WordPress database error: [Expression #1 of ORDER BY clause is not in GROUP BY clause and contains nonaggregated column 'oldsite_dcvwp.wp_posts.post_date' which is not functionally dependent on columns in GROUP BY clause; this is incompatible with sql_mode=only_full_group_by]
SELECT YEAR(post_date) AS `year`, MONTH(post_date) AS `month`, count(ID) as posts FROM wp_posts WHERE post_type = 'post' AND post_status = 'publish' GROUP BY YEAR(post_date), MONTH(post_date) ORDER BY post_date DESC

 
|

Làm thế nào để góp phần xây dựng Xã hội Dân sự tại Việt nam?

(Bài góp ý nhân cuộc Hội thảo ngày 3 tháng 11 tại thành phố Santa Ana, Orange County miền Nam California)

Được sự đồng ý của Ban Tổ chức cuộc Hội thảo, tôi xin hạn chế việc trình bày vào khía cạnh thực hành của công cuộc Xây dựng Xã hội Dân sự (XHDS) tại Việt nam trong giai đọan hiện nay vào đầu thế kỷ XXI.

I – Để bắt đầu, xin điểm qua về tình hình sinh họat của XHDS tại Việt nam hiện nay.

A – Như ta đã biết XHDS là một khu vực thứ ba mà cùng với khu vực Nhà nước và khu vực Thị trường Kinh doanh hợp thành cái Không gian Xã hội do con người sống hợp quần với nhau trong xã hội mà tạo lập ra. Định nghĩa này có thể viết ngắn gọn dưới dạng một công thức như sau :

Không gian Xã hội = Nhà nước + Thị trường Kinh doanh + XHDS.

( The Social Space = the State + the Marketplace + the Civil Society)

Như vậy, XHDS bao gồm mọi tổ chức, đơn vị nào mà đều có 3 tính chất sau đây :

a/ phi chính phủ (non-governmental)

b/ bất vụ lợi (non-profit)

c/ tự nguyện (voluntary)

Và trong mối tương quan đối với chính quyền Nhà nước, thì XHDS vừa đóng vai trò làm Đối tác (counterpart) – như trong lãnh vực từ thiện nhân đạo – và vừa làm Đối trọng (counterbalance) – như trong việc bảo vệ công bằng xã hội, bảo vệ nhân phẩm nhân quyền của người công dân.

Trước năm 1975, thì tại miền Nam Việt nam vẫn tồn tại một khu vực XHDS có những đặc tính như trên – mặc dù vì hòan cảnh chiến tranh nên có những hạn chế này nọ vì lý do chính trị quân sự.

B – Tại Việt nam hiện nay, thì vì chính sách độc tài tòan trị của đảng cộng sản (totalitarian dictatorship) bao trùm lên mọi lãnh vực chính trị, kinh tế và cả văn hóa tư tưởng nữa – nên khu vực XHDS cũng bị đảng cộng sản lũng đọan thao túng thông qua những tổ chức “ngọai vi của đảng” – cụ thể điển hình như Hội Liên hịệp Phụ nữ, Đòan Thanh niên Cộng sản, Mặt trận Tổ quốc, Hội Nhà văn v.v… Kể cả trong lãnh vực tôn giáo, thì cũng có đủ thứ tổ chức do đảng trực tiếp dật giây điều khiển mà nhân gian gọi là các thứ “Phật giáo quốc doanh”, “Công giáo quốc doanh” v.v…

Từ khi nắm được chính quyền trong tay, thì đảng cộng sản Việt nam đã luôn luôn áp dụng hòan tòan theo mô hình của Liên Xô, Trung cộng là : “Đảng cộng sản lãnh đạo tuyệt đối và tòan diện” – như họ đã ghi rõ ràng trong điều 4 Bản Hiến pháp.

II – Vậy thì chúng ta phải làm thế nào để góp phần vào công cuộc xây dựng XHDS ở Việt nam?

Xin quý vị chú ý :  Câu hỏi này nêu chủ điểm là “Góp phần vào công cuộc xây dựng XHDS”, đó là bàn về vai trò của chúng ta là trên 4.5 triệu người Việt hải ngọai mà hiện đang sinh sống phân tán ở trên 60 quốc gia tại khắp thế giới. Cho nên công việc xây dựng XHDS chính yếu đó là phải do 90 triệu người dân hiện đang sinh sống tại quê hương Việt nam đóng vai trò chủ động đích thực – còn người ở hải ngọai như chúng ta đang ở đây, thì chỉ có thể đóng vai trò phụ họa yểm trợ cho công cuộc xây dựng vô cùng lớn lao đó mà thôi (supporting role).

A – Trước hết là rút kinh nghiệm xây dựng cụ thể thiết thực của cha ông chúng ta được thể hiện trong truyền thống dân tộc từ ngàn xưa.

Từ xa xưa, cha ông chúng ta vẫn thường nói : “Phép vua thua lệ làng” – tức là xác nhận một tình trạng thực tế là : Chính quyền trung ương dù bao trùm lên tòan thể quốc gia, thì cũng phải nhường bước cho chính quyền địa phương tại các thôn xã. Tình trạng này, người ta gọi là chế độ địa phương tự trị (local autonomy) – tức là địa phương có thẩm quyền riêng biệt của mình, mặc dầu vẫn chịu sự chi phối và lãnh đạo của chính quyền trung ương.

Mà như ta đã biết, từ nhiều thế kỷ trước tại nước ta chỉ có nền kinh tế nông nghiệp với năng suất rất thấp kém, nên ngân sách của chính quyền trung ương cũng như địa phương cũng rất hạn chế eo hẹp. Do đó mà không thể cung ứng cho nhu cầu họat động mạnh mẽ của guồng máy chính quyền như trong các quốc gia phát triển ngày nay. Vì thế, tại mỗi thôn xã thời trước như vào đầu thế kỷ XIX, thì chính quyền địa phương cũng chỉ có dăm ba người được trả lương để lo việc điều hành mọi công việc hành chánh thông thường của làng xã mà thôi. Và hầu hết các việc khác, thì do những vị kỳ mục, những vị tôn trưởng – là những người nằm ngòai guồng máy công quyền mà lại có uy tín đức độ tại địa phương -  đứng ra tổ chức vận động bà con góp công sức và tiền của ra để cùng nhau thực hiện những dự án cụ thể có ích lợi thiết thực cho tòan thể cộng đồng thôn xã đó.

Trong bài viết trước đây nhan đề là “XHDS tại Nông thôn Việt nam thời xưa”, tôi đã có dịp phân tích chi tiết về tình hình sinh họat trong xã hội cổ truyền tại các vùng nông thôn trước đây. Nay tôi chỉ xin nhắc sơ qua về mấy đặc điểm của XHDS vào thời xa xưa tại Việt nam.

Điều đáng chú ý nhất là vai trò lãnh đạo cộng đồng do các vị tôn trưởng đảm nhận. Các vị tôn trưởng này gồm những vị có uy tín, được sự tin cậy yêu mến của dân làng – mà điển hình là những thầy đồ dậy dỗ hướng dẫn các môn sinh tại địa phương, những vị lãnh đạo tinh thần trong các tổ chức tôn giáo, những thân hào nhân sĩ xuất thân từ các “danh gia vọng tộc” v.v… Họ vừa có tài năng trí tuệ, vừa có đức độ và nhiều vị còn có tài sản tương đối khá giả để mà “người góp sáng kiến, góp công sức – người góp của” để cùng nhau hòan thành những dự án cụ thể có ích lợi cho bà con trong cộng đồng. Đặc biệt các cụ đồ nho, thì ngay các vị quan lại ở địa phương cũng phải nể trọng vì đó là sư phụ của chính bản thân mình hay của các bạn cũng làm quan lại đồng liêu với mình.

Đó là các vị sĩ phu, những nhà trí thức vừa cùng sinh sống chung với quần chúng nhân dân, chia sẻ mọi nỗi khó khăn vất vả của các thành viên trong tập thể xóm làng – và vừa dấn thân nhập cuộc trong những công việc thường ngày cùng với dân làng ngay tại hạ tầng cơ sở ở địa phương. Bởi thế, mà giới kẻ sĩ luôn luôn được xã hội trọng vọng và được xếp vào bậc cao nhất trong tập thể như dân gian vẫn thường gọi : “Sĩ, Nông, Công, Thương”. Cụ Nguyễn Công Trứ vào hồi đầu thế kỷ XIX đã ghi rõ vai trò tiêu biểu đáng kính đáng trọng của kẻ sĩ trong xã hội cổ truyền trong bài “Kẻ Sĩ” – như chúng ta đều đã được học ở nhà trường dưới chế độ Việt nam Cộng hòa trước năm 1975. Những vị sĩ phu có công với xóm làng thì thường được người dân biết ơn và lập miếu thờ trong các cơ sở gọi là “Miếu Tiên Hiền”.

Nhưng điều thật đáng buồn là ngày nay tại Việt nam, sau gần 70 năm dưới chế độ độc tài chuyên chế của đảng cộng sản, thì qua các chiến dịch như “Cải cách Ruộng đất”, “Tập thể hóa Nông nghiệp” – tất cả khu vực nông thôn của chúng ta đều đã bị tàn phá tan hoang với tầng lớp lãnh đạo bị tiêu diệt tòan bộ. Và thay vào đó là các đảng viên, các công an, cán bộ Nhà nước tạo thành một “guồng máy kềm kẹp” rất chặt chẽ khắc nghiệt – khiến làm tê liệt mọi sáng kiến cải thiện xã hội mà tầng lớp kẻ sĩ thời xưa vẫn ra tay thi thố để góp phần xây dựng sự an vui hưng thịnh của xóm làng.

