đang ở Paris là một người trong nhóm “ngũ đầu chế” (Nguyễn Thế Minh + Vũ Thị Thoa …) và mới đây tôi đã bắt được liên lạc, nên sẽ có lúc hỏi thăm bà thày cũ, để lấy chi tiết cụ thể về vụ này, cũng như để nghe tin thêm về phe “làm đảo chánh” nói trên.

        Lúc đó hình như trước khi tôi vào trường Y, bởi sau thời gọi là “Ngũ đầu chế” ông giáo sư Ngô Gia Hy lên tạm thay làm khoa trưởng. Còn tôi học dự bị Y (APM) dưới thời khoa trưởng Ngô Gia Hy; rồi tiếp theo là giáo sư Phạm Tấn Tước trong hai năm thứ nhất và thứ hai; ông Tước bị mất tín nhiệm và người kế tục là giáo sư Nguyễn Văn Chiếu cũng trong hai ba năm; và sau cùng giáo sư Vũ Qúi Đài vào năm 1974, lúc tôi học năm thứ sáu. Ông Vũ qúi Đài, mà bạn cùng lớp gọi đùa là “Vỗ Cái Đùi”, mới thực sự là cánh học hậu đại học từ Mỹ về, lên làm khoa trưởng.

        Nói chung tài liệu tôi có rất nhiều, đáng tin cậy và được tôi bàn thảo khá kỹ với các đồng nghiệp trong vòng thân mật, ko đưa ra diễn đàn làm ồn ào, gây những cơn bão trong ly nước. Tuy nhiên đồng nghiệp được tôi mời tham dự thuộc đủ thế hệ già trẻ, trước (rất xa) và ngay sau 1975, để có cái nhìn thoáng và rộng hơn, cũng như có độ tin cậy cao.

      • D.Nhật Lệ says:

        Có lẽ bác lầm họ Bùi với Bùi Quốc Châu,là một ông ‘ăn may’ mà
        trở thành tiến sĩ giáo sư gì đấy hiện nay trong nước.Ông này vào
        thanh niên xung phong sau 1975,và đưa ra phương pháp châm
        cứu gọi là ‘diện châm’ nhờ đó mà tiền vào như nước và lấy được
        bằng trên.Thấý Tàu có ‘nhĩ châm’,'túc châm’,ông bèn nghĩ ra phép
        ‘diện châm’ ! May mắn thế đấy !
        Nếu tôi nhớ không lầm thì hồi học nhờ Y khoa SG.,mỗi buổi trưa
        bọn tôi thường lên ngủ trưa ở hành lang khu sinh lý và thần kinh của
        2 Gs.Trần Vỹ và Trần Q.Hương,phía đường Hồng Bàng.

      • Lão Ngoan Đồng says:

        Anh bạn học Y ở Huế ?

        Tôi có những người bạn từ thân đến sơ học Y Huế. Không biết hiện nay ra sao?

        1/ TRẦM, học Y năm thứ hai hồi Mậu Thân 68, nên move vào học nhờ chung với năm thứ nhất YSG một số môn, như Anatomie, bởi YSG lớp tôi dồn hết vào học trong năm thứ nhất, thay vì rải ra hai năm như trước đó.
        Sau 75 Trầm về làm ở Phòng Y Tế quận 11 thành Hồ cùng chung với tôi, nhưng khác chỗ. Sau đó tôi vượt biên ko rõ về Trầm ra sao ?
        Trầm vốn học trung học đệ nhất cấp ở Nguyễn Trãi như anh em tôi, trên tôi một lớp và cùng lớp với anh tôi, nhưng ra Huế học Y.
        Trấm là dân Bắc kỳ di cư 54 như anh em tôi.

        2/ HỚN trên tôi vài lớp, khoảng đầu thập niên 70 Hớn học năm chót Y Huế, được vào Nam thực tập ở nhà thương Grall. Hớn hay lên khu Anapath rủ bọn tôi gồm assistent và préparateur đi ăn nhậu (bún bò Huế ở cư xá Lữ Gia; ăn hủ tíu bò viên ở ngay sau trường Y …). Coi bộ Hớn con nhà giàu, vì có xe Nhật Mazda (?) lái tung tảy khắp Sài Gòn và rành rẽ việc ăn chơi ở đất SG.
        Hớn là dân Huế, cao, gầy, đeo kính cận, tóc soắn nghệ sĩ, trông rất trí thức loại chịu chơi, lại bẻm mồm mép lắm. Chắc hẳn ở Huế đắt đào đẹp.

        3/ GIÁM, tốt nghiệp ở Huế, được trường Y Huế cử vào học hậu đại học một vài năm môn Cơ thể bệnh lý đầu thập niên 70, lúc tôi đang học năm thứ ba và thứ tư. Giám nhỏ con, cũng dân Huế. Ngược lại hoàn toàn với Hớn, Giám tỏ ra chăm học, và chỉ biết học, ko thoải mái phóng khoáng như Hớn.

