Những ngày không bình yên
Những năm đầu của thập niên tám mươi, nghe tin báo tử ai đó, có lẽ cũng không thấy nghiêm trọng bằng tin bị đuổi việc. Việc làm gắn liền với sổ gạo, tem phiếu thực phẩm, đôi khi còn là sinh mạng chính trị của con người. Thế mà đánh đùng một phát, tôi bỏ việc, hỏi sao mẹ tôi không kinh hãi. Thấy mẹ buồn, nên tôi thi vào trường ngoại ngữ. Học được mấy tháng, không hiểu sao thấy chán, tôi lại bỏ. Được tin, chú tôi ở Hải Phòng cho Dũng, con lớn của chú lên Hà Nội, bảo tôi xuống cùng Dũng làm, và mông má chân máy khâu. Nhìn thấy Dũng quân phục bộ đội chỉnh tề, tôi ngạc nhiên hỏi:
- Mới nhập ngũ, đã được về phép sao?
Dũng cười cười:
- Em đóng quân ở nhà.
Tưởng Dũng đùa, tôi hỏi lại:
- Nghĩa là như thế nào?
-Bộ đội lúc này đang đói, nhiệm vụ đơn vị em làm kinh tế, nhưng khó khăn quá. Các bố đành phải mắt nhắm mắt mở cho những thằng có nghề, tự đi tìm việc làm, hàng tháng mang tiền về cho đơn vị.
Bố tôi mất khi còn rất trẻ, nên ông nội tôi buồn, phát bệnh mất sau đó không lâu. Từ đó bà tôi xuống Hải Phòng ở với chú. Ngày cải cách ruộng đất, chú đang ở Nam Định. Nghe tin ông bà, bác Âm tôi bị bắt ở quê Cát Chử, Trực Ninh, chú trốn ra Hải Phòng. Lúc đó chú đã thi đậu tú tài, Hải phòng vừa được tiếp quản, nếu như không muốn học tiếp, trong cái nhộm nhoạm ấy, chú có thể xin được công việc kha khá. Nhưng chú lại có quan niệm kỳ quặc, thà chết đói chứ không làm việc cho nhà nước. Thế là chú trở thành ông thợ cắt tóc dạo, rồi làm nghề buôn, mông má chân bàn máy may. Khi có khá vốn, chú buôn tất tần tật, từ đầu máy may, máy vắt sổ, đến cả máy dệt.
Gió mùa đông bắc đã về, không có mưa phùn nên tiết trời càng khô hanh. Gió tuy không lớn, nhưng thỉnh thoảng lại có những cơn xoáy chạy trên mặt đường, cuốn theo lá, đất cát, bụi mù. Làm cho nhiều người đi xe đạp, bị cuốn ngã bổ chửng. Thành phố đã về đêm. Các hàng quán, dịch vụ cũng tấp nập người ra vào. Có lẽ thời gian này, cả nước, chỉ có Hải Phòng còn một chút sinh khí. Hải phòng có biển, có những con tầu, có những dịch vụ, và làm ăn cá thể. Hải Phòng đã dám khoán sản (chui) cho người nông dân. Vậy là cả vạn người chết oan, sống tủi trong cải cách ruộng đất, thêm mấy lần cải tạo công thương, không chứng minh được điều gì cả, mà nó chỉ là một trò thí nghiệm của ma đưa lối quỉ dẫn đường. Làm cho tấm thân gầy của Mẹ, gánh thêm những thương đau, sau cuộc chiến tương tàn. Để rồi hôm nay, nếu như không muốn chết, cả nước phải đổi mới về cái cũ, về với nền tảng cội nguồn của cha ông.
Nhà chú tôi nằm sâu trong ngõ đài truyền thanh, ngoằn ngoèo, tôi đã xuống nhiều, nhưng lần nào cũng phải hỏi đường vì lạc. Gọi là nhà, nhưng trước khi chú thuê, cái thời thằng Tây bóc lột ấy, nó chỉ là nơi chứa đồ. Sau này sợ nhà nước tịch thu, bà chủ đất bán rẻ như tặng cho chú. Trước nhà có cái hồ khá rộng, bên kia bờ là khu chợ Cột Đèn, nhưng đã bị hợp tác xã mượn, để thả bèo, chăn nuôi gia súc. Thấm được cái kiểu mượn đểu đó, nên bà xúi chú, đóng cọc, đổ đất lấn dần ra ao. Mấy năm sau, chú có đất xây thêm cái bếp và khoảng sân khá rộng. Về đêm, nơi này cũng không khác miền quê. Những tối mất điện, cả nhà sinh hoạt ở sân, dưới ánh trăng hè, rọi xiên qua giàn mướp, đâu đó có tiếng kêu à uôm của ếch, nhái cũng cảm thấy đỡ nhớ quê, chú bảo thế. Sau này, hợp tác xã giải thể, hồ của bà cũng mất theo. Thay vào đó những ngôi nhà giống như quân cờ đã mọc lên.
Vừa vào đến sân, đã nghe thấy tiếng đay nghiến của bà tôi vọng ra:
- Tôi tin tưởng chị (tức thím tôi), nhưng không ngờ chị lại chỉ điểm cho chúng nó (đội cải cách) đào bới thu đi tất cả. Thà ..thà ..chị giết tôi đi còn hơn…ối! giời đất ơi..
Có lẽ lòng tin đã bị phản bội, làm tổn thương, và cú sốc của cải cách ruộng đất, dù đã qua mấy chục năm, nhưng vết thương đó dường như không bao giờ thành sẹo. Nên thỉnh thoảng nó lại nhói đau, làm cho bà tôi phát điên. Ngày còn sống, bố tôi hay xoa dịu, khi vết thương của bà trở lại:
- Thím ấy cũng chỉ là nạn nhân, lúc đó mới mười bốn, mười lăm tuổi đã biết gì đâu, bọn người lưu manh, phỉnh lừa thế nào mà chẳng được. Thím ấy còn nhỏ, sao bà đã cho biết chỗ cất giấu vàng bạc? Lỗi đó cũng do người lớn chúng ta nữa.
Bà tôi lại thừ mặt ra một lúc, rồi khóc…Rồi lại kể chuyện cải cách, chuyện ngày xưa…
Con thứ nhưng là trai, nên mọi người đều gọi bác là Cả Bưởi. Sau khi lập gia đình, bác Cả được ông tôi mua cho nhiều ruộng đất, nhà cửa ở vùng biển Sỹ Lâm, phủ Nghĩa Hưng. Tính bác cả thích rượu chè, tụ tập bạn bè tổ tôm đánh chắn. Công việc đồng áng, thuê mướn người làm, bác chẳng bao giờ quan tâm, bàn giao cả cho bác gái. Nhưng đặc biệt bác có cái tính gia trưởng, trong họ ai cũng nể, sợ bác. Bạn bè bác đủ thành phần, từ ông phú hộ giầu có, đến mấy ông tá điền, làm thuê nghèo khó. Ông Phạm Triệu (gọi theo tên con trai cả), người làng bên, nhà nghèo, đông con, nhưng là bạn tổ tôm của bác. Những ngày giáp hạt, đói kém bác thường cho ông Triệu vay thóc, gạo. Đến vụ gặt, ông Triệu trả nợ. Bác Cả chỉ lấy tượng trưng, còn lại bảo ông Triệu mang về. Ông Triệu có cô con gái đầu Phạm Thị Mai, mười mười bốn, mười lăm, đang tuổi dậy thì, nết na xinh đẹp. Đã có nhiều nơi đánh tiếng dạm hỏi, nhưng ông Triệu đều từ chối. Trong một lần cùng rượu chè, bù khú, ông Triệu vỗ vai bác Cả:
- Nhiều nơi, dạm hỏi con Mai, nhưng tôi chưa đồng ý nơi nào. Nếu ông không chê, tôi sẽ cho con Mai về làm dâu nhà ông?
Bác cả gật gù:
- Thằng Đàn, Thằng Phách nhà tôi, tuy xấp xỉ tuổi con Mai, nhưng còn nghịch ngợm, phá phách lắm, hai thằng này chưa thể lấy vợ được. Tôi có chú em giáp út, gọi là Sáu Chiêm, hơn con Mai chừng năm, sáu tuổi, đang học trên Nam Định. Tháng sau về quê, tôi thưa lại với ông bà cụ, rồi xin con Mai cho chú nó.
- Ấy.. tôi đâu dám bằng vai với các cụ trên nhà, mà chắc gì cậu Chiêm đã đồng ý.
- Ông cứ yên tâm, chuyện này để tôi lo.
