WordPress database error: [Expression #1 of ORDER BY clause is not in GROUP BY clause and contains nonaggregated column 'oldsite_dcvwp.wp_posts.post_date' which is not functionally dependent on columns in GROUP BY clause; this is incompatible with sql_mode=only_full_group_by]
SELECT YEAR(post_date) AS `year`, MONTH(post_date) AS `month`, count(ID) as posts FROM wp_posts WHERE post_type = 'post' AND post_status = 'publish' GROUP BY YEAR(post_date), MONTH(post_date) ORDER BY post_date DESC

 
|

Tài năng và nhân cách: Phải chăng Phạm Duy đã giết Phạm Duy?

Phạm Duy. Ảnh Việt Báo

Bài viết sau đây của tôi là để chỉnh sửa và bổ túc thêm thêm vào một bài viết trước đây về Phạm Duy. Đó là bài Phạm Duy còn đó hay đã chết? Sở dĩ cần có sự sửa chữa là vì tôi được đọc hai bài của giáo sư John C. Schafer, giáo sư đại học Hubold State University. Một bài viết về Phạm Duy, một bài về Trịnh Công Sơn. Trinh Cong Son Phenemenon và The curious memoirs of the Vietnamese composer Pham Duy.(1)
(1) Xin vào Google kiếm tìm

Phải nhìn nhận theo thói quen làm việc của người Mỹ, ông John C.Schafer tra cứu rất nhiều tài liệu, dẫn chứng đầy đủ đến nơi đến chốn. Có những tài liệu dẫn chứng khiến tôi giật mình. Chẳng hạn ông dẫn chứng một tài liệu trong tờ Nghệ Thuật, số 38-39, tháng 3, 1995, một tờ báo ở ngay chính địa phương tôi ở mà tôi vô tình không để ý tới. Thứ hai, ông tránh được thiên khiến và ít đưa ra những phê phán tiêu cực.

Nhưng cũng vì thế, ông tránh đề cập đến những “liên hệ có thể” của Trịnh Công Sơn với phía cộng sản qua bạn bè của họ Trịnh như Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng như việc TCS hát trên đài phát thanh Sai gon vào ngày 30 tháng 4. Những mối liên hệ này đã được ông Nguyễn Thanh Ty trong bài viết: ” Một quãng đời của TCS” trong đó có phần lật tẩy “Nguyễn Đắc Xuân” trong bài viết : “Trịnh Công Sơn Cao Nguyên bụi đỏ sương mù”. Trong tài liệu của ông Nguyễn Thanh Ty cho hay ngay trong giới đồng nghiệp của Trịnh Công Sơn ở Bảo Lộc đã chia rẽ ra hai phía rõ rệt. Kẻ lên án, kẻ không. Ông John.C Schafer cũng đọc tài liệu này, nhưng không nhắc nhở tới dư luận, tới những vấn đề tranh luận chung quanh TCS. Nhất là những tranh luận ngay sau khi TCS chết như với bài viết mở đầu cho những tranh luận: Bi kịch Trịnh Công Sơn của họa sĩ Trịnh Cung. Đó là những vấn đề nhậy cảm mà ông John. C. Schafer tránh đề cập tới.

Nhưng trong hoàn cảnh VN- một hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt trước cái sống chết trong gang tấc- Không thể nào mà không có chọn lựa chính trị. Đó là một chọn lựa cho mỗi người VN. Cho nên những bài hát của họ Trịnh hay Phạm Duy- dù là mang đậm nét nghệ thuật- dù là tính nhân bản hay triết học cao- cũng xuất phát từ những hoàn cảnh chiến tranh VN. Chẳng hạn khi nói về những xác chết, về những bom đạn, về sự tàn phá man rợ của chiến tranh thì vẫn là chiến tranh nào? Xác chết ấy do đâu mà đến?

Mỗi xác chết, dù là đàn ông, đàn bà, trẻ con- dù chết ở đồng ruộng hay chết bờ chết bụi thì cũng có một danh tính, một lý lịch. Và kẻ cầm súng nào thì cũng có một sắc phục, một mầu cờ ..Không có cái chết chung chung, chết tình cờ, nhưng không !! Vấn đề là con ngươi đứng ở góc độ nào để nhìn những xác chết ấy.

Bài viết về Phạm Duy của ông John. C. Schafer chủ yếu dựa trên Hồi ký của Phạm Duy mà ông dùng làm tựa đề: The curious memoirs of the Vietnamese composer Pham Duy (Tất cả những bài viết trên đây, mọi người có thể tìm thấy dễ dàng khi bấm vào Google.com sẽ tìm đọc được, nhưng nhiều bài chỉ có trích đoạn) . Vì thế phần không nhỏ của bài viết đưa ra thật đầy đủ chi tiết về những mối tình lớn nhỏ của ông Phạm Duy. Tuy nhiên, giá ông dựa thêm vào cuốn Ngàn lời ca thì sẽ làm rõ hơn trong trường hợp nào, Phạm Duy đã sáng tác được bài nọ, bài kia.

Tuy nhiên vì tránh những mặt tiêu cực trong viêc sàng tác của Phạm Duy, ông J.C. Schafer không triển khai đủ sự vay mượn, sự thay đổi ca từ, sự bắt chước, sự theo thời của một thứ chủ nghĩa cơ hội của Phạm Duy.v.v.

Vì thế, sự chọn lựa thái độ viết một cách bàng quan của giáo sư John. C. Schafer vẫn là sự chọn lựa của một người ngoại cuộc, đứng ngoài nhìn vào. Mặc dù ông đà nhiều năm sống ở Việt Nam, lấy vợ VN, rất am tường văn hóa VN, yêu mến VN nữa. Ông phân tích và hiểu sâu sắc việc xử dung ngôn từ một cách diệu ảo của TCS trong các bài nhạc. Nhưng có thể ông chỉ nhìn những nhạc sĩ này như những nghệ nhân thuần túy bất kể đến hoàn cảnh sáng tác của họ. Đó là họ đang sống, đang sáng tác từ một hoàn cảnh chiến tranh. Chính hoàn cảnh chiến tranh đã khơi nguồn cho những sáng tác của họ. Bài viết của ông J.C Schafer vì thế thiếu một sự quân bình cần thiết về công việc sáng tác và hoàn cảnh sáng tác.

Bài viết của tôi chủ yếu chỉ viết về Phạm Duy và tôi muốn nhấn mạnh tới tiến trình sáng tác một bản nhạc của ông trong bối cảnh hai cuộc chiến tranh ấy.

Nói về “cái chết” của Phạm Duy, tôi chỉ lặp lại điều mà Nguyễn Trọng Văn dùng trong bài nói truyện tại trường Đại Học Văn Khoa Sàigòn vào ngày 6-6-1971, do phong trào Tự Trị Đại Học tổ chức. Đề tài với nhan đề: Phạm Duy đã chết như thế nào?

Bài nói truyện của Nguyễn Trọng Văn nói về cái chết của Phạm Duy nhấn mạnh tới góc cạnh tha hóa chính trị của Phạm Duy mà NTV coi là sự phản bội lý tưởng và một cách lôgich Phạm Duy bị coi như đã chết- một thứ tự sát- mặc dầu ông vẫn sống .. Phần bài viết này phản biện lại bài viết của Nguyễn Trọng Văn ..Phạm Duy không chết ở phạm vi chính trị, nhưng nếu PD có chết thì cái chết ấy ở phạm vi đức lý giữa tài năng và nhân cách của nhạc sĩ PD. Tài năng lớn phải đi đôi với một nhân cách lớn tương xứng.

Bài nói chuyện của NTV thời ấy hẳn gây được tiếng vang trong giới văn học miền Nam lúc bấy giờ. Bởi vì ít nhạc sĩ nào có thể so bì được với Phạm Duy.

Cùng lắm trừ một người. Trong cuốn Về một quãng đời của TCS (tác giả Nguyễn Thanh Ty gửi cho tôi ở dạng bản thảo lúc chưa in thành sách, sau này tác giả tự xuất bản vào năm 2004) có kể rằng, khi cùng ở Blao, TCS có kể về Sài Gòn bán bản quyền bài hát ” Chiều một mình qua phố” cho Duy Khánh với giá bán đứt bản quyền là 3000 đồng. TCS kỳ kèo thì được Duy Khánh trả lời: “Phạm Duy là đắt nhất mà cũng chỉ tới 5000 đồng là cùng, ông là nhạc sĩ mới, gíá vậy là cao lắm rồi”(2)
(2)Trích Về một quãng đời của Trịnh Công Sơn, Nguyễn Thanh Ty, bản thảo.

Co nên chọn Phạm Duy mà không chọn ai khác là một chọn lựa chính trị có chủ đích của Nguyễn Trọng Văn. Cứ bề ngoài thì Phạm Duy là một người đã bỏ hàng ngũ kháng chiến nay là một người quốc gia “Chống Cộng”. Đánh đúng vào cái thành trì tiêu biểu là giới trí thức thành thị miền Nam, đánh vào người nghệ sĩ nổi tiếng nhất và được quần chúng ưa chuộng nhất lúc bấy giờ. Đồng thời tước đi cái ảo tưởng của một ý thức hệ Quốc Gia trong chiến tranh sắp đến hồi chung cuộc.

1. Theo Nguyễn Trọng Văn, Phạm Duy đã chết vì phản bội lại kháng chiến?
* Phạm Duy chối bỏ kháng chiến

Nguyễn Trọng Văn đã nghĩ như thế. Đã viết để chứng minh điều ấy. Nguyễn Trọng Văn cho rằng đã có rất nhiều thanh niên đã theo kháng chiến và sau đó đã dời bỏ kháng chiến. Nhưng việc dời bỏ kháng chiến của Phạm Duy là khác. NTV viết: “Trí thức theo Cách Mạng và bỏ cách mạng không phải là điều khó hiểu, trách Phạm Duy như vậy có lẽ quá khắt khe.

Điều mà Nguyễn Trọng Văn lên án Phạm Duy không phải ở chỗ từ bỏ kháng chiến mà chối bỏ và hơn thế xóa bỏ kháng chiến. Xóa bỏ bằng cách thay đổi lời ca trong các bài nhạc làm trong thời kỳ kháng chiến.(3)

(3) Trích: Nguyễn Trọng Văn, Phạm Duy đã chết như thế nào, nxb Văn Mới, trích tóm tắt các trang 33-34

Phải chăng Phạm Duy đã sửa toàn bộ các lời ca có dính dáng đến kháng chiến? Không hẳn như thế. Nguyễn Trọng Văn đã tổng quát hóa đến mức vu vạ cho Phạm Duy. Ông chỉ thay đổi một số từ liên quan xa gần đến thời kháng chiến như tên Hồ Chí Minh, Vệ Quốc quân vv.. và để cho thuận nghe, ông bắt buộc phải đổi cả câu
Và Nguyễn Trọng Văn kết luận:

Phạm Duy kháng chiến ca của dân tộc đã chết. Điều bi đát không phải bông hoa Phạm Duy chỉ nở một lần, điều bi đát là bông hoa đó đã tự chọn cái chết như vậy.
“Khi Phạm Duy trở về, da mặt ông sần sượng hơn và dày thêm hai ly, máu ông đen lại, tim ông trở thành đá, đàn đứt hết dây, tiếng nói ú ớ tắc nghẹn.. (..) Chính Phạm Duy đã dứt dây đàn khi từ Mỹ về, chính Phạm Duy đã tự cứa cổ và nhét một quả táo thật lớn đầy mồm..(..)n Tình tự dân tộc, hùng khí kháng chiến rung động quê hương thân yêu không còn nữa, chúng ta đứng trước một người xa lạ. Có một khoảng cách thật lớn chia cắt Phạm Duy với mọi người “.(4)
(4)Trich Nguyễn Trọng Văn, Ibid , trang 39-41

Nguyễn Trọng Văn đã dùng cả một cuốn sách để mạt sát Phạm Duy. Nhưng về một số điểm, có thể Nguyễn Trọng Văn nói không sai, Phạm Duy không những sửa một lần mà sửa hai ba lần những bài ca của ông. Và tùy thời, tùy lúc mà ông đã sửa. Điều đó nhiều lúc làm tôi không thể không liên tưởng đến một thái độ xu thời hay một thứ chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa thực dụng với một nhạy bén chính trị. Sự nhạy bén chính trị đó đáp ứng bằng những sáng tác hợp thời cơ? Từ đó đặt ra vấn đề sáng tác là nguồn cảm hứng đích thực hay chỉ là một nhu cẫu đòi hỏi cấp thời của một tình thế?
Tại sao ở thời điểm đó có kháng chiến ca, tình ca, đạo ca, tâm ca, tục ca? Đó cũng là những suy nghĩ và ngờ vực của tôi khi tìm hiểu về Phạm Duy? Tâm ca của ông có thực sự do những rung động chân thành khổng? Đặng Tiến cũng đặt những câu hỏi nghi ngờ như thế.

Và người ta đã chẳng ngại ngùng gì nói đến một thứ trí thức for rent. Hơn ai hết Phạm Duy hiểu thâm ý của lời mỉa mai này.

Chẳng hạn Nguyễn Trọng Văn đưa trường hợp bản nhạc Quê Nghèo trước đây ca ngợi tình quân dân đoàn kết chiến đấu nay trở thành câu chuyện tình bông lơn, tán tỉnh nhau.

Lời cũ: Bao giờ anh lấy được đồn Tây hỡi anh
Để em gánh nước cho người chiến binh

Nay đổi ra:

Bao giờ em trỏ lại vườn dâu hỡi em
Để cho anh bắc gỗ xây nhịp cầu bước sang

Đến Vườn dâu mà cũng phải bắc gỗ xây nhịp cầu thì kể cũng lạ. Có ép ý, ép lời không?

Trong Bài hát Tiếng sông Lô, cũng cùng một cách thay đổi như trên:

Lời cũ: Quân cướp tham ô ngày nao đã chết không ngờ

Nay đổi ra: Trăng nước mông mênh, thuyền trôi trên sóng đa tình

- Và nhất là bài Bà Mẹ Gio Linh đã được sửa đổi một cách không nuối tiếc với ba lần in và sửa khác nhau:

Lời cũ: Nhà thì Tây đốt còn đâu
Ta vui câu chuyện Bác Hồ
Mẹ mừng con giết nhiêu Tây
Ra công xới vun cấy cầy (..)

Lời mới: tuyển tập xuất bản tại Việt Nam

Nhà thì nó đốt còn đây
Khuyên nhau báo thù phen nầy
Mẹ mừng con đánh giặc hay
Ra công xới vun cấy cầy
Ta yêu con ta, môi trắng bết mầu cờ
Lời mới, tuyển tập Dân ca, Mỹ in và phát hành tại Mỹ
Nhà thì nó đốt còn đây
Khuyên nhau báo thù phen này
Mẹ mừng con đánh giặc hay
Ra công xới vun cấy cầy
Ta yêu con ta, môi thắm bết máu nhòa

Từ đánh giặc Tây trong quân đội Bác Hồ. Chữ nó được sửa lại thì nó là ai đây? Nó đây bây giờ phải được hiểu là Việt công- quân đội cụ Hồ -.

Nguyễn Trọng Văn cũng đã hết lời ca ngợi tiếng Sông Lô nói lên tất cả cái khí thế hào hùng, mưu trí và óc sáng tạo tuyệt vời của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp, nay trở thành lời tâm sự của nghệ sĩ đa tình tìm kiếm hạnh phúc trên dòng sông sâu.
Nguyễn Trọng Văn thất vọng là phải.

Lời cũ: Hỡi anh vệ quốc cầm súng ngang tàng
Thuyền tôi đợi bến Tuyên Quang
Nửa đêm trông ánh trăng vàng ( tôi ) nhớ anh (….)

Lời mới:

Hỡi ai đi kiếm hạnh phúc trên đời
Mà chưa tìm thấy an vui
Lặng nghe tôi gửi đôi lời gió trăng

Nguyễn Trọng Văn kết luận:

“Các sáng tác trong thời kháng chiến đều được Phạm Duy sửa lại lời, mất hết lịch sử tính và chiến đấu tinh, chỉ còn là những bản của những tên lại cái, đồng cô bóng cậu” .(5)
(5) Trích NTV, Ibid, trang 34

Nhưng nếu NTV biết rằng sau này ở hải ngoại, tôi lại tìm thấy trong Ngàn lời ca, Phạm Duy lại một lần nữa thay đổi bằng cách giữ lại nguyên văn lời cũ như sau:
Hỡi anh vệ quốc cầm súng ngang tàng

Thuyền tôi đậu bến Tuyên Quang
Nửa đêm trông ánh trăng vàng ( tôi ) nhớ (6)
(6) Trích Phạm Duy, Ngàn lời ca, trang 35.