        Thêm một điều là giáo sư NGUYỄN VĂN ĐIỀM, nghe nói học Y ở Tây về, làm việc ở trường Y Huế, được cử đi học thêm một năm về Cardiology ở Mỹ. Nhưng khi về nước sau 1968 lại đóng đô ở lì tại SG, mới đầu làm consultant về Cardio cho các trại bệnh. Sau lưu lạc về trại bệnh Nội khoa Nam bv Chợ Rãy và làm chef de clinique ở đó luôn.
        Nguyên do giáo sư Nguyễn Thế Minh bỏ trại bệnh này sang làm trưởng trại Nội khoa A bv Nguyễn Văn Học aka Trung tâm Giáo dục Y khoa Gia Định, dưới quyền của giáo sư Trần Lữ Y. Trung tâm YK Gia Định mới được Mỹ xây mới lại hoàn toàn, nằm bên cạnh bệnh viện Ung thư (sau này thời CS đổi tên là bv Ung Bướu).
        Trại bệnh Nội khoa Nữ do giáo sư Trần Kiêm Thục trông coi. Thực ra hai ông Điềm và Thục chỉ mới chef de clinique và giảng sư (Chargé de cours), như bác sĩ Nguyễn Nhất Thống, một mình coi hai trại Nam và Nữ Khu Nội Thần Kinh nằm lẫn lộn một phòng lớn với trại Nội khoa.

        Ông Thục học Y ở Tây chuyên về Tiêu hóa (Gastro-enterology), còn ông Điềm là tay ngang, chuyên về Cardio, cho nên phải loay hoay tự học rất nhiều mỗi khi điều hành trại bệnh Nội khoa. Cũng may có nội trú Nguyễn Văn Mỹ, người Nam rất giỏi phụ trợ. Có gì khó là ông Điềm níu áo anh Mỹ hỏi và nhờ coi dùm. Anh Mỹ sau học hậu đại học Nội khoa cùng với các anh khác như Nông Thế Anh ….
        Lúc đó tôi đang học năm thứ hai và thứ ba, có đi thực tập khu Nội khoa ở Chợ Rãy gần trường, còn ở Gia Định chỉ nhận thực tập sinh viên hai năm chót ở Khu Nội Khoa của ông Lữ Y thôi. Nơi đó như đã nói có dành trại B để train các bác sĩ học hậu đại học Nội khoa, dưới sự dẫn dắt của giáo sư Mỹ Joe Brown, cùng một vài assistent mới học thêm ở Mỹ về, như bs Khanh chuyên về Nội tiết, bác sĩ Loan …. (bác sĩ Tâm học ở Pháp về Cardiac Surgery ?, nhưng rồi xin ở lại Pháp luôn sau khi về nước trong một thời gian ngắn. Tôi học bà Tâm có một hai bài rồi thấy bà biến mất tiêu luôn). Họ là học trò hay đàn em của ông Lữ Y, được học bổng đi du học một vài năm ở Mỹ và Pháp. Ông Thế Minh cũng như bà Trịnh Thị Minh Hà được đi Canada học thêm. Thế Minh học Nội khoa và Minh Hà Pédiatrie. Mãi sau này khoảng 1974, ông Lữ Y mới nhận sinh viên các năm dưới đến thực tập.

        Ông Điềm dậy hay, nhưng có tật chửi thề và hay làm nhục sinh viên vô cớ, nên ko được ưa thích lắm. Ông lại hay tìm cách gây sự với giáo sư Nguyễn Văn Huy, trưởng khu Cardiology và cũng coi như trưởng Khoa Nội ở Chợ Rãy. Cứ mỗi lần có Staff Meeting ở toàn khu mỗi tuần, hình như vào trưa thứ ba hay thứ tư chi đó, thế nào ông Điềm cũng bóng gió cà khia ông Huy. Sau này ông Điềm chỉ có nể anh Đinh Hà, đệ tử lớn của ông Huy, được cử đi học Cardio ở Mỹ.
        Riêng ông Điềm là người Pro-Americain ra mắt. Ông cứ gọi bà bác sĩ Smith (?) vui tính, hay lên khu Nội khoa chơi, (chả khác gì các bác sĩ Mỹ khác, như tay Arnold chuyên về Pharmaco. chẳng hạn) là người tình của mình ! Bà nay sau khi về nước, đã gửi đường bưu điện tặng ông Điềm một quyển sách chuyên về Cardio to tổ bố, khiến ông Điềm khoái quá xoá, đem ra khoe loạn cả lên trước mặt học trò.

        Ngoài ra hồi học năm thứ nhất, ông trưởng khu Biochemistry Phạm Biểu Tâm có đem đàn em là giáo sư Đài cho dậy vài giờ môn Biochemistry cho sinh viên Y SG. Ông Đài nghe nói cũng tu nghiệp ở Mỹ (?) một vài năm về thì phải.

        Tôi còn gặp lại duợc sĩ Hạnh Phước, vốn cùng lớp với chị tôi ở Dược, tốt nghiệp 1969, rồi về Huế làm assistent cho khu Bio của ông Tâm, cũng được ông Tâm kéo vô SG pnụ giúp ở Khu Biochemistry. Chị Hạnh Phước xinh đẹp và nói giọng Huế cực kỳ quyền rũ làm bọn tôi mê quá xoá