Không biết bằng cách nào, bác Cả đã thuyết phục được ông bà tôi đồng ý cưới thím Mai cho chú Chiêm, trong khi chú cương quyết phản đối. Bị ép quá, nổi khùng chú bảo, cưới cô Mai cho ông bà thì cưới, đó không phải là vợ chú. Thế rồi mọi việc vẫn diễn ra. Nghe đâu hôm cưới, chú chỉ có mặt một lúc rồi trở về Nam Định. Sau này, nhân lúc vui vui, có cả chú thím ở đó, tôi hỏi, sao chú lại phản đối dữ vậy? Chú bảo, lúc đó tao đang mê cô nữ sinh, em thằng bạn học, còn bà này vắt mũi chưa sạch, không quen biết, có thằng điên mới đồng ý….Chú nói một thôi một hồi, thím tôi chỉ cười lành.
Sau ngày cưới, thím Mai ở lại làng Cát Chử chăm sóc ông bà. Ở làng lúc này chỉ còn bác Lý Âm, là chị cả của bố tôi nhưng tính tình không hợp với ông bà. Thím Mai hiền lành, trong sáng, dù còn ít tuổi nhưng quán xuyến công việc, gia đình rất chu đáo. Nên ông bà dồn cả tình cảm cho thím….
Đất nước đã thật sự bị chia cắt, dòng người đổ ra Hải Phòng bằng mọi cách, mọi phương tiện, để di cư vào Nam. Cải cách ruộng đất với những cuộc đấu tố kinh hoàng, đã diễn ra nhiều nơi. Chú út Tân ở Nam Định, về quê hối thúc ông bà tôi di cư. Vì tiếc ruộng đất và nhà cửa, lại tin tưởng ông Phi chủ tịch lâm thời huyện, người được ông bà nuôi dưỡng trong thời gian bóng tối, nên dứt khoát không đi. Bác Lý Âm còn cho người nhốt, canh chừng chú Tân, vì không đồng ý cho chú vào trong đó. Nửa đêm chú phá cửa, trốn thoát ra Hải Phòng lên được tầu há mồm vào Nam. Có lẽ, chú không ngờ đó là lần gặp mặt cuối cùng với cha mẹ, và người chị vô cùng yêu thương chú. Sau ba mươi tháng tư, bảy lăm, chú cũng không thể về thăm quê, thăm bà. Trước lúc mất, bà nhớ và gọi tên chú, thế nhưng không biết lúc đó, chú còn đang ở nơi rừng rú nào.
So với các xã, huyện khác, đội cải cách về Cát Chử muộn nhất, cũng là đợt cuối cùng. Chỉ có đội trưởng Đông ở lại ngoài đình, còn mọi người đều phải xuống ba cùng, tìm rễ, cắm nhành. Đội Đụ, người xứ Nghệ, là dân công thồ hàng trong kháng chiến. Đã qua bình dân học vụ, nên có khả năng đọc viết thành thạo. Từng có chân trong ban thanh niên của đội hậu cần, nên Đụ được phân công tham gia, làm nòng cốt, kích đông thanh, thiếu niên. Những ngày này, làng Cát Chử uỳnh uỵch tiếng chân người, tiếng hò hét bắt người của đám dân quân. Tiếng mõ, tiếng loa, tiếng trống ếch của thiếu niên rộ lên từng hồi, cầm đầu là nữ đồng chí dân quân tên Phố và đội Đụ. Không rõ bằng cách nào Đụ dụ dỗ Phố từ con nuôi của bác Lý Âm, người bị qui thành địa chủ, cường hào đợt này trở thành cốt cán.
Bố mẹ, anh chi em chết đói cả năm Ất Dậu, khi Phố mới chừng chín, mười tuổi, được sư Phi chùa ngoài nuôi dưỡng. Sau này sư Phi làm chủ tịch lâm thời huyện, rồi lên công tác mặt trận trên tỉnh, thấy bất tiện, nên bác Lý Âm nhận làm con nuôi. Từ ngày vào du kích, đội Đụ bảo Phố, nên đổi tên, dũ sạch bụi bùn của kiếp con nuôi địa chủ, để trở về với thành phần cơ bản bần cố nông. Nghe sướng quá, Phố bỏ luôn cái tên của cha mẹ, lấy cái tên Tâm do anh đội Đụ đặt cho. Hôm dẫn đội đến bắt, tịch thu tài sản của vợ chồng bác Lý Âm, Tâm tuyên bố từ cha mẹ nuôi. Chị Ngấn, chị Ngần con bác khi đó chưa đầy chục tuổi, đội cho phép ở góc bếp, chung với một bần cố, vừa được chia. Hàng ngày, hai chị cứ lầm lũi mót khoai, mót sắn ở ngoài gồ đồng, trong cái xua đuổi, khinh rẻ, miệt thị của những người xung quanh. Bọn trẻ con trong đội thiếu nhi, đốt đèn, đánh trống, nhìn thấy các chị, giật hết khoai, ném đất ném cát chửi rủa. Nhưng cũng có những người thương, lại sợ liên lụy, chỉ dám giả vờ để sót khoai, cho các chị đi sau nhặt. Có khoai sắn, hai chị nướng, luộc, rình lúc không có người, lẻn mang vào cho mẹ, ông bà. Bác Âm trai, sau khi bị bắt, họ đưa đi đâu không rõ. Mọi người tưởng bác đã chết. Mấy năm sau, thấy bác lò dò về. Mọi người hỏi, bác bảo ở tù, nhưng không ai nói là tội gì. Có lẽ vì mấy năm làm lý trưởng của bác.
Ông bà tôi là người đầu tiên trong làng bị bắt và tịch thu tài sản. Ngoài ruộng đất, nhà cửa ở Trực Ninh và thành phố Nam Định, cũng như vàng bạc đội đã thu được khá nhiều. Nhưng bần cố nông vẫn tố, ông bà tôi ngoan cố còn cất giấu đâu đó, chưa giao nộp hết. Đụ đã tham gia đội cải cách nhiều đợt, từ Thanh Hóa ra đến ngoài này, nên có nhiều mánh khóe trong việc cắm rễ và đấu tố. Bằng chứng, chỉ một thời gian ngắn, chẳng biết bằng cách nào, Đụ đã xui Tâm dụ dỗ được thím Mai tham gia vào đội trống ếch của thiếu niên, rong ruổi khắp ngõ xóm, đả đảo địa chủ, cường hào ác bá. Thím đã tách khỏi ông bà tôi. Sau đó, thím dẫn đội đào tất cả những nơi chôn giấu vàng, trang sức. Mấy nơi, ông bà tôi gửi từ trước cũng bị thím chỉ cho đội đến thu. Riêng cụ phó Hoạch bạn của ông tôi, bị thọt chân, nghèo, làm thợ may dứt khoát phủ nhận việc ông bà tôi gửi vàng. Cụ còn sa sả chửi lại đội, vì nghe lời đứa con nít. Cụ bị du kích đánh hộc cả máu mồm, bắt giam, gán cho rất nhiều tội. Từ trong chuồng lợn, Cụ chửi vọng ra, và bảo, đếch sợ thằng nào, đéo muốn sống ở cái thời tôm lộn cứt lên đầu này. Nhưng cụ phó không được như ý, cụ không có quyền được chết, mà phải sống. Sau sửa sai, cụ phó Hoạch, mang toàn bộ vàng trả lại cho ông bà tôi. Ông tôi biếu một nửa, nhưng cụ dứt khoát từ chối. Trong đợt tổng kết thắng lợi của cải cách ruộng đất, trên báo Nam Định, người ta thấy tên của địa chủ Đỗ Văn Điếm, tức Cửu Điếm làng Cát Chử, Trực Ninh, của cải, ruộng đất nhiều đứng vào hàng thứ ba bị tịch thu trong toàn tỉnh.
Mấy ngày đầu bị bắt, ông bà tôi vẫn còn hy vọng, sẽ có lúc ông chủ tịch Phi về cứu. Đúng như thế, trong lúc nước sôi lửa bỏng, chủ tịch Phi mò về thật. Nhưng ông vừa tới đầu làng, đã bị Tâm phát hiện, báo cho đội:
- Tên sư Phi trước đây, quan hệ với cả đế quốc Pháp, bọn quốc dân đảng và được địa chủ Điếm nuôi dưỡng, che chở. Hắn về làng, muốn giải cứu cho đồng bọn.
Được tin, đội trưởng Đông đích thân dẫn du kích vây bắt. Chủ tịch Phi ngớ người ra bảo:
- Các đồng chí….
Vừa cất tiếng, chủ tịch Phi đã bị Đông dộng một báng súng vào mặt, phọt máu ra đằng mũi.
- Ai đồng chí với mày. Thằng việt gian quốc dân đảng này.
Khám trong người, thấy có giấy tờ chứng nhận cán bộ tỉnh, và cả súng lục mang nhãn hiệu của đế quốc Mỹ. Đội trưởng Đông hét, trói thật chặt, bảo:
- Thằng này là nhân vật quan trọng của địch, cài vào hàng ngũ của ta, leo cao để đánh phá, các đồng chí phải canh chừng, lấy khẩu cung cho cẩn thận.