Sự thay đổi rõ ràng như thế đặt ra vấn đề nhân cách và nhân tài của người nhạc sĩ. Khi hồi cư về thành, Phạm Duy có thể cứ giữ nguyên ca từ hồi kháng chiến. Và sẽ không có ai có lời trách cứ ông. Nhưng khi có ý định về VN, ông cứ lẳng lặng về. Về mà đổi ca từ để đẹp lòng Hà Nôi và tuyên bố vung vít “chửi” cộng đồng hải ngoại là không chấp nhận được. Xóa bỏ, thay lại lời khác, rồi lúc cần lại lại lấy lại lời cũ: Anh Vệ Quốc quân.

Đã mấy ai có thể làm được như Phạm Duy? Nguyễn Trọng Văn không phải là không có lý khi mạt sát Phạm Duy khi ví ông như một thứ điếm sang.

Nhắc lại trong phần đầu cuốn Hồi ký của ông viết vê ông bố: nhà văn Phạm Duy Tốn để thấy nhân cách bố và con khác nhau lắm. Ông nhăc lại những lời nhận xét và khen tặng của Dương Quảng Hàm, Vũ Ngọc Phan, Nguyễn Văn Cổn, Vũ Bằng và Thanh Lãng đã viết những lời trân trọng về ông Phạm Duy Tốn. Ông cũng nhắc đến những người bạn tâm giao của ông Phạm Duy Tốn mà nhân cách của họ không thể chối cãi được như Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Nguyễn Văn Vĩnh, Đỗ Mục thì ông Phạm Duy quả là người con bất xứng.

Cũng khó trách ông lắm, mồ côi cha từ sớm, ông là một đứa trẻ tinh nghịch, hoang tàn, phá phách, “quậy” rất sớm.

Nhưng cũng nên hiểu rằng vào năm 1971, khi Nguyễn Trọng Văn viết cuốn Phạm Duy đã chết như thế nào thì lúc đó Phạm Duy chưa viết hồi ký. Nếu Nguyễn Trọng Văn có dịp đọc hồi ký rồi thì cũng có thể có cái nhìn khác về Phạm Duy.

Và có thể vì có cơ hội đọc lại Hồi ký Phạm Duy mà tôi thấy cần phải nhìn lại quan điểm phê phán của Nguyễn Trọng Văn.

Trong hồi ký 1, ông Phạm Duy viết như thế này về hoàn cảnh sáng tác về chiến dịch sông Lô. “Nhưng trong đám nhạc sĩ chúng tôi, lập tức có ngay những tuyệt phẩm như bài Lô Giang của Lương Ngọc Trác, rồi Trường ca Sông Lô của Văn Cao, Du kích sông Lô của Đỗ Nhuận và Tiếng Hát sông Lô của Phạm Duy. Điều đó cho thấy việc sáng tác nằm sẵn trong chiến dịch tuyên truyền nên mới có trường hợp bốn nhạc sĩ cùng sáng tác về một đề tài.

Bốn nhạc sĩ cùng sáng tác về một đề tài như một thứ đơn đặt hàng thì có phí phạm không?

Phạm Duy viết tiếp. “Nói về cả một chiến dịch thì chẳng nhừng thắng lợi sông Lô chỉ là những chiến công cục bộ, bởi vì vào lúc khởi đầu của chiến dịch Léa, gọng kìm lớn ở miền Đông là Bắc Kạn và Lạng Sơn vẫn còn rất mạnh… Những người phục vụ cho Cục chính trị như chúng tôi được khuyến khích để làm cho chiến thắng Sông Lô trở thành một chiến công vô cùng rực rỡ. Bây giờ nếu có ai tò mò – như tôi – đi tìm đọc những tài liệu của Pháp viết về chiến tranh Đông Dương, sẽ chẳng thấy một dòng chữ nào cho cái được gọi là Lô Giang của Lương Ngọc tức Lương Ngọc Trác. Bài này duyên dáng, mặn mà vô cùng”.(7)

(7) Trích Phạm Duy, Hồi ký 1, thời Cách mạng kháng chiến

Hóa ra đó chỉ là sản phẩm tuyên truyền, mà giá trị nghệ thuật chỉ là phụ, không đáng kể. Mặc dầu vậy đó là những bài hát quen thuộc và nổi tiếng của ông trong thời kỳ kháng chiến.

Cho nên, không lạ gì khi cần, PD đã không nề hà thay đổi tùy tiện tùy theo nhu cầu thực tiễn. Điều đó không khác gì Tố Hữu làm thơ ca ngợi chiến trận Điện Biên. Trong một bài trả lời phỏng vấn của Trần Đăng Khoa, Tố Hữu đã nói huỵch tẹt ra là ông đã viết phịa, không hề ra mặt trận.

Phạm Duy có thể viết phịa, sáng tác phịa về trận đánh trên Sông Lô. Tố Hữu cũng đã làm thơ phịa. Đã gọi là sáng tác phịa thì việc thay dổi lời ca còn có gì được gọi là phản bội? Phải chăng Nguyễn Trọng Văn đã quá lý tưởng hóa những ý hướng sáng tác thuần túy nghệ thuật của Phạm Duy và cũng vì thế lời kết án có thêm trọng lượng.
Thật ra theo tôi hiểu, Nguyễn Trọng Văn đã không biết được trong hoàn cảnh nào mà Phạm Duy đã sáng tác bản nhạc Tiếng hát Sông Lô, cho nên những suy đoán của Nguyễn Trọng Văn vì thế thiếu cơ sở. PD mới 13 tuổi đầu đã bỏ học, đi lang thang. Đến 25 tuổi mới gặp kháng chiến một cách tình cờ lịch sử. Chẳng có chỗ nào cho thấy người nghệ sĩ ấy quyết định chọn lựa đi theo kháng chiến cả.

Cho nên Phạm Duy không theo Kháng chiến theo nghĩa chọn lựa mà cũng không bỏ kháng chiến theo nghĩa phản bội. Không chọn lựa làm sao có phản bội?

** Phạm Duy không phản bội kháng chiến, chỉ có vấn đề ông nhìn lại

Nguyễn Trọng Văn đã tự chọn cho mình một góc đứng nào đó để phê phán Phạm Duy.

Và đã có chỗ kết luận: “Hiện nay, Phạm Duy có thể là người nghệ sĩ có tài, nhưng không phải là đứa con yêu của dân tộc, ông là đứa con hoang”.(..) Nhạc sĩ Phạm Duy của những kháng chiến ca của dân tộc đã chế(..) Ông đã quay lưng trở lại với dân tộc, với chúng ta, ông đã ra đi, ông đã chết “..(08)
(08) Trích NTV, Ibid, trang 45

Nhưng nặng hơn nữa, NTV viết:

Thân phận Phạm Duy guống thân phận một gái điếm, một thứ điếm lành nghề, khéo chiều, dẹp, có tài thỏa mãn bất cứ ai; ăn nằm với ai cũng rung động nhiệt thành, nhưng vì là điếm nên thuộc về mọi người, người tốt, người xấu, người Việt, người nước ngoài, không thuộc hẳn về ai “ .(09)
(09) Trích Nguyễn Trọng Văn, Ibid, trang 130

Cho nên, dưới mắt NTV, dinh tê đã là một phản bội mà đáng nhẽ phải gọi đúng tên là bọn Việt gian. Nhưng hơn là một phản bội, vì đã sửa lại lời ca trong các bài hát của chính mình. Nhưng người ta vẫn có thể đặt ngược lại là: ai phản bội ai? Nếu hành vi bỏ không theo kháng chiến là một phản bội thì thái độ ly khai với kháng chiến có thể được hiểu là thái độ tố cáo sự bội phản của kháng chiến không? Nghĩa là chính kháng chiến Việt Minh là một phản bộ. Và vì thế đã có một số không ít những thanh niên đã đi theo kháng chiến, đã thất vọng và đã dinh tê.

Dinh tê có thể gián tiếp tố cáo một sự bội phản đối với những người đã chót đi theo kháng chiến, vì đã bị lừa.

Trong giới văn nghệ sĩ ở Sàigòn, đã có nhiều người cũng đã từng đi theo kháng chiến và đã bỏ kháng chiến. Võ Phiến ở Bình Định cũng bỏ kháng chiến về với phía Quốc Gia, Bình Nguyên Lộc trong Nam cũng vậy. Rồi cũng trong Nam có Lê Thương đã sáng tác những bản nhạc như Bà Tư bán hàng có bốn người con. Hòa Bình 48, Đốt hay không Đốt, Trần Văn Trạch với Cái đồng hồ, Chuyến xe lửa mùng năm và Nguyễn Đức Quỳnh với Người Việt đáng yêu. Và tên Hoàng Trọng Miên với vở kịch Dưới Bóng Thánh Giá. Đoàn Văn Cừu thì sau nắm đài phát thanh Sài Gòn.

Và Có ai nghĩ rằng, theo Phạm Duy, Hoàng Thi Thơ từng làm việc ở tòa báo Cứu Quốc và điều khiển một ban Văn nghệ lưu dộng. Cũng không ai nhắc tới Mai Thảo, Tạ Tỵ. Có ai nghĩ rằng Minh Đức Hoài Trinh, thời con gái, mê theo tiếng gọi cụ Hồ vào Thanh Hóa, gặp tướng Nguyễn Sơn, rồi cũng ra Phát Diệm, bị cha mẹ bắt về để lấy Phan Văn Giáo.

Chưa kể những gương mặt chính trị trổi bật thời Đệ nhất Cộng Hòa đã từng đi theo kháng chiến như quý ông luật sư Trần Chánh Thành (bộ trưởng thông tin thời TT Ngô đình Diệm), Lê Khải Trạch, Đinh Sinh Pài, người đã từng họat động với tướng Nguyễn Sơn và Đặng Thái Mai trong khu 4. Hoàng Văn Chí cũng từ khu bốn ra, tác giả cuốn sách nổi tiếng Trăm hoa đua nở trên đất Bắc. Cuốn sách cho thấy chính thể Hà nội đàn áp và trù dập giới văn nghệ sĩ như thế nào.

Với sự chứng dần một số những nhân vật tên tuổi đã từng tham gia và họat động cho kháng chiến, trở về cộng tác với chính quyền Quốc Gia, tôi nghĩ rằng, việc gán cho Phạm Duy phản bội kháng chiến của Nguyễn Trọng Văn khó có cơ đứng vững được. Tại sao chỉ có mình Phạm Duy là người phản bội còn những Trần Chánh Thành, Võ Phiến, Hoàng Thi Thơ thì không?

Vì thế, họa sĩ Tạ Tỵ đã phản biện lại như sau:
Trong những năm kháng chiến, Duy đã đóng góp hơi thở và âm nhạc cho chính nghĩa lúc ấy. Nay sự dấn thân của Duy vào kích thước quân đội và sinh hoạt dân chính miền Nam cũng cũng mang một ý nghĩa tương tự “(10)
(10) Trích: Phạm Duy còn đó nỗi buồn, Tạ Ty, trang 129

Để biện hộ thêm cho Phạm Duy, Tạ Tỵ cũng đã trích dẫn thêm ý kiến của Thế Uyên như sau: “Nhiều khi tôi thấy có những người trẻ quá bất công với anh. Đòi hỏi thế này thế kia. Tôi thường không đồng ý với một thái độ như vậy. Nhạc Phạm Duy cất lên hơn 20 năm rồi, đã đóng góp vào các công trình lớn của dân tộc và hiên diện,. trong các khổ đau của Việt Nam với tư cách là người chứng trong cuộc, người chứng tham dự. Anh phải mệt mỏi và có quyền mệt mỏi, không ai có thể làm anh hùng cả đời được”(11)

(11) Trích: Phạm Duy còn đó nỗi buồn, Tạ Ty, Ibid..

Khi cuốn sách của Nguyễn Trọng Văn ra đời thì nhiều người đã nhìn thấy cái đuôi cộng sả ngoe nguẩy đằng sau cuốn sách ấy. Cách biện luận lộ liễu của NTV như một cán bộ cộng sản thứ thiệt. Cách nhìn một chiều, méo mó, thiên lệch không chối cãi được. Dám NTV đã được chỉ định để viết như thế!! Vì thế sự kết án Phạm Duy của Nguyễn Trọng Văn mất đi nhiều tính khả tín.

Bên cạnh Tạ Tỵ, còn có Cao Thanh Tùng mà ý kiến được coi là dung hòa hơn. Mặc dầu Cao Thanh Tùng không đồng ý việc phân chia một Phạm Duy nghệ sĩ và một Phạm Duy chính trị như nhiều người quan niệm để biện hộ cho Phạm Duy. Ngoài việc Cao Thanh Tùng cũng đồng ý với Thế Uyên như trên. Cao Thanh Tùng trích dẫn một nhạc sĩ Gia Nã Đại Georges E. Gauthier với bài viết: Phạm Duy, một nghệ thuật khúc diện, Thu Thủy dịch, tạp chí Bách Khoa số 347.

Tôi cần phải nói rằng, nếu tôi không thể tưởng tượng nổi một Phạm Duy mà không có VN thì tôi cũng không thể nào tưởng tượng ra một VN mà không có Phạm Duy”. Ông nhạc sĩ Gia Nã Đại viết tiếp;” Chúng ta cần phải tha thứ rất nhiều cho Phạm Duy bởi vì con người đã cống hiến rất nhiều. Nghệ thuật của Phạm Duy là một cống hiến của con tim. Các hành động của nghệ sĩ trong cuộc đời trần thế thuộc về họ và chỉ là những hành động nhất thời. Chỉ có tác phẩm là vĩnh cửu”. (12)
(12) Trích Cao Thanh Tùng trich lại trong bài, Phạm Duy… bất tử, các trang 8-12, tạp chí Trình Bày, số 23, 3-7-1971

Cuốn sách của NTV như thể một một vụ ném lựu đạn, nhưng đã bị trung hòa và loãng đi nhiều khi có một số ý kiến phản biện như trên.

Nhận xét thực tế

Một số thực tế sau đây càng cho thấy, sau khi chiến tranh Việt- Pháp bùng nổ, có đến hằng triệu người phải sơ tán theo chính sách *tiêu khổ kháng chiến* với cảnh vườn không nhà trống. Nhất là kể từ Thanh Hóa trở vào phía Nam, nhiều vùng chỉ còn là đổ nát và hoang tàn. Và cũng hàng triệu những dân chúng các vùng ấy đã *hồi cư*.
Chuyện đó được coi là bình thường trong chiến tranh. Chỗ nào có bom đạn chết chóc thì tránh, chỗ nào an toàn thì tìm về.

Vì thế có rất nhiều dân chúng, trí thức, thành phần đảng phải, chính trị gia đã sơ tán về vùng trái đệm Phát Diệm, còn gọi là an toàn khu. Có rất nhiều người đã dời bỏ kháng chiến hoặc chạy trốn Pháp về đây. Có tất cả khỏang 60 ngàn người đủ thành phần đã tụ tập về Phát Diệm.

60 ngàn người tụ hội về đây đều là để chờ thời, để nghe ngóng tình hình và nhất là chờ cơ hội * Dinh Tê*. Dinh tê, danh từ lần đầu tiên được xử dụng từ chữ rentrer. Chữ dinh tê là để chỉ việc bỏ khu vực kháng chiến để về Hànội. Phạm Duy cùng lắm cũng nằm trong số những người này.

Họ từ Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh ra, tức là bỏ khu tư, bỏ kháng chiến? Và cũng là trường hợp của Phạm Duy.

Nhưng phần đông họ từ Hà nội, từ Chợ Đại, Cống Thần ở Hà Đông vào (có thể là đi buôn), hoặc từ Hải Phòng đến bằng đường biển qua cửa Cồn Thoi, cửa ngõ vào Phát Diệm. Hoặc từ Nam Định Bùi Chu, qua ngã đường sông như Yên Mô- Nho Quan hoặc Cầu Lim- Gia Viễn.

Đó là những người chạy trốn Pháp.

Phát Diệm trở thành vùng an toàn phi chiến- ít ra người ta có cảm tưởng như thế- vùng trái đệm giữa vùng tề và kháng chiến, giáp ranh với liên khu 4 gồm Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh trải dài xuống tận khu Bình Trị Thiên Nam Ngãi.