        Cải chính tin bạn đưa về Khu Thần Kinh của giáo sư Hương ở kế Khu Physiology của giáo sư Trần Vỹ (có vợ là bác si Nguyễn Thị Vinh và con trai là Trần Tự học dưới tôi hai ba lớp, nên tôi có kèm lúc Tự học năm thứ hai, chả khác gì con gái thày Nguyễn Đinh Cát. Cả hai ông này đều là dân Trung, hình như Huế. Theo giáo sư Trần Văn Bảng ông Cát giỏi nhiều thứ cũng chả khác gì ông Vỹ. Cả hai ông chống Cộng kịch liệt, nhất là ông Trần Vỹ. Em ông Vỹ là ông Trần Hồng cũng chống Cộng nổi tiếng ở Paris, qua sự dùng xe ủi đất ủi gần sập cộng sứ quán CS)

        Kế khu Physio là khu thực tập Pharmaco, mà trưởng khu vốn là giáo sư chuyên Tai Mũi Họng ( ORL / ENT = Ear, Nose, Throat) Lê Minh Trí, nhưng bị Vixi ám sát, nên ông Vỹ coi dùm luôn sau đó.
        Khu này có chef là bà dược sĩ Minh Hiền, người Huế rất đẹp, vốn là vợ của giáo sư Nguyễn (Trần ?) An Nhàn bên đại học Khoa Học.

        Nói chung ở trường Y khoa chỉ có các khu (Departement) các môn khoa học căn bản (basic sciences) thôi, cho nên các Khu Bệnh Lý, như Nội Thần Kinh ko có ở đây, mà tại các nhà thương bạn ạ.

        Tại Hòa Lan có hai bác sĩ gốc Y Huế là bác sĩ Nguyễn Văn Thọ và vợ đã ly dị là nữ bác sĩ Túy Lan, ra trường sau 1975 một hai năm. Anh Thô sống bằng nghề châm cứu; còn chị Túy Lan không học lại, ở nhà nuôi con (một con gái nay đã lớn lắm rồi). Anh Thọ đi trước; chị Túy Loan qua diện đoàn tụ cùng con gái.

        Bên Đức có bác sĩ TÔN THẤT HỨA, trước ở Friburg. Tôi thích anh Hứa, vì anh đã trợ giúp cho YK Huế sau này, chả khác gì anh Bùi Minh Đức, gốc Huế, hành nghề ORL ở Little Saigon. Tôi gặp anh Đức bên đó Hè 1994 và đồng quan điểm phải trợ giúp nhân đạo cho VN. Chúng tôi rất tâm đắc với nhau.
        Hai anh làm được nhiều việc cho dân trong nước và trường Y Huế.

      • Lão Ngoan Đồng says:

        Đính chính :

        Ngoài ra hồi học năm thứ nhất, ông trưởng khu Biochemistry BÙI DUY TÂM (đồng thời cũng là khoa trưởng phân khoa Y /Medical faculty của đại học Huế) ….

  7. Lão Ngoan Đồng says:

    Thưa bà con,

    Như đã đề cập ở góp ý trên, viết về trường Y mà ông Lục cả gan chỉ dựa chinh yếu vào sách của ông giáo sư thạc sĩ Y khoa Trần Ngọc Ninh, để suy luận khiến tôi ngán ngược !

    (BBT: Đề nghị không dán tài liệu quá dài)

    • LÃO NGOAN ĐỒNG says:

      THẬT ĐÁNG TIẾC Ban Biên Tập đã cắt bỏ, mặc dù tôi đã KHẨN THIẾT YÊU CẦU, cho đăng trọn những điều tôi chứng minh cho thấy, lý luận của ông Lục rất bất cập, bởi tài liệu căn bản mà ông Lục trích dẫn, tức từ sách của giáo sư Trần Ngọc Ninh, có những chỗ còn thiếu sót, hay mâu thuẫn, hoặc cần so đọ lại với tài liệu của các vị giáo sư hay nhân vật có thẩm quyền trong giới Y khoa thời VNCH.

      Tôi ko có hứng thú (và theo tôi cũng ko nên) viết tóm gọn lại những sự việc đang còn cần phải tranh luận thật nghiêm chỉnh và rốt ráo nơi đây.

      Rõ ràng tác giả Nguyễn Văn Lục và cả BBT Đàn Chim Việt muốn được công luận soi sáng, nên mới cho đăng lại một loạt bài khảo cứu của ông Lục trong thời gian ngắn vừa qua. Tuy nhiên BBT lại “hà tiện” chỗ dành cho tôi góp ý

      Tôi quan niệm, nói có sách mách có chứng. Phải có đối chiếu và dẫn nguồn rõ ràng, để mọi người dễ dàng tham khảo, xem kỹ lại có đúng thật thế chăng ?