Do vậy, mà gần như đại bộ phận giới sĩ phu trí thức của Việt nam hiện nay, thì đều là những người sinh sống tại các thành thị. Lớp người này được tiếp cận với thế giới văn minh ở bên ngòai nhiều hơn – đặc biệt là có thể sử dụng internet để trao đổi tin tức với bà con bạn hữu ở khắp nơi trên thế giới. Nhờ đó mà họ cũng bớt được sự sợ hãi đối với cơ quan an ninh mật vụ của nhà nước, điển hình như nhiều người trẻ đã dám trực diện tranh đấu đòi tự do dân chủ và nhân quyền cho người dân Việt nam. Nhất là họ còn tỏ thái độ chống đối với quân xâm lược Trung quốc, bất chấp sự đàn áp tàn bạo của chính quyền cộng sản hiện nay đang là tay sai của chế độ bành trướng bá quyền ở Bắc kinh.

Và điều đáng phấn khởi hơn nữa, đó là hiện đang có hàng ngàn các bloggers xuất hiện trên các trang mạng on-line để phổ biến thông tin và quan điểm suy nghĩ nhận định của mình cung ứng cho khối quần chúng mỗi ngày một thêm đông đảo – có thể lên tới con số hàng triệu người – trong cái không gian mạng lưới điện tử hiện đại (cyberspace) – mà công an cộng sản dù tinh vi thâm độc đến mấy đi nữa, thì cũng không thể làm sao ngăn chặn phá phách tiêu diệt cho hết được nữa. (Tình trạng này đã được nói đến trong bài “XHDS trong thời đại Internet” phổ biến vài năm trước đây).

Đó quả thật là một khía cạnh lạc quan cho công cuộc tranh đấu cho sự Tòan vẹn Lãnh thổ, cho Tự do, Dân chủ, cho sự Công bằng Xã hội, cũng như cho Nhân phẩm và Nhân quyền của nhân dân Việt nam chúng ta vào đầu thế kỷ XXI ngày nay vậy.

B – Kinh nghiệm học được từ các quốc gia dân chủ tiến bộ trên khắp thế giới ngày nay.

Người Việt hải ngọai hiện nay đang sinh sống tại khắp các châu lục, như tại Nhật bản, Đại Hàn, Đài Loan ở Á châu, ở Úc châu, ở Đông Âu, ở Tây Âu, ở Bắc Mỹ châu và cả ở châu Mỹ La tinh. Hầu hết đó là các quốc gia có chế độ dân chủ vững mạnh, có nền kinh tế phát triển phồn thịnh, cũng như có truyền thống văn hóa nở rộ khởi sắc. Và đặc biệt, tại các quốc gia này, thì đều có một khu vực XHDS sinh họat rất phong phú đa dạng – mà không hề bị chính quyền tìm cách hạn chế kiềm hãm hay gây chuyện làm khuynh lóat lũng đọan – như ta thấy hiện nay ở các nước cộng sản như Bắc Triều Tiên, Trung quốc và dĩ nhiên là ở cả Việt nam nữa.

1 – Lấy thí dụ riêng tại nước Mỹ là nơi chúng ta có đến gần 2 triệu người Việt đang cư ngụ sinh sống (trong số này phần lớn đều đã có quốc tịch Mỹ) – thì hiện có đến hàng triệu các tổ chức phi-chính phủ (NGO =non- governmental organisations) và hàng 3 triệu các nhóm nhỏ (small groups). Các NGO đều phải đăng ký với cơ quan nhà nước để được hưởng quy chế miễn thuế (tax-exempt). Còn các nhóm nhỏ, thì không cần phải đăng ký, vì họ cũng khộng cần được miễn thuế – lý do đơn giản là họ chi tiêu rất ít.  Người Việt Tỵ nạn chúng ta được tự do tổ chức thành các hội đòan đủ mọi lọai – chuyên về sinh họat tương trợ ái hữu, văn hóa, tôn giáo, xã hội và cả về mặt chính trị nữa. Chúng ta đều có tự do họat động thỏai mái như bất kỳ người công dân Mỹ nào – mà không hề bị ảnh hưởng của nạn kỳ thị phân biệt vì lý do chủng tộc, tôn giáo hay vì bất cứ lý do gì khác.

Khi gặp điều gì bất đồng ý hay bị đối xử bất công áp bức, thì chúng ta có thể áp dụng nhiều hình thức tranh đấu hợp pháp và bất bạo động nhằm đòi hỏi quyền lợi chính đáng cho cá nhân hay cho tập thể của mình. Ta có thể dùng phương thức “vận động hành lang” (lobby) để kêu gọi sự hỗ trợ của giới chức trong cơ quan lập pháp cũng như hành pháp và tư pháp của chính quyền Liên bang hay Tiểu bang – để họ cứu xét lại những đòi hỏi chính đáng của chúng ta. Người dân cũng có thể phát biểu trên cơ quan báo chí truyền thông, với các tổ chức bảo vệ nhân quyền – điển hình như với ACLU (Hiệp hội Nhân quyền Mỹ = American Civil Liberties Union), Human Rights Watch, Amnesty International v.v…

Cái kinh nghiệm thực tế sinh động này cần được phổ biến sâu rộng đến với bà con ở bên quê nhà để họ tham khảo và tùy nghi áp dụng trong các họat động xây dựng tích cực và cụ thể trong hòan cảnh đặc thù của mỗi địa phương tại Việt nam.

2  – Trường hợp của các nước ở Đông Âu cũng rất đáng chú ý.

Các quốc gia này đã rũ bỏ được chế độ độc tài cộng sản từ cuối năm 1989 với sự sụp đổ của Bức tường Bá Linh. Và trong hơn 20 năm qua, người dân ở vùng này đã dần dần khôi phục lại được khu vực XHDS một cách rất vững vàng ngọan mục. Và công cuộc chuyển hóa dân chủ tại đây đã dứt khóat trở thành một quá trình không thể nào mà lại có thể đảo ngược lại được nữa (irreversible processus) – tức là không thể nào mà trở lại với chế độ độc tài chuyên chế cộng sản như dưới thời sắt máu của Stalin được nữa.

Nói chung, thì sự thành công của người dân tại Đông Âu như vậy là nhờ vào sự tranh đấu bền bỉ kiên cường trong nhiều thập niên trước đó – điển hình như những cuộc nổi dậ liên tiếp ở Hungary năm 1956, ở Tiệp khắc năm 1968 (được gọi là Mùa Xuân Praha), rồi đến các Phong trào Đòan kết Solidarnosc ở Ba lan, Phong trào Hiến chương 77 ở Tiệp khắc vào cuối thập niên 1970 v.v…

Trên phương diện quốc tế, ta cần ghi nhớ ảnh hưởng của Thỏa ước Helsinki được ký kết vào năm 1975 giữa các quốc gia Âu châu, kể cả các nước trong khối Xô Viết, thì thỏa ước này đã tạo ra được một cơ sở pháp lý và chính trị rất thuận lợi cho sự phát triển của phong trào tranh đấu Nhân quyền ngay tại các nước độc tài cộng sản – để rồi đưa tới thắng lợi cuối cùng vào năm 1989 như chúng ta đã thấy.

Kinh nghiệm “Xây dựng và Phục hồi XHDS” quý báu này từ các nước “cựu cộng sản” ở Đông Âu cũng như ở 15 quốc gia tách biệt ra từ Liên bang Xô Viết cũ sẽ rất có ích cho Việt nam chúng ta trong giai đọan “hậu cộng sản” sắp tới vậy.

III – Để tóm lược lại.

Việc xây dựng XHDS là công trình rộng lớn của tòan thể khối quần chúng nhân dân – thông qua hàng ngàn, hàng vạn những tổ chức và đơn vị có đủ cả 3 tính chất : phi chính phủ, bất vụ lợi và tự nguyện. Đó là một quá trình liên tục, lâu dài và gian khổ nữa – chứ đó không thể là một việc làm đơn giản dễ dãi như chuyện trở bàn tay ra mà thành công được.

Ngay từ hồi đầu thế kỷ XX, cách nay cỡ 100 năm, nhà cách mạng ái quốc Phan Châu Trinh đã hô hào tòan dân phải cùng dấn thân nhập cuộc vào cả 3 mặt trận rộng lớn được tóm gọn trong khẩu hiệu : “ Nâng cao Dân trí + Chấn hưng Dân khí + Cải tiến dân sinh”. Thì cả ba mặt trận đó vẫn còn có giá trị rõ rệt cho công cuộc xây dựng và phục hồi lại XHDS trên quê hương đất nước ta ngày nay vào thế kỷ XXI vậy.

Cụ thể, chúng ta phải chuẩn bị gấp rút ngay từ lúc này – dù đất nước hiện vẫn còn đang bị sự kềm kẹp ngặt nghèo thâm độc của đảng cộng sản ngoan cố với chủ trương phản dân bán nước. Cũng như cụ Phan đã lên tiếng kêu gọi ngay giữa lúc nước Việt nam đang bị thực dân Pháp xâm chiếm đô hộ và áp đặt một chế độ đàn áp dã man tàn bạo.

Nói cho rõ ràng và ngắn gọn hơn, thì người Việt hải ngọai chúng ta cần  tiếp tục hỗ trợ tích cực hơn nữa đối với mọi dự án cụ thể thiết thực của bà con trong nước trong lãnh vực tranh đấu chống kẻ thù ngọai xâm là Trung cộng, cũng như chống bè lũ nội xâm là Việt cộng. Cũng như sát cánh với công cuộc tranh đấu đòi Công bằng Xã hội, đòi Tự do, Dân chủ và Nhân quyền của đại khối dân tộc là bà con máu mủ ruột thịt thân yêu của tất cả mọi người chúng ta.