Có lẽ, chủ tịch Phi là người bị tra khảo, đấu tố tàn bạo nhất. Chỉ có mấy ngày, hàng răng cửa của ông bị gẫy sạch, mặt sưng vêu lên, hai mắt húp lại, nhìn như nửa cái bát úp. Người ông mềm oặt, chi chít những vết thâm, phù. Hôm mang ra đấu ở sân đình, hai du kích nắm bả vai ông, kéo rê, như bọn trẻ nghịch kéo một con chó chết trôi sông vậy. Trong cái đám nhộm nhoạm ấy, có ai đó tiếng xuýt xoa, hai chân ngoặt lại thế này, gẫy bố nó rồi, thế mà không chịu nhận tội, thằng này gan thật. Thế mà không hiểu bằng cách nào, và lấy đâu ra sức lực, đêm hôm đó ông dùng mảnh sành tự rạch bụng mình, lôi hết cả ruột ra ngoài. Sáng hôm sau, mắt ông vẫn còn chừng chừng mở, hai con ngươi bị đẩy ra khỏi hốc như muốn vọt ra ngoài. Người ta không thể vuốt mắt cho ông, buộc phải xé miếng vải đậy vào mặt, cuốn chiếu mang ra đồng.
Bà tôi và bác Âm, hôm đấu tố bị tát, vả nhiều nhất vì can tội cãi và cứng đầu. Nhìn thấy chiếc răng hàm bọc vàng, một bấn cố nhảy xổ lên bóp miệng bà, thò tay vào móc. Bà tôi lắc lắc đầu, nghiến chặt răng, bà bần cố kêu rú lên, máu vọt ra. Máu từ miệng bà tôi, máu từ tay bà bần cố thấm xuống cả sân đình. Say máu, bà bần cố cầm cả cái guốc cứ nhè vào miệng, vào răng bà tôi mà ghè. Cả hàm răng của bà tung ra, người gập xuống như thân chuối gẫy. Bà bần cố nhặt chiếc răng vàng chùi chùi vào áo, rồi giơ lên, cười sằng sặc. Trên nghế chủ tọa, đội Đông, đội Đụ đang bắt nhịp đồng thanh: Đả đảo địa chủ cường hào gian ác….Chủ Tịch Hồ Chí Minh muôn năm, đảng lao động Việt Nam muôn năm….
Bị đánh đau, cổ bác Âm như bị gẫy, rũ xuống. Nữ đồng chí Tâm lấy đầu súng để vào cằm hất ngược mặt lên, hỏi:
- Địa chủ Âm, mày có biết tao không?
-D ạ thưa, bà là Phố, con của con ạ.
Một báng súng thúc vào bụng, đánh hự, mồm hộc ra máu, bác đổ người ra phía sau.
- Ai là con của mày. Tao là Tâm, chứ không còn là Phố nữa. Mày đã biết tội chưa?
- Dạ, tội của con lớn lắm ạ! Lúc bà sắp chết đói, con nhận về nuôi dưỡng, thương bà như thương cái Ngấn, cái Ngần, còn can tội cho bà đến trường học nữa.
- Mày nuôi tao để lợi dụng, che đậy sự bóc lột, tội lỗi xấu xa. Cho tao đi học biết chữ, nhằm mục đích làm sổ sách, và quản lý tài sản cho mày. Mày còn sống đến hôm nay vì chúng tao muốn để cho mày cơ nhận ra tội lỗi và hội hối cải, khai ra tài sản, vàng bạc còn chôn giấu. Thế mà chúng mày vẫn ngoan cố chối quanh..
Lần này, hai, ba báng súng liên tiếp giáng vào bụng, vào ngực, khi bác vừa lóp ngóp bò dậy. Rồi một bầy người xông lên, kẻ nắm tóc, người giựt tai, đấm đá, huyên náo làm cho con quạ đen trên nóc đình cũng phải sợ, bay vọt lên với những tiếng kêu man rợ.
Gần sáng, tỉnh dậy, ông bà tôi nghe tiếng bác Âm đang lạy và tế sống mình, rồi tiếng xé quần áo, bện thành dây thừng, xoàng xoạc ở bên kia tường. Bà tôi khóc rống lên, gào người đến cứu, nhưng tiếng kêu ấy không xé nổi màn đêm đen dầy đặc đó. Ông tôi bảo, đằng nào cũng phải chết, bà hãy để cho nó đi…
Buổi sáng, ông bà tôi nhìn thấy, người ta kéo tấm thân trần truồng của bác ra giữa sân, bó bằng một manh chiếu rách. Ông già coi miếu và nhà đòn, đặt bác lên cái gạc tre, ì ạch kéo đi. Hai chân của bác thò cả ra ngoài, lê trên mặt đường…Trưa hôm đó, ông tôi ngồi úp mặt vào hai đầu gối. Tưởng ông đói và ngủ, lúc sau bà lay nhẹ, ông đổ kềnh ra, tay vẫn còn đang bóp cổ mình, mặt xưng to như cái cơi trầu. Bà vuốt ngực, hà hơi, một lúc ông tôi sống lại. Bà khóc, lạy, xin ông đừng chết trước. Đến lúc phải chết, thì cả hai cùng đi.
Đàn chim vội bay đi, để tìm nơi xây tổ mới. Chỉ còn lại mảnh đất, đã mất đi những linh hồn. Bến sông, trưa đã vắng tiếng gọi đò. Nhịp trống ếch gọi thu, gọi trăng, nay thình thình nghe như tiếng tiễn đưa vong hồn về cõi xa. Sau một chập xỉa xói, đấm đạp, ông bà tôi được nghe lời tuyên án của chủ tọa, thay mặt tòa án nhân dân: Kết án tử hình vợ chồng địa chủ cường hào Đỗ Văn Điếm (tức Cửu Điếm) làng Cát Chử, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định. Bản án được lập tức thi hành.
Lại những cánh tay xương xẩu giơ lên, tiếng gào như hoang dại….Đả vợ chồng địa chủ Đỗ Văn Điếm…Đả đảo……
Mặt ông bà tôi hội đủ các màu, đen đỏ tím vàng, những vệt máu chồng lên vệt máu, khô cứng dọc ngang mặt, cổ. Môi bà sưng lên như hai múi bưởi. Những cục máu đen còn đọng trên hai hàm răng cụt. Đầu bà lắc lư, không còn cảm giác. Chiếc kính của ông chỉ còn một mắt, buộc lủng lẳng bên tai. Đứng mà lưng ông cứ gập xuống, chiếc áo rách dốc ngược xuống đầu, lộ ra những vết thương có những con dòi con bọ. Người đã tản ra hai bên, hai xạ thủ được chọn, súng đã sẵn sàng lên đạn. Người du kích đang loay hoay dựng thẳng người ông tôi, thấy một người đạp xe, xộc tới, hét lớn. Hãy dừng án tử hình lại, đây là lệnh của ban cải cách trung ương. Đội trưởng Đông đã nhận ra Huỳnh, người của ban cải cách. Tòa án nhân dân buộc phải hủy bản án.
Ông bà tôi được tha, nhưng ngơ ngác vật vờ như hai cái bóng. Đang đứng trong hàng trống ếch của đội thiếu niên, thím Mai chạy ra đỡ bà tôi. Nhận ra thím, bà hất tay, lẩm bẩm. Thím quay sang đỡ ông tôi ngồi bệt xuống. Lúc sau chi Ngấn, chị Ngần đang lởn vởn ở bên ngoài cũng chạy lại, ôm chặt lấy ông bà. Thím Mai muốn đưa ông bà về góc nhà dưới chỗ thím được chia, để chăm sóc, nhưng bà không chịu. Ông bà tôi về tạm góc bếp chỗ chị Ngấn, chị Ngần. Hàng ngày, thím Mai vẫn sang, ông tôi vẫn tình cảm yêu thương thím, nhưng bà giận ra mặt.
Đội cải cách vẫn còn ở lại, hết đấu tố, rảnh rỗi đâm ra ngứa ngáy. Đồng chí du kích Tâm vẫn còn sát cánh ngày cũng như đêm với đội Đụ. Có người bảo đội Đụ đang bồi dưỡng cảm tình đảng cho đồng chí Tâm. Người khác thì thào, bồi dưỡng cái con khỉ gió, bồi dưỡng bụng thì có. Chẳng phải mình đội Đụ đâu nhé, tôi nhìn thấy đội Đông không chỉ vật đồng chí Tâm, còn đè mấy đồng chí nữ khác, tẩm quất nhau ở góc đình nữa kìa.