      Lão Ngoan Đồng

  8. Đối với ông Nguyễn văn Lục và các”đồng chí”Giao-điểm của ông,cái gì của chế độ Đệ Nhất Cộng hoà cũng đều xấu hết,ngay cả trên lãnh vực giáo dục là lãnh vực được mọi người coi là sáng chói nhất.
    Từ một nền giáo dục thuộc địa lệ thuột ,tất cả từ giáo sư,tài liệu ,bài giảng đều là của Pháp,chỉ trong vòng chưa tới 10 năm,tất cả đều đã được Việt hoá, dưới thời Đệ nhất và Đệ nhị cộng hoà,nền giáo dục miền nam đã thành công trong việc đào tạo ra một số lớn các nhà trí thức tài giỏi để điều hành đất nước,rất tiếc là sau tháng tư 75,họ không được chính phủ CSVN dùng nên họ phải bỏ nước ra đi,thay vào đó là những con người mới” hồng hơn chuyên”đứng ra lãnh đạo,điển hình như có một thời họ để “nhà thơ’ Tố Hữu đứng ra làm bộ trưởng kinh tế,và kết quả là đất nước VN ngày càng tụt hậu.
    Khi chê chế độ giáo dục của VNCH là hậu thuộc địa,vậy ông Nguyễn văn Lục muốn nói những gì?chế độ giáo dục của CSVN là “ưu việt” chăng?
    Ông “vãi hài” mãi!
    Suốt 21 năm dưới chế độ VNCH,có bao giờ ông nghe chuyện một thầy hiệu trưởng bắt (nhiều) nử sinh cho quan hệ tình dục thì mới cho lên lớp như”thầy”Sầm đức Sương “nhà ta” không?
    Làm một nhà bình luân trí thức cũng như một nhà viết sử,bỏ hết mọi sự thương ghét ngoài tai,dẫn chứng sao cho trung thực,còn làm một người viết”tiểu nhân” thì ghét ai ghét cả tông ti họ hàng;ông không thể bước hàng hai,tôi xin ông chọn một!

  9. Lão Ngoan Đồng says:

    Thưa bà con,

    Tôi xin nhặt ra một vài thí dụ tiêu biểu, để chứng minh bài viết của ông Nguyễn Văn Lục còn nhiều thiếu sót, bởi THIÊN KIẾN quá nhiều.

    Để chê bai lối giáo dục kiểu cũ, ông cho là theo đuôi Pháp thời thực dân, ông viện dẫn đủ lý cớ, thực ra chỉ là những ngoại lệ, hay ít gặp. Rồi ngay sau đó ông ca tụng là nhờ có MỸ nên mới có cải tiến và thăng tiến thấy rõ.

    Thú thực thế hệ của tôi là thế hệ giao thời (sinh 1949 ở ngoài Bắc và di cư 54 vào Nam), đi học tiểu và trung học đệ nhất cấp (cấp một và cấp hai) thời cụ Diệm chấp chính, tức đệ nhất cộng hòa và tốt nghiệp vào lúc hấp hối thời đệ nhị cộng hòa. Từng sống 10 năm dài với CS mới lưu vong xứ người gần một phần tư thế kỷ qua (từng học lại nơi xứ người).
    Kể rõ không phải để khoe thành tích, mà cho ông Lục rõ tôi từng “nằm trong chăn có rận”, nên không thể “lấy vải thưa che mắt thánh” !

    1/
    Trong phần đầu dưới tựa đề “hội chứng trọng thi cử”, thì phải nói thật là cái học của xứ ta từ xưa đến tận giờ vẫn là lối học từ chương ! Tại sao thì nhiều lắm lắm.

    Xứ ta đánh giá con người qua bằng cấp, và hiện nay vẫn thế. Đây là điển hình của xã hội ta, rất coi trọng cái học và bằng cấp.
    Chả thế mà ban AVT đã có bài hát ngạo bằng cấp: Cái bằng chỉ độ một gang thôi. Mà sao, mà sao con gái họ mê quá trời !? Cái bằng, cái bằng chỉ để mà treo chơi …
    Hay ngày xưa các cô gái đẹp con nhà gia giáo đã có chuẩn mực: Phi cao đẳng bất thành phu phụ.

    Tất cả theo tôi do ảnh hưởng Nho giáo bên Tàu coi trong giới đi học, gọi là sĩ phu (bình thường thì nhất sĩ nhì nông; hết gạo chạy rông thì nhất nông nhì sĩ).

    Nhìn chung có học mới ra làm quan (lớn), bằng không thì “rớt tú tài anh đi trung sĩ / em ở nhà đánh đĩ / lấy Mỹ nuôi con / Bao giờ song việc nước non / Anh về anh có Mỹ con anh bồng” (ấy thời thế đổi dời thời Vixi ngự trị con lai Mỹ qúi hơn vàng, khối anh chị khoái ẵm bồng để sang Mỹ theo diện ODP)

    Tương tự việc thày có thái độ gia trưởng trong giáo dục là điều không tránh khỏi trong một xã hội chịu thấm nhuần ảnh hưởng Khổng giáo, coi thầy như cha mẹ và sợ thày có khi còn hơn cả cha mẹ mình. Dĩ nhiên theo thời gian tính chất trên đã bị bào mòn rất nhiều, đến độ có khi trò đánh thày tàn nhẫn, chửi thày như máy, (nhất là khi ra nước ngoài, học trò cũ có vài anh lợi dụng cơ hội coi thày cũ ko ra gì) !

    Chuyện khó với trò thì quả đúng là giáo sư Lúa và Hoàng Cơ Nghị rất khó. Chả thế mà học trò đi thi mà gặp cụ Lúa hỏi vấn đáp, thì lắc đầu nhìn nhau mà than thầm: Thôi thôi kẻ như “lúa đời” mất rồi !
    Riêng cụ Nghị có giai thoại như ri thời tôi còn học tiểu học, chả hiểu có thật chăng nữa !? Cụ Nghị dậy toán, chấm thi rất ngặt và cụ khó cả với cô em gái Hoàng Thị Nga, đã đánh rớt bà này. Nên biết thời đó con gái học tới tú tài ban Toán là không phải chuyện đùa !
    Bà Nga cáu sườn anh mình, bèn đe: Tôi sẽ học giỏi hơn anh ! Rồi bà đi tây du học, kiếm được mảnh bằng tiến sĩ toán ở Sorbonne ! Rồi lại đồn rằng, bà kết hôn với một ông bác học tây … đen !