Dĩ nhiên là chúng ta vẫn nên tiếp tục hỗ trợ những công việc xã hội từ thiện nhân đạo – cụ thể như cứu trợ nạn nhân thiên tai bão lụt, giúp đỡ người bị tật bệnh nan y như bệnh phong cùi, bệnh HIV/AIDS, hỗ trợ các đồng bào sắc tộc thiểu số, giúp đỡ về y tế giáo dục, về dậy nghề cho người dân ở những vùng sâu vùng xa kém phát triển v.v…

Hàng ngũ cộng sản hiện đang có dấu hiệu suy thóai rệu rã – do nạn bè phái tham nhũng đã trở thành căn bệnh quá nặng nề trầm trọng – do sự bất tín nhiệm của đa số quần chúng nhân dân trước sự gian trá lường gạt tầy đình của giới lãnh đạo của đảng. Và nhất là còn do sự xâu xé mâu thuẫn đấu đá lẫn nhau trong nội bộ của đảng mà hiện đã đến mức độ không còn có thể hàn gắn cứu chữa được nữa.

Đó là cơ hội đang chín mùi, rất thuận lợi cho công cuộc tranh đấu nhằm giải thể lọai trừ vĩnh viễn cái chế độ vô luân, bất nhân và thất đức đã hòanh hành tàn phá đất nước ta từ gần 70 năm qua vậy./

Costa Mesa, Tháng Mười Một 2012

© Đoàn Thanh Liêm

© Đàn Chim Việt

 

 

 

 

8 Phản hồi cho “Làm thế nào để góp phần xây dựng Xã hội Dân sự tại Việt nam?”

  1. NON NGÀN says:

    BÁNH XE VUÔNG

    Bánh xe chạy được phải tròn
    Đó là quy luật khách quan trên đời
    Có anh lẩn thần ngồi chơi
    Ngược đời mới nghĩ xe cần bánh vuông
    Bởi vuông cân đối bốn bên
    Công bằng lý tưởng vượt lên sự thường
    Quả là Các Mác đáng thương
    Ăng-ghen siêu tuyệt hai đường nổi danh
    Ở Nga có cả Lênin
    Quyết cùng nhau lắp bánh vuông cho đời
    Nên sau cách mạng tháng Mười
    Bảy mươi năm ấy thảy cùng khiêng xe
    Bởi xe nào chạy bánh vuông
    Phải khiêng phải đẩy mồ hôi tràn đường
    Cuối cùng rệu rã lẽ thường
    Bánh vuông phải tháo lắp ngay bánh tròn
    Chuyện đời, ấy vậy cũng xong
    Nước Nga trở lại hân hoan thở phào
    Giận vì Các Mác tào lao
    Thông minh quá lẽ bày trò bánh vuông
    Nghĩ là giai cấp công nhân
    Phải làm cách mạng xả thân vì đời
    Ngồi không anh đặt chuyện chơi
    Bánh xe vuông ấy dễ thời nào quay
    Phải cùng đẩy bở hơi tai
    Đẩy hoài chẳng đặng phải khiêng trên đường
    Nói ra quả chuyện khác thường
    Nhưng ngồi ngẩm lại dị thường đúng hơn
    Một trăm triệu mạng đi đoong
    Trên toàn thế giới chỉ vì khiêng xe
    Cơ hồ nói dễ ai nghe
    Bởi vì chuyện lạ mà nghe thể nào
    Xe vuông vẫn chạy nháo nhào
    Thật đâu có chạy mà người phải khiêng
    Trăm năm lao động nhãn tiền
    Xây nền vô sản để khiêng xe này
    Cuối cùng chỉ toát mồ hôi
    Giật mình mới lại chuyển sang thị trường
    Bánh vuông thay lại bánh tròn
    Tự nhiên xe chạy mà người khỏi khiêng
    Đúng là học thuyết thần tiên
    Nói ngu hơi quá nói điên thật nhằm
    Vậy mà kinh tế thị trường
    Giữ bài chuyên chính khác gì trục vuông
    Bánh tròn mà trục vẫn vuông
    Làm sao quay được cho nhanh ở đời
    Thế nên chuyện rõ ngời ngời
    Bánh tròn phải lắp trục tròn mới nên
    Thế thì kinh tế thị trường
    Điều chi nghịch lý tơ vương làm gì
    Vứt đi chẳng tiếc mà chi
    Xây nền dân sự để đời tự do
    Người khôn ai nỡ bày trò
    Chỉ riêng anh Mác đặt trò đáng thương
    Trục vuông lắp bánh xe vuông
    Nghĩ là lý tưởng thông minh trên đời
    Biến con người phải dại khờ
    Một thời tâng bốc tận trời mây xanh
    Bánh vuông trục hẳn phải vuông
    Đỉnh cao trí tuệ đáng thương quả là
    Chuyện cười giữa cõi người ta
    Ngàn đời mới thấy xảy ra lần này !

    ĐẠI NGÀN
    (09/11/12)

  2. NHƯNGUYEN says:

    Để góp phân xây dựng một xã hội dân chủ ở VIỆT NAM cộng đồng người Việt ở hải ngoại phải tổ chức lại ;có ban điều hành và thực 2 việc trước tiên:
    1-Mỗi tháng tổ chức diễu hành trước đại sứ quán của VN ở các nước đòi tự do ;dân chủ cho VN và điễu hành trước sứ quán của TRUNG QUỐC phản đối hành động cướp đảo ;lấn đát của VN.
    2-Rải truyền đơn trên khắp đất nước để cho người dân biết sự thật về HCM ;những tội ác của csvn trong tết MẬU THÂN ở HUẾ năm 1968 (hiện nay phần lớn người dân ở các tỉnh phía Bắc và một số không nhỏ ở phía nam vẫn còn thần thánh hóa HCM và đặc biệt bị csvn tuyên truyền gần 100.000 người dân vô tội bị chết oan và chôn tập thể là do quân đội VNCH và quân đội Mỹ giết vì theo Việt cộng ).Ngoài hai sự kiện đặc biệt trên còn phải chọn lọc những bài viết kêu gọi đấu tranh cho tự do ;dân chủ ở VN.
    Việc làm trên rất tốn kém và chỉ có thể thực hiện từ các nước CAMPUCHIA;LÀO;TQ ;còn cách làm thì tham khào cách làm của HÀN QUỐC khi rải truyền đơn qua TRIỀU TIÊN

    • Builan says:

      Hết lòng TáNG DƯƠNG cả 2 còms cuả NHƯNGUYÊN
      Nghe được tiếng lòng thương nước thương dân đầy nhiệt tình cuả quý liệt vị
      Nhưng xin thưa !!!
      Có lẽ nào chúng ta lại cứ ĐÂM ĐẦU “lao động là vinh quang” gởi về quốc nội chín, mười tỷ DOLLARS mỗi năm ! Thân tàn sức kiệt rồi thỉ TỰ NGUYỆN làm “lính đánh thuê” cho bà con mình _ tri thức lẫn ngu dân – tầng tầng an hưởng !!! Bất nhẫn và bất công
      Họ chấp nhận làm thân nô lê cho TÀU _ Họ miệt thị NVHN không tiếc lời !!!
      Tôi noí không ngoa – họ vô cảm- cầu an hưởng thụ – ” chờ sung rụng”

      Caí NGHIỆP nào bắt NVHN phaỉ nhận lảnh cái gánh nặng ngàn cân !!
      Dĩ nhiên- tôi không quên tri ân _ hướng về những người đang dấng thân và chiụ TÙ ĐÀY !
      TỔ QUỐC nếu được sống còn với dân tộc – phải GHI ƠN họ !

      Sao lao – làm gì cho phaỉ đạo – cho hợp lẽ cóng bằng ??????
      Chờ CAO KIẾN cuả quý bác uyên thâm !

  3. NHƯNGUYEN says:

    Những vấn đề bạn NGƯỜI DÂN SAYS nêu là hoàn toàn chính xác.
    Ý kiến mà bạn ĐTL đưa ra LÀ MỘT VẤN ĐỀ QUAN TRỌNG mà cộng đồng người VIỆT ở hải ngoại nên quan tâm để có thể giúp những người thân ;bạn bè của mình đang sinh sống tại quê nhà sớm có được một môi trường sống như các bạn đã và đang được hưởng thụ.
    Trong hơn 70 năm qua với phương châm làm việc 1000 lần nói láo sẽ thành sự thật csvn đã xuyên tạc sự thật về lịch sử và che dấu những tội ác mà csvn đã gây ra.Tôi xin dẫn chứng hai sự kiện sau:
    1-Phần lớn những người miền Bắc và không ít người Miền nam ;đặc biệ là thế hệ sinh sau 1975 có cái nhìn thần thánh hóa ông HCM.
    2-Gấn 100.000 người dân vô tội ở HUẾ bị giết và chôn tập thể trong tết MẬU THÂN 1968 phần lờn những người dân miền Bắc và những người miền Nam sinh sau 1975 đều cho rằng do quân đội VNCH và quân đội MỸ giết vì tội theo Việt cộng.
    Ngoài ra với lực lượng an ninh dày đặc làm việc với phương châm thà bắt lầm còn hơn bỏ sót;bằng những biện pháp tra khảo rất dã man nên trong thời gian qua phong trào đấu tranh cho tự do dân chủ ở VN chưa đủ mạnh để làm một cuộc thay đổi.
    Để hỗ trợ người dân trong nước;cộng đồng người Việt ở hải ngoại phải đoàn kết lại và có tổ chức.Trước hết hàng tháng tổ chức diễu hành đòi tự do;dân chủ cho VN tại những thành phố có sứ quán vn và diễu hành phản đôi TRUNG QUỐC xâm lược VN trước các lãnh sự quán TQ ;bên cạnh đó tổ chức rải truyền đơn nói rõ sự thật về HCM ;về tết MẬU THÂN 1968 và những bài viết hay trên mạng kêu gọi đấu tranh cho tự do ;dân chủ ở VN .Việ rỉa truyền đơn chỉ có cộng đồng nhười VIỆT ở hải ngoại làm được mà thôi;cón cách làm thì học hỏi cách làm của HÀN QUỐC rải truyên đơn qua Bắc TRIỀU TIÊN.
    VÌ TỰ DO DÂN CHỦ CỦA VIỆT NAM RẤT MONG CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT HẢI NGOẠI THAM GIA.