Để chứng tỏ Phát Diệm là nơi tạm trú cho những người trốn chạy cả hai phía Tổng bộ ( danh xưng gọi tổ chức của ĐC Lê Hữu Từ ) đà bắt được một mật lệnh, ngày 9-7-1947 của Việt Minh có câu:”dù có mất cả một đại đội cũng không được đụng đến Phát Diệm” .

Đó là về phía Việt Minh đối với Phát Diệm.

Việt Minh có hai cái lợi để không đụng độ trực tiếp với Phát Diệm.

Thứ nhất, vì Phát Diệm là hậu cần cung cấp tất cả thuốc tây, dụng cụ, máy móc, đá lửa, xăng dầu và đôi khi ngay cả súng ống từ bên Tầu. Đó là nguồn cung cấp sống còn cho khu 4 của kháng chiến. Đường buôn lậu đi từ Hải Phòng, dùng thuyền buồm xuôi Phát Diệm, đến cửa Cồn Thoi, rồi từ đó xuôi Thanh Hóa, vào khu tư.

Thứ hai, về mặt quân sự, Phát Diệm như cái hàng rào che chắn để bảo vệ an toàn khu tư trở vào. Chừng nào Phát Diệm còn có hai cái lợi thế ấy, Phát Diệm vẫn là một an toàn khu.

Mặc dầu giải pháp double jeu đi đến thất bại, nhưng có một điều không thể phủ nhận được là Phát Diệm là nơi trú ẩn an toàn cho những người kháng chiến cũ, cho trí thức và nhất là cho người của đảng phái. Không có Phát Diệm, nhiều nhân vật đã có thể bị giam cầm, thủ tiêu và biến mất trên chốn dân gian này rồi? Làm gì còn những Ngô Đình Nhu, Phạm Đình Viêm, Phạm Đình Chương, Bùi Diễm, Trần Văn Chương, Nguyễn Tường Tam, Hoàng Bá Vỉnh. Và giả dụ họ bị Việt Minh thủ tiêu. Chính trường miền Nam đã hẳn là khác?

Lý do Phạm Duy “dinh tê”

Phần Phạm Duy khi dinh tê cũng có nước mắt nhớ tiếc dĩ vãng và cũng có giọt nước mắt vui mừng vì nhìn thấy cái cái đồn bót phía Quốc Gia. Vui mừng vì biết rằng nay mình được giải thoát.

Nếu những người này sau đó dinh tê về Hà Nội, ta sẽ gọi họ là ai? Họ có khác gì với Phạm Duy không? Thật không dễ để xếp loại họ.

Không lẽ chỉ vì đổi vài lời ca mà trở thành kẻ bội phản?

Đọc hồi ký do chính Phạm Duy viết, không có chỗ nào là bằng cớ cho thấy ông gắn bó hay có ý gia nhập đảng Cộng sản. Và vì thế, việc ông dinh tê là chuyện bình thường như hàng ngàn, hàng vạn người khác.

.- Thứ nhất, có thể chỉ là lý do kinh tế. Đi theo cách mạng là đói. Đói cho mình và đói cho cả nhà. Đó là trường hợp 3 anh em trai bên vợ Phạm Duy. Tác giả viết:” Chúng tôi có khoảng một tháng trời để nhìn thấy chung quanh mình có khá nhiều gia đình đã * dinh tê*. Găp được những gia đình bạn như gia đình Nguyễn Giao (bố vợ Hoàng Thi Thơ), gia đình Đỗ Xuân Hợp, gia đình Đòan Châu Mậu.. là có ngay những vụ bàn bạc về việc rentrer: vào thành hay rester,ở lại ? Ở lại, rester thì không còn tiền để mua gạo mà ăn. Chưa dám nói thịt cá đâu. Nhất là không có tiền mua thuốc men để chống đỡ với các thần bệnh tật …. Trong lòng day dứt vì chuyện”ai làm cho ai phụ tình ai”?

.- Thứ hai, theo Phạm Duy, Trung ương muốn khai tử bài Bên Cầu biên giới của tác giả qua trung gian nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát nên ông nổi giận và:” Tôi thấy cách mạng bắt đầu lẩm cẩm khi kết án bài Vọng cổ trong cái Đại Hội mà tôi vừa tham dự “. Và sau khi được gặp bác Hồ, Phạm Duy đã không có một ấn tượng tốt đẹp gì về con người ấy và sau đó đi gặp nhạc sĩ Khoát :” Tôi tới gặp anh Khoát ngay và trả lời dứt khoát là tôi xin trở về Thanh Hóa.. Tôi rất cảm ơn mọi người, xin được không nhận bất cứ một thứ ân huệ nào cả . .. Nhưng khi vợ chồng tôi tới chào người lãnh đạo văn nghệ của cả nước thì Tố Hữu tặng vợ chồng tôi một số tiền. Tôi nhận ngay vì đó là tiền lương và vãng phí.

Cuộc chia tay dứt khoát với kháng chiến bắt đầu từ việc ông được kết nạp vào Đảng. Ông viết:

“Trong một buổi trưa có nắng vàng nhảy múa trên lá cây, thả bước; trên một con dốc nhỏ nằm trong khu rùng Yên Giã, anh Nguyễn Xuân Khoát bá vai tôi, hai người lặng lẽ đi .. Một hồi lâu, anh Khoát nói giọng thầm thì:

- Đoàn thể cử tao nói cho mày biết. Là mày đã được kết nạp. Mày sẽ được cử đi Moscou. Mày sẽ được ông Cụ gắn cho một huân chương chiến sĩ. Nhưng có điềun kiện. Mày phải bỏ cái tính “chơi” của mày đi. Mày phải khai tử bài hát: Bên cầu biên giới và nếu xuất ngoại thì Thái Hằng phải ở lại . Một mình mày đi thôi . Về suy nghĩ. Mấy, hôm nữa, trả lời tao”.(13)

(13)Trich Hồi ký Phạm Duy, tập hai, thời Cách Mạng kháng chiến

Theo Phạm Duy, chính đề nghị được kết nạp vào đảng làm ông sợ quá. Lên Việt Bắc, không bao giờ ông chờ đợi một đại ân huệ như thế này. Sau khi được gặp ông Hồ, tướng Nguyễn Sơn, ông quyết định tìm đường “dinh tê”. Và ngày 1 tháng năm 1951, đại gia đình họ Phạm chia ra ba nhóm để dinh tê.

Cuộc chia tay kháng chiến đơn giản chỉ có vậy.

- Thứ ba, Phạm Duy đâu phải loại người ngu ngơ khờ khạo. Trong buổi tham dự Đại Hội Văn Hóa tổ chức tại trường Cao Đẳng, có chủ tịch Hồ Chí Minh đọc diễn văn, ông viết:” tôi cũng rất sung sướng được nhìn thấy những thần tượng văn nghệ của tôi. Nhưng tôi lấy làm lạ, tự hỏi thầm tại sao nhóm Tự Lực Văn Đoàn lại vắng mặt? Câu hỏi lớn đấy nhé. Sau đó còn thấy sự chống đối của Nguyễn Đức Quỳnh Khi Xuân Diệu bắt đầu bằng câu nói: Thưa các đồng chí. Nguyễn Đức Quỳnh đứng dạy nói: Tôi không phải là đồng chí của các anh. Xuân Diệu có vẻ hơi lúng túng rồi trả lời: Chúng tôi không cần những đồng chí như anh.

Tôi cũng thấy được sự tranh chấp bạo động như vụ bắt cóc rồi giết nhau ở phố Ôn Như Hầu hay là vụ Việt Minh tiêu diệt các đảng phái ở các tỉnh. Khi ở trong Nam, tôi đã thấy các đảng phái như Cao Đài, Hòa Hảo, Đại Việt dự định bắt Trần Văn Giầu và nhóm Việt Minh. Nhưng Dương Văn Giáo ngăn cản để giữ tình đoàn kết. Sau này, chính Dương Văn Giáo bị Việt Minh giết.

Vì thế, tôi không có ý muốn trở thành một cán bộ Việt Minh ở Hà nội (14).
(14) Trích Hồi ký, tập hai, Ibid

Kể như đã rõ ràng, đi theo kháng chiến, nhưng thấy Việt Minh phản bội lại những người yêu nước khác, như giết người của đảng phái. Phạm Duy đã có thể thất vọng về kháng chiến và vì thế dinh tê là điều khó có thể chê trách được.

Và giả dụ rằng, cái đám dinh tê sau này thắng trận thì chữ phản bội còn có ý nghĩa gì? Cuối cùng, kẻ thắng là kẻ tự mang chính nghĩa về phía mình, nói sao chả được.
-. Thứ tư : Xét đến số lượng các bản nhạc Phạm Duy làm trong thời kỳ kháng chiến, xét đủ loại từ Nhạc hùng, nhạc tình, quân ca kháng chiến đến dân ca kháng chiến trên dưới gần 50 bài, tôi nhận ra ông chỉ đổi lời những bài nào có danh từ dính dáng trực tiếp đến Việt Minh như cụ Hồ, đồn Tây, Vệ Quốc Quân mà thôi.

Có bao nhiêu bản như thế? Thực sự không có bao nhiêu. Chỉ có vài bài tất cả theo cách lý giải của tôi. Nguyễn Trọng Văn đã khám phá ra điều này cũng đã là hay lắm. Nhưng chưa đủ yếu tố thuyết phục độc giả nghĩ rằng Phạm Duy là kẻ phản bội.
Hơn nữa, giá trị một bản nhạc hay là chính ở cái hồn của bản nhạc ấy thì vẫn được giữ nguyên. Có cụ Hồ hay không có cụ Hồ, tự nó bản nhạc vẫn hay. Nhạc kháng chiến của Phạm Duy là hay, là thấm thía, là chia sẻ thì vẫn được người nghe tán thưởng.

Cũng đừng quên một điều, khi nghe một bản nhạc hay, người nghe để cái cảm quan nghệ thuật lấn lướt những tiểu tiết thay đổi từ mà Nguyễn Trọng Văn nêu ra. Theo tôi, trừ tên Hồ Chí Minh cần phải đổi. Những từ như giặc Pháp, đồn tây, anh vệ quốc quân, không đổi cũng không sao.

Bằng chứng, ở miền Nam, chúng ta vẫn nghe nhạc Văn Cao, vẫn đọc văn Nguyễn Tuân thời tiền chiến có sao đâu? Sau 1975, tại Vũng Tầu, loa phóng thanh oang oang bài Anh Quốc ơi, Anh Quốc ơi của Phạm Duy đấy !! Thật là buồn cười, nhưng hiểu được. Bài đó có thể hay và người ta chẳng cần biết anh Quốc là anh nào nữa.
Kết luận cho thấy phải chê ngược Phạm Duy đáng nhẽ không nên đổi từ như ông đã đổi. Nguyễn Trọng Văn ngầm phê phán thái độ trở cờ, bỏ kháng chiến của Phạm Duy, thì những người khác lại thấy sự trở cờ đó là bình thường. Trừ trường hợp đổi lại ca từ một lần nữa để về sống ở VN là coi không được.

Nếu Phạm Duy có chết là chết ở chỗ đó. Dư luận có thể kết án ông ở chỗ hèn, chỗ tráo trở, chỗ bán rẻ nhân cách.

Khác nhau là giữa chúng ta và Nguyễn Trọng Văn đứng ở vị thế nào để nhìn vấn đề, để phê phán?

2.- Phạm Duy chết ở một nơi nào khác?

Tài vay mượn hay cảm hứng của người nghệ sĩ?

Mỗi bản nhạc của ông là một tổng hợp hay một cộng lại những văn ảnh, những âm thanh, âm điệu, những ca từ rút ra từ các bài thơ, hoặc rút tỉa từ các câu hò, điệu hát của dân ca ba miền, ngay cả những điệu hát của người dân miền sơn cước, từ các vần điệu đã có sẵn, các văn ảnh quen thuộc như con trâu, cái cầy, đồng lúa xanh, người mẹ quê. Chính nhờ sự pha trộn, thu nhặt đó mà nhạc Phạm Duy rất gần gũi, ăn khách và được đón nhận một cách nồng nhiệt.

Chẳng hạn, trong bài Tiếng Hát trên Sông Lô, theo như sự nhìn nhận của ông, ông đã cảm hứng và vay mượn từ hai câu thơ Đường quen thuộc:

Thuyền ai đậu bến Cô Tô
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn Sơn(15)

(15) Tất cả những trích dẫn trên và sau đây đều lấy lại trong tập: Ngàn lời ca của Phạm Duy, xuất bản ở hải ngoại.

Hai câu thơ Đường trên váng vất trong bài tiếng sông Lô của Phạm Duy đã trở thành: Thuyền tôi buông lái như xưa, hoặc Thuyền tôi đậu bến Tuyên Quang và nhất là Thuyền tôi đậu bến Đoan Hùng. Bình minh nghe tiếng chim mừng líu lo.
Trong mấy câu trên, người ta thấy từ vần điệu, âm thanh bằng trắc bổng trầm sao giống nhau thế? Giữa: Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hán Sơn và Bình minh nghe tiếng chim mừng líu lo sao mà sít sao thế. Giống mà không giống. Nửa đêm đổi ra thành bình minh. Tiếng chuông chùa đổi ra tiếng chim mừng..

Cũng theo Phạm Duy, 10 bài tâm ca, 10 bài đạo ca ít ra bắt nguồn từ con số 10 của Mười điều tâm niệm của Hòang Đạo. Sự liên hệ ý tưởng (associations des idées) đó đã trở thành nguồn cảm hứng âm nhạc bắt đầu từ con số 10. Tại sao không 13 hay 35 mà lại 10?

Và từ dấu mốc này, tôi dám đặt câu hỏi nghi vấn, không phải về nhạc tính, mà về một số từ rất rất Trịnh Công Sơn, một số ý hướng rất TCS như các từ Gia tài, tuổi nọ tuổi kia v.v… Uớc mơ (thơ Nhất Hạnh), để lại và những ý hướng về cái chết, về chiến tranh, về trẻ thơ v.v… Trong các bài Tâm Ca, Đạo ca của Phạm Duy.

Lẽ dì nhiên, Phạm Duy không bao giờ nhìn nhận có một ảnh hưởng như thế trên sư nghiệp sáng tác của ông. Và chắc hẳn những bản nhạc đó đã bắt nguồn từ những cảm hứng tâm linh, từ những khát vọng sâu thẳm của cõi người hay thân phận người xuất phát từ những tình trạng bi kịch của đất nước. Chính từ những chỗ ấy đánh động tâm tư, khơi dạy những thao thức của tâm hồn nghệ sĩ và từ đó sản sinh ra những dòng nhạc khá là tuyệt vời.

Người nghe nhạc khi thưởng thức nhạc Phạm Duy, đôi khi bắt gặp những âm hưởng quen thuộc đã bắt gặp ở đâu đó rồi hoặc bắt gặp một con chữ nào đó vv. Có thể một cách vô tình và vô thức, Phạm Duy có cùng những cảm thức, cùng những rung động đã nhập vào ông. Nhất là trong những bản nhạc phản chiến, những bài tâm ca và đạo ca. Chữ nghĩa ấy vào tay Phạm Duy trở thành một con chữ sống động, hiện sinh, như thể có một linh hồn. Vốn nguyên liệu ròng đã có, Phạm Duy chuyển tải tài tình cái vốn đó thành vốn của mình một cách chẳng kém tài hoa.

Thôi thì cứ cho rằng tài hoa bắt gặp tài hoa. Nhưng trong nghệ thuật văn chương hay âm nhạc thì trước sau thiên tài hay không vẫn là ở chỗ sáng tạo, chỗ khởi đầu. Ớ chỗ này, bất cứ ai cũng phải nhìn nhận rằng TCS sáng tạo ra ngôn ngữ, thổi vào chữ nghĩa một sự sống, một linh hồn.

Hơn bất cứ ai hết, TCS cùng một lúc sáng tạo ra ngôn từ và dòng nhạc quyện vào nhau, gắn bó tuyệt vời. Đó là một thứ phù thủy trong ngôn ngữ, thổi vào đó một sự sống.

Trong khi đó, phần lớn âm nhạc của Phạm Duy là vay mượn thơ văn của các thi sĩ khác.

Công của ông là phổ nhạc. Phần kia là của các nhà thơ. Về điểm này, tôi cũng đặt câu hỏi phần vinh danh mà ông được thụ hưởng thì trong đó có bao nhiêu phần đóng góp âm thầm của các nhà thơ được chia sẻ cái vinh danh đó?