Thời dân đói, những ông đội cũng phải cạp khoai sắn, chứ có bơ sữa gì đâu, nên nhìn da xanh bủng của đội Đụ biết ngay là đói kinh niên. Ấy thế mà không hiểu sức lực ở đâu, bất kể sáng, trưa, chiều, tối, gặp các đồng chí nữ dân quân, mắt trước mắt sau; đội Đụ vật nghiến ra cầy thật lực. Khiếp thật! Có lẽ cái tên nó vận vào người đồng chí đội chăng? Nên sau này có câu ca ngợi các đồng chí đội thế này. “Đội Đông, đội Đụ, đội Huỳnh, ba đội đồng tình bóp vú đảng Tâm” Nhưng bà tôi lầm rầm bảo, nói thế oan cho đội Huỳnh, người có học nên đàng hoàng hơn.
Đội Huỳnh là bạn của bố tôi ở Nam Định, bỏ học theo kháng chiến. Đội Huỳnh về làng làm công việc sửa sai, nên thỉnh thoảng đảo qua chỗ ông bà. Bà tôi đề nghị đội sửa sai trả cho cái từ đường họ Đỗ, vừa để ở và có nơi thờ cúng. Đội Huỳnh hứa, nhưng không giải quyết được. Nên đội Huỳnh đưa ông bà tôi ra chòi nghỉ trưa của thợ gặt ngoài gò đồng, ở tạm. Sau này, bà khỏe lại, tay bị tay gậy lên Hà Nội. Bà ngoại tôi và cụ Bốn Đễ (bố của đồng chí trưởng ban cải cách trung ương) dẫn đến văn phòng quốc hội, họ mới trả lại cho cái từ đường.
Biết tin chú Sáu Chiêm không vào Nam, đang ở Hải Phòng nên ông tôi bảo thím Mai ra tìm chú. Chú tôi sắp xếp cho thím học nghề, sau đó làm việc xí nghiệp may của thành phố. Dù rất thương thím, nhưng lại không có tình yêu, nên chú Sáu Chiêm lại ra ở với bác Cả Bưởi, đã trốn thoát ra Quảng Yên. Vào dạng cũ người, thuốc lào bắn liên chi hồi điệp, tẩm ngẩm tầm ngầm, thế mà ra Quảng Yên không lâu, chú Sáu Chiêm đã bắn đổ cô nữ sinh. Thấy tình yêu rực lửa, sợ lần này chú làm thật, nên bác Cả Bưởi ép chú về Hải Phòng. Vậy mà nhùng nhằng sáu, bảy năm sau chú mới chịu ở hẳn với thím.
Nghe tôi kể, một nhà văn tên tuổi, người anh lớn, tuổi thơ cũng phải trải qua những ngày tháng tang thương này, bảo, cả Miền Bắc lúc đó điên cuồng như một cái chảo lửa, những cái rùng rợn, phi nhân ấy, tưởng chỉ có trong tiểu thuyết. Vâng! Đúng như vậy. Cuốn tiểu thuyết này, không phải viết, chẳng phải đọc mà là một cái chảo lửa, không lúc nào ngừng rang, cháy trong lòng những người đã từng phải trải qua. Và đây cũng là một trong rất nhiều câu chuyện trong chảo rang ấy của bà tôi.
Leipzig, 25- 4- 2012.
© Đỗ Trường
© Đàn Chim Việt
Mời bác Đỗ Trường về Văn Giang viết tiếp vụ cải cách ruộng đất đang diễn ra ở nơi đây. Nông dân chúng tôi cảm ơn bác nhiều. Sâm
Thưa Ban Biên Tập,
Bài viết về Cải Cách Ruộng Đất của ông Trần Gia Phụng rất hay, nếu có thể được xin cho đăng trọn bài khảo cứu nơi đây làm tài liệu qúi, cho mọi người hiểu rõ hơn nữa về nó.
Đó là một vệt đen trong Việt sử hiện đại thời CS mới chiếm chính quyền ở ngoài Bắc. Và cũng là một bằng chứng hùng hồn nhất về tội ác DIỆT CHỦNG (genocide) của Cộng Sản, mà đầu sỏ chính là ông chủ tịch đảng CS và chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, cũng như toàn bộ trung ương đảng CS, chứ chả riêng gì hai con vật tế thần là cựu tổng bí thư Trường Chinh với phụ tá là Hồ (?) Đức Thắng.
Lại Mạnh Cường
=======
CUỘC CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT: CÁC GIAI ĐOẠN CẢI CÁCH , Trần Gia Phụng
http://motgoctroi.com/StLichsu/CCRDat/CCRD1_TGP.htm
- Xã hội Việt Nam, cho đến nay, vẫn là một xã hội dựa trên căn bản nông nhiệp. Bất cứ nhà cầm quyền nào tại nước ta đều phải giải quyết những vấn đề do nền nông nghiệp lạc hậu của chúng ta đặt ra, hầu tìm kiếm những giải pháp thích hợp để thăng tiến đời sống của nông dân, một thành phần chiếm khoảng 70% dân số hoạt động. Cộng sản Việt Nam lại càng chú trọng đến vấn đề nầy hơn nữa, vì lý thuyết Mác xít dùng yếu tố kinh tế để giải thích những vận động của lịch sử. Căn bản của yếu tố nầy là quan hệ sản xuất giữa chủ và thợ, mà ứng dụng vào xã hội nông nghiệp là quan hệ giữa chủ đất (điền chủ hay địa chủ) và dân cày (nông dân hay tá điền). Hơn nữa, do ảnh hưởng chủ thuyết của Mao Trạch Đông, lấy nông thôn bao vây thành thị, nên khi nắm quyền tới đâu, cộng sản Việt Nam tổ chức cải cách ruộng đất (CCRĐ) tới đó, để tập họp sức mạnh nông dân và cô lập giới phú hào.
Ngay từ năm 1949, Việt Minh (VM) cộng sản đã phát động CCRĐ, nhưng việc nầy chỉ tiến hành mạnh mẽ từ năm 1950 trở đi. Vào năm nầy, Hồ Chí Minh qua Liên Xô xin viện trợ. Stalin thúc bách Hồ Chí Minh thực hiện ngay hai việc: thứ nhất tái công khai đảng cộng sản và thứ hai đẩy mạnh CCRĐ theo đường lối cộng sản.
Sau cuộc gặp nầy trở về, Hồ Chí Minh triệu tập Đại hội lần 2 đảng Cộng Sản Đông Dương tại chiến khu rừng núi Tuyên Quang, tái công khai đảng cộng sản dưới danh xưng mới là đảng Lao Động (LĐ) ngày 19-2-1951, do Hồ Chí Minh làm chủ tịch, Trường Chinh làm tổng bí thư. Về việc CCRĐ, Hồ Chí Minh và VM cộng sản thực hiện dần dần qua năm đợt liên tiếp, và chỉ chấm dứt năm 1956 để chuẩn bị chiến tranh tấn công Việt Nam Cộng Hòa.
Cuộc CCRĐ của VM cộng sản chia làm năm giai đoạn, bắt dầu từ năm 1949 đến 1956. Trong những giai đoạn đầu trước năm 1954, cuộc CCRĐ chưa lên đến cao điểm ở miền Nam và miền Trung nước ta, nên nông dân ở miền Nam vĩ tuyến 17 ít có kinh nghiệm về việc nầy. Chỉ có vài nơi VM gọi là vùng “tự do”, do họ kiểm soát ở Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định diễn ra cảnh đấu tố (đấu tranh và tố cáo). Lúc đó, VM bắt đầu cuộc thương thuyết ở Genève, rồi đất nước bị chia hai, VM rút ra Bắc, nên cảnh đấu tố ở các tỉnh miền nam vĩ tuyến 17 chưa dữ dội lắm. Trong khi đó, tại Bắc Việt, khi mới bắt đầu, cuộc CCRĐ khá ôn hòa, nhưng trở nên mạnh mẽ từ sau khi Hồ Chí Minh nhận lệnh của Stalin năm 1950, và càng ngày càng ác liệt, nhất là giai đoạn 5 từ 1955 đến 1956 là giai đoạn sắt máu giết hại nhiều người nhất.