    Tuy nhiên thày khó trò mới chịu khó học, cho dù học gạo đi nữa. Mà thực ra trường hợp hai cụ Lúa và Nghị rất hiếm gặp và trở thành giai thoại trong giới học sinh. Chứ đa phần thày khó nhưng KHÔNG NGHIỆT (ngã) chỉ chăm chắm đánh rớt học trò như ông Lục cố đưa ra chứng minh.

    Đi học ít bởi nhiều lý do, trong đó có cái nghèo là chính, do hoàn cảnh chiến tranh. Chưa kể thời đó ít người chịu học cao, bởi học tới trung học đệ nhất cấp, hay tú tài hay lấy một vài chứng chỉ đại học là có thể làm thày trường công, tư lẫn kèm tư gia.
    Cậu ruột tôi là giáo sư toán trung học đệ nhị cấp (nói rõ lớp đệ nhị, tức lớp 11) Đinh Tiến Lãng là thí dụ điển hình. Ông Lãng học giỏi, lấy được hai chứng chỉ toán MPC rồi ngưng học đi dậy tư kiếm tiền như nước thời cụ Diệm (đầu thập niên 60). Ông anh ruột của ông là giáo sư toán lý hóa đệ nhất cấp (lớp đệ tứ, aka lớp 9) Đinh Văn Lô học lực khoảng tú tài, nhưng từng mở trường tư trung học Trần Lãm ở Thái Bình (nhà văn Duyên Anh từng theo học nơi đây). Cả hai ông lại “cả gan” viết sách giáo khoa và bán khá chạy. Dĩ nhiên các nhà vô địch thời tôi học là lò luyện thi trung học đệ nhất cấp của hai thày Sủng và Đột ; lò luyện thi tú tài (tôi từng theo học) của hai thày Nguyễn Xuân Nghiên và Vũ Bảo Ấu (trước hình như là thày Phú; thày Ấu chuyên toán, thày Nghiên chuyên Lý hóa. Thày Nghiên kết hôn với nữ dược sĩ vốn cùng lớp với chị tôi và tư gia trên đường Tự Đức, ở gần nhà tôi khu Đakao)

    Mặc dù hệ thống trường công kém phát triển, nhưng có hệ thống trường tư phụ họa. Phải thú thật thời chiến tranh, cho nên giúp cho hệ thống trường tư bùng nổ. Thày trường công nhảy ra dậy trường tư rất nhiều và thường là thày giỏi. Có thày chỉ giữ chân ở trường công cho có tiếng, còn sống là nhờ trường tư hay lò luyện thi. Một số thày già nổi tiếng, ko dính phải lính tráng, nhảy hẳn ra ngoài mở trường.
    Phải nói học phí không mắc, bởi lớp học nêm cứng học sinh (trên trăm mạng là chuyện thường ở một số lò luyện thi tú tài).
    Điều này chả khác gì hệ thống y tế tư song hành với y tế công chính phủ. Và người dân lại có khuynh hướng chuộng tư hơn công. Như sanh đẻ đi nằm ở bảo sanh tư, chứ ít ai chịu vào bảo sanh viện Từ Dũ như thời tôi thực tập.
    Trường tư thày hay, nhưng kỷ luật lỏng lẻo, chưa kể học trò trường công lại học tư thêm toán lý hóa, cho nên khi đi thi học trò trường công đậu nhiều hơn trướng tư.

    (còn tiếp)

  10. LÃO NGOAN ĐỒNG says:

    Thưa bà con,

    Loạt bài viết này ông Nguyễn Văn Lục đã cho đăng trên Đàn Chim Việt made in Canada, nay lại tái xuất giang hồ ở đây.

    Lối viết của ông Lục xưa nay nói theo Vixi là NÓI LẤY ĐƯỢC :-( !

    Ông Lục tham khảo thật nhiều, dẫn chứng lung tung, miễn là có lợi cho luận điệu của ông, nên mất tính khách quan, nói trắng ra toàn bài chứa đựng những nhận định chủ quan do quá duy ý chí, hệ quả của thành kiến.

    Tôi nghiệm thấy, hai ông Nguyễn Gia Kiểng và Nguyễn Văn Lục, được xem như hai ông trí thức Cato hữu hiện nay, có thói quen GỌT CHÂN CHO VỪA GIẦY !

    Trong Tổ Quốc “Ăn Nằm”, ở nhiều nơi ông Kiểng đã bẻ quẹo lịch sử trắng trợn, cốt làm sao cho đi đúng với con đường ông vạch sẵn. (Lúc sách mới ra lò, các văn sĩ nổi tiếng, như ông Nguyễn Mộng Giác “điểm huyệt” ở phần viết về vua Quang Trung Nguyễn Huệ. Giới hoạt động cộng đồng và chính trị xăm xoi ở điểm hòa giải hòa hợp dân tộc ….). Tuy nhiên ưu điểm nổi bật của sách ở phần bàn luận chính trị, bởi đó là mặt mạnh của ông Kiểng.
    Hồi tưởng chuyện từ hơn hai mươi năm qua, khi tờ Thông Luận hạ sinh ở Paris, Nguyễn Gia Kiểng là người chuyên viết bài xã luận nơi trang đầu, ký tên Thông Luận, coi như đại diện cho toàn nhóm. Thú thực ông Kiểng viết rất uyên bác, dẫn giải đâu ra đó, và luôn luôn có cái “happy end”, CS đang ngất ngư con tầu đi (chả khác chi CS cứ bảo rằng “tư bản giẫy chết) (cụ Bùi Tín nhà ta viết bình luận cũng chọn thái độ lạc quan cách miệng ấy; nhiều vị khác cũng rứa)