Chỗ nào cho Nguyễn Bính, Nhất Hạnh, Phạm Thiên Thư, Linh Phương, Ngô Đình Vận, Hữu Loan, Lê thị Ý, Phạm Lê Phan, Phạm Văn Bính, Hoa Đất Nắng, Lưu Trọng Lư, Huy Cận, Xuân Diệu, Thế Lữ, Hàn Mạc Tử, Bích Khê, Đỗ Quý Toàn, Nguyễn Tất Nhiên, Thanh Hữu, Du Tử Lê, Cung Trầm Tưởng, Hoài Trinh, Hồng Nam tức Hô Hán Sơn, Guillaume Apolinnaire. Và người chỉ còn có cái bị thằng ăn mày, đói rách tả tơi như Bùi Giáng cũng bị Phạm Duy mượn đỡ bài Gái lộI qua khe cho những bài Tục ca của Phạm Duy. Mà không có một đền bù, vật chất cũng như tinh thần, không có đề tên trên bản nhạc. Không dám bảo là đạo văn, ăn cắp, nhưng rõ ràng là “mượn đỡ”.
Kết luận về phần này thì chúng ta phải thừa nhận rằng vay mượn và cảm hứng đưa đến những bản nhạc để lại cho đời đến như Phạm Duy thì kể là kỳ tài.

Kể là có một không hai.

Nhưng tôi nhận ra một điều thấy cần được nói ra và có thể nhiều người cũng biết như thế. Có nhiều bài do chính ông viết lời như bài Đêm xuân, tại Chợ Neo, Thanh Hóa ghi lại mối tình với Thái Hằng. Hay bài Cành Hoa trắng, Thanh Hóa, 1950 hay bài Gánh lúa, rất nổi tiếng, trước khi dinh tê. Điều đó không có gì để nói nữa.
Có bài mượn lời từ thi sĩ ngọai quốc, như Mùa thu chết mượn thơ của thi sĩ Guillaume Apollinaire ông cũng cẩn thận ghi bên dưới như: theo thơ Guillaume Apollinaire, Sàigòn 1970.
Xem lại những bài ông trích đăng lại trong Ngàn lời ca của ông.Trừ một vài trường hợp khá đặc biệt như bài Nhân danh, ghi theo thơ Tâm Hằng, bài Bi Hài kịch, theo thơ Thái Luân, Đi vào Quê Hương, theo thơ Hoa Đất Nắng (Cả ba bài này đều ít ai biết tới), Kỷ vật cho em thơ Linh Phương. Khi tôi về, theo thơ Kim Tuấn, Tửởng như còn người yêu, thơ Lê thị Ý, Áo anh sứt chỉ đường tà, thơ Hữu Loan. Tôi ước mơ, thơ Nhất Hạnh, bài Để lại cho em, một câu thơ của Nguyễn Đắc Xuân…

Đó chỉ là vài trường hợp họa hiếm. Còn những trường hợp khác thì không được ghi đầy đủ. Và đấy chỉ là ghi lại t Ngàn lời ca của Phạm Duy sau này như một loại sách sử âm nhạc. Nhưng tôi không đủ điều kiện để tìm hiểu xem, khi được ấn hành thành bản nhạc, được in ấn hồi trước 1975, được bán ở các vỉa hè Sàigòn, tên các thi sĩ được Phạm Duy phổ nhạc có được ông trân trọng ghi đầy đủ trên các bản nhạc hay không? Ở Hải ngọai thì tôi được biết có một số bản nhạc được in lại có ghi đầy đủ tên thi sĩ và tên nhạc sĩ. Nhưng điều đó có chắc rằng, toàn thể các bản nhạc của Phạm Duy in ấn trước 1975 đều có đề tên các thi sĩ?

Việc phổ nhạc thơ là một hiện tượng phổ biến trong sinh hoạt văn hóa miền Nam trước 1975. Trong một bài phỏng vấn Du Tử Lê của Cỏ Ngư trên Talawas, ngày 5-5-06, Du Tử Lê cho biết có hơn 300 bài thơ của ông đã được phổ nhạc mà theo ông:” Đó là chưa kể có những nhạc sĩ lấy thơ của tôi, không chỉ là cái ý, mà cả câu thơ, nhiều câu thơ làm thành ca khúc mà không hề đề cập đến tên tôi, dù chỉ là hàng chữ “ ý thơ ” thôi cũng không có. Thậm chí, có báo chí nêu đích danh bài thơ ấy, bản nhạc ấy, nhạc sĩ ây. Nhưng người nhạc sĩ này vẫn lờ đi…”

Riêng trường hợp Phạm Duy, Du Tử Lê có tiết lộ PD có phổ nhạc bài thơ “Kiếp sau, xin giữ lại đời cho nhau” vào năm 1967 gì đó. Rất tiếc, dù đã tìm kỹ, tôi cũng không tìm thấy bài hát này.

Nhưng điều tôi có thể chắc chắn là trong Ngàn lời ca thì hầu như Phạm Duy đã không nêu tên các thi sĩ, tác giả các lời ca của bản nhạc. Ông có cố tình quên tên họ không? Trong khi đó, ông ghi rất kỹ thời gian sáng tác một bản nhạc.
Chính vì thế sau này đã xảy ra trường hợp nhà thơ Hữu Loan bày tỏ công khai nỗi bực dọc ấy. Có một trường hợp mà tôi biết khá rõ về năm bài thơ của Nguyễn Tất Nhiên, một thi sĩ trẻ ở Biên Hòa. Đó là những bài Thà là giọt mưa, Hai năm tình lận đận, Cô Bắc Kỳ nho nhỏ, Hãy yêu chàng và Vái trời . 5 bài thơ này đã là nguyên do có sự kiện tụng giữa nhà thơ và Phạm Duy. Về phần Nguyễn Tất Nhiên, dĩ nhiên, cậu thanh niên chưa quá 20 tuổi phải hãnh diện vì thơ được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc. Về phía Phạm Duy chắc cũng hiểu cái tình huống như thế nên ông nói: Thơ được Phạm Duy phổ nhạc là may phúc lắm rồi. Cho đến lúc bản nhạc được thương mại hóa thì Nguyễn Tất Nhiên ..đòi tiền. Kể từ đó về sau, PD không lấy thơ Nguyễn Tất Nhiên phổ nhạc nữa.

Tôi đã thử tìm trong Ngàn lời ca để xem ông có ghi lại năm bài nhạc, có thơ của thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên không? Tôi đã không tìm thấy bài nào trong năm bài ấy.
Và nó chỉ được nhắc tới trong phần mục lục thôi. Phải chăng, do cái giận một thằng”nhóc con” muốn đòi tiền và kiện ông mà Phạm Duy đã cố tình bỏ quên Nguyễn Tất Nhiên? Thật ra cái tính của Nhiên là thế. Sau này, khi gửi các bài thơ của thi sĩ trên tập san Hợp Lưu, anh cũng có thói quen đòi chủ bút Khánh Trường phải trả tiền nhuận bút. Ai viết cho Hợp Lưu nghe chuyện đó cũng phải bật cười. Chủ bút KT đã trả tiền nhuận bút vì thương bạn. Bởi vi, tờ báo ai đã cộng tác viết bài đều biết tập san nghèo quá, ai dám nghĩ đến tiền nhuận bút. Nhận được một số báo mỗi kỳ đã là một niềm vui rồi vì tờ báo quá đẹp, trang nhã, bài viết có chất lượng. Cầm số báo HL như cầm một cuốn sách. Và theo anh Khánh Trường, Nguyễn Tất Nhiên là người duy nhất trong số các tác giả viết bài cho Hợp Lưu được trả tiền nhuận bút.

Nhưng được biết đến lúc nhà thơ này từ giã cõi đời thì PD cũng nằm trong số những người đến tiễn đưa anh về thế giới bên kia.

Phạm Duy đã kể lại trong Ngàn lời ca về người bạn tình của ông, Alice, con gái của một người tình cũ của ông ở Phan Thiết là Hélène, Alice đã làm đến 300 bài thơ tặng ông và đã là nguồn cảm hứng cho Phạm Duy viết phổ nhạc. Khởi đầu là Thương Tình ca với những giai điệu:”

Dìu nhau đi trên phố vắng
Dìu nhau đi trong ánh sáng
Dắt hồn về giấc mơ vàng
Dìu nhau đi chung một niềm Thương

Và tiếp nối là Ngày đó chúng mình, Đừng xa nhau, Kiếp nào có yêu nhau (Thơ của Hoài Trinh). Bài này của Hoài Trinh có in lại trong một băng nhạc ở Hải ngọai, thấy có điền tên tác giả là Hoài Trinh.

Tôi không thấy ông đề tên Alice trong những bản nhạc tình có thể nói là tuyệt vời ấy trong Ngàn lời ca?. Thật là đáng tiếc. Thật là “thằng cha bội bạc”.

Nhân tiện đây, phải nói rằng nhạc tình của Phạm Duy quả là tuyệt vời. Đầy cảm tính. (sentimental) Và chỉ có một người sau này có thể qua mặt ông là Trịnh Công Sơn với nhạc tình đầy não tính( cérébral) Chữ của Phạm Duy). Và có những người trẻ tuổi đã chẳng ngại ngùng viết: “Với tôi, chiều sâu của Phạm Duy là chiều sâu của vực thẳm không đáy, đỉnh cao là đỉnh cao của ngọn trời và kích thước thứ ba là chiều ngang của không gian vô tận”

Xin trích dẫn một đôi câu nữa để chúng ta cùng say sưa ngậm ngùi:

Ngày đó có bơ vơ lạc về trời
Tình trên mây xa khơi có áo dài khăn cưới
Ngày đó có kêu lên gọi hồn người
Trùng dương ơi, Có sót sa cũng hoài mà thôi

Và để nghe Thái Thanh nức nở một lần nữa thơ của Hoài Trinh, phổ nhạc là của Phạm Duy:

Đừng nhìn em nữa anh ơi ..
Kiếp nào có yêu nhau, thì xin tìm đến mai sau ..

Alice đã không có một chỗ đứng đáng nhẽ phải có, đáng nhẽ phải dành cho cô!! Không thể quên như thế được.

Nhưng dưới mắt Phạm Duy: Phổ nhạc là chắp cánh cho thơ bay cao. Vì thế, các thi sĩ bị bỏ quên cũng thật là dễ hiểu, vì ai là người đã chắp cánh cho họ?

Những người đó ít hay nhiều cũng làm nên vóc dáng Phạm Duy. Có thể, nhờ nhạc sĩ mà bài thơ đi xa hơn nữa. Nhưng dù muốn, dù không vẫn là mượn thơ của thi sĩ. Họ đã chẳng có một vị trí xứng đáng trong gia tài âm nhạc của họ Phạm. So ra những người tình của Trịnh Công Sơn may mắn hơn nhiều, vinh dự hơn nhiều, đi vào những thiên tình sử của một nhạc sĩ tài hoa có một không hai. Những Diễm.. và cuối cùng đến Hồng Nhung.

Hãy khoan nói đến chuyện tiền bạc. Hãy trả lại lẽ công bằng về cái thẩm quyền tinh thần, về những sản phẩm trí tuệ ấy.

Tôi vẫn cảm thấy tức anh ách khi viết những dòng này, nghĩ tới Alice, Huy Cận trong Ngậm ngùi và bao nhiêu thi sĩ khác.

Phải chăng chính ở điểm này mà Nguyễn Trọng Văn nên dùng bút để giết chết Phạm Duy thì đúng hơn!!

3.- Phạm Duy của nhiều khuôn mặt

Ngay từ hồi trước 1975, nhiều dư luận cho rằng Phạm Duy là người bất nhất, tham lam, chụp giựt, tính cơ hội trong những sáng tác nhạc của ông. Các chủ đề sáng tác của ông, mặc dầu trải dài suốt hành trình nhân thế của ông, bám sát vào những biến cố của thời cuộc, của đất nước cho thấy nó quá đa dạng, trái khoáy, thiếu cân xứng, thiếu liên tục nhất quán. Nghe những bản nhạc ấy, nhiều khi không khỏi ngỡ ngàng, thấy lạ, thấy kỳ dị và cảm giác quan trọng là thấy có gì đó không ổn. Có thể gọi đó là một thứ sincérité instantannée, thành thật nhất thời cảm hứng nhất thời, xung động nhất thời (émotion primaire)

Cảm hứng nhất thời đó cũng giống như một thanh niên lãng tử, ham vui, chóng chán. Khó có cái gì đọng lại, kết tinh, có chiều sâu, có âm hưởng.

Đó là thứ nhà văn không có style, nhạc sĩ không có nét nhạc, thiếu cá tính, họa sĩ thiếu gam mầu.

Đối với một người như TCS, ta chỉ cần nghe một điệu nhạc, bắt ngay được cái hồn tính của điệu nhạc ấy và biết ngay là Trịnh Công Sơn. Nó có một cái duy nhất, cái độc đáo, cái làm nên thế giới âm nhạc ấy. Cũng vậy, xem tranh phố cổ của Bùi xuân Phái quen thuộc, lướt qua cũng nhận ra gam mầu trong tranh rất xanh nhạt, xám nhẹ, gợi nét buồn với hình ảnh những căn nhà, trống vắng, trơ chọi .. Họa sĩ nổi danh với hai chữ phố phái, một đặc sủng trong tranh Bùi Xuân Phái cũng nhờ ở chỗ có cái đồng nhất thể, cái thể tính của tranh vẽ phố cổ của ông. Trông là biết, là nhìn nhận ra tác giả.

Phạm Duy trái lại đưa người nghe nhạc ông từ thái cực này đến thái cực khác, hay dở lẫn lộn, pha chế, dửng mỡ, thô tục, thanh cao, ngậm ngùi, thiết tha, xót xa, rẻ tiền, vay mượn lung tung, chắp vá tùy tiện.

Có vẻ trong sáng tác, lúc nào ông cũng tham lam, muốn thay đổi, muốn cái lạ, cái mới theo cái kiểu tiện đâu hay đấy, theo cái kiểu có tiền thì làm. Đôi khi không khỏi làm người nghe khó chịu và bực dọc.

Sáng tác nhiều nhất so với các nhạc sĩ khác. Phạm Duy 1000 bài. Trịnh Công Sơn 600. Nhưng cái dở của Phạm Duy cũng không ít.

** Giai đoạn kháng chiến ca

Dành cho giai đoạn này, ông có trên dưới 50 bài. Nhưng chỉ độ 10 bài nay còn được nhắc nhở tới. Bài phổ nhạc đầu tiên Cô Hái mơ, phổ thơ Nguyễn Bính, 1942. Cũng là hay, nhưng khó có thể so bì với Con thuyền không bến của Đặng Thế Phong và Buồn tàn thu của Văn Cao. Mà Đặng Thế Phong sáng tác nhiều nhặn gì cho cam. Nhạc của Đặng Thế Phong dù ít, nhưng bài nào cũng hay. Ít mà tuyệt vời. Những bản nhạc hùng của Phạm Duy trong thời kỳ kháng chiến thì may mắn còn được quân đội VNCH xử dụng như các bản quân hành như Xuất Quân, Nào bao hùng binh tiến lên..Chiến sĩ vô danh, Đường về quê, Khởi hành…

Trong số đó, vài ba bài dân ca kháng chiến thật hay và ngậm ngùi như Nhớ người Thương binh, Ru con, và Nương chiều. Đó là những bài ca với những văn ảnh quen thuộc như mẹ già, con thơ, vợ hiền rất gần gũi với người VN và được nhiêu người ưa thích.

Ít ra, trong giai đọan này, người ta còn nhận ra được tính thuần nhất trong chiều hướng sáng tác của người nghệ sĩ. Mặc dầy vậy, nhiều bài nay không một ai biết đến nữa vì tính tham lam, viết dễ của tác giả như các bài Quân Y ca, Thiếu sinh quân, Ngọn trào quay súng, Một viên đạn là một quân thù. Đòan quân Văn hóa.

Tham lam. Đó là cái dở nhất của Phạm Duy. Đó là cái giá phải trả dành cho những bản nhạc bị bỏ quên mà cũng dành cho chính tác giả. Có đến 3 phần tư những bản nhạc của Phạm Duy sau này đã không ai biết đến nữa.

** Giai đoạn 20 năm miền Nam.

Đây là một thời gian dài đánh dấu sự thành công của Phạm Duy. Thành công của ông bắt đầu với ban Hợp ca Thăng Long trên đài Pháp Á, từ 1951. Tới 1955, thời ông Diệm đổi là Đài phát thanh Quốc Gia. Với những tên tuổI như Hoài Trung (Phạm Đình Viêm) Hoài Bắc (Phạm Đình Chương), Phạm Duy, Thái Hằng và Thái Thanh (Băng Thanh). Với những bài ca khá tuyệt vời như Tình Hoài Hương, Tôi yêu tiếng nước tôi (1953).