  4. Phó Thường Dân says:

    Ông ĐTL đọc cái bài này rồi hảy suy nghỉ xem có nên viết tiếp hay không
    TÔI THẤY và NGHE ĐƯƠC GÌ Ở SÀI GÒN và MIỀN NAM VIỆT NAM sau 37 năm dưới chế độ CS.
    Lời người viết: Đây không phải là một phóng sự hay một bài nghiên cứu xã hội với những phương pháp khoa học của nó – mà chỉ là những điều vụn vặt mắt thấy tận nơi, tai nghe tận chỗ – ghi lại môt cách trung thực.
    PHÓ THƯỜNG DÂN
    Tôi thấy bộ mặt Saigòn đổi mới với: Những khách sạn 5 sao, 4 sao lộng lẫy. Đổi mới với những nhà hàng “ vĩ đại “ trên các tuyến đường du lịch. Với những trung tâm “thư giản” sang trọng, quý phái cở câu lạc bộ Lan Anh. Với những vũ trường cực kỳ tráng lệ như vũ trường New Century Hànội. Với những trường Trung học tư thục mang tên Mỷ, giáo sư Mỷ, chương trình học của Mỷ, giảng dạy bằng tiếng Mỳ- học sinh phải trả học phí bằng tiền Mỷ – 1,000 US$ đến 1,500 US$ /tháng. (Giai cấp nào đủ sức trả học phí nầy cho con? )

    Tôi cũng hiểu rằng các nơi nầy là nơi ăn chơi của vương tôn công tử “đỏ”, các nhà giàu mới – thân nhân các quyền lực đỏ đứng đàng sau, các quan chức đỏ đô la đầy túi. Họ đến đây để “thư giản”, uống rượu, đánh bạc, cá độ và tìm gái. Uống chơi vài chai rượu ngoại VSOP, XO là chuyện thường. Mỗi đêm có thể tiêu hàng ngàn đô la Mỷ cũng không phải là điều lạ. Trong khi lương tháng của một thầy giáo Trung học trường công không đủ để trả một chai rượu XO Vụ cá độ hàng triệu US$ đã bị phanh phui. là một thí dụ cụ thể. Vũ trường New Century bị Công an đến giải tán vì các công tử và tiểu thư con các quan chức lớn nhảy đã rồi… “ lắc” suốt đêm.

    Để vài hôm sau – đâu lại cũng vào đó…

    Tôi cũng thấy Sàigòn- người, xe và phố xá dầy đặc, nghẹt thở – vài tòa cao ốc mọc lên vô trật tự – ở xa xa, có cái trông giống như chiếc hộp quẹt. nhà cửa mặt tiền hầu hết đều lên lầu nhiều tầng. Kiến trúc hiện đại. Vật liệu nhập cảng đắc tiền. Nhà trong hẻm – phần lớn cũng lên nhiều tầng cao nghệu. Có nhiều khu xây cất bừa bãi, nhô ra thụt vào như những chiếc răng lòi sĩ vô duyên. , lấn chiếm ngang ngược đất công hoặc lề đường…
    Tôi thấy Sàigòn bị ô nhiểm trầm trọng với hằng triệu tiếng động cơ, ngày đêm đinh tai nhức óc và 5.000.000 chiếc Honda – phun khói mịt mù – chưa kể đến xe hơi ???

    Và hệ thống cống rảnh lạc hậu. mỗi khi trời mưa lớn – nước rút không kịp, ứ đọng tràn ngập nhà cửa. Hệ thống đổ rác còn lạc hậu. không đáp ứng nổi nhu cầu thải rác của 10.000.000 dân nhung nhúc như kiến. Sàigòn đầy dẫy những hàng ngoại do công ty ngoại quốc sản xuất tại chỗ, hàng lậu của Trung quốc tràn vào vô số kể. Máu kinh tế Việt Nam bị loảng ra. Nhưng chế độ xã nghĩa im thin thít chịu trận, không dám một lời phản kháng. Một chiếc xe Honda nhãn hiệu Trung quốc giá khoản chừng 1,200 đô la Mỷ, chưa kể hàng Trung quốc lậu thuế, rẻ mạt. Thuốc lá và bia – bia nội, bia ngoại – có đủ. Nhậu và hút là 2 cái mốt bình dân thời thượng nhứt ở Sàigòn. Đảng viên, cán bộ – giai cấp thống trị -”Nhậu”. Già nhậu, trẻ nhậu… con nít cũng tập tành nhậu. Hút thì khỏi nói. Giai cấp cán bộ răng đen mã tấu bây giờ là giai cấp nắm quyền thống trị – đã lột xác – không còn quấn thuốc rê, bập bập phà khói mịt mù nữa – mà lúc nào cũng lấp ló một gói 3 con 5, Craven A, trong túi. Lãnh đạo hút, cán bộ hút, dân chúng hút – thậm chí con nít 9, 10 tuổi ở đồng quê cũng phì phà điếu thuốc một cách khoái trá. Các hảng bia và thuốc lá ngoại quốc đã tìm được một thị trường tiêu thụ béo bở. Cán bộ lớn cũng âu phục cà vạt hẳn hoi, xe hơi bóng loáng. nhưng bộ răng hô, mái tóc bạc thếch, và nước da mông mốc, cũng không dấu được nét thô kệch của một anh nhà quê mới lên Tỉnh.

    Tôi còn thấy Sàigòn với hiện tượng “tiếm công vi tư” lộng hành, ngang ngược của Công an đến độ dân chúng quen thuộc, xem là một chuyện đương nhiên như chuyện hối lộ đã trở thành cái lệ bất thành văn trong chế độ xã nghĩa. Chiếm đoạt một nửa công viên, xây nhà gạch dùng làm quán cà phê. Chưa thỏa mãn – ban đêm còn dọn thêm bàn ghế trên sân cỏ của phần công viên còn lại và thắp đèn màu trên mấy chậu kiểng cho thêm thơ mộng. Ông chủ bự nầy chắc chắc không phải là dân thường. Ông lớn nầy xem công viên như đất nhà của ông vậy. Ai có dịp đi ngang qua mũi tàu – nơi gặp gở của 2 đường Nguyễn Trải và Lê Lai cũ, ngang hông nhà thờ Huyện Sĩ – thì rõ.

    Còn nhiều, rất nhiều chuyện lộng hành chiếm đất công, lấn lề đường nhan nhãn ở khắp Saigòn. Chỉ đưa ra vài thí dụ cụ thể: Một công thự tại vườn Tao đàn (có lẽ là nhà cấp cho viên Giám đốc Công viên Tao đàn) – mặt tiền ngó vào trong – mặt hậu nhìn ra phía đường Nguyễn Du (Taberd cũ) – bên có màn trổ cửa mặt sau nhà, xây thêm phía sau thành 2 căn phố thương mãi mặt tiền ngó ra đường Nguyễn Du, trị giá mỗi căn, nhiều trăm ngàn mỷ kim – ngon ơ ! Tương tự như vậy – ở góc đường Thành Thái và Cộng Hoà cũ, trước sân nhà của ông Hiệu Trưởng trường Quốc gia Sư Phạm trước 75 – phố thương mãi, quán xá la liệt chiếm mất mặt tiền. Ngang ngược và lộng hành nhứt là 2 căn phố thương mãi bên hông trường Trương minh Ký, đường Trần hưng Đạo, chễm chệ xây lên ngay bên góc phải sân trường như thách đố dân chúng. Còn trên lề đường khá rộng trước câu lạc bộ CSS cũ, bây giờ là câu lạc bộ Lao động – nhiều gian hàng thương mãi bán quần áo, giày vớ thể thao, buôn bán ầm ỉ, náo nhiệt suốt ngày.
    Công an chiếm đất công, xây nhà tư. Công viên, lề đường trước nhà dân là đất riêng của Công An. Công an sử dụng làm chỗ gửi xe, bịt kín cả lối đi vào nhà. Không ai dám hó hé. Im lặng là an toàn. Thưa gửi là dại dột. Mà thưa với ai? Tất nhiên là phải thưa với công an. Không lẽ công an xử công an? Tướng CS Trần Độ phản ảnh còn rõ rệt hơn : “Xã hội Việt Nam ngày nay là một xã hội vô pháp luật mà phần đầu tiên gây ra là Đảng . Không thể nào chống tham nhũng được vì nếu Đảng chống tham nhũng thì Đảng chống lại Đảng sao? “ (Nhật ký “Rồng Rắn” của Trần Độ).

    Nón cối, nón tai bèo, dép râu, áo chemise xùng xình bỏ ngoài chiếc quần màu cứt ngựa của người cán bộ CS ngơ ngác khi mới vào Sàigòn – đã biến mất.

    Cũng không còn thấy những chiếc áo dài tha thướt của những cô gái đi dạo phố ngày cuối tuần trên các đại lộ Lê Lợi, Lê thánh Tôn, Tự do những ngày trước 75 nữa. Thay vào đó là một đội ngũ phụ nữ – mũi và miệng bịt kín bằng “khẩu trang”, găng tay dài đến cùi chỏ, cỡi Honda chạy như bay trên đường phố.

    Tôi còn thấy những người nghèo khổ chở trên chiếc xe thồ, những thùng carton và bao túi Nylông, chồng chất lên nhau cao ngất như sắp đổ xuống… Những bà cụ già, những cậu bé tuổi đáng được ngồi ở ghế nhà trường, những anh phế binh cụt tay, cụt chưn, lê lết trên một miếng ván gổ … đi bán vé số (một cách ăn xin trá hình).