GIAI ĐOẠN SƠ KHỞI:
Vào giữa năm 1949, khi sửa soạn chuyển qua giai đoạn phản công quân sự, VM đã vững mạnh ở vùng nông thôn và nhất là rừng núi Việt bắc. Lúc đầu, VM thực hiện cuộc CCRĐ một cách nhẹ nhàng, chỉ kiếm cách tăng gia sản lượng nông nghiệp nhắm cung ứng nhu cầu đội quân càng ngày càng gia tăng. Để khuyến khích nông dân ra sức cầy bừa, chính phủ VM đã ra sắc lệnh số 78/ SL ngày 14-7-1949 thành lập “Hội đồng giảm tô”, ấn định các chủ đất (điền chủ, hay như VM gọi là địa chủ) phải giảm thiểu đồng bộ tiền thuê đất (địa tô) cho tá điền (nông dân) là 25%, có nơi có thể giảm tối đa 35% trong trường hợp tá điền quá nghèo khổ.(1) Sau đó, thông tư liên bộ số 33/ NVI ngày 21-8-1949 đưa ra những nguyên tắc chủ yếu về việc phân chia tạm thời cho nông dân ruộng đất tịch thu của các điền chủ người Pháp và những điền chủ “Việt gian”, tức là những người bị VM kết tội thân Pháp, hoặc không cộng tác với VM.(2)
GIAI ĐOẠN THỨ NHÌ:
Trong năm 1950, một loạt sắc lệnh nông nghiệp ra đời có tính cách mỵ dân, nhắm đẩy mạnh sản xuất, phục vụ công cuộc kháng chiến của VM, bắt đầu bằng sắc lệnh số 20/ SL ngày 12-2-1950 ra lệnh tổng động viên toàn bộ “nguồn nhân lực [người], vật lực [gia súc, nông cụ] và tài lực [tiền bạc] cho tổ quốc”.
Sau đó, ngày 22-5-1950, xuất hiện cùng một lúc hai sắc lệnh. Sắc lệnh số 89/FL quyết định xóa bỏ tất cả những hợp đồng vay nợ giữa tá điền với điền chủ ký kết trước năm 1945, và xóa bỏ cả những hợp đồng ký kết sau năm 1945 nếu con nợ đã trả đủ 100% số tiền đã vay, hoặc con nợ đã từ trần vì sự nghiệp của VM thì gia đình khỏi trả nợ.
Sắc lệnh thứ nhì do chính phủ VM ban hành cùng ngày 22-5-1950 mang số 90/ FL, quốc hữu hóa tất cả những đất đai đã bỏ hoang trong 5 năm liên tục kể từ ngày ra sắc lệnh (điều 2). Đất đai nầy sẽ được chia cho nông dân nghèo, tạm thời trong thời gian 10 năm, và 3 năm đầu cho miễn thuế (điều 3 và 4). Những thửa ruộng bị bỏ hoang chưa tới 5 năm, điền chủ bắt buộc phải cho những tập đoàn nông dân cày cấy lại, hoặc cho người khác thuê cày. Nếu các điền chủ bất tuân, uỷ ban kháng chiến hành chánh địa phương sẽ can thiệp và ra điều kiện hợp đồng thuê mướn (điều 5) . Ngoài ra, sắc lệnh nầy không áp dụng cho những đất đai trồng cây kỹ nghệ thu hoạch theo mùa hằng năm, hoặc những điền chủ đang phục vụ VM nên không thể trồng trọt, và cấm việc xẻ nhỏ những đồn điền kỹ nghệ (điều 8).
GIAI ĐOẠN THỨ BA:
Giai đoạn thứ ba bắt đầu bằng sắc lệnh ngày 20-4-1953, đăng trên Công báo VM ngày 20-5-1953. Sắc lệnh nầy không có gì mới lạ, chỉ củng cố những “thành quả” của cuộc cải cách trước. Lần nầy, giá thuê đất được hạ thêm 25% để “làm thế nào cho tiền thuê đất không thể vượt quá 1/3 lợi tức mùa gặt.” Luật mới quy định các chủ đất không được buộc tá điền phải đóng thêm tiền cho các phí tổn khác, như tiền thuê dụng cụ hay trâu bò cầy bừa (điều 6), cũng như cấm các chủ đất hủy bỏ những hợp đồng cũ để ký kết những hợp đồng tương tự khác (điều 14, 16). Sắc luật nầy nhắc lại việc huỷ bỏ hoàn toàn tiền nông dân vay nợ trước tháng 8-1945 (điều 17), và hoãn lại những món nợ của các thành phần ưu đãi của VM (binh sĩ VM, người nghèo…) trong trường hợp những chủ nợ đang sống trong vùng do chính quyền Quốc Gia kiểm soát (điều 18).
Đối với những chủ nợ sống tại vùng VM, các con nợ vay sau 1945 cũng được giảm từ 18 đến 20% (điều 21). Sắc lệnh nầy quyết định tịch thu tất cả những tài sản của “đế quốc” Pháp, “Việt gian” và “địa chủ ác ôn” để phân phối lại cho những người không có đất đai nhà cửa, và ưu tiên cho những thành phần nòng cốt của VM (điều 25 đến 30). Cuối cùng, sắc luật nầy thành lập “Uỷ ban nông nghiệp” các cấp. Ở trung ương, Uỷ ban nông nghiệp do thủ tướng đứng đầu, gồm bộ trưởng Canh nông, bộ trưởng Nội vụ, đại diện Mặt trận Liên Việt,(3) và hai đại diện của Uỷ ban Liên lạc Nông dân. Ở mỗi cấp hành chánh, cho đến cấp xã đều có những “Uỷ ban nông nghiệp” gồm những nhân vật tương tự ở mỗi cấp (điều 35, 36).
GIAI ĐOẠN THỨ TƯ:
Vào cuối tháng 11 đầu tháng 12-1953, VM triệu tập Đại hội Đại biểu đảng LĐ, và đại hội Trung ương đảng tại vùng chiến khu Việt Bắc. Đề tài thảo luận chính của khóa họp đảng LĐ lần nầy là câu khẩu hiệu “ruộng đất cho người cày” . Sau gần một tháng hội họp, kết quả thảo luận của Trung ương đảng LĐ được đưa cho quốc hội VM thông qua để có hình thức dân chủ, trong kỳ họp ngay sau đó. Quốc hội nầy thành lập từ năm 1946 gồm 444 người, nay chỉ có 171 đại biểu dự họp. Đảng LĐ quyết định thực hiện dần dần cuộc CCRĐ theo một kế hoạch được soạn thảo kỹ lưỡng.
Sắc lệnh CCRĐ lần nầy hơi khác với đường lối cải cách của Liên Xô. Tại Liên Xô, đảng Cộng Sản Liên Xô xóa bỏ hẳn sự tư hữu đất đai, và nông dân chỉ có “quyền lao động”. Việt Minh theo đường lối cải cách của Trung Cộng và Bắc Triều Tiên, trên lý thuyết không xóa bỏ hẳn quyền sở hữu đất đai của nông dân mà cho phép dân cày có quyền có đất. Việc nầy thực sự chỉ có trên lý thuyết, chứ trong thực tế, nhà nước cộng sản quản lý toàn bộ đất đai.
Mở đầu, sắc lệnh ngày 4-12-1953 nêu lên ý nghĩa và mục đích của cuộc CCRĐ lần nầy là “bãi bỏ toàn diện quyền sở hữu đất đai của “thực dân Pháp” và của tất cả những “đế quốc” khác, đồng thời thiết lập quy chế sở hữu đất đai của nông dân” (điều 1). Toàn bộ đất đai của “thực dân Pháp”, “Việt gian”, “địa chủ phản động”, và những “phú hộ ác ôn” đều bị tịch thu (điều 1). Đất đai của những thành phần dân chủ tiến bộ, kháng chiến và hợp tác với VM sẽ được trưng dụng. Nhà nước sẽ bồi thường hằng năm khoảng 1,5% tài sản (điều 4). Đối với những điền chủ lẫn tránh chính sách bằng cách sang, bán, chuyển nhượng đất đai sau cuộc CCRĐ lần thứ ba (20-4-1953), nhà nước xem đó là những hành động bất chính, sẽ trưng dụng đất đai và bồi thường bằng tín phiếu ngân hàng (điều 5). Những trung nông đã mua những đất nầy sẽ phải bán lại cho những nông dân nghèo vô sản với giá phải chăng (điều 5).
Đặc biệt sắc lệnh nầy chấp nhận các cơ sở tôn giáo như chùa, nhà thờ, và các tổ đình làng xã sử dụng một ít đất đai và phải tự cày cấy để tự mưu sinh (điều 10). Trên nguyên tắc, sắc luật bãi bỏ quyền sở hữu đất đai của ngoại kiều (điều 19). Tuy nhiên cũng có một số miễn trừ cho đất đai của những người ngoại quốc, đặc biệt cho người Trung Hoa vì họ được CHNDTH bảo trợ. Ngoại kiều có quyền giữ đất nếu không có nghề gì khác để sinh sống (điều 25). Nguyên tắc phân phối đất đai có vẻ lý tưởng: giao đất theo nhu cầu của nông dân, người không có gì được nhiều, người đã có đất thì được ít hơn [?], và không giao đất cho những ai đã có đủ đất (điều 26).