    Trở lại ông Lục với những loạt bài viết khảo cứu về Việt sử thời cận và hiện đại, ông Lục bị chửi tưng bừng, khi cố tình bôi nhọ những ai chống đối chế độ Ngô Đình Diệm. Trong đó có hai người lên bảng phong thần của ông Lục là nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam và thượng toạ Thích Trí Quang, xuyên qua phong trào tranh đấu Phật giáo ở miền Trung, rồi bùng nổ lớn ra ngoài VN qua tự thiêu của thượng toạ Thích Quảng Đức. Nói nào ngay không phải ai ai cũng không biết chuyện nhóm Phật giáo Ấn Quang làm lợi cho Cộng Sản, cũng như không phải ai ai cũng không biết là con người chính trị của Nhất Linh Nguyễn Tường Tam không sáng sủa như văn tài, công lao hạn mã cho nền văn học chữ quốc ngữ ở buổi bình minh thời tiền chiến, (đó là chưa kể phong trào bài trừ hủ tục đồng thời đề cao nếp sống văn minh theo phương Tây), nhưng dựng đứng chuyện không thành có, để cố tình bôi đen người khác, bóp méo lịch sử thì không ai là không bất bình nổi giận đến …. chửi thề văng mạng khi góp ý, bàn luận !

    Cứ lấy thí dụ trong bài viết có dính dáng đến trường Y khoa Sài Gòn, nhất là vụ chuyển ngữ sang tiếng Việt trong giáo dục, ông Lục căn cứ nhiều trên tài liệu do giáo sư Trần Ngọc Ninh viết, để bàn hươu tán vượn (chả khác gì khi viết về bệnh hoạn hay cái chết của Nhất Linh, ông căn cứ nhiều luận án và bài viết mới đã update từ luận án của bác sĩ Mạc Văn Phước và bằng hữu, hiện cư ngụ ở Canada), mặc dù ông cũng chịu khó trao đổi với một số bằng hữu quen thuộc trong y giới.

    Nói thiệt chính tôi trong ngành Y, tùng sự ở trường Y thời sinh viên nơi đắc địa, quen biết nhiều, sưu tầm tài liệu đã khá lâu, hơn chục năm có dư. Tôi ấp ủ muốn viết về trường Y rất nhiều, nhưng vẫn còn ngại ngùng, bởi còn nhiều điều chưa được bạch hóa. Không phải là thiếu tài liệu, nhưng lòng mình vẫn ngại liệu tài liệu có khả tín chăng ???
    Tài liệu từ Vixi thì miễn bàn, lục từ internet không thiếu và dĩ nhiên chúng sặc mùi tuyên truyền. Sử dụng phải vô cùng đắn đo, phải đặt nhiều dấu hỏi nếu thấy cần trích dẫn.
    Tài liệu từ phía quốc gia cũng rứa ! Yếu điểm là nhiều chủ quan, chứ không phải như phía CS, thường viết cho vừa lòng đảng, cho sặc mùi giai cấp đấu tranh, đầy tính chiến đấu kiên cường bất khuất, nặng tính lao động sản xuất (ngắn gọn đầy tính đảng) và thế nào cũng phải ca tụng “cha già dân tộc” làm bùa hộ mạng!

    Nói riêng về chuyển ngữ một chút, xin giới thiệu anh bạn hàng xóm thân thiết nhất, tôi luôn coi như anh ruột. Chúng tôi (hằng ngày gặp mặt nhau kể từ lúc anh về hưu vài năm nay) cùng nhau chơi thể dục thể thao từ gần 15 năm qua, và đó là nha sĩ Nguyễn Văn Ba.
    Anh Ba vốn gốc quân y hiện dịch, ra trường đi phục vụ ở Ban Mê Thuột cho tới khi tan hàng, cũng vẫn ở đó một thời gian sau 1975, kể cả bị đi tù cải tạo trên đó, rồi tìm cách trốn về Sài Gòn để làm việc và kiếm đường vượt biên.
    Anh trên vợ chồng tôi 5 lớp, từng làm đại diện trường Nha vào năm cuối và nhất là người tích cực tranh đấu cho việc chuyển ngữ.

    Chúng tôi dĩ nhiên thường lần tâm sự với nhau, như về chuyện đạo (anh gốc Cao Đài), cũng như về chuyên môn. Riêng việc chuyển ngữ anh cho hay:
    - Chú biết không, tôi là người đầu tiên trình bày bệnh án (observation clinique) bằng tiếng Việt với thày Phong. Ổng ghét tôi lắm, nhưng không làm gì được.
    Rồi anh lý giải:
    - Tôi quyết tâm tranh đấu mặc dù các thày dạy bằng tiếng Pháp, nhất là thày Phong vào lớp nổ tiếng Tây như bắp rang, khiến bọn sinh viên gốc trường Việt ngồi nghe giảng bài như vịt nghe sấm. Chỉ có bọn học trường Tây là có lợi thôi.
    Nhưng tôi thấy bất nhẫn nhất là những khi sinh viên với thày xúm nhau bàn luận bằng tiếng Pháp, trong khi bệnh nhân ngơ ngác chả hiểu đám chúng tôi nói cái gì ? Như thế là KHÔNG NHÂN BẢN !