    Bộ mặt Sàigòn “đổi mới” bằng những khách sạn lộng lẫy, những câu lạc bộ thời thượng, những phố xá thương mãi sang trọng, những hiệu kim hoàn lóng lánh kim cương, những nhà hàng ăn vĩ đại, những vũ trường cực kỳ tráng lệ, những biệt thự đồ sộ nguy nga mới xây bằng vật liệu ngoại đắt tiền. trang trí cây cảnh như một mảng vườn Thượng uyển của vua chúa ngày xưa, những xe hơi bóng loáng nhởn nhơ trên đường phố – Nhiều người chóa mắt. choáng váng, cho là “Việt Nam bây giờ tiến bộ quá”. Riêng Phó thường dân tôi tự nghĩ : Như vậy có phải là tiến bộ không ? Sự tiến bộ của một nước cần phải nhìn về nhiều mặt : Mặt y tế và giáo dục, mặt đời sống vật chất và tinh thần của dân chúng. Lợi tức đầu người của Việt Nam – theo thống kê của báo The Economist – bằng: 800 US$ năm 2011 (Hà Nội bốc lên 1,000 US$, Chỉ hơn Lào và Cambodia chút đỉnh. So với các nước láng giềng: Thái Lan: 3.500 US$ – Phi luật Tân: 2.000 US$ – Nam Dương: 1.160.US$. Tân gia Ba 30.000 US$. (The Economist World, năm 2011 – p. 158, 176, 238) – Việt Nam còn lẹt đẹt đàng sau rất xa. Và trước bộ mặt thay đổi choáng ngợp nầy – nếu đặt câu hỏi: Ai là chủ nhân của những xe hơi, khách sạn- vũ trường, những thương hiệu lớn, những biệt thự lộng lẫy kia? – Thì câu trả lời không sợ sai lầm là của cán bộ đảng viên (tại chức hoặc giải ngủ) hoặc con cháu thân nhân của họ. Và ở thôn quê – Giai cấp giàu có bây giờ là ai ? Giai cấp địa chủ là ai ? Có phải do của cải của ông cha để lại hay do sự kinh doanh tự do, mua bán làm ăn mà có ???
    HIỆN TƯỢNG NGƯƠI BẮC XA HÔI CHỦ NGHĨA CHIẾM HỮU TOÀN BỘ PHỐ XÁ THƯƠNG MAI QUAN TRONG Ở SAIGÒN – KHỐNG CHẾ MỌI LÃNH VỰC TRỌNG YẾU Ở MIỀN NAM.
    Cho dù núp dưới cái hào quang chiến thắng “đánh Tây, đuổi Mỷ” – cho dù che giấu, lấp liếm, giải thích thế nào chăng nữa – Thì dân miền Nam (gồm cả Nam lẫn Bắc theo chế độ Tự Do) vẫn thấy một sự thật. Sự thật đó là người Bắc XHCN tràn ngập, chiếm hữu toàn bộ phố xá thương mãi trọng yếu của Sàigòn. Làm sao nói khác được khi đi một vòng quanh Sàigòn. Và các khu phố sầm uất nhứt, vào những hiệu buôn lớn để mua hàng hay hỏi han chuyện trò thì thấy toàn là người Bắc Cộng sản – Từ cô bán hàng đến bà chủ ngồi phía trong – Cũng toàn là người của xã hội chủ nghĩa miền Bắc. Các tiệm buôn lớn trước 75- như các tiệm vàng Nguyễn thế Tài, Nguyễn thế Năng, Pharmacie Trang Hai, tiệm Émile Bodin của bầu Yên, nhà hàng Bồng Lai, Thanh Thế, Nguyễn văn Đắc, Phạm thị Trước. Hiện nay, một số đã đổi bảng hiệu hoặc xây cât lại. nhưng đều do người miền Bắc XHCN làm chủ. Các cơ sở khác như nhà hàng ăn lớn, tiệm phở, công ty thương nghiệp, dịch vụ lớn, những tiệm buôn bán dồ nhập cảng v. v. cũng đều do người Bắc XHCN chiếm giữ. Tuy không có con số thống kê chính xác nhưng tự mình đi đếm hàng trăm tiệm buôn sang trọng quanh các khu phố lớn ở Sàigòn thì khám phá ra được chủ nhân là người Bắc XHCN (Tất nhiên là vợ con, thân nhân cán bộ lớn). Những gái Bắc XHCN bán hàng là con cháu của chủ nhân người Bắc CS (do các cô tự nói ra). Các cô chiêu đãi viên trên phi cơ VNHK đều là người Bắc thân nhân hay con cháu cán bộ – dĩ nhiên – vẻ mặt lạnh lùng, hách dịch với người Việt Nam và khúm núm lịch sự với khách ngoại quốc. Cán bộ, công nhân viên trọng yếu – Cũng đều là người Bắc – Trừ một số cán bộ gốc miền Nam ra Bắc tập kết – theo đoàn quân viễn chinh vào đánh chiếm miền Nam – Thì cũng kể họ là người XHCN miền Bắc cả.

    Hệ thống quyền lực từ trên đến dưới – Từ Trung ương đến địa phương – Từ Tỉnh thành đến quận lỵ, thị trấn, làng xả gần – đều do đảng viên người miền Bắc XHCN – nắm giữ. Những công Ty dịch vụ có tầm cở, những công Ty thương mãi sản xuất lớn – điển hình là một công Ty vận tải và du lịch có đến 10,000 xe hơi đủ loại, chủ nhân cũng là người Bắc XHCN. Từ chính trị đến văn hóa, từ giáo dục đến truyền thông, từ nhà cầm quyền cai trị đến chủ nhân cơ sở thương mãi, sản xuất – Cũng là do người miền Bắc XHCN nắm giữ.

    Đó là sự thật trước mắt ai cũng thấy. Còn những vàng bạc, kim cương, đô la, tài sản tịch thu, chiếm đoạt được trong các cuộc đánh tư sản, cải tạo công thuơng nghiệp – nhà cửa của tù cãi tạo, của dân bị đuổi đi kinh tế mới, những tấn vàng của VNCH để lại, những luợng vàng thu được từ những người vuợt biên bán chánh thức – tài sản những người thuộc diện tư sản – toàn bộ tài sản nầy từ Saigòn đến các Tỉnh miền Trung, miền Nam – được đem đi đâu? – Không ai biết.

    Thông thường – những của cãi nầy phải được sung vào công quỷ – để làm việc công ích như các ông cộng sản thường rêu rao bằng những mỹ từ đẹp đẻ. Thế nhưng – sự thật trước nhứt – là các ông đem chia chác nhau. Chia nhau một cách hợp hiến và hợp pháp theo Luật pháp XHCN (Đọc Đất đai-Nguồn sống và Hiểm Họa của Tiến sĩ Nguyễn thanh Giang). Ông lớn lấy tài sản lớn. Ông nhỏ – nhà cửa nhỏ. Có ông cán bộ trung cấp chiếm hữu đến 4, 5 căn nhà. Ở không hết… đem cho công Ty ngoại quốc thuê. Điều phổ biến nhứt là các ông cán bộ nầy – vì lo sợ cái gì đó – bèn đem “ bán non” những căn nhà đó lấy tiền bỏ túi trước. Một căn nhà của một viên chức tù cãi tạo đã sang tay đến 3 đời chủ. Nhà cửa thuộc diện tù cải tạo là dứt khoát phải tịch thu – không ngoại lệ. Những trường hợp con ruột có hộ khẩu chánh thức còn được phép ở lại – là những biện pháp vá víu. Chủ quyền căn nhà nầy là Nhà nước XHCN.
    Không chỉ có những người thuộc diện cải tạo công thương nghiệp, tù cải tạo, vượt biên mà người dân thường có nhà cửa phố xá đều bị “ giải phóng” ra khỏi nhà bằng nhiều chánh sách: Đuổi đi kinh tế mới, dụ vào hợp tác xả tiểu công nghiệp, mượn nhà làm trụ sở, cho cán bộ vào ở chung (chủ nhà chịu không nổi… phải bỏ đi), đổi tiền để vô sản hoá người dân, khiến họ bắt buộc phải bán tất cả những gì có thể bán để mua gạo ăn, cuối cùng chịu không nổi, phải bán nhà với giá rẻ bỏ, để vô hẻm ở, ra ngoại ô hoặc về quê… Cán bộ hoặc thân nhân cán bộ miền Bắc XHCN tràn vào “mua” nhà Saigòn với giá gần như cho không… và bây giờ là chủ những căn nhà mặt tiền ở Saigòn.