Điều nổi bật trong sắc lệnh nầy là người được phân phối đất có quyền chuyển nhượng bằng cách thừa kế, thế chấp, bán hay cho kẻ khác (điều 31). Đây rõ ràng là ảnh hưởng từ luật điền địa CHNDTH, nhưng hoàn toàn có tính cách lý thuyết mà thôi. Việc thực hiện luật CCRĐ lần nầy được giao cho Nông hội, một thành phần của Mặt trận Liên Việt, với sự chấp thuận của Uỷ ban Kháng chiến hành chánh tỉnh (điều 34). Cuối cùng, sắc lệnh nầy cấm đoán mọi sự phản kháng cuộc CCRĐ (điều 35), và quy định việc thiết lập tòa án nhân dân đặc biệt để xét xử những thành phần chống lại cuộc CCRĐ của Việt Minh (điều 36).
GIAI ĐOẠN THỨ NĂM:
Vào giữa năm 1954, nước Việt Nam bị chia hai bằng Hiệp định Genève ký kết ngày 20-7-1954, theo đó Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tức VM cộng sản cai trị ở phía bắc vĩ tuyến 17, Quốc Gia Việt Nam ở phía Nam. Nói cách khác, cộng sản không còn ở rải rác trong các chiến khu khắp Bắc, Trung và Nam Việt Nam, mà tập trung tại vùng phía bắc vĩ tuyến 17 đến biên giới CHNDTH. Hồ Chí Minh và đảng LĐ muốn áp đặt một chính quyền độc tài theo chủ thuyết Mác-Lê trên lãnh thổ miền Bắc. Muốn thế, họ nhắm ngay đến thành phần rộng rãi chiếm đại đa số xã hội Việt Nam, đó là nông dân ở thôn quê. Nắm được nông thôn, kho lương thực của dân chúng, thì cộng sản sẽ nắm được thành thị không mấy khó khăn.
Tình hình ruộng đất ở Bắc Việt thay đổi lớn lao sau hiệp định Genève, vì khỏang 1,000,000 người bỏ đất Bắc di cư vào Nam, để lại toàn bộ điền sản tại quê nhà. Sau khi tái tổ chức chính quyền, tạm ổn định tình hình, Hồ Chí Minh ký sắc luật về CCRĐ ngày 14-6-1955. Sắc luật nầy dựa căn bản trên hai sắc lệnh tháng 4 và tháng 12 năm 1953, theo đó nhà nước tịch thu toàn bộ tài sản (đất đai, nhà cửa, gia súc, nông cụ…) của những người “thực dân”, địa chủ gian ác, cường hào ác bá, “Việt gian” phản động; trưng thu không bồi thường và thu mua đất đai, nông cụ, gia súc thuộc các nhân vật “tiến bộ”, các địa chủ đã tham gia kháng chiến, các địa chủ thuộc thành phần thương gia hay kỹ nghệ gia; truất hữu đất đai của các tổ chức tôn giáo như Thiên Chúa giáo, Phật giáo (chương 2).
Những người được thụ hưởng chính sách cải cách ruộng đất theo thứ tự ưu tiên: nông dân không có đất, hay thiếu đất để tự mưu sinh, các thành phần nghèo khổ ở thôn quê làm thợ hoặc buôn bán nhỏ có thể xin đất trồng trọt để cải thiện đời sống, gia đình liệt sĩ, chiến sĩ cộng sản, thương phế binh (chương 3).
Việc quy định thành phần xã hội của một người sẽ do hội nghị đại biểu nông dân quyết định. Một toà án nhân dân sẽ xét xử các địa chủ phản động, gian ác, những người chống phá “cách mạng” hay chống phá CCRĐ; hoặc xét xử những vụ tranh chấp ruộng đất, những vấn đề liên quan đến cải cách ruộng đất, như việc quy định thành phần xã hội, phân chia tài sản…(chương 4).(4)
TRẦN GIA PHỤNG
(Toronto, Canada)
1. Tô hay địa tô là tiền thuê đất mà tá điền (nông dân cày ruộng) trả cho chủ đất (điền chủ hay địa chủ). Tô có thể trả bằng tiền hay bằng hiện vật tức hoa màu mỗi mùa gặt được. Ngày xưa, chủ ruộng chịu giống, trâu cày, tá điền làm công. Khi thu hoạch, tá điền nộp tô là 50% hoa màu cho chủ ruộng, nông dân (tá điền) hưởng 50% hoa màu. Theo cách nầy, giảm tô thêm 25%, nghĩa là chủ ruộng chỉ còn 25% hoa màu thu hoạch, còn nông dân (tá điền) được 75%. Nếu giảm thêm 35%, nghĩa là chủ ruộng còn 15%, nông dân hưởng 85%.
2. Những cuộc CCRĐ từ giai đoạn sơ khởi đến giai đoạn thứ tư, theo tài liệu của Bernard Fall, Le Viet-Minh, Max Leclerc et Compagnie, Paris, 1960, [Bản dịch có bổ sung của The Viet-Minh Regime [Chế độ Việt Minh] cũng do Bernard Fall viết, Viện Liên Lạc Thái Bình Dương và Đại Học Cornell, New York, 1956, tt. 265-291.
3. Mặt trận Liên Việt (Liên hiệp Quốc dân Việt Nam) do Việt Minh cộng sản thành lập ngày 27-5-1946, do Huỳnh Thúc Kháng làm chủ tịch, Tôn Đức Thắng, phó chủ tịch. Năm 1947, Huỳnh Thúc Kháng từ trần, Tôn Đức Thắng lên thay.
4. Lâm Thanh Liêm, “Chính sách cải cách ruộng đất của Hồ Chí Minh: sai lầm hay tội ác?”, đăng trong Hồ Chí Minh, sự thật về thân thế và sự nghiệp, một nhóm tác giả, Nxb. Nam Á, Paris, 1990, tt. 185-186.
Sự thật về ‘ngôi làng bị thánh vật’ ở Phú Thọ
Nhiều năm qua, những người phụ nữ độc thân ở đây đặt ra câu hỏi tại sao họ lại phải sống cuộc sống như vậy. Hầu hết những người lớn tuổi kể câu chuyện đập phá đình chùa của làng ra làm nguyên nhân để lý giải cho số kiếp đau buồn của con cháu.
…..
Vì sao đàn ông trong làng lại “rủ nhau ra đi” kỳ lạ như thế? Việc này liên quan gì đến việc phá đình chùa khi xưa và lời đồn đại những người đàn ông của làng phải hứng chịu cơn nổi giận của thánh thần?
“Chủ Tịch Hồ Chí Minh muôn năm”
Lời nói cũa lũ vô học , dốt nát , bất lương bị bọn CS mê hoặc , cho làm ông đội , bà đội , chúng nó sướng lên tận óc , bão gì chúng nó cũng làm . Một thủ đoạn vô cùng tinh vi và độc ác cũa Mao mà Hồ tặc cho là vầng thái dương soi sáng cho dân tộc VN . Trách gì lũ dốt nát ngu si đó , nhưng tên tự cho mình là trí thức mà đi theo CS mới đáng khinh , đáng nguyền rũa .
Chuyện thật đấy, 100%. Bố tôi có ông bạn thân là bác Toàn đi hoạt động cách mạng nhưng khi cải cách ruộng đất bị “đội” và du kích bắt giam và đánh đập vì là “con nhà giầu”, sau sửa sai được thả, bác ấy chửi bọn đội và du kích : chúng mày ác hơn cả giặc Pháp. Về sau bác ấy làm chủ tịch tỉnh Yên bái rồi về làm chuyên viên ở Uỷ ban dân tộc Trung ương rồi về hưu.
Còn bà cô tôi lấy chồng là địa chủ ở làng trên, ông chồng bị xử bắn buổi sáng thì buổi chiều mới có lệnh từ trên huyện về không được bắn, oan quá.
Thưa bạn và bà con,
Tôi tin là chuyện thật, cho dù có chút mắm muối đi nữa !
Những ai chưa trải nghiệm qua cái “lò luyện tội” của CS dễ nghĩ là bịa !
Đọc sách của cụ Hoàng Văn Chí “Từ Thực Dân Đến Cộng Sản”, hiểu biết thâm sâu về Cải Cách Ruộng Đất được tổ chức khoa học có hệ thống ra sao, nhưng ko đi vào chi tiết từng trường hợp như bài chủ “Những Ngày Không Bình Yên” của Đỗ Trường.
Đó chính là những bản cáo trạng sống về tội diệt chủng (genocide) của CS.
Để từ đó mà sau này làm bằng chứng hùng hồn kết tội CS vô lương ra sao với dân !
Cụ Hoàng Văn Chí đã dậy cho tôi mốt số điều hay khi đọc tác phẩm trên:
1/ SỬA SAI là một BỘ PHẬN KHÔNG THỂ THIẾU ĐƯỢC CỦA CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT !
Bởi chính Mao đã đề ra nguyên tắc: Khi muốn uốn một chiếc đũa lệch cho thẳng lại, ta phải uốn nó quá một chút về phía đối nghịch !