    Trời đất ơi, đây là lần đầu tiên tôi thấy MẶT TRỜI CHÂN LÝ CHÓI QUA TIM !

    Yes, Y KHOA PHẢI NHÂN BẢN !

    Chưa hết, anh Ba lại bồi thêm một cú “tồi tâm chưởng”, khiến tôi vỡ tim, muốn ôm lấy anh khóc òa:
    - Chú xem có những bệnh nhân già đáng bậc cha mẹ mình, trông nhà quê thấy tội hết sức. Thế mà cả thày trẻ lẫn trò cứ tỉnh bơ đi như không, gọi trổng bằng “malade” (patient; người bệnh). Thật thiếu lễ độ !
    Rồi bu quanh bàn cãi linh tinh về bệnh trạng và cách chữa bằng ngoại ngữ, để mặc họ ngồi ngây ra đó. Mà tính theo tuổi tác cả thày lẫn trò thuộc hàng con cháu, sao lại dám ngang nhiên vứt quách họ sang một bên, không một lời hỏi han ý kiến ý cò, cứ thể mà làm sao cho tiện việc mình. Nên nhớ họ là thày dậy mình về kiến thức y khoa qua thực tế, chứ đâu phải là “cobaye” (con vật thí nghiệm) cho mình tha hồ vo tròn bóp méo !

    Lão Ngoan Đồng

    • Tran Binh Trong says:

      Lão Ngoan Đồng có cách nói đầy tính nhân bản, tôi cảm quý phục ông.

      • Lão Ngoan Đồng says:

        Thưa bà con,

        1/
        Tại đây tôi nhân cơ hội nói lên những trăn trở, thao thức (tiếng mới là bức xúc) thời đại của giới trẻ có học (ko dám lạm dụng danh từ trí thức).

        Anh bạn tôi vốn con nhà nghèo, đông anh em, gốc nhà nông, đã ba đời sống ở Bình Dương. Họ, vốn là những người di dân, hình như từ miền Trung, vào những vùng đất hoang vu trong Nam, khai sơn phá thạch dựng nên cơ nghiệp. Bởi thế trong máu của họ có cá tính bất khuất, ngang tàng, muốn được thở hít tự do phóng khoáng, hơn là chịu khép mình vào luật lệ, cho dù là luật làng xã đi nữa. Họ lại là những kẻ anh hùng trượng nghĩa, hay có lúc cũng bạo tàn với tính cách thảo khấu rừng xanh.
        Nói gắn gọn, đó là những con ngựa chưa thuần, có thể trở thành ngựa chứng, nhưng cũng có thể thành con ngựa hay, nếu được người khéo uấn nắn giáo dục.

        Anh bạn tôi ở vùng sôi đậu, nếu không “vững tay chèo”, có lẽ anh đã bị rủ rê đi theo CS. Lý do dễ hiểu, khi nằm trong chăn có rận, có khi bất chợt vấp phải “pitfall” (khiếm khuyết; an unsuspected difficulty or danger) của thời VNCH như đã tạm nêu ra trong góp ý trên, dễ sinh bất mãn, trong khi lại hoàn toàn mù tịt về chế độ CS ngoài Bắc, hay cái sinh hoạt trong trung ương cục R ra sao ?
        Nói thế để thấy, tuổi trẻ VN thời đó có những bước đi rất chông chênh trên đời, dễ rơi vào trường hợp cô bé Alice đi lạc vào wonderful land của CS như chơi ! Các thanh thiếu niên học sinh sinh viên thời đó chả khác gì thế hệ đành anh đàn chị ở thời Việt Minh cướp chính quyền, cũng dễ bị ăn phải bả CS, rồi bị lợi dụng làm tay sai cho chúng mà đến khi tỉnh mộng thì tay lỡ nhúng chàm và đã đâm lao phải theo lao luôn, mà lòng không khỏi đau buồn, vì lý tưởng bị phản bội. Mấy kẻ dám phản tỉnh và phản kháng như Bùi Minh Quốc, Bùi Tín …

        Những thày học của họ, có người ngả theo CS, có người theo phe quốc gia, nên học sinh hay sinh viên cũng bị giao động rất nhiều trong cái môi trường cực kỳ hỗn tạp và huyên náo đó, nếu như họ ở vùng thành thị, chẳng hạn như thủ đô Sài Gòn, hay Đà Nẵng, Huế … Họ dễ bị cuốn hút vào những cơn lốc thời đại thật bất ngờ, bởi chính bản thân họ cũng không vững, chưa định hình định tính mình là ai ? ở nơi nào trong cõi trần gian này ? tương lai đi về đâu ?