    Mang xe tăng T. 54, cà nông Liên xô, AK Trung cộng, đẩy hàng hàng lớp lớp thiếu niên “xẻ dọc Trường Sơn” bằng máu, nước mắt và xác chết… vào xâm chiếm miền Nam. Chiêu bài là “giải phóng” nhân dân miền Nam – nhưng sự thật khó chối cãi được – là vào để chiếm đoạt tài sản, đất đai, của cải, đuổi dân Saigòn (gồm cả người Nam lẫn Bắc theo chế độ Tự Do) ra khỏi Thủ Đô bằng nhiều chánh sách khác nhau – để bây giờ chính các ông đã trở thành những nhà tư bản đỏ triệu phú, tỉ phú đô la, vàng bạc kim cương đầy túi – những ông chủ công Ty có tầm vóc, những địa chủ đầy quyền lực. Trương mục ở nước ngoài đầy nhóc đô la. Con cái du học ngoại quốc. (Trường hợp con Thủ Tướng CS Nguyễn tấn Dũng đang du học Mỷ là trường hợp điển hình). Như vậy hành vi nầy gọi là gì? Trong những lúc canh tàn rượu tỉnh – một mình đối diện với luơng tâm thuần luơng của mình – các ông tự gọi mình đi.
    Đến thời “mở cửa” – cơ hội hốt tiền còn nhiều hơn gấp bội. Tư bản ngoại quốc ồ ạt đầu tư, khai thác dầu khí, thâu đô la Việt kiều về thăm quê hương – đô la khách du lịch ngoại quốc, bán đất cho Công Ty ngoại quốc xây cất cơ xưởng, cấp giấy phép các công Ty ngoại quốc, các dịch vụ đấu thầu xây cất cầu cống, làm đuờng xá, xây cất đại công tác. Những món nợ kếch xù từ Ngân hàng thế giới, từ quỷ tiền tệ quốc tế – những món nợ trả đến mấy đời con cháu cũng chưa dứt. Những đại công tác nầy mặc sức mà ăn, no bóc ké. Nhiều công trình vừa xây cất xong đã muốn sụp xuống vì nạn ăn bớt vật liệu. Một thí dụ diển hình: Một bệnh viện gần chợ “cua” Long Hồ – quê hương của Phạm Hùng – nước vôi còn chưa ráo đã muốn sụp. Hiện đóng cửa không sử dụng được.

    Hiện tượng người Bắc XHCN khống chế toàn bộ, làm chủ nhân ông mọi lãnh vực, chiếm hữu nhà cửa, phố xá thương mãi ở những khu thương mãi quan trọng nhứt – là một sự thật không thể chối bỏ. Cán bộ lớn đã trở thành những nhà tài phiệt đầy quyền lực – những ông chủ lớn giàu có nhứt lịch sử. Trong khi dân chúng miền quê – nhứt là miền Nam – ngày càng nghèo khổ, thất nghiệp kinh niên. Khoảng cách giàu nghèo càng lớn – đời sống cán bộ và dân chúng càng ngày cách biệt. Giàu thì giàu quá sức. Nghèo thì nghèo cùng cực.

    Nhà văn – bác sĩ Hoàng Chính – gọi thời kỳ sau 75 là thời “Bắc thuộc”:

    - “Năm Bắc thuộc thứ 2: Lưu vong tại quê nhà trong cái đói lạnh.
    - Năm Bắc thuộc thứ 6: Cầu cho em nhỏ 10 tuổi đầu đủ cơm ăn giữa bầy thú hát điên cuồng chuyện thù oán.
    - Năm Bắc thuộc thứ 12: Trong ngục thất quê hương ấy, có những bộ xương thôi tập khóc cười. “
    Miền Bắc XHCN đem quân xâm chiếm miền Nam để khống chế nơi đó bằng sự đô hộ hà khắc và tinh vi.

    BỘ MẶT THÔN QUÊ MIỀN NAM

    Có nhìn tận mắt, nghe tận nơi, mới hình dung được khuôn mặt miền Nam sau 37 năm dưới chế độ cọng sản. Để được trung thực – người viết ghi những điều thấy và nghe – không bình luận – tại những nơi đã đi qua. Thôn quê miền Nam – những làng xóm gần tỉnh lỵ quận lỵ đã có điện. Những làng xã xa xôi hẻo lánh vẫn còn sống trong sự tăm tối. Đường sá có tu sửa phần nào. Đường mòn đi sâu vào thôn xóm được lót bằng những tấm dalle lớn (đường xóm Cái Nứa, Cái Chuối xã Long Mỹ, VL), xe Honda và xe đạp chạy qua được. “Cầu tre lắt lẻo”, cầu khỉ được thay thế bằng cầu ván, cầu đúc (vật liệu nhẹ). Cầu tiêu công cộng trên sông các chợ quận (Cái bè, Cái răng) nay không còn thấy nữa.
    Nhà cửa dọc theo bờ sông Cần Thơ – chen vào những nhà gạch ngói, nhà tôn – còn nhiều nhà lá nghèo nàn. Tương tự như vậy – dọc theo bờ sông Long Hồ – một số nhà gạch nhỏ mới cất. xen kẻ những mái lá bạc màu. Vùng Trà ốp, Trà Cú (Vĩnh Bình), chợ Thầy Phó (Vĩnh Long) nhiều nhà gạch mới xây nhưng vẫn không thiếu nhà lá, nhà tôn. Đường mòn chạy sâu vào thôn xóm vẫn còn đường đất lầy lội vào mùa mưa nước nổi.

    Hai bên đường xe chạy từ Mỷ Tho, Cao Lãnh, Châu Đốc, Hà Tiên, Rạch Giá, Cần Thơ. Nhìn chung – có một sự thay đổi rõ rệt. Nhà cửa, hàng quán dầy đặc, động cơ ồn ào, người ta chen chúc. Cảm giác chung là ngột ngạt, khó thở. Những vườn cây xanh um bên đường đã biến mất hoặc thụt sâu vào trong, không còn thấy nữa. Không còn vẻ đẹp thiên nhiên ngày nào của vườn xoài cát sai hoằng, mát mắt vùng Cái Bè, An Hữu, vườn mận Hồng Đào chạy dài hàng mấy cây số ở Trung Lương.
    Dưới sông – từ kinh Vỉnh Tế chảy dài ra sông Tiền Giang – hai bên bờ toàn là nhà sàn, phía sau chống đở sơ sài bằng những trụ cây tràm. Mỗi nhà hoặc 2, 3 nhà đều có cầu tiêu tiểu bắc phía sau.
    Tắm rửa giặt giũ, múc nước lên uống, phóng uế – cũng cùng trên một dòng sông. Không có gì thay đổi. Làng Chàm còn gọi là chà Châu Giang cũng còn đó. Cũng nghèo như trước. Những chiếc ghe vừa dùng làm nhà ở, vừa là hồ nuôi cá. Basa, cá điêu hồng v. v. ở dọc bờ sông khá dài. Dường như ngành nầy hoạt động khá mạnh. Dọc trên những nhánh phụ lưu của 2 con sông Tìền và sông Hậu – người ta không còn thấy bóng dáng của những cô gái thướt tha trong chiếc áo bà ba và chiếc quần lãnh Mỷ A, chèo ghe tam bản, bơi xuồng như thời trước 75 nữa. Hỏi một ông già tên Ph. tại Cái Răng, được trả lời: “ Đi lấy Đại Hàn, Đài Loan hết rồi ông ơi! “ Tôi hỏi thêm: “ Các cô gái có nghe nhiều người bị gạt bán vào ổ mãi dâm, nhiều cô gái bị chồng bắt làm lao động khổ sai, bị ngược đãi, đánh đập. các cô gái nầy không sợ sao ông? – “ Biết hết – mấy cổ biết hết, báo Tuổi trẻ đăng hàng ngày. Nhưng cũng có những cô có chồng Đại Hàn, cho tiền cha mẹ xây nhà gạch. Cô khác thấy vậy ham. Phần nghèo, phần không có việc làm kinh niên. Họ liều đó ông. Biết đâu gặp may. “Câu chuyện gái Việt lấy chồng Đại Hàn, Đài Loan hiện không ai là không biết.

    Tờ Tuổi trẻ – số ra ngày mùng 1 Tết năm Đinh Hợi – trong bài: “ Nỗi đau từ những con số”- có nói đến số phận của 65.000 phụ nữ đang làm vợ những ông chồng Đài Loan già, tàn tật đui mù, làm vợ tập thể cho cả gia đình cha lẫn con. Cũng do tờ báo nầy: “Tại một tổ chức kết hôn lậu, hàng chục cô gái đang “bày hàng” để 2 ông Hàn quốc tuyển chọn làm vợ và 118 cô gái khác đang nằm, ngồi, lố nhố chờ đến luợt mình “ Và cũng do tờ Tuổi Trẻ số phát hành ngày 25-04-2007, viết: “Hơn 60 cô gái, tuổi từ 18 đến 20 từ miền Tây Nam bộ lên Saigòn để dự tuyển. Các chàng rể Hàn Quốc được quyền soi xem kỷ, chú ý đến cả từng vết thẹo trên thân thể cô gái. Dich vụ môi giới hôn nhân lậu có chiều hướng gia tăng. Chỉ trong vòng nửa tháng mà Công An đã phát hiện 3 vụ môi giới hôn nhân trái phép ở quận 6, 10 và Tân Bình với gần 400 lượt cô gái hiện diện. Thậm chí – những cô gái được xe ôm chở tới địa điểm dồn dập gây náo loạn cả xóm”.