Ban Hợp ca Thăng Long

Đây là giai đoạn phong phú và thành công rực rỡ nhất của cuộc đời làm nghệ sĩ của Phạm Duy.

Thoạt tiên với Ban Hợp ca Thăng Long đã nổi như cồn. Có thể so sánh nó giống như Sáng Tạo trong văn học với Mai Thảo. Nhạc với Phạm Duy, với ban Hợp ca Thăng Long. Văn với Mai Thảo với tạp chí Sáng Tạo. Cả hai là những đặc sản miền Bắc mang vào như trái cây đầu mùa ở miền Nam lúc ấy.

Những bản tình ca tuyệt vời cũng hầu hết được sáng tác trong giai đoạn này đã đư tên tuổi PD lên cao, cao thật cao.

Trường ca Con đường cái quan, Mẹ Việt Nam và dân ca ba miền.

Cạnh đó là Hai bản Trường ca: Con đường cái quan và Mẹ Việt Nam. Hai trường ca này làm nên vóc dáng Phạm Duy. Bản trường ca nói đến người lữ khách lên đường, đi từ Bắc vô Nam.

Về nội dung, nó nói lên được tình tự dân tộc, tấm lòng yêu quê hương đất nước mỗi lần tác giả dừng chân tại mỗi miền. Những câu hò, câu ví của dân ca ba miền được nhắc nhở đến với những địa danh như Thăng Long, Tháp rùa, ải Chi Lăng, Phố Kỳ lừa. Tạ Tỵ đã nhận xét: “Suốt chuyến đi, xuyên nửa quê hương, Duy đã xúc động và nhận diện được chân dung quê hương qua tri giác tinh tế của một nghệ sĩ đã gần 40 tuổi đời” (…) Nếu Con đường cái quan là một hành ca ghi lại bước tiến của dân tộc ta trên một sinh lộ nhất quyết không chịu chia cắt, thì mẹ Việt Nam vẫn là một Âu ca, ca tụng Mẹ tổ quốc và những mẹ điển hình trong truyền kỳ lịch sử nước nhà, đề tài và cảm hứng dựa vào tình thương yêu và tính hiếu hòa, tính tình này đã sinh tồn mạnh mẽ trên đất nước và phải được truyền đi trong thế giới tàn nhẫn của hiện nay (16)
(16)Tạ Tỵ, Phạm Duy còn đó nỗi buồn, trang 200

Nhiều người đồng thời với Phạm Duy bày tỏ một sự trân trọng coi PD là Kẻ du ca Phạm Duy với dân ca ..

Nhưng về hình thức, theo dõi toàn bộ bài hát thì thấy mệt, chán, dài lê thê, cóp nhặt âm hưởng của từng vùng. Nó là một thứ lắp ráp chưa khéo. Tách ra từng đoạn, từng phần thì có phần hay. Những phần đoạn hay thường được giới thanh niên hát trong các sinh hoạt giới trẻ và nhất là trong những đoàn du ca của giới sinh viên học sinh. Chẳng hạn dân ca Như Lý Ngựa ô, Trèo lên quan Dốc, se chỉ luồn kim, Lý con sáo, hát bội trăng rằm, qua cầu gió bay dễ gây rung cảm vì nó rất Việt Nam, gần gũi, quen thuộc, thân thương, gợi nhớ vv được PD lấy cả ý đến lời đến điệu nhạc, điệu hò như thể là của mình.

Nhiều người đã bày tỏ sự không thích của mình. Ông đã xử dụng các câu hò, câu ví như thể là chính ông sáng tác. Không lạ gì, nhiều người đã đồng hóa Phạm Duy vào dân ca đó như thể là của chính ông sáng tác.

Riêng nhạc sĩ Lê Thương đưa ra nhận xét: Những bài như Con đường cái quan hơi dài quá, điệp ý nhiều, có nhiều đoạn lại tham lời, tham ý quá, chẳng khác người mới làm văn không chịu lựa chọn những ý đặc biệt, những tư tưởng độc đáo để diễn tả, trái lại ý nào cũng thích, tư tưởng nào cũng ham, nhất nhất thu cả vào bài văn của mình, làm cho độc giả coi mà mệt, do đó sinh ra ngán ngẩm”(17)

(17)Llê Thương trả lời phỏng vấn của Vũ Bằng, Văn Học, số 102, trang 76 . Trích lại Nuyễn Trọng Văn, Ibid trang, 65

Và một tiếng nói nữa của Trần Văn Khê nhận xét về hai bài hát về miền Nam Cửu Long Giang và Nhờ gió đưa về như sau: “Tôi nghĩ có lẽ Phạm Duy cho rằng miền Nam chịu ảnh hưởng Âu Châu rất nặng nề là khi đến miền Nam người lữ khách đi thời xưa đàn ngày nay, đàn mà nhạc Việt ảnh hưởng Âu Châu rất nhiều, nên hai bài hành khúc, không còn dân tộc tính của nhạc Việt nữa… Riêng đối với tôi, những câu nhạc nửa Âu, nửa Á, nửa Mỹ, nửa Việt Nam làm tôi tiếc người nhạc sĩ sáng tác hai phần đầu, người nhạc sĩ đã đem dân ca lên một mức khá cao để rồi phụ bạc dân ca trong phần chót nhạc phẩm.“ (18)

(18) Trần Văn Khê, Nhận xét Trường Ca Con đường cái quan của Phạm Duy, Văn Học, 102, trang 69. Trích lại trong Nguyễn Trọng Văn, Ibid, trang 67

Dân ca có nghĩa là gia tài chung của mọi người, không ai là tác giả, hay chỉ là vô danh. Vậy mà Phạm Duy đã mượn ý, mượn lời, rồi coi như của mình. Nhiều người như các quý ông Nguyễn Hữu Ba, Trần Văn Khê đã có nhận xét rõ ràng về vấn đề này và yêu cầu ông sửa lại.

Riêng Nguyễn Trọng Văn, thẳng thừng và khó tính hơn coi như một thứ ăn cắp không hơn, không kém. Nguyễn Trọng Văn đà nhận xét khá nặng nề như sau:” Ngoài thái độ lấy gia tài chung của dân tộc làm gia tài riêng của mình, lấy vinh dự của dân tộc làm bậc thang cho riêng mình, việc sử dụng trường ca cũng bị chỉ trích(19)
(19) Nguyen Trong Van, ibid, 72

Khó có thể chấp nhận được tính nhập nhằng của ông. Ông đã nhập nhằng không để tên các bài phổ nhạc của các thi sĩ. Bậy lắm. Không thể làm thế được. Đề thêm tên tác giả, bản nhạc có thể vì thế mà mất gá trị đâu!!!

Nay lại nhập nhằng trong dân ca!!

Trong việc sáng tác của ông đa dạng về thể loại còn đa dạng về đề tài. Phong phú, nhưng trùng lập. Mâu thuẫn và không hợp lý. Các đề tài trong nhạc của Phạm Duy được ông thay đổi như chong chóng, nhảy từ lãnh vực này sang lãnh vực khác. Mỗi lần thay đổi thì ông lại giải thích thế này, thế nọ. Nhưng nghe không lọt tai tý nào.
Nó có vẻ tùy tiện, tùy cơ hội đưa đến. Nó không phải là những điều ông ấp ủ, xuất phát từ tim óc. Ít lắm, ông cũng phải trung thành với chính mình, trung thành với những điều ông ấp ủ. Vì không thể ấp ủ nhiều thứ cùng một lúc được. Vừa mong chấm dứt chiên tranh, vừa phản chiến, vừa hiếu chiến?

Tâm ca, Đạo ca, tục ca…

Vào năm 1965, ông bắt đầu viết tâm ca. Ở thời điểm đó, viết tâm ca là có thể hiểu được, vì đúng thời điểm. Có vẻ thời thượng nữa. Mức độ gia tăng chiến tranh đến chóng mặt với sự tham dự trực tiếp của người Mỹ vào miền Nam. Tâm trạng chán ghét chiến tranh, mỏi mệt, đã mỗi ngày một rõ mặt. Những người Thanh niên trẻ như Trịnh Công Sơn đã góp mặt và đã để lại những dấu ấn rõ nét qua những văn ảnh về bom đạn, xác người, quê hương rách nát.

Phạm Duy kể trong Hồi ký, tập 3, ông có ba người con trai phải nhập ngũ. Ông viết :
Giới trẻ bị động viên. Ba đứa con trai tôi tuần tự nhập ngũ. Tôi đi thăm chúng tại trại Quang Trung, lòng đầy ái ngạ. Gia đình nào cũng có con phải đi lính. Ai cũng nếm mùi chia ly, hoặc mùi chết chóc, mặc dù chưa bị khó, khăn về kinh tế như sau này”. (19)

(19) Trích Hồi Ký Phạm Duy, tập ba, chươg14

Phạm Duy đóng góp bằng 10 bài Tâm ca, phổ thơ Nhất Hạnh. Trong 10 bài Tâm ca, có hai bài thật tiêu biểu như Tôi ước mơ, Giọt mưa trên lá.

Những bài khác như Kẻ thù ta, Tiếng hát to, Một cành củi khô, Ru người hấp hối, Tôi bảo tôi mãi mà tôi không nghe, Hát với tôi có tính dung tục, ” hò hét” , “tuyên truyền”. Chẳng có gì là Tâm ca cả .

Thơ đó thể hiện được tình tự nhân loại, con người với những khát vọng, những ao ước ra khỏi cuộc chiến tranh này. Tình con người, tình tự nhân loại thấm nhuần tư tưởng triết học, tôn giáo như hòa trộn vào nhau.

Nhưng tôi có cảm tưởng, ông đà không chuyên chở nổi thơ Nhất Hạnh. Âm nhạc Phạm Duy chưa tới. Thơ ở tầm cao mà nhạc không với tới. Người hát là giọng ca Thái Thanh, tuyệt vời trong Nghìn Trùng xa cách lại tỏ ra khiên cưỡng đối với những bài tâm ca này. Giọng hát đanh quá, chát chúa, sắc quá khi lên cao giết chết cái hồn tính trong Giọt mưa trên lá.

Nhạc không tới, giọng ca không thích hợp đã tự hủy tâm ca của ông và dĩ nhiên thơ của Nhất Hạnh nữa. 10 bài tâm ca này, nay mấy bài còn được nghe ai hát nữa?
Cũng có một số phản ứng của vài trí thức khuynh tả thời đó, Lý Chánh Trung, trên Bách Khoa gọi Tâm ca là ảo tưởng, vì tiếng hát to (trong tâm ca số 2. không thể nào to hơn súng nổ bên bờ ruộng già. Nguyễn Văn Trung thì cho Tâm ca là mê hoặc vì không thay thế được tư tưởng chính trị để dẫn tới một tranh đấu chính trị.

Không nói tới vấn đề Phạm Duy thú nhận có bài ông chỉ sáng tác trong 15 phút. Đó là việc của ông. Nhưng chính bản thân người nghệ sĩ chưa trang bị đủ cái Spiritualité để đi vào cái hồn, cái linh thiêng hòa nhập giữa tâm tình tôn giáo và chất nghệ sĩ.
Ông thiếu một cái gì đó- dung tục mà chưa thoát tục-. Ông mong muốn tâm ca là tiếng nói của lương tâm, của con người đối đầu với sự thật và nhận diện lại mọi thứ, mọi giá trị trên đời này. Nếu thế thì ông đã thất bại.

Trên Văn Học số 21, tháng 10. 1987 sau này, Bùi Vĩnh Phúc có biện hộ phân tích mấy đi nữa về 10 Bài Tâm ca cũng không cứu gỡ nổi PD.

Nói một cách thẳng thừng, 10 bài Tâm ca cũng rất có thể bị xếp chung vào thứ loạn phát (ex-croissance)nói chung của thời kỳ ấy! Nào dân ca, nào tâm ca, đạo ca, du ca, vỉa hè ca, tục ca.v.v..

Vì vậy có một khoảng cách chưa quyện vào nhau giữa nhạc và thơ. Nó khác trường hợp TCS. Mặc dầu Phạm Duy tự tin rằng: Tôi đã nói hộ thi sĩ. Và tôi xin ghi lại đây lời giới thiệu của nhà Lá Bối khi cho in tập nhạc:” Tuy nhiên Lá Bối ghi nhận rằng những bài Tâm ca được trình bày trong đây, tuy cũng xuất phát từ trái tim, tuy cũng là ngôn ngữ khóc cười theo mệnh nước, vẫn còn mang một sắc thái đặc biệt: Đó là tính cách tâm linh nội hướng và ý hướng điều hợp”(20)
(20)Trich Hồi ky Phạm Duy, tập ba, Ibid

Khi Thích Nhất Hạnh nói tới khát vọng hòa bình, nói tới ước mơ thì người tu sĩ thi sĩ ấy gửi gắm trong đó một sức mạnh tâm linh, một khát vọng tôn giáo, một nguyện cầu cho việc giải quyết cuộc chiến tranh ấy. Đem cái sức mạnh tâm linh ấy đến như một giải pháp vĩnh viễn cho con người chẳng những xóa bỏ hận thù mà còn có thể xích lại gần nhau, như anh em?

Ảo tưởng hay ước mơ? Đã gọi là ước mơ thì ai có thể cấm ông Nhất Hạnh được? Quyền ước mơ là quyền tối thượng trong những tình huống thật sự bi kịch đối với một nghệ sĩ. Thường sự phê phán là dựa trên thực tế cuộc đời mà ước mơ thì lại thuộc một thế giới đi ra khỏi cuộc đời hay ở trên cuộc đời. Vậy thì sự phê phán có tỏ ra thích hợp không.

Thiếu cái chiều kích tâm linh trong việc phổ nhạc thơ Nhất Hạnh thì PD khó có hy vọng thành công.

Loạn Phát (ex-croissance) trong trường hợp Phạm Duy

Làm xong 10 bài Tâm ca, PD cho người ta có cảm tưởng như thế là xong. Tâm ca đã hoàn tất, không con có gì để nói tới nữa. Bỏ Tâm ca một cách không thương tiếc, ông nhảy sang lãnh vực sáng tác nhạc khác..

Ngay cùng năm đó, 1965, người ta thấy Phạm Duy sản xuất hàng loạt những bản nhạc nghịch chiều, trái cựa như chửi cha nhau. Thoạt đầu với Huyền sử ca một người mang tên Quốc. Một cách gián tiếp tôn vinh những người hùng trong chiến tranh, thần tượng hóa cái chết của phi công Phạm Phú Quốc. Ông tự hào mở đầu cho dòng nhạc hùng. Và tiếp theo đó một lô hàng sản xuất như mì ăn liền mang nhãn hiệu: Cung khúc Võ Đại Tôn, Mùa Xuân máu đỏ, Bài ca tử sĩ cho người quê tôi. Còn tệ hơn nữa, cũng chính năm đó, một lô sản phẩm có tên: Một hai ba, chúng ta là lính cả làng, Thi đua biện luận, Nông thôn quật khởi.

Ông ra Vũng Tàu trong công tác xây dựng nông thôn. Ông lại cho ra đời một loạt bài hát như: Tay súng tay cầy, Hát hay không bằng hay hát, Cùng nhau xây ấp Mới, Khoác áo mầu đen …

Tôi không có ý nói rằng không nên đề cao phi công Phạm Phú Quốc cũng như những bài thuộc xây dựng nông thôn của ông. Nhưng không thể cùng một lúc khát vọng hòa bình, ngồi lại với nhau, sau đó lại cổ vũ chiến tranh. Và cuối cùng kết thúc với chiến ca mùa hè vào năm 1972.

Phạm Duy trong tình huống và cung cách sáng tác như thế đưa đến sự nghi ngờ về tính trung thực của ông. Những sáng tác lẫn lộn ấy thể hiện tính bèo bọt, tính phù phiếm và bán “hàng giả” của ông..

Tháng 3-1966

Chống chiến tranh, phản chiến, khát vọng hòa bình. Đó là những gì có thể tìm thấy trong tâm ca. Vậy mà cũng chính con người ấy, nghệ sĩ ấy, vào tháng 3-1966, ông được bộ Ngọai giao Mỹ mời viếng thăm Hoa Kỳ. Sau đó vào năm 1970, một lần nữa, ông được gửi sang Mỹ để “giải độc” dư luận Mỹ thường chống chiến tranh. Thật là trái khoáy và trớ chêu quá.
Trong chuyến đi này, tại New York, ông đã có dịp gặp một nhóm chủ hòa đồng thời gặp Thượng tọa Thích Nhất Hạnh, ngồi trên sân khấu hội trường cùng với nhà văn thiên tả Arthur Miller ..