Cho nên trong CCRĐ phải giết hơn qui định con số điều tra ai là kẻ thù nhân dân (địa chủ, phú nông, trí thức tiểu tư sản, cường hào ác bá nông thôn … qua câu motto “Trí Phú Địa Hào / Đào tận gốc đánh trốc tận mả” !). Cũng như trong thực tế có những vùng quê nghèo, ko đủ con số địa chủ như qui định, thế là đội cải cách bèn đôn lên cho đủ số qui định
2/ Hồ Chí Minh vừa là Chủ tịch Đảng, vừa Chủ tịch Nước; và nguyên tắc của CS là, TẬP THỂ CHỈ HUY, CÁ NHÂN PHỤ TRÁCH !
Như thế hết thảy trung ương đảng, nhất là Bộ Chính trị, mà người cầm đầu chính là cụ Hồ, phải chịu trách nhiệm nặng nề nhất. Nhưng cụ Hồ lại đưa đàn em ra làm vật tế thần. Nhưng ông Trường Chinh chỉ bị hạ bệ hết làm tổng bí thư, chuyển qua làm chủ tịch quốc hội; còn ông Lê Duẫn đôn lên (một nửa) làm Bí thư thứ Nhất (cho tận đến đại hội Bốn 1976, mới nắm chức tổng bí như xưa); và phụ tá ông Trường Chinh là ông Hồ Đức Thắng cũng bị hạ bệ và sau đó ko nghe nói tới rõ ràng.
Nhưng biết bao người thác oan liệu có lấy lại được mạng sống họ chăng ???
Rồi Phùng Gia Lộc lại cho tôi biết thêm thảm kịch đó vẫn chưa chấm dứt, qua truyện ngắn “CÁI ĐÊM HÔM ẤY … ĐÊM GÌ ?”, xẩy ra trong bối cảnh trước ngày có đổi mới !
Đổi Mới nhưng ta lại thấy vẫn đẻ ra nạn nhân ở nông thôn dưới hình thức khác. Chẳng hạn như vụ NÔNG DÂN NỔI DẬY Ở THÁI BÌNH, không phải một mà nhiều lần và những lần sau bị ếm đi; vụ NÔNG TRƯỜNG SÔNG HẬU; rồi mới đây vụ TIÊN LÃNG …
Đọc bài viết VẤN ĐỀ NÔNG DÂN VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ 21, của bác Nguyễn Minh Cần, điểm lại lịch sự hiện đại thời CS lên ngôi chủa tể, mà kinh hãi vô vàn. Chiến thuật chiến lược cướp đất của dân vẫn diễn ra dài dài, dưới những hình thức tinh vi hơn.
Cứ thử nhìn xem những con người nông dân hiền lành chất phác cần cù, bị bọn CS nhồi sọ rồi kích động, đã cùng nhau tạo ra những cơn lên đồng tập thể, đẩy cả nước sôi sục như trong cái chảo rang nóng bỏng. Cơ cấu làng quê ngàn đời bị phát nát, tình tự dân tộc bị sứt mẻ trầm trọng … Để được gì, ngoài những mối lợi về tay đảng CS, còn dân thù hận nhau dài dài và chết như rạ. Lầy của địa chủ và cường hào ác bá chia cho bần nông, để dễ dàng đưa vào hợp tác xã nông nghiệp cấp thấp cấp cao, nhưng rồi lại xoá bỏ cái rụp, rồi lại chiếm đất nông nghiệp làm đất công nghiệp, đô thị hóa nông thôn etc etc etc
Cũng như chính sách kinh tế mới gây bao tệ hại, nhưng được núp dưới những từ ngữ hoa mỹ: “bình quân lao động cho đồng đều trong cả nước” bla bla bla
Chính vì thế mà tôi chủ trương rõ ràng, PHẢI THỦ TIÊU CỘNG SẢN BẰNG MỌI GIÁ, CHO DÙ PHẢI DÙNG BẠO LỰC. Bởi CS không hề có thiện chí đối thoại mà mong chống chúng bằng phương cách bất bạo động. Chúng càng ngồi lâu trên quyền lực chúng càng gian ác, mị dân qua các chiêu bài như khoán sản phẩm, bỏ ngăn sông cấm chợ, bù lỗ, đổi mới chèo thuyền ra biển khơi bla bla bla
Lại Mạnh Cường
Ghi chú :
CUỘC CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT: CÁC GIAI ĐOẠN CẢI CÁCH , Trần Gia Phụng
http://motgoctroi.com/StLichsu/CCRDat/CCRD1_TGP.htm
- Xã hội Việt Nam, cho đến nay, vẫn là một xã hội dựa trên căn bản nông nhiệp. Bất cứ nhà cầm quyền nào tại nước ta đều phải giải quyết những vấn đề do nền nông nghiệp lạc hậu của chúng ta đặt ra, hầu tìm kiếm những giải pháp thích hợp để thăng tiến đời sống của nông dân, một thành phần chiếm khoảng 70% dân số hoạt động. Cộng sản Việt Nam lại càng chú trọng đến vấn đề nầy hơn nữa, vì lý thuyết Mác xít dùng yếu tố kinh tế để giải thích những vận động của lịch sử. Căn bản của yếu tố nầy là quan hệ sản xuất giữa chủ và thợ, mà ứng dụng vào xã hội nông nghiệp là quan hệ giữa chủ đất (điền chủ hay địa chủ) và dân cày (nông dân hay tá điền). Hơn nữa, do ảnh hưởng chủ thuyết của Mao Trạch Đông, lấy nông thôn bao vây thành thị, nên khi nắm quyền tới đâu, cộng sản Việt Nam tổ chức cải cách ruộng đất (CCRĐ) tới đó, để tập họp sức mạnh nông dân và cô lập giới phú hào.
Ngay từ năm 1949, Việt Minh (VM) cộng sản đã phát động CCRĐ, nhưng việc nầy chỉ tiến hành mạnh mẽ từ năm 1950 trở đi. Vào năm nầy, Hồ Chí Minh qua Liên Xô xin viện trợ. Stalin thúc bách Hồ Chí Minh thực hiện ngay hai việc: thứ nhất tái công khai đảng cộng sản và thứ hai đẩy mạnh CCRĐ theo đường lối cộng sản.
Sau cuộc gặp nầy trở về, Hồ Chí Minh triệu tập Đại hội lần 2 đảng Cộng Sản Đông Dương tại chiến khu rừng núi Tuyên Quang, tái công khai đảng cộng sản dưới danh xưng mới là đảng Lao Động (LĐ) ngày 19-2-1951, do Hồ Chí Minh làm chủ tịch, Trường Chinh làm tổng bí thư. Về việc CCRĐ, Hồ Chí Minh và VM cộng sản thực hiện dần dần qua năm đợt liên tiếp, và chỉ chấm dứt năm 1956 để chuẩn bị chiến tranh tấn công Việt Nam Cộng Hòa.
Cuộc CCRĐ của VM cộng sản chia làm năm giai đoạn, bắt dầu từ năm 1949 đến 1956. Trong những giai đoạn đầu trước năm 1954, cuộc CCRĐ chưa lên đến cao điểm ở miền Nam và miền Trung nước ta, nên nông dân ở miền Nam vĩ tuyến 17 ít có kinh nghiệm về việc nầy. Chỉ có vài nơi VM gọi là vùng “tự do”, do họ kiểm soát ở Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định diễn ra cảnh đấu tố (đấu tranh và tố cáo). Lúc đó, VM bắt đầu cuộc thương thuyết ở Genève, rồi đất nước bị chia hai, VM rút ra Bắc, nên cảnh đấu tố ở các tỉnh miền nam vĩ tuyến 17 chưa dữ dội lắm. Trong khi đó, tại Bắc Việt, khi mới bắt đầu, cuộc CCRĐ khá ôn hòa, nhưng trở nên mạnh mẽ từ sau khi Hồ Chí Minh nhận lệnh của Stalin năm 1950, và càng ngày càng ác liệt, nhất là giai đoạn 5 từ 1955 đến 1956 là giai đoạn sắt máu giết hại nhiều người nhất.
Nguồn: “Phỏng vấn ông Nguyễn Minh Cần (Nguyên Phó Chủ Tịch Ủy ban Hành chính HN)” về sự chuẩn bị của ĐCs và nhà nước VN trước khi bắt đầu cuộc Cải cách ruộng đất. Cuối giai đoạn chuẩn bị là thí điểm với vụ án bà Cát Thanh Long từng gây xôn xao dư luận 1 thời
Ông Nguyễn Minh Cần trong giai đoạn ấy là 1 cán bộ trung cấp. Ông từng là bí thư quận uỷ ngoại thành HN trước khi ra công khai, trở thành phó chủ tịch uỷ ban hành chính HN vào năm 1954. Ông thấu hiểu từng bước của cụôc cải cách ruộng đất và đã trực tiếp làm công tác sửa sai sau đó tại ngoại thành HN. Hiện ông Cần sinh sống tại Matxcơva
Những chuẩn bị mọi mặt của đảng Cộng Sản và nhà nước Việt Nam cho cuộc cải cách ruộng đất, khi đó đựơc gọi là một cuộc cách mạng long trời lở đất:
PV: Kính chào ông Nguyễn Minh Cần, ông có thể cho biết là ông HCM và đảng CS đã chuẩn bị cho cuộc cải cách ruộng đất như thế nào?