    Người viết có lần lang thang trên đường Nguyễn tri Phương tìm quán ăn cơm trưa, có chứng kiến tại chỗ: Từng cặp trai gái lố nhố xếp hàng đôi trước cửa một trường học, để lần luợt vào trong. Hỏi một người trung niên lái xe Honda ôm, được anh trả lời: ‘ “Đó là những người con gái đi lấy chồng Đài Loan và Đại Hàn. Hàng bên trong là những đang làm thủ tục xuất ngoại theo chồng. Hàng bên ngoài là những người đang vào ký giấy hôn thú sau khi đã qua các cửa ải môi giới và thủ tục tuyển lựa”. Tôi nhìn kỷ các cô gái nầy tuổi rất trẻ khoản chừng 18 đến 20, đứng cặp với những anh Tàu già sồn sồn- có một người tàn tật. Không thấy có thanh niên trẻ. Nhìn cách ăn mặc và nghe họ nói chuyện – tôi đoán chừng họ đến từ miền Tây Nam Bộ. Đây là tổ chức môi giới chánh thức có giấy phép hành nghề.
    Song song với tổ chức chánh thức, còn có một tổ chức “ môi giới hôn nhân lậu”- sự thật là một tổ chức buôn người, chuyên đi dụ dỗ trẻ em và gái, nói gạt là đi bán hàng hay đi làm việc tại các cơ xưởng ngoại quốc nhưng là để bán thẳng vào các ổ mãi dâm ở Kampuchia, Thái Lan, Ma Cau để nơi đây huấn luyện trẻ em làm nô lệ tình dục, các cô gái làm điếm, hoặc bán cho người Tàu bỏ tiền ra mua nô lệ. Tất nhiên là phải có sự tiếp tay che chở ăn chia của Công An. Nói là lậu nhưng thật ra là nhan nhãn xảy ra hằng tuần – thậm chí hằng ngày trước mặt dân chúng tại các quận Bình Thạnh, quận 11, Sàigòn.
    Cho dù chánh thức hay lậu, hậu quả cũng gần giống nhau. Chánh thức thì có giấy phép, có công an làm thủ tục, chánh phủ thu tiền lệ phí. Lậu thì lén lút với sự che chở của Công An. Hậu quả gần giống nhau. Nhiều cô gái về làm vợ mấy tên Đài Loan, Đại Hàn bị ngược đãi, đánh đập tàn nhẫn – ban ngày làm nô dịch, ban đêm phục vụ tình dục rồi bán vào động mãi dâm lấy tiền gở vốn lại. (Trại cứu giúp nạn nhân của cha Hùng ở Đài Bắc là một bằng chứng) Còn lậu thì bán thẳng vào ổ điếm. Biết bao nhiêu thảm cảnh, biết bao nhiêu bi kịch thương tâm làm rúng động lương tâm nhân loại.
    Cựu Quốc Trưởng Sihanouk không giấu được nỗi xót xa trước thảm cảnh người phụ nữ Miên làm vợ mấy thằng Tàu, lên tiếng kêu gọi họ trở về nước. Không thấy Việt Nam nói nửa lời!
    Những cô gái nầy có biết những thảm kịch đau thương, những sự hành hạ, ngược đãi, đánh đập. nầy khi lấy chồng Đài Loan, Đại Hàn không? Có bị cưỡng bức, bị dụ dỗ hay tự nguyện? Cha mẹ có đồng ý hay cản trở? Nguyên nhân nào đã thúc đẩy họ dấn thân vào con đường hiểm nguy, tương lai mù mịt?
    Trừ những trường hợp bị dụ dỗ qua đường dây buôn người – những người con gái này thật sự là họ TỰ NGUYỆN. Họ còn phải vay tiền mua sắm, ăn diện, hối lộ để đuợc giới thiệu. Nhưng nguyên nhân nào thúc đẩy họ đi lấy chồng Đài Loan, Đại Hàn?

    Có thể có nhiều nguyên nhân phức tạp. Phó thường dân tôi chỉ đưa ra vài nhận định thiển cận như sau: Quá nhiều chương trình ngăn chống lũ lụt, chương trình công nghiệp hóa, đô thị hoá bừa bãi, không được nghiên cứu cẩn trọng, đất đai canh tác bị thu hẹp, Dân số gia tăng. Khối lượng đông đảo người miền Trung, Bắc XHCN tràn vào. Nông dân miền Nam thiếu đất canh tác. Các cô gái miền Tây quẩn bách vì không có việc làm kinh niên – cuộc sống vô vọng mịt mờ – có nhiều trường hợp bị thúc đẩy vì cha mẹ mắng nhiếc, đay nghiến khi so sánh con gái mình với cô con gái làng bên có chồng Đại Hàn mang tiền về xây nhà gạch cho cha mẹ. Và cũng vì hấp thụ một nền giáo dục của chế độ CS (sinh sau 75) – những người trẻ tuổi không có ý niệm về luân lý đạo đức cũ. thang giá trị bị đảo lộn nên họ không đặt nặng danh dự, sĩ diện như thời trước. Do vậy – khi bị dồn vào đường cùng họ đành đánh liều nhắm mắt đưa chưn. Nhưng động lực chánh là nghèo.

    NGHÈO

    Là nguyên nhân chánh đưa đẩy các cô gái miền Tây Nam Bộ đi lấy chồng Đại Hàn và Đài Loan… để hy vọng thoát khỏi cảnh đời cơ cực, vô vọng không lối thoát. Thế nhưng tại sao đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) – vựa lúa nuôi sống cả nước – sau 32 năm dưới chế độ CS lại trở nên nghèo như vậy – nghèo hơn cả đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) ? Theo tiêu chuẩn nghèo từng vùng của Tổng cục thống kê Việt Nam – thì tỷ lệ ĐBSCL năm 1998: ĐBSC: 37%. ĐBSH: 29% . Năm 2002: ĐBSCL: 13 %. ĐBSH: 9%. (Nhà x. b Thống kê – Hànội, trang 13 – LVB trích dẫn) Dù theo tiêu chuẩn nào: tiền tệ (tính bắng tiền hay bằng gạo) – mức sống (bao gồm lương thực, nhà ờ, mức sống văn hóa) – ĐBSCL vẫn nghèo hơn ĐBSH – bởi lẽ khi nghèo về lương thực – thì khó có thể giàu về nhà ở và đời sống văn hoá.
    Đó là cái nghèo mà anh Lâm văn Bé đã nhìn qua những con số có giá trị của những chương trình nghiên cứu thống kê khoa học. Và sau đây là cái nghèo miền Nam qua cái nhìn tận mắt, nghe tận nơi của người viết: Cái nghèo ở Việt Nam bao gồm cả thành thị lẫn thôn quê là cái nghèo thiếu trước hụt sau, ăn bữa sáng lo bữa chiều – cái nghèo của một nông dân, nhà dột nát. khi trời mưa lúc ban đêm, không có chỗ để nằm phải tìm một góc nhà, phủ cái mền rách lên người ngồi run cằm cặp, trước từng cơn gió lạnh buốt lùa vào căn nhà trống hốc… Cái nghèo của một người đi mượn tiền, muợn gạo. tới ngày hẹn không tiền trả. Cái nghèo của một thanh niên thất nghiệp, cha bị lao phổi không tiền mua thuốc nằm ho sù sụ, mẹ bơi xuồng đi bán bắp nấu không đủ gạo cho một đàn con 4 đứa, mũi dãi lòng thòng đang bốc đất cát chơi ngoài sân.

    Tục ngữ bình dân có câu: Ít ai giàu 3 họ, khó 3 đời. – Có. Tôi quen biết ông Sáu S. làm nghề chày lưới. ở sông Long Hồ. Đời con là anh Tư Te tiếp nối nghề nầy: nghề đi nhủi tép. Và trên bờ sông Long Hồ năm nay (2011) tôi thấy vợ chồng một cậu thanh niên tên M. vừa cặp xuồng vào bến, đem miệng nhủi còn dính đầy rong rêu phơi trên mái nhà lá đã nhuộm màu thời gian bạc thếch. Hỏi thăm thì té ra là con của Tư Te. Đời ông nội – nghèo! Đời cha nghèo! Đời cháu cũng nghèo! Khó 3 đời đó. Cọng Sản đổi đời cho người giàu thành nghèo – không đổi đời cho người nghèo thành giàu. Người nghèo vẫn tiếp tục nghèo. Nói chung thì nông dân Việt Nam chiếm 85% dân số mà đất không đủ để canh tác – còn công nghiệp không có khả năng biến nông dân thành thợ thuyền. trong khi dân số lại gia tăng quá tải. Cho nên thất nghiệp không thể tránh. Nghèo là hiện thực. Tiến sĩ Lê đăng Doanh trong một bài phổ biến trên mạng, viết : “Nông dân đã nghèo, đất đã kém đi, nhưng mỗi năm thêm 1 triệu miệng ăn, lấy đâu ra mà ăn. Lao động vất vả mỗi ngày trên 8m2 đất thì lấy gì mà giàu có được? “

    MIỀN NAM – 37 NĂM DƯỚI CHẾ ĐỘ CỘNG SẢN

    Kinh tế Việt Nam – trong đó có miền Nam – có chút tiến bộ – so từ thời kỳ bao cấp đến thời kỳ mở cửa. Nhưng chỉ là tiến bộ với chính mình. Đối với các nước khác trong vùng thì còn lẹt đẹt, cầm lồng đèn đỏ… Và điều quan trọng là sự phát triển nầy có đem lại phúc lợi cho dân chúng qua sự tái phân lợi tức quốc gia, để tài trợ các chương trình y tế, giáo dục (hiện nhiều người nghèo không có tiền đóng học phí bậc Tiểu học cho con) – các chương trình tạo công ăn việc làm, phát triển nông nghiệp, xây dựng hạ tầng cơ sở hay không? Hay là phát triển bằng những con số báo cáo rổng tuếch? Lợi tức tạo được đã bị cả hệ thống của những con virus tham nhũng đục nát cơ thể. Và hiện tại – muốn phát triển công nghiệp – nhà cầm quyền địa phương – theo lệnh Đảng – mở rộng khu công nghiệp, khu du lịch, đã quy hoạch lấy đất, phá mồ phá mả, chiếm nhà dân một cách bạo ngược. Lòng dân phẩn uất, kêu la than khóc. Oán hận ngút trời xanh! (19 Tỉnh miền Nam biểu tình khiếu kiện trước trụ sở quốc hội 2 Sàigòn). Như vậy có gọi là phát triển không?

    KẾT LUẬN
    - 37 năm nhìn lại:

    Người ta thấy miền Bắc đã “giải phóng” dân Sàigòn ra khỏi đất đai, nhà cửa của họ. Họ phải rút vô hẻm, ra ngoại ô hay về quê bằng nhiều chánh sách khác nhau. “Giải phóng” miền ĐBSCL ra khỏi sự trù phú do thiên nhiên ưu đãi từ nhiều thế kỷ. “Giải phóng” quân nhân, viên chức chế độ cũ ra khỏi nhà, để đưa họ vào các trại tù cải tạo hoặc đẩy họ ra biển… “ Giải phóng” phụ nữ miền Tây, để họ được tự do đi làm “vợ nô lệ”, đi làm điếm ở Kampuchia, TháiLan.