Người Mỹ phản chiến trả tiền lưu trú, đi lại cho nhà sư mặc áo vàng ngồi” tĩnh tọa” trên bục sân khấu kêu gọi chấm dứt chiến tranh. Cũng người Mỹ trả tiền du lịch cho một nhạc sĩ ngồi ở dưới trong “chiến dịch giải độc” những kẻ chủ hòa ngồi ở trên ..
Ở trên, ở dưới, khoảng cách thật gần. Có hai kẻ thuộc loại chủ nghĩa thời cơ làm hai vai trò khác nhau và được chi trả theo công việc mà họ được chỉ định để làm.

Chuyến đi Mỹ này thật khó nghĩ quá. Đã vậy, bài hát tủ mà ông thường hát cho Mỳ nó nghe lại là bài Giọt mưa trên lá, vì có lời bằng anh văn. Nhận tiền Mỹ, làm công tác tuyên truyền, giải độc cho Mỹ.

Nhưng hát Giọt mưa trên lá cho Mỹ nghe là một công việc vừa chửi Mỹ- kẻ chi tiền-, vừa chửi chính mình-kẻ nhận tiền-.

1970 một lần nữa, ông lại được mời sang Hoa Kỳ đi với đoàn bộ thông tin Hoa Kỳ nhằm “GIẢI ĐỘC”dư luận Mỹ trong vai trò cố vấn.

Người Mỹ có thể nào thông minh và sáng tạo ra một Phạm Duy thủ nhiều vai trò như thế!!~ Và vai nào Phạm Duy cũng thủ diễn trọn vẹn.
Có đến ba bốn Phạm Duy trong những câu chuyện như thế này.

Vỉa hè ca:

Sang đến năm 1968, ông sáng tác những nhạc phẩm có tên là vỉa hè ca, gợi hứng từ Chanson du pavé của Pháp. Vỉa hè ca gồm có các bài như Sức Mấy mà buồn, Nghèo mà không ham, Ô kê salem, Ô kê nước mắm.

Vỉa hè ca biểu tỏ sự nghèo nàn, sự kiệt quệ, sự bế tắc trong sáng tác của Phạm Duy. Lời văn tếu, dửng mỡ, đùa giỡn, bất cần, nó chửi tất cả gia tài sáng tác của họ Phạm. Vỉa hè ca phải chăng là một mặt khác của cuộc đời sáng tác của Phạm Duy! Sức mấy trở thành chữ dùng thông tục .. Cái gì cũng sức mấy ..cả . Sức mấy như một thái độ bất cần, thách đố và coi thường tất cả ..

Tục ca:

Thấy như chưa đủ dose, ông dấn thêm bước nữa, sản xuất tục ca để văng tục vào cái xã hội ông đang sống. Đã có 10 bài Tâm Ca thì tại sao không có 10 bài tục ca. Đó là cái lối lý luận của Phạm Duy.

Thế là 10 bài tục ca ra đời với những tên rất là tục như: Khỉ đột, Tình hôi, Nhìn Lồn.. em Đ.. Cầm cu… Ông viết, trong bấy nhiều bài, bài Nhìn Lồn, tôi viết cho đủ chữ là “tục tĩu quá”. Đã viết tục đuợc như thế mà còn ngại ngùng chi mà không viết đầy đủ chữ. Trẻ con nhìn lồn phụ nữ ngồi đi cầu, nhìn đủ thứ: lồn non, lồn lớn con, mập mạp, lồn mềm… Lồn tròn hoặc lồn móm mém… rồi cuối cùng có đứa nhìn phải đúng lồn mẹ nó. Tôi gọi là tục tĩu quá cũng không quá đáng.

Lại một lần nữa, ông thú nhận viết tục ca là do ảnh hưởng Phạm Duy Tốn,(20) nhất là nhạc sĩ Georges Brassens. Ông hay bắt chước quá. Và cầm nhầm nữa. Mấy bài tục ca này phần âm nhạc thế nào thì tôi không biết, nhưng phần lời ca thì thoải mái và gratuit quá, chẳng để làm gì. Thật sự không biết để làm gì? Từ nhìn lồn sang đạo ca thì không biết phải nói thế nào.

(20) Phạm Duy Tốn có viết một cuốn truyện gọi là Tiếu Lâm Annam rất là tục. Trong đó có kể một câu truyện, người vợ thòm thèm thì nhét một củ từ vào chỗ kín, người chồng không làm được đành ngủ với chó cái và không rút ra được. Nhưng Phạm Duy Tốn chỉ làm công việc ” sưu tập” Tiếu Lâm Annam . Còn Phạm Duy là “sáng tác”
Đây là một bài tục ca tiêu biểu do Phạm Duy sáng tác:

Tôi có người yêu cái đít, to như Thẩm Thúy Hằng
Cái đít nhìn qua khiến cho ta phải ngỡ ngàng nữa
Vừa to vừa lớn ! Như Những mặt vua
Mặt ông tổng thống cũng phải thua(21)
(21) . Trích Hồi ký Phạm Duy, Ibid, tập 3..

Tại sao ông lại viết tục ca để làm gì?

Theo ông, viết tục là để châm biếm xã hội hoặc công phẫn về chính trị thời 1968-1972. Nhất là để “nổi giận” phải văng tục vào nền văn minh cơ khí, nền văn minh chiến tranh, nền văn minh tiêu thụ.

Nổi giận với chiến tranh, với nền văn minh tiêu thụ thì có liên quan gì đến cái đít to tội nghiệp của Thẩm Thúy Hằng bị biến thành con tin !! Đến việc mang những đứa trẻ nít vô tội đi nhìn L. đàn bà !!
Phải chăng Phạm Duy là một con người muôn mặt !

Đạo ca:
Đến năm 1971, sáng tác của Phạm Duy rẽ sang một khúc quặt mới với sự gặp gỡ Phạm Thiên Thư, tức Thiền sư Tuệ Không. Phải nói rằng không gặp Phạm Thiên Thư thì không bao giờ Phạm Duy có ý tưởng viết đạo ca. Sau khi đã đi qua một hành trình sáng tác từ Tâm ca, Tâm Phẫn ca, Vỉa hè ca, Tục ca, Chiến ca và nay thì bay lên chín từng không của Đạo ca .

Ở đây, đó là một bước nhảy vào điều mà ông gọi là Đạo ca. Điều gì đã khiến ông thay đổi như thế? Khó hiểu mà cũng dễ hiểu. Chỉ là cái duyên gặp gỡ với Phạm Thiên Thư mà sinh ra cớ sự.

Thoạt đầu tiên, Phạm Thiên Thư đưa ông bài thơ: Ngày xưa Hoàng Thị. Thế là có bài: Anh tan trường về. Bài hát thật dề thương. Ai cũng thích và ai cũng hát. Nhất là trong những buổi họp mặt đông người.

Sau đó, Phạm Duy khoác áo Thiền sư.

Khi đạo ca ra đời, ông cũng nhận được một số lời khen của bạn bè như họa sĩ Nguyễn Gia Trí, G.E Gauthier và như thường lệ có họa sĩ Tạ Tỵ. Những khái niệm hóa thân, đại vũ trụ, đồng nhất thể, mười phương thế giới là một, hòa vào đạo, vào vũ trụ v.v… Tự nhiên, bỗng chốc ông được thừa hưởng hết những tinh hoa, cốt lõi cao diệu ấy, đạt tới chỗ siêu thoát mà chẳng tốn đồng xu cắc bạc nào.

Những lời khen trên có chỗ sai là người ta chỉ biết có ông, tưởng ông là người có những tư tưởng cao diệu mà không lý gì đến Phạm Thiên Thư cả.

Nhưng không sao, kẻ đã bỏ đời mà đi, thong dong đạo cốt theo tiếng chuông *Cam Lộ* như Phạm Thiên Thư thì còn xá gì ba tiếng thị phi. Ông Phạm Duy cứ an tâm mà vơ hết về mình đi.

Nhưng Nguyễn Trọng Văn, một lần nữa đứng ở quan điểm con người dấn thân, nhập cuộc chỉ thấy ở đó một thái độ thoát ly, chạy trốn: “Những tư tưởng thoát ly của Đạo ca quả thực là một thái độ chạy trốn… Những tư tưởng thoát ly của Đạo ca quả thực là một cái gì mỉa mai, lạc lõng nếu không phải là một cái gì ru ngủ… Đạo ca không phải một thăng hóa, trái lại là một thái hóa so với tâm ca .. Đạo ca là một nối dài của tình ca, tục ca… khi nhữing thứ này không đủ sức giúp người thành thị thóat ly khỏi hòan cảnh đau khổ trước mắt.“(22)

(22) Trích Nguyễn Trọng Văn , Ibid, trang 123- 124

Tôi không nghĩ như Nguyễn Trọng Văn, Đạo ca vẫn có chỗ của nó trong thời chiến. Chính ở những tình huống bi kịch đối đầu từng giây phút với cái chết, với khổ đau, Đạo ca là con đường tối ưu dần đưa con người ra khỏi trốn lưu đầy.

Và lúc nào, con người dù hạnh phúc hay khổ đau thì khát vọng về một thế giới bên trên vẫn là một khát vọng khôn nguôi.

Khát vọng tôn gíáo là một khát vọng bản thể, khát vọng vĩnh hằng.

Nhưng cái vấn đề Phạm Duy là một thứ phù thủy ngôn ngữ lắt léo, từ Tâm ca, tục ca, L..c, có đủ tư cách đóng vai một thiền sư dẫn dắt chúng sinh vào con đường của Đạo, của Tuyệt đối thể với những phạm trù ngôn ngữ như tiểu ngã, đại ngã, đồng nhất thể, mười phương thế giới là một không!

Sau 1975 tại Hải ngoại

Trước khi chấm dứt hành trình sáng tác của Phạm Duy, chúng ta không quên : Bày chim bỏ xứ mà đến nay tôi chỉ được một lần nghe hát. Hình như số phận của nó cũng giống như số phận một số nhà văn sáng tác sau 1975 ở Hải Ngoại.

Tiếng hát, lời ca của Phạm Duy đã tắt.

Trong thời kỳ này, từ 1978 về sau, ông sáng tác và phổ nhạc tất cả gần 100 bài hát. Nhưng hầu như không mấy ai biết đến những bài này. Trong đó, tôi đặc biệt để ý đến thơ Cao Tần và thơ Nguyễn Chí Thiện, loại thơ được coi là Chống Cộng mạnh mẽ nhất đã được ông phổ nhạc. Cạnh đó là những bản nhạc do ông phóng tác như Học Tập cải tạo, Phụ nữ Sàigòn, Độc Lập Tự Do.( Độc lập là mất Cam Ranh, Tự do là bán dân mình cho Nga, No là cơm độn bo bo, ấm là quần rách để thò Bác ra)…
Chống Cộng quá đi ấy chứ.

Chỉ có thể nói thêm một lần nữa, đó là thứ Phạm Duy muôn mặt.
Chẳng ai còn biết tới những bài này nữa. Nó bỏ xứ mà bơ vơ lạc lõng nơi quê người, như chính thân phận bày chim bỏ xứ. Về già, về lại Việt Nam, một lần nữa, tôi lại được hân hạnh nghe ông trình bày sáng tác mới nhất của ông liên quan đến tác phẩm truyện Kiều tại nhà một đại gia ở Sài Gòn. Tôi nghe mà không thấy thích thú gì.
Bữa đó ra về, tôi tự nhủ lòng là Phạm Duy đã hết rồi.
Cuối cùng thì cũng phải nhìn nhận với nhau rằng, có rất nhiều bất cập trong cuộc đời sáng tác của ông. Nhiều bản nhạc của ông cũng như cuộc đời của chính ông, số phận của nó sẽ không còn được ai biết tới.
Nhưng ông cũng đã để lại một số bài tình ca được coi là bất hủ, cũng như một số bài được gọi là dân ca thời kháng chiến khó có thể quên, cộng thêm những bản nhạc hùng, vui tươi dành cho giới trẻ hay du ca: Mẹ Việt Nam, Việt Nam, Việt Nam, Tôi yêu tiếng nước tôi, Em tan trường về. Kể chi hết được.

Một nhận xét nhỏ đây là lần thư hai, tôi đọc hồi ký của ông. Ông không có một lời phỉ báng bất cứ ai, nhất là giới nhạc sĩ. Dĩ nhiên không kể những lời giải thích rất tùy tiện, khá huyênh hoang, rất chủ quan về lý do tại sao sáng tác cái này cái kia.
Cũng trong bài này, tôi không nói tới những mối tình lớn nhỏ của ông. Một phần vì là đời tư của ông, một phần còn có cái gì để nói nữa, vì tự ông đã kể hết ra rồi trong hồi ký. Ai nói thêm nữa là thừa.

Thứ hai, chuyện ông chọn về VN ở tuổi trên 80 là một chọn lựa cá nhân chẳng nên nói tới làm gì. Tìm về VN ở tuổi đời như thế nên được rộng lượng hiểu là chuẩn bị cho một cuộc hành trình về bên kia thế giới như một giấc mơ hoài hương và chẳng nên dem những dấu ấn chính trị để phê phán ông làm gì. Và nếu hiểu con người Phạm Duy thì thấy rõ rằng, ông là người theo chủ nghĩa thực dụng, bất chấp những tiêu chuẩn giá trị người đời thường mang ra dùng để phê phán ông.

Cũng ở đây, tôi nhận ra rằng Nguyễn Trọng Văn cũng như bất cứ ai phê phán ông thì đã vấp phải sai lầm là đã đánh giá quá cao về ông, về vai trò người nghệ sĩ, đòi hỏi ở ông những điều ông không có được. Trước sau, ông chỉ là một người theo chủ nghĩa duy lợi, duy thực tiễn, chủ nghĩa cơ hội trong bất cứ tình huống nào.

Sau bài nói chuyện của Nguyễn Trọng Văn tại Đại Học Văn Khoa thì bạn bè có đưa ra nhận xét như sau:” Cậu làm như vậy là cho ông ấy đội mồ đứng dậy, chính cậu tác tượng cho ông ta, chứ đâu phải khai tử ông ấy. Hoặc: “Tư cách của Phạm Duy mà cậu lôi ông vào giảng đường Văn Khoa để nói tức là cậu biến ông ấy thành bất tử rồi, vinh hạnh cho Phạm Duy quá còn gì. Đáng lý phải nói bên cạnh đống rác hay cầu tiêu mới phải.”(23)
(23Trích Nguyễn Trọng Văn , Ibid , trang 128

Những phát biểu bên lề như thế và một số nhận xét coi ông như một gái điếm đều là những nhận xét xúc phạm đến ông một cách bất công. Thật không nên.

Bài viết này có khen, có chê và cũng nhằm trả lại công đạo cho ông một phần.
Và vì thế câu hỏi ở đầu bài viết sẽ được trả lời là Phạm Duy còn đó và không thể chết, dù muốn dù không, dù thế nào đi nữa, ông cùng với Trịnh Công Sơn là những nhạc sĩ tài ba nhất của miền Nam Việt Nam Công Hòa trước 1975.

Giết ông thì Ta ở với ai. Phần ông, trong những trang cuối cùng của tập Hồi ký, ông đã viết như sau:

“Ngó lại những ngày đi theo Việt Minh thì chua sót, nhìn vào người quốc gia thì thiếu hứng khởi.(…) Ngồi trước dàn máy điện toán để viết nốt những dòng chữ cuối cùng của đời mình. Suốt trong 16 năm sống ở ngoại quốc, lúc nào tôi cũng bị cái dĩ vãng 20 năm sống ở miền Nam đè nặng trái tim. Hãy cho tôi được xụp lạy thành phố thân yêu ở đây với vài câu trong bài: Thương nhớ Sài Gòn soạn năm 1981 tại Mỹ:

Saigon ơi, yêu tôi xin chờ tôi nhớ
Tôi sẽ trở về để hôn những vỉa hè
Của Thành Đô, cao sang và say đắm
Chia sớt tủi hờn và xây đắp tinh nồng
Sài Gòn ơi dù có thay tên
Mà người yêu còn nhớ không quên …

Chỉ sợ ông không hôn vỉa hè Sài Gòn mà hôn gót kẻ mà ông đã trốn chạy và chửi bới trrong nhiều năm!!