        Muốn có cái nhìn toàn cảnh, những ưu tư những mộng mơ những khát vọng, thì phải hỏi nơi người trẻ của thời đại đó, hơn là thế hệ già nua, đã vững chân vững chỗ, không muốn đổi thay, bởi lẽ dĩ nhiên sẽ có phương hại cho những gì họ đang có sẵn trong tay ! Chính những người trẻ này mới là động lực làm thay đổi bộ mặt cộng đồng, xã hội, đất nước, tương lai dân tộc, chứ ko phải những kẻ cầm quyền, những vị thày bà mũ cao áo rộng, vốn là những học giả hàn lâm “academiciens”, hơn là những người đang phải lăn lưng ra sống trong cái thế giới ta bà này.

        2/
        Ông Nguyễn Văn Đỉnh đã có lần cho biết trong khi dậy học là, ông cùng một số bạn đồng nghiệp đã cấp tốc trong vài tháng hè soạn thành công sách vạn vật cho học sinh niên khoá 1945-1946 hoàn toàn bằng tíêng Việt, theo lệnh của vị thày khả kính của họ là giáo sư Hoàng Xuân Hãn, khi ông Hãn giữ chức bộ trưởng giáo dục thời nội các Trần Trọng Kim !

        Ông Đỉnh chính thày dậy Vạn Vật đệ nhất A ở Chu Văn An niên khoá 66-67 của tôi. Ông là giáo sư lâu năm ở Chu Văn An và là người soạn ra sách vạn vật đệ nhất ban A nổi tiếng thời đó. (Mãi đến khoảng thời gian đó mới xuất hiện sự cạnh tranh của sách vạn vật tương tự, với tác giả là Đỗ Danh Tẩm, giáo sư vạn vật đệ nhất ban A ở Trưng Vương, hợp tác với Nguyễn Văn Long, giáo sư vạn vật đệ nhị ban A ở Chu Văn An. Trước đó một hai năm, hai ông này đã ra sách vạn vật đệ nhị ban A, thay thế cho sách vạn vật đệ nhị ban A của ông bà Phùng Trung Ngân. Tôi may mắn học cả hai ông Nguyễn Văn Long và Nguyễn Văn Đỉnh, tức giáo sư hàng top của VNCH thời đó. Dùng sách của ông bà Phùng Trung Ngân ban đầu rồi sách của ông Tẩm và ông Long sau đó; cũng như sách ông Đỉnh có tham khảo sách hai ông Long và Tẩm chút ít)

        Trong khi học Y khoa năm thứ nhất, tôi học cua bằng tiếng Việt của giáo sư thạc sĩ Y khoa môn Sinh Lý học (Physiology) Trần Vỹ và đệ tử của ông là bác sĩ (Nguyễn Văn?) Thường, tôi thấy ngay cách dụng từ chuyên môn của họ thua xa quyển vạn vật của Nguyễn Văn Đỉnh ! Tôi lấy cua ông Đỉnh ra đọc lại, rõ ràng vừa ngắn gọn vừa dễ nhớ !

        Nói thế để thấy, các ông thày dạy đại học không phải lúc nào cũng chiếm “ưu thế”, cũng hay cũng tài giỏi và lời phán của các ổng là kinh điển cho thời đại !

        3/
        Ta thấy rõ ở đây chính là sự QUYẾT TÂM bởi động lực yêu nước nồng nàn, hay yêu lý tưởng mình đang theo đuổi, giúp cho ta vượt qua mọi trở lực mà hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao phó.

        Vâng những nhà giáo trẻ tuổi như thày Nguyễn Văn Đỉnh, được thúc hối bởi sự cấp bách xây dựng một nền giáo dục độc lập, không lệ thuộc vào tiếng Pháp mà phải bằng tiếng mẹ đẻ, đã giúp cho họ “vươn vai thành Phù Đổng thiên vương” !
        Trong khi thời VNCH có cả một Ủy ban soạn thảo Việt hóa chương trình học Y với các giáo sư đại học danh tiếng như Nguyễn Đình Cát, Trần Ngọc Ninh … mà làm mãi không song. Đọc ở đâu đó tôi còn nghe giai thoại có vị kể lại, có từ ngữ bàn tới tính lui cả tháng trời !???

        Cũng nói luôn là người CS đã có cái quyết tâm đó để phục vụ cho lý tưởng CS của họ, nên họ cũng đã Việt hóa thành công trong giáo dục mọi cấp.

        Mà thực ra thời VNCH tôi thấy cũng chỉ đắp mô ở phân khoa Y (faculté de Médecine) của Viện Đại học Sài Gòn, chứ các phân khoa bạn, như Dược thời tôi học (từng theo học mấy tháng đầu, trong khi chờ đợi kết quả thi tuyển bên Y) đã Việt hóa hoàn toàn quyển sách Jacob (?) dành cho sinh viên năm thứ nhất Dược. Bên Luật, Văn Khoa, Công chánh Phú Thọ, Khoa học, Sư Phạm … cũng thế.

        Nói tóm lại, mổ xẻ cho tường tận và chính xác Việt ngữ hóa chương trình học Y thời VNCH không phải giản đơn như ông Nguyễn Văn Lục nghĩ. Chỉ nội điểm này thôi tôi nghĩ cũng quá tầm tay ông Lục, thì tốt nhất ông nên ngưng phổ biến bài viết trên thêm nữa, khi bàn đến chương trình giáo dục Y VNCH, cũng như ảnh hưởng của Pháp rồi Mỹ ở VN trong nền giáo dục VN thời VNCH.

        Lão Ngoan Đồng

Phản hồi