    - 37 năm nhìn lại:
    Người ta thấy Việt Nam trở lại thời kỳ mua bán nô lệ như thời Trung cổ. Phụ nữ Việt Nam bị bán đấu giá trên E-bay Taiwan website (2010) – bị trưng bày trong lồng kính, cũng để bán đấu giá như một con súc vật ở Singapour (2011). Chỉ trong năm 2011 – có khoản 400.000 phụ nữ và trẻ em bị bán ra ngoại quốc. (Theo UNI CEF – LHQ và Bộ Tư Pháp Việt Nam)

    - 37 năm nhìn lại:

    Mượn lời nhà báo Claude Allegre, báo L’expresse ngày 29-8-2011: “Người ta không thể cho qua một cách im lặng những Khơ me đỏ, những trại tập trung ở Cambodia và những cuộc tàn sát man rợ ở đó. Và Việt Nam không được biết đến như là một chế độ nhân đạo hơn. Dưới cái cớ là dân tộc can đảm nầy đã chiến thắng các siêu cường quốc – người ta đi đến chỗ quên đi một nền độc tài đẫm máu đang thực thi trên xứ sở”

    - 37 năm nhìn lại:

    Miền Bắc XHCN rõ ràng đã thiết lập một nền đô hộ miền Nam – khắc nghiệt, tinh vi hơn cả thời Pháp thuộc.

    Và điều quan trọng trên hết là Việt Nam đang đứng trước hiểm họa mất nước. Một trí thức Việt Nam lên tiếng cảnh cáo: “Việt Nam đang đứng trước hiểm họa mất nước. Mất cả đất đai, sông núi và dân tộc. Việt Nam sẽ trở thành một tỉnh lẻ của Tàu.” (Trích Người việt hải ngoại – Nguyễn văn Trấn)

    PHÓ THƯỜNG DÂN

  5. Người Dân says:

    Dân Bắc đa số là cán bộ cộng sản vào Nam là chủ nhân ông, chiếm hữu mọi cơ chế làm ăn, dân Nam chỉ là đám dân bị cai trị bởi dân Bắc hỏi làm sao mà Xây Dựng một Xã Hội Dân Sự đây hả ông trí ngu ĐTL?
    Kể chuyện về VN cho ông nghe : Năm ngoái, một ông bạn cải tạo về thăm quê hương sang có than thở về tinh trạng kỳ thị tại miền nam hiện nay. Ông bạn nói “ Nay tình trạng kỳ thị tại Sài Gòn thật là nặng nề, miền Nam đã bị Bắc Kỳ vào cai trị , họ lấy hầu hết nhà cửa ngoài phố và đẩy người miền Nam đi những vùng xa xôi khác ”, ông bạn này người miền Nam còn tôi người gốc miền Bắc, ông ta không thể nói hết lòng mình vì còn chút nể nang tôi.

    Gần đây một bài viết của một người về Việt Nam cho biết tình trạng quê nhà, tác giả nói nay tại Sài Gòn người miền Bắc kéo vào rất đông, họ là những người giầu có và quyền thế nhất Sài Gòn hiện nay, họ làm chủ hầu hết các nhà cửa to lớn của Sài Gòn và các nhà hàng lớn, các cơ sở thương mại, các cơ quan nhà nước… Đó là những cán bộ cao cấp và bà con thân thụộc của họ được đưa vào đây để tranh dành hết những chức vụ béo bở, những công việc hái ra tiền….tác giả cho biết vào các cửa hàng lớn, các .. cơ quan chỗ nào cũng thấy toàn là Bắc Kỳ, nói tóm lại họ là giai cấp giầu có thống trị tại Sài Gòn hiện nay. Mặc dù chưa được chứng kiến tận mắt nhưng tôi tin ngay lời tác giả trong bài viết..

    Tuần vừa qua, một người bạn đã về thăm quê Nha Trang năm ngoái cũng cho tôi biết tại Nha Trang bây giờ toàn là Bắc Kỳ, họ giầu sụ, buôn to bán lớn, chiếm giữ hầu hết các cơ sở thương mại kinh tế của Nha Trang. Họ giữ các chức vụ nhiều lợi lộc, chiếm cứ hầu hết các khu phố xá sầm uất và đẩy những người cũ đi xa như vùng kinh tế mới hoặc những vùng đất quê mùa khô cằn như sỏi đá. Người bạn cũng xác nhận cho tôi thấy Nha Trang nay là một thành phố đã bị Bắc Kỳ cai trị và chiếm đoạt hết tài sản, những nguồn lợi béo bở của thị xã du lịch này. Nếu chúng ta hỏi những người đã về thăm các tỉnh khác như Đà Lạt, Đà Nẵng, Biên Hoà… người ta cũng sẽ nói tình cảnh tương tự như thế.

    Khi đọc bài viết và nghe người ta kể lại những sự thật phũ phàng như trên tôi tin ngay vì tôi cho rằng đó là những nhận xét khách quan vô tư nhất.

    Ngược dòng thời gian 40 năm trước vào những ngày sau vụ Mậu Thân 1968, hồi ấy chúng tôi là sinh viên, được huấn luyện quân sự hai tuần và đưa vào Chợ Lớn canh gác theo chương trình Nhân Dân Tự Vệ. Một buổi tối đứng gác trên sân thượng của nhà thương gia trong khu phố Tầu, anh bạn cùng gác với tôi nhìn những dẫy phố nguy nga, sầm uất của Chợ Lớn , trước cảnh giầu sang tráng lệ của Tầu Chợ Lớn anh ta thốt lên.

    “Đứng địa vị thằng Việt Cộng tao cũng đánh đến cùng, đằng nào cũng đã là thằng cùng mạt , chiếm được thì hưởng hết” Ý anh bạn muốn nói thằng nghèo đói sẽ đánh thí mạng cùi để cướp đoạt những tài sản của người giầu có, thế mà 7 năm sau, năm 1975 lời nói của anh ấy đã thành sự thật, thằng nghèo đói đánh thí mạng cùi và đã cườp đươc tài sản của miền Nam giầu có.

    Ngược dòng thời gian ba mươi bốn năm trước đây sau khi chiếm được miền Nam, cán bộ Cộng Sản rất cởi mở tươi cười với đồng bào miền Nam khiến người ta tin tưởng rằng hoà bình thống nhất rồi, hai miền cùng xoá bỏ hận thù và cùng nhau xây dựng đất nước, hàn gắn những vết thương do chiến tranh để lại. Thế nhưng kẻ chiến thắng không bao giờ bỏ được bản chất gian trá có từ hồi mới cướp chính quyền mùa thu 1945. Vừa xua quân chiếm xong Sài Gòn hoa lệ, đạo quân chiến thắng vội vã chở hết vàng bạc, quí kim của ngân hàng, tháo gỡ các máy móc trong các cơ xưởng, bệnh viện, vét hết các kho dụng cụ, hàng hoá, máy móc hiện đại… đem về Bắc, sự kiện này khỏi cần phải dẫn chứng vì thực tế đã chứng minh và ai cũng đều biết cả. Số vàng bạc quí kim vơ vét được vào túi các quan cán bộ gộc hết. Họ vơ vét nhanh gọn y như đàn cào cào châu chấu phá hoại mùa màng, sau cơn trấn lột tập thể vĩ đại ấy miền Nam chỉ còn là một mảnh đất nghèo xơ xác.

    Một hai năm sau ngày 30-4-75 Cộng Sản đánh tư sản hai lần, đổi tiền ba lần, chính quyền đã vét gần sạch gần hết túi tiền người dân, kế đó họ phát động chiến dịch đẩy dân chúng đi kinh tế mới để chiếm nhà dân một cách hợp pháp. Chỉ sau ngày 30-4-75 một hai tháng, họ lùa các viên chức , sĩ quan chế độ cũ vào các trại cải tạo lâu dài rồi đẩy miền Nam tới chỗ nghèo nàn cùng cực để không thể trỗi dậy chống lại chế độ độc tài. Người Sài Gòn mỗi ngày một nghèo, nhiều người phải bán nhà với giá rẻ mạt cho kẻ chiến thắng để lấy tiền đong ïgạo sinh sống.

    Kế hoạch chiếm nhà dân đã được kẻ chiến thắng hoạch định một cách tinh vi khoa học, đánh tư sản hai lần để chiếm nhà của bọn tư sản bóc lột cho cán bộ ở, ép buộc mọi tầng lớp nhân dân đi kinh tế mới để dãn dân ra khỏi thành thị ngõ hầu có chỗ đưa dân từ miền Bắc vào. Những người đi vượt biên dù đi thoát hay không thoát đều bị lấy nhà, những nhà lớn, nhà mặt đường của dân cải tạo liên hệ chế độ cũ hầu hết bị tịch thu, họ lấy tất cả nhà cửa tài sản của những người đi chính thức, cho tới nay năm 2008 một người bạn mới ở Sài Gòn sang Hoa Kỳ đoàn tụ cho biết chính quyền không cho phép anh bán nhà mà phải để lại cho nhà nước , sau chạy chọt mãi với cán bộ địa phơơng mới bán được nhưng phải chia tam chia tứ anh chỉ được hưởng 1/5 trị giá căn nhà… … Thế rồi dần dần kẻ chiến thắng, tầng lớp thống trị vơ vét bóc lột người dân, tích lũy tiền bạc mua nhà cửa, bất động sản của những người cũ nay đã khánh tận phải bán của cải đi để lấy cơm ăn áo mặc, thành phần này thuộc loại“ Tư