© Nguyễn Văn Lục

© Đàn Chim Việt

 

 

40 Phản hồi cho “Tài năng và nhân cách: Phải chăng Phạm Duy đã giết Phạm Duy?”

  1. T. says:

    Qua những việc mà ông Phạm Duy đã làm thì theo thiển ý của T. là ” thằng nhỏ” của ông ta đã giết ông ta.

  2. Trần Bới Móc says:

    Chửi mãi, mai này hết người để chửi chắc là phải lôi cha,mẹ mình ra chửi luôn !!! Những người đáng kính của miền Nam như TT Thích Nhất Hạnh, ca nhạc sỹ giỏi như Khánh Ly,Phạm Duy,Tr.C.Sơn; Lãnh đạo quốc gia: Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, Dương V.Minh.!! Thế thì miền Nam còn ai nữa !? Hãy đóng cửa bảo nhau đi các “Chú” Những kẻ phải gánh nước trực tiếp chống Việt Cộng trẻ nhất, nay cũng đã ngoài 60 rồi ! Đừng bêu xấu cha anh mình để bọn Vẹm chúng cười..

  3. Ngàn Khơi says:

    NHẬN DIỆN VỀ MỘT CON NGƯỜI NGHỆ SĨ

    Nhạc sĩ danh tiếng Phạm Duy là con của nhà văn được nhiều người biết đến Phạm Duy Tốn, điều đó cho thấy đây cũng là trường hợp gà nòi. Phạm Duy từ 13 tuổi đã lang bạc đây đó ngoài đời, điều đó đã cho thấy tính chất nghệ sĩ có hơi bạt mạng của ông, và cũng cho thấy ông không phải là người ưa khuôn khổ, ưa học hành theo cách bình thường. Song với sở học có thể nói chưa có gì gọi là đạt, các dòng nhạc và ca từ Phạm Duy viết ra đều mang tính chất là người hiểu biết, trí thức, điều ấy cho thấy người nhạc sĩ là người có tri thức và có tài năng văn hóa thật sự. Tài là cái gì không phải hoàn toàn rèn luyện mà có được, cái bản chất bẩm sinh đó ở Phạm Duy chính là một điều quý như thế. Có thể nói tính cách của Phạm Duy là người nhạc sĩ, người nghệ sĩ của nhân dân, của quần chúng. Các nhạc phẩm của ông luôn có tính dân ca, tính trữ tình dân dã hoàn toàn phản ảnh điều ấy. Ông là người có tài thật sự, một bài nhạc có thể làm trong năm mười phút chỉ là chuyện bình thường, cũng chẳng khác gì những nhà thơ, những họa sĩ có tài cũng như thế. Tức đặt bút là thành nhạc, đặc bút là thành thơ, đặt bút là thành tác phẩm hội họa mà chẳng phải mất công hoặc bận tâm gì nhiều. Sự nghiệp cả ngàn bài nhạc với lời ca của Phạm Duy chứng minh điều đó. Nhạc của ông rất phổ biến vì nó đi vào lòng người một cách hoàn toàn tự nhiên, thoải mái. Có nghĩa Phạm Duy sống với nhạc, với tâm hồn, tình cảm, ý thức, hiểu biết, khát vọng, tính nghệ sĩ của mình trong sáng tác âm nhạc mà không phải coi sáng tác âm nhạc như một công việc nghệ thuật thuần tùy bề ngoài hoặc làm dáng, khoa trương thân thế. chính kiểu sống thực với cuộc đời, với nghệ thuật như vậy mà Phạm Duy trở thành người rất nổi tiếng và người cũng rất mang tiếng. Ông nổi tiếng vì đã từ đầu đi theo kháng chiến chống Pháp. Song ông cũng lại nổi tiếng khi quay về thành kiểu “di tề” như khi ấy người ta thường bảo. Có nghĩa khi đi kháng chiến, Phạm Duy đã sống thực với tâm hồn mình, và khi di tề, ông cũng đã sống thực với tâm hồn mình. Có nghĩa chính kháng chiến đã có những góc cạnh nào đó khiến cho người nghệ sĩ khiến chán, nên ông có di tề thật sự theo ông có thể không phải là sự phản bội, sự đầu hàng, mà là một điều ông đã nghĩ là chính đáng. Đó có thể là tâm trạng của hàng hà sa số bao nhân vật nhiệt tình, tài năng khi đó mà không cứ chỉ riêng Phạm Duy. Cho nên nếu những ca khúc hay tác phẩm âm nhạc của ông thời kháng chiến trong khu, thời về thành, thời miền Nam cũ, thời vượt biên ra hải ngoại, kể cả thời sau này khi quay về đất nước đối với ông cũng đều chính đáng theo từng tình huống, theo từng hoàn cảnh, theo từng thời khắc cả. Có nghĩa ông thấy cái gì cần nói, cần thể hiện lên là cứ cho phát ra thành âm nhạc, bất kể đó là cái gì, từ nhạc nhập thế, nhạc xuất thế, nhạc chiến đấu, nhạc mơ mang, nhạc vàng hay nhạc đen, nhạc tím, tục ca v.v… cũng đều chỉ vậy. Ông đã sống thật với lòng mình mà không giả tạo, hình thức. Thậm chí nếu cần ông cũng sử dụng cả khả năng hay tài năng như một công cụ, một phương tiện tài chánh kiếm sống bình thường tạm thời như những người làm nghề khác, khiến cho nhiều người khó chịu vì đã lỡ có tâm lý hơi lý tưởng hóa, thần tượng hóa về ông. Nói cách khác Phạm Duy là người sống vì mình, cho mình trước trong khi sống vì đời, nên những yêu cầu của những người chỉ sống vì đời một cách giả tạo không nhất thiết phù hợp hoặc có giá trị với ông. Bởi vậy sự phê phán kiểu Nguyễn Trọng Văn đối với Phạm Duy cũng chẳng khác sự phê phán kiểu Vũ Hạnh đối với các nhà văn, các văn nghệ sĩ nói chung. Đó là kiểu phê phán theo phe ta, theo đơn đặt hàng, theo lệnh lạc mà không chắc đã là sự phê phán trực tâm hoàn toàn tự phát hoặc tự do tự giác của riêng bản thân, ý thức, tinh thần, hoặc ý nghĩa sống của chính mình. Có nghĩa mọi sự phê phán giả tạo đều không có ý nghĩa thật, không có giá trị thật đối với Phạm Duy. Nói chung Phạm Duy là một nhạc sĩ tài năng hiếm thấy tại VN từ trước đến nay về năng lực sáng tác kiểu như chơi của ông. Tức Phạm Duy sống với nghệ thuật, nghệ sĩ tính là chính mà không phải sống theo đời và vì đời một cách hình thức hay giả tạo. Trên cơ sở đó người ta hoàn toàn có đủ mọi lý do chủ quan để nhận định, đánh giá, phê phán Phạm Duy qua các thời kỳ, hoàn cảnh sáng tác. Song điều đó thật sự đối với Phạm Duy không có nghĩa gì cả. Ồng chỉ sống cho bản thân mình và tự chịu trách nhiệm về cách sống đó mà không vì các lý do nào khác. Cho nên nhạc Phạm Duy không hẳn là đỏ, vàng, xanh, tím, đen, trắng gì hết, vì ông chủ yếu không nhằm mục tiêu thể hiện những điều đó, mà chỉ là biểu hiện nó ra tùy theo cảm xúc thật ở mỗi hoàn cảnh khác nhau. Khi theo kháng chiến ông sống nhiệt tình với tâm hồn kháng chiến. Khi quay về thành, ông có lý do để sống khách quan theo nhận thức hoặc quan điểm của mình. Khi ở miền Nam, khi di tản ra nước ngoài, rồi khi quay về cố thổ, đó là do hoàn cảnh dẫn dắt Phạm Duy, khiến Phạm Duy phải sống thực như vậy, mà không hề cần gì phải giả tạo hay làm dáng. Điều này hoàn toàn khác với Trinh Công Sơn. Bời Trịnh Công Sơn phải sống khung hay khum với với cảnh, còn Phạm Duy không phải như thế. So với họ Trịnh, họ Phạm quả hiên ngang hơn nhiều. Không sợ người đời, không sợ cuộc đời, đó là nét nổi bật, xuất sắc nhất và cũng dễ cảm thông với Phạm Duy. Ông không phải người tùy thời, xu thời như nhiều người khác, mà ông độc lập và chủ động với đời tùy theo hoàn cảnh và thời đại mà ông phải sống. Thế nên cái quý của nhạc sĩ họ Phạm là tâm hồn thật, tài năng thật, sống thật, một cách can đảm, lập dị, thậm chí có khi sống sượng mà hoàn toàn không để hoàn cảnh chà đạp hay xu theo hoàn cảnh. Con người chỉ cần sống đúng với ý thức của mình mà bất chấp thế gian, đớ cũng là điều đáng nói. Dù sao chăng nữa phải thấy Phạm Duy là một nhạc sĩ lớn có nhiều tình tự dân tộc thật sự. Nhạc của ông do vậy sống thực mà hoàn toàn không giả tạo, bất kỳ theo chiều hướng nào. Ông sống vượt lện hoàn cảnh, độc lập với hoàn cảnh bằng cách thích nghi với hoàn cảnh đó chính là cá tính và nhân cách của ông. Nhạc của ông là tâm hồn ông, nó vượt lên mọi tình huống của thời đại, nó quay đi rồi lại quay về cũng không ngoài tâm tình hoặc ý thức dân tộc mà không phải chỉ vì màu cờ sắc áo hay tâm tình giả tạo nào ở ngoài ông giống như một số người khác hoặc giống như có nhiều người khắc khe lên án. Con tim Phạm Duy là con tim âm nhạc một cách tự nhiên, tài năng của ông không thể phủ nhận, bởi vì tài năng đó hoàn toàn hoàn toàn dễ dàng, thoải mái mà không có gì là gồng mình hay làm dáng cả. Có thể nói ông là một nhạc sĩ bình dân, một nhạc sĩ dân ca, một nhạc sĩ dân tộc, cho dù hoàn cảnh bên ngoài và bề ngoài như thế nào cũng không thể hoàn toàn nhận chìm ông được. Sống thật với lòng mình và sống thật với nghệ thuật cũng như sống thật với tâm tình yêu nước, yêu ngươi, yêu đời mà tự ông vốn có một cách riêng biệt, không do ai mớm cho, đó chính là ý nghĩa và cũng là sắc thái riêng đặc biệt của nhà nghệ sĩ âm nhạc đại chúng suốt đời đầy tài năng và cá tính như nhà nhạc sĩ tên tuổi và đáng mến Phạm Duy.

    ĐẠI NGÀN
    (25/4/12)

  4. says:

    Tôi không bình thơ nhạc Phạm Duy ( PD ) mà tôi chỉ đề cập đến PD là con người sống 3 mặt ,trong khi đồng tiền hoặc đồng xu chỉ có 2 mặt ,trừ trường hợp thời nay mới có CN 3D …Thật ra lần đầu tiên tôi thấy PD bỏ miền Bấc vượt tuyến vào Nam đễ tìm tự do ,ở đây nghĩa của tự do là tự do dân chủ , sau năm 1975 ông PD ra nước ngoài ,sống xem là ông PD đi tìm tự do theo lý tưởng của ông PD lần thứ 2 ,
    Nhưng đến khi ông về lại Sài Gòn những năm gần đây, tôi không biết ông PD vơi tâm trạng của một NS thì ông này còn thua xa NS Tô Hải – NT Hữu Loan – … nhiều vì tiếng nói của 2 ông Hải và Loan là 2 người ở lại Quốc nội vẫn có những tiếng nói chính kiến ,theo bản năng của người có học ,so sánh 2 ông này nhìn lại ông PD thì tôi chỉ biết nói là ông này có chữ… nhưng chỉ biết núp bóng dưới cái hình ” mác ” của mình đễ tìm cuộc sống sung túc chứ không có sự dấn thân ,mặc dù ông PD đã là lớp người nếm trãi cđ xhcn ,tức là ông PD không tìm ra lối thoát của cái bóng chiếu từ cái hình thật của ông , mà ông PD chỉ biết tìm cái lối sống hưởng thụ trước sự đau khổ của nhiều người vì ông là người trong cuộc ,thời ( CCRĐ & NVGP ).ở MB ..và chắc rằng ông đã nhìn ra điều đó ! .Còn điều này thực hư ra sao tôi chưa rõ …Tôi có nghe một ông bạn kể lại rằng : khi PD vượt tuyến vào Nam đến Sài Gòn ông PD nói là : Không bao giờ ông đội trời chung với cs ,mọi người ai rõ chuyện này hãy giãi bày ,chỉ giáo ! Thật ra ông việc làm của PD không có gì đáng bàn …Nhưng nhân tiện có bài viết này tôi cũng xin viết mấy dòng đễ nói theo ý nghĩ của riêng tôi …Tôi ớn nhất là những con người bí ẩn sống nhiều mặt ” ba phải ” hoặc những kẽ xu thời !

  5. Việt Nam says:

    Phạm Duy cũng như một cô gái đẹp ơi là đạp nhưng mà lại đi làm Đĩ , PD suột đời làm Đĩ , Thằng nào có tiền là phục vụ thế` thôi.

    • ban doc says:

      đề nghị BBT cấm dùng nick Việt Nam vì khi tôi muốn đ.m. hắn không thể viết được. Tôi chỉ thí dụ vậy thôi.

  6. Nguyễn Trung Chính says:

    Bài viết thật công phu, phân tích thật rành rẽ, nhưng tình hình nước sôi, lửa bỏng bây giờ mà mang chuyện nhàn đàm những chú điếm ngày xưa …?
    Tôi khinh miệt những người như Phạm Duy , Trịnh CS…, dù họ thiên tài, thiên bẩm hay thiên thối…
    Đồng ý với NTV:
    “Thân phận Phạm Duy giống thân phận một gái điếm, một thứ điếm lành nghề, khéo chiều, đẹp, có tài thỏa mãn bất cứ ai; ăn nằm với ai cũng rung động nhiệt thành, nhưng vì là điếm nên thuộc về mọi người, người tốt, người xấu, người Việt, người nước ngoài, không thuộc hẳn về ai “

    • Mẹ Đốp - San Jose says:

      ” Điếm” PD mà như tướng Kỳ yêu nước , mà luôn biết gắn bó với quê hương nguồn cội , còn hơn lũ côn đồ cực đoan vác mãi cờ rách ố vàng , bị chủ Mỹ coi khinh , chửi rủa như chó : “…Chết quách đi cho rồi …” , thì nhục lắm ha ???

  7. Nam Quan Nguyen says:

    Có ngươì đã ví Pham Duy có caí đâù là con rôńg, caí thân là con heo va` có caí đuôi là con chó. Một tên già mât́ nêt́. Thật buồn cho một nhân taì !!