Ông Nguyễn Minh Cần: Trong năm 1951 và 1952 ông HCM đã cùng với Thường vụ trung ương đảng, bây giờ ta gọi là Bộ chính trị, lúc bấy giờ gọi là Thường vụ trung ương đảng, họ chuẩn bị về mọi mặt. Chuẩn bị quan trọng đầu tiên là chuẩn bị về mặt tư tưởng, làm cho cán bộ, đảng viên, quân đội thông suốt về tư tưởng.
Vì vậy họ đã tiến hành chỉnh huấn và chỉnh quân. Trong này có một điều đáng chú ý nhất, tức là người ta nói rằng trước đây người ta coi địa chủ là một thành phần ở trong nhân dân, mà bây giờ không phải như vậy rồi. Bây giờ địa chủ không phải là nhân dân, nhân dân chỉ là nhân dân và địa chủ tức là những người chống lại nhân dân – kẻ địch của nhân dân.
Điểm đó là điểm mà xoay chiều tư tưởng rất lớn ở trong cán bộ. Lúc bấy giờ cũng có nhiều cán bộ thắc mắc, đại thể tôi muốn nói một kinh nghiệm, khía cạnh như vậy để thấy rằng lúc đầu tư tưởng của cán bộ cũng không phải nhất trí trong vấn đề đánh địa chủ đâu, mà có những thắc mắc như vậy. Thế nhưng mà những cuộc chỉnh huấn có nhiệm vụ làm thế nào để dẹp hết tất cả những tư tưởng thắc mắc đó để tạo một sự nhất trí bắt buộc ở trong đảng, ở trong quân đội và ở trong các đoàn thể. Trong giới trí thức cũng có những cuộc chỉnh huấn.
Vì vậy họ đã tiến hành chỉnh huấn và chỉnh quân. Trong này có một điều đáng chú ý nhất, tức là người ta nói rằng trước đây người ta coi địa chủ là một thành phần ở trong nhân dân, mà bây giờ không phải như vậy rồi. Bây giờ địa chủ không phải là nhân dân, nhân dân chỉ là nhân dân và địa chủ tức là những người chống lại nhân dân – kẻ địch của nhân dân.
Việc thứ hai, chuẩn bị mặt tổ chức thì tôi muốn nói rõ thêm là về mặt tổ chức lúc bấy giờ theo sự phân công giữa Mao Trạch Động và ông HCM thì Stalin có nói rằng Trung Quốc ở gần Việt Nam và đã từng có kinh nghiệm cải cách ruộng đất rồi, thế thì Trung Quốc sẽ giúp cho Việt Nam làm việc đó.
Vì vậy cho nên Việt Nam mời các cố vấn sang. Tổng cố vấn lúc bấy giờ là Lã Quý Ba, ông ta đồng thời là đại sứ của Bắc Kinh, đại sứ mà lại đồng thời là tổng cố vấn. Tổng cố vấn về quân đội là Vi Quốc Hân?, tổng vấn về cải cách ruộng đất là Triểu Hiểu Quang. Ông này là phó bí thư tỉnh ủy Quảng Tây, là tỉnh cũng đã làm cải cách ruộng đất.
Như vậy là trùm lên trên về mặt tổ chức là hệ thống cố vấn. Đồng thời về mặt tổ chức thì thành lập cái gọi là Ủy ban cải cách ruộng đất trung ương, dưới trung ương có các đoàn cải cách ruộng đất. Mỗi đoàn cải cách ruộng đất thì có một đoàn ủy lãnh đạo. Dưới các đoàn là các đội cải cách ruộng đất.
Những cảnh đấu tố tái hiện lại, làm cho người đọc kinh hãi. Đất nước trải qua quá nhiều tang thương. Những cảnh đất cát ở quê hiện nay còn kinh hãi hơn. Cảm ơn tác giả cho kẻ hậu bối này biết một giai đoạn đã qua của đất nước, con người.
“Đả đảo địa chủ cường hào gian ác….Chủ Tịch Hồ Chí Minh muôn năm, đảng lao động Việt Nam muôn năm….”
Vậy đó mà lâu lâu lại có người trích câu này câu kia của Hồ Chí Minh. Thật tởm lợm! HCM nói và HCM làm là hai chuyện khác nhau. Nói cho cùng thời bây giờ cũng vẫn là thời đồ đểu, nhưng so ra nó còn tốt hơn thời HCM đăng nắm quyền nhiều.
“Chủ Tịch Hồ Chí Minh muôn năm” nghe nó mỉa mai làm sao.
Nhân chứng sống thời đại đảo điên vẫn còn đầy. Lịch sử khó có thể bóp méo vo tròn theo ý của bọn ác được. Cám ơn t/g đã kể lại chuyện này để hậu thế biết.
Viết kinh bỏ mẹ :-( !
Đọc rợn cả người,
Đéo tin là có thật !
Đến tên người (Đụ)
đọc lên thấy mà hãi !
Kết, viết hay hơn thật !
Thời CS lúc nào mà chả
như chảo rang muối mặn !
Nước mắt, mồ hôi, máu đỏ dân lành
chảy tràn lan như biển hồ đầy nước muối !
Sau này vẫn còn chuyện thương tâm hơn thế
“Cái đêm hôm ấy đêm gì?” của Phùng Gia Lộc
đã kể rõ cảnh khốn nạn ấy vào cái thời Đ(ù) M(ẹ) !
Lão Ngoan
Ghi chú:
TUỔI TRẺ ONLINE
Thứ Tư, 21/12/2005, 11:44 (GMT+7)
Sau loạt bài “Đêm trước đổi mới”, rất nhiều bạn đọc đã gọi đến Tuổi Trẻ yêu cầu đăng lại bài ký sự một thời gây sóng gió “Cái đêm hôm ấy…. đêm gì?” của nhà văn Phùng Gia Lộc. Ngày ấy, khi xuất hiện trên báo Văn Nghệ, những dòng chữ rút ruột từ nỗi uất ức, cay đắng, ngỡ ngàng của Phùng Gia Lộc đã tạo nên một “cơn địa chấn”.
Nhiều người đã phải giật mình, phải tự nhìn lại mình, nhìn lại những việc mình làm và đang hô hào người khác làm… Một hơi gió của đổi mới cũng bắt đầu từ đó, góp vào cơn gió sẽ đổi mới cả một đất nước, đổi đời cho hàng chục triệu con người.
Theo yêu cầu của độc giả, Tuổi Trẻ xin đăng lại toàn văn bài ký sự “Cái đêm hôm ấy… đêm gì?” của nhà văn Phùng Gia Lộc trên Tuổi Trẻ Online. Xin bạn đọc thông cảm cho việc không thể đăng trên báo ngày, vì các trang còn phải dành cho tin, bài thời sự
Câu chuyện dau thương của Dân-Tộc qua cuộc” Cải cách ruộng dất”dã hơn 1/2 thế kỷ,nhưng tửơng chừng
như còn “quanh dây”.Nhìn bức ảnh,nhiều trẻ con ngồi xem dấu tố,thậm chí xem cả việc hành-quyết…Hôm nay,
những dứa trẻ ngày xưa,trở thành “lảnh dạo”,làm sao những chuyện dau thương của dân-tộc không tiếp diễn!??Dổ-Mười là một thí dụ!!! Trên thế giới,cũng có những nơi,mà con người dối xử với nhau tàn-ác như
thế,.nhưng bánh xe Lịch sử vượt qua, dể dến với tương-lai.Dó là Tổng-thống Mỹ xin lổi lục dịa Den(châu-phi)
vì có môt thời xử dụng chế-dô Nô-lệ.Thủ tướng Nhật xin lổi Các nước Dông-Á vì có một thời “tàn-ác’khi Xâm-chiếm.Và gần dây nhất TT nga Boris Elsin,thay mặt nhân dân Nga “tạ-tội’trước Linh cửa của Hòang-gia
NGa qua cuộc thảm sát thời Lenin!!Còn VN vẩn là dảng”quang vinh”thế là nghĩa thế nào??
Tưởng quá dủ,không phải dể cho những người Lảnh-dạo CS “giác ngộ’,mà quá dủ dể cho các bạn trẻ
trong nước thấy rõ một chế-dô Phản Dân-Tộc:Chế dô CHXHCNVN!! Dến lúc nầy rồi mà còn Dòan,còn Dội..
thì tương lai Dân-tộc di về dâu??