  8. CôngĐài says:

    NVL sau ‘ Diễn-đàn dậy sóng ‘ từ bài chủ nói về Nhất Linh NTT, chuyển sang bài viết này – kinh nghiệm nhiều hơn – nhẹ-nhàng và ‘ vô thưởng vô phạt ‘ hơn. Bài chủ quá dài, có đoạn tôi đọc kỹ, có đoạn tôi đọc lướt qua – xin lỗi tác-giả – tuy nhiên nói chung có nhiều nhận-xét khách-quan, hợp-lý và có chứng-minh về cá-nhân PD, những đóng-góp của ‘sáng-tác-gia ‘ này(tôi dùng từ-ngữ ‘ composer ‘ theo John C. Schafer – từ này thích-hợp hơn). Tôi sẽ không có ý-kiến gì hơn về bài chủ, duy chỉ muốn nói đôi chút về PD. (1) – Tác-giả bài chủ thắc-mắc vì sao PD cứ dùng số 10 cho các bài tâm-ca, tục-ca, đạo-ca, v.v…theo 10 Điều Tâm-Niệm của Hoàng-Đạo chăng ? Tôi nghĩ, con số 10 là con số lớn nhất trong Phật-học, ví-dụ 10 phương Phật, và trong tư-tưởng truyền-thống VN như
    ‘ nhân vô thập-toàn ‘ – Khác với văn-hóa Nam Trung-hoa lấy số 9 như Đấng Cửu-ngũ ( trong những con số ưa-chuộng của họ là 1,3,5,7,9), đối-nghịch với những con số chẳng 2,4,6,8 nói lên đặc-tính của người phương Bắc du-mục Trung-hoa ( xem chi-tiết trong Việt-Nho của Kim-Định), riêng truyền-thống Cơ-đốc-giáo lấy con số 7 tượng-trưng cho sự trọn-vẹn ( chắc-chắn có sai-sót – xin cao-kiến)(2) – Bài chủ có nhắc đến cảm-hứng của PD trước hai câu thơ ‘ Thuyền ai đậu bến Cô-tô, Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn-san ‘ (bản dịch tiếng Việt). Tác-giả bài thơ bất-hũ chữ Hán ‘ Phong-kiều dạ bạc ‘ này là Trương Kế, đời Đường, Trung-hoa, theo tôi nghĩ, trước một quang-cảnh thanh-tịnh, êm-đẹp nên thơ của trăng tà, tiếng quạ kêu trong đêm thanh-vắng, ánh lửa chài thấp-thoáng, hàng cây ven sông, ngôi chùa xa xa, con thuyền và tiếng chuông với nỗi ‘ sầu miên ‘ thì có ăn nhập gì với sát-khí chiến-tranh tỏa khắp sông Lô tại VN để có đến 4 bài ca sông Lô, để có tâm-sự không đâu vào đâu của PD – hay là vốn thất-học từ nhỏ, vì không có chí ( xem ‘ Phạm Duy còn đó nỗi buồn ‘ của Tạ Tỵ), dù bố là nhà Nho nổi tiếng, dù ông anh lớn nhất có bằng-cấp cao – hình như là tác-giả một cuốn sách tiếng Pháp được giải-thưởng Pháp là ‘ Légendes des terres serènes ‘ – dù một người anh khác đang là một giáo-sư (kiêm nhạc-sĩ) khi PD còn thanh-niên, nên nghe lóm những câu thơ trên mà hiểu sai – còn cố-tình hiểu sai để làm ý cảm hứng cho bài nhạc của mình, thì hết thuốc chữa, nghĩa là trật đường rầy.
    (3) – Bài chủ viết ‘ PD hầu như không nêu tên các thi-sĩ, tác-giả các lời ca của bản nhạc ‘. Khi đề-cập đến vấn-đề này, hình như PD kể công là ‘ nhờ nhạc của ông mà những thi-sĩ đó chắp cánh bay cao ‘. Xin lỗi, những tên-tuổi chỉ cần một vài bài thơ thôi như Hữu-Loan, Nguyễn Bính, Cung Trầm Tưởng, Xuân Diệu, Thế Lữ, Hàn MạcTử, Hồ Hán Sơn, Nguyễn Tất Nhiên, Phạm Thiên Thư v.v.. thì thơ và người cũng đã nỗi tiếng rồi, đâu cần nhờ nhạc của PD. Đó cũng là một hình-thức ăn-cắp ‘ của-cải ‘ người khác để làm giàu thêm cho mình. Tác-giả có nói về sự ‘ bội-bạc ‘ của PD liên-quan đến người tình cũ của PD và người con gái của người tình này ; tên hai người này là Hélène và Alice nên mới có vài câu thơ ‘ Hèlène gọi Alice – Alice, đây Hélène – PD là tên hèn ‘ (Trích – tôi quên xuất-xứ).
    (4) – Bài viết chủ có một phần gọi là ‘ PD của nhiều khuôn mặt ‘. Tôi hay suy-tưởng quanh co, và nghĩ rằng nhiều khuôn mặt có thể vắn-tắt là ‘ đa-diện-nhân ‘. Mà ‘ tri (nhất) diện bất tri tâm, thì muốn tri đa-diện-nhân ‘ e khó lắm. (5) – Sau cùng, nhận-xét về PD, tôi không thể đoán-xét chung chung được. Về đóng-góp cho văn-hóa VN, ông cũng như TCS đều cho những cống-hiến về mặt sáng-tác nhạc vô-cùng to lớn – là điều tôi nghĩ rằng không ai có thể phủ-nhận. Tôi không muốn đánh giá ai về mặt đạo-đức, về xấu, tốt – tôi nghĩ điều này ngoài quyền-hạn của tôi – Tôi chỉ góp ý về phân-tách tâm-lý qua những tài-liệu, những tin cập-nhật mà tôi biết về PD, thì tôi e rằng ông ta sống khá thiên về bản-năng của ông nói riêng và của con người nói chung. Và nữa, khi liên-hệ với công-cuộc đấu-tranh hiện nay nhằm giải-thể chính-quyền đảng-trị CSVN, thì thái-độ hiện nay của PD sẽ ảnh-hưởng không ít trên nỗ-lực nói trên.

  9. kbc 3505 says:

    Có thể nói Phạm Duy cả cuộc đời là một con người “khôn”, biết sống theo thời. Gió chiều nào theo chiều đó.

    Thật là đáng tiếc!

    kbc3505

    • Lão Ngoan Đồng says:

      KHÔN CŨNG CHẾT
      (bởi có kẻ còn khôn hơn mình)

      DẠI CŨNG CHẾT
      (đó là điều dĩ nhiên theo luật thiên nhiên)

      BIẾT SỐNG MỚI TỒN TẠI
      (PD biết sống trong mọi thời)

      Rõ ràng Phạm Duy “nổi trôi theo mệnh nước miệt mài” !
      Và cứ hãy đóng góp cho đời được như PD, rồi hãy tính sổ bộ đời !

      Thử nhìn xem nhé, PD là người đi tiên phong trong tân nhạc.

      Tham gia kháng chiến chống Pháp, và tích cực đóng góp.
      Những bản nhạc thời chống Pháp không thể nào quên rất nhiều.
      Nhưng cũng là người dinh tê rất sớm, và sau đó đi thằng vào Nam.

      Thời VNCH đóng góp rất nhiều công sức,
      từ điện ảnh cho đến âm nhạc đủ mọi thể loại
      Và cũng di tản sớm, nhưng gia đình chia ly với đám con trai ở lại

      Rất sớm góp mặt sinh hoạt âm nhạc trong cộng đồng hải ngoại
      Lại tiếp tục sáng tác miệt mài, với nhiều bài và trường ca chống Cộng
      (cũng có lúc “chống gậy” trong WC chứ không phải là không có đâu nhe)

      Đi cũng sớm mà về cũng gọi là sớm
      (lúc đã qúa già, nhưng nhờ dẻo dai nên còn gân)
      Cũng còn sáng tác lai rai, nhưng khá hay về … sex lẫn hương quê
      Và chủ trì một số chương trình chuyên trị nhạc PD đã được phép diễn
      Tạo ra được một chố đứng riêng, với một số ít ca sĩ chuyên trị nhạc PD

      Ôi nếu gọi là Phạm Duy đã chết, đã tự đào hố chôn mình
      Thì đó là lúc Phạm Duy đang hồi … xuân, tự làm trẻ chính mình !

      Lão Ngoan

      • kbc 3505 says:

        Chào Lão Ngoan Đồng,

        Phạm Duy “khôn” nhưng không ngoan nên dù vẫn sống mà người đời đã miệt thị, bao công lao (âm nhạc) tạo dựng cả một đời cũng chẳng bằng một chút lợi ích cá nhân.

        Chúc Lão Ngoan vui và mạnh khỏe.

        kbc3505

      • Lão Ngoan Đồng says:

        hahahahhaha

        Dĩ nhiên PD KHÔNG NGOAN !
        Ông ta chỉ làm theo ý mình thôi !

        Tôi chưa thấy ai lợi dụng được ổng cả !
        Ngược lại có lắm kẻ lại than là … “nạn nhân” của PD !?

        Chả biết sự thật nằm nơi mô ?

        Lão Ngoan

        TB: Theo tôi bài viết này về PD khá hay với nhiều chi tiết thú vị, bổ ích

        NHẠC SĨ MỌI THỜI MỌI CHẾ ĐỘ / thiên việt
        Wednesday, July 1, 2009 9:15:21 PM

      • Theo Ai đây ?... says:

        Lão… Ngoan chưa ? mà sao Lão không chỉ chịu khó mầy mò tìm …để nghe Cộng Sản nói , mà lại …nghe cả Cộng Sản hát nữa . Chẳng những khen Cộng Sản hát hay , nhạc tình cảm – Lão lại còn giới thiệu cho mọi người và trưng bày ra công khai cái hay của Cộng Sản nữa .

        Trời ơi , đích thị Lão Ngoan Đồng và mấy người tán thưởng về hùa nhau ở đây , là Cộng Sản nằm vùng rồi ! ….?

      • Lão Ngoan Đồng says:

        HỎI thật vớ vẩn,
        bởi vờ ngây thơ cụ !
        Chụp mũ cho người,
        còn giả nai vàng ngơ ngác !

        THEO DÂN chứ theo ai !
        Dân tự chọn, cái hay cái dở !
        CHÍNH MÌNH là dân, chứ còn ai khác !

        Vả chăng bá nhân bá tánh, bá … sở thích !
        Cứ nghe rồi tự chọn lấy cho chính mình thôi !
        Người khác chỉ có thể hướng dẫn, giới thiệu thôi !
        Ko tin thì đừng nghe, đọc; nhưng đừng vờ vịt chụp mũ !

        Lão Ngoan

      • Chống cccđ -Hải Ngoại says:

        Lão nói theo Dân ư ? Bao nhiêu người ở hải ngoại đã- đang và sẽ về nước với 87 triệu DÂN trong nước . Từ gđ phó tổng thống NC Kỳ , Phạm Duy …đến con rể TT Dũng , cựu Sĩ quan BĐQ Nguyễn Phương Hùng ,Việt Weekly, Phố Bolsa TV ….Thế thì đúng là như Theo Ai Đây ,nói : Lão theo Cộng Sản rồi ! Vậy mà cứ kêu tụi này là chụp mũ …. Phải chăng là : Lão nằm trong mạng lưới của 5 vị tướng tình báo Cộng Sản huỳền thoại đang trải rộng khắp thế giới này ?

      • Lão Ngoan Đồng says:

        NGU BÊN DỐT LÂU KHÓ CẢI TẠO

        Giải thích rõ ràng đến đó mà còn chưa thông suốt !

        Mọi người làm theo khả năng của mình cho phép.
        Đâu cứ nhất thiết chống Cộng là phải về VN hành động.

        Về mà bị trói chặt tay chân như Nguyễn Tiến Trung, thì về làm gì nhỉ ? Đúng là dại dột đã chọn hành xử “thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt” ! Trong khi quốc gia đại sự là chuyện dài lâu. Rất cần kiên nhẫn và sáng tạo tài tình.

        Thiệt là “choáng đối thụi” với những kẻ kém thông minh lại đầy thành kiến, dấu mặt dấu mày như “mèo dấu kít” !
        Đã thế lại thích chơi trò chụp mũ bẩn thỉu :-( !

      • Trực Ngôn says:

        Tôi thích ý kiến của Lão Ngoan Đồng, vừa nhẹ nhàng, tế nhị.
        Không nịnh bợ, chẳng a dua, không vào hùa chửi bới.
        Cám ơn ông Lão Ngoan Đồng.

      • Lão Ngoan Đồng says:

        Dear Trực Ngôn,

        Tâm tình cởi mở với bạn một tí nhé :-) !

        Thứ nhất, tự thấy mình chả là cái …giải rút gì, nên nếu có phê bình, thì cũng tôn trọng những người có đóng góp ít nhiều cho đất nước, ở cả hai bên, khác chính kiến hay không ! Chính vì thế, không muốn đẩy ngôn từ đến tới hạn cùng cực, không bới bèo ra bọ, mà cố tìm được mặt tích cực mà nêu rõ.
        Ngắn gọn, phê phán ai mình hay dựa vào lời khuyên của các cụ ta ngày xưa: “Nhìn thấy cái dầm trong mặt người, mà ko thấy cái đà trong mắt mình” !

        Thứ hai, nhân vô thập toàn, và hy vọng là chỉ có thánh nhân mới hoàn toàn. (Thánh Khổng cũng bị lôi ra sửa lưng tùm lum. Mác Lê cũng bị “xét lại”. Đến Chúa Phật cũng thế !)
        Cũng như câu hát của Phạm Duy: “Giết người đi ta ở với ai !”; hay lời bài hát qua phổ nhạc bài thơ Nhân Danh của Nguyễn Đắc Xuân (nhân danh đủ thứ để giết một người, rồi tăng dân lên trăm ngàn vạn triệu; và sau cùng vì hòa bình nhân loại, xin giết luôn … chính mình).
        Đất nước tan nát, lại còn đay nghiến nhau, say mê dùng bạo lực đủ loại, từ sức mạnh đến ngôn từ, để bạo hành làm khổ nhau. Có ích gì chứ, nếu không chỉ thêm hận thù chất ngất.

        Dù là diễn đàn rộng mở, nhưng ko vì thế mà không tự hãm để tiết chế cái nóng nảy lắm khi vô lý hết sức (dường như để “thủ dâm chính trị”; do “giận cá chém thớt” … nên chụp mũ vô tội vạ)

        Lão (không) Ngoan

    • KBC -Người Việt Hải Ngoại says:

      Khôn thì sống , chống ( lại cái khôn) thì chết . Chỉ còn cái dại ở lại, rồi sẽ chết mất xác nơi xứ người này mà thôi . Có thấy Kissinger rủa : ” … Sao chúng nó không chết quách đi cho rồi …? ” không ? – Nhục nhã quá ! – Đó mới thật là đáng tiếc !

      • kbc 3505 says:

        Tôi cũng cầu mong cho ông Kissinger sống lâu trăm tuổi để mở mắt nhìn thế giới ngày nay mà nằm chiêm nghiệm lại cuộc đời nói ra những gì còn giấu kín trong lòng chứ đừng chết sớm mà vẫn chưa trút hết được hận thù trong lòng thì cũng thật là đáng tiếc.

        Tôi cũng chúc ông KBC -Người Việt Hải Ngoại cũng sống lâu như Phạm Duy và Kissinger.

        kbc3505

      • xoathantuong says:

        Có nhiều người muốn được chết mất xác nơi xứ người nhưng không biết làm sao đây. Nếu biết cách xin chỉ dùm, làm lao động cũng được, ô-sin cũng ok salem.

        Nghe nói trước khi chết mất xác nơi xứ người bọn bác sĩ Mỹ cũng vất vả lo chữa bệnh cho, không có cảnh hai ba người bệnh một giường, ăn thịt ở Mỹ nhiều chỉ sợ bị béo,… lỡ có về VN chơi lại bị gán nhãn Việt kiều.

        Nghe nói con cái các quan cách mạng cỡ bự cũng gửi tiền qua Mỹ mua nhà này nọ để chờ được chết mất xác nơi xứ người.

        Nghe nói lỡ dại vô quốc tịch Mỹ rồi thì Tổng thống Mỹ muốn chửi là chửi tuốt. Chửi đúng lại còn được hoan hô, chửi sai, chửi bậy chúng chỉ cười chả thèm để ý. Tổng thống nào thấy tốt thì bầu tiếp, thấy ghét thì bầu cho người khác.

        Nhục nhã thiệt, nhưng được nhục nhã như thế cũng sướng chứ nhỉ.

      • Trực Ngôn says:

        Nói ‘chết mất xác nơi xứ người’ là nhảm nhí, chết ở đâu mà chả thế!

        Chỉ cần lúc sống cho ra người, còn khi chết rồi thì chôn vùi hay thiêu đốt cũng thế thôi.

        Sống mà bị đánh đập, vùi dập như thế này mới là nhục nhã, đau khổ, con người bị coi như con vật!
        http://www.youtube.com/watch?v=5ajMPgxnVeg

  10. dân đen says:

    Hằng ngày trước mắt Phạm Duy xảy ra bao chuyện đau thương trên đất Việt:
    - Nhà đất của đồng bào cùng quê với Phạm Duy đang bị “chúng nó” (V.C.) cưỡng chiếm,
    - thanh niên học sinh biểu tình chống Tàu thì bị bắt nhốt ,
    - con gái “da vàng” trong trắng thì bị chúng bán buôn như nô lệ cho Tàu, Đài, Sing, Mã …
    - con gái Việt nghèo khổ từng là “con cháu Bác Hồ” nay bị dồn vào đường cùng phải “bán trôn nuôi miệng”
    - đất đai của cha ông bị bán dần cho ngoại bang
    mà chả thấy “thiên tài âm nhạc” Phạm Duy sáng tác được một bài ca nói lên được nổi nhọc nhằn, bi đát (trên đường Bác đi) của đồng bào cùng khổ .
    Cả tên văn công Trịnh “Côn Đồ” Sơn cũng ngậm miệng, bịt mắt không ra được một lời ca hậu chiến . Phạm Duy, Trinh Côn Sơn lộ mặt thật là một lũ “hèn sĩ “, “vô liêm sĩ ” !

Phản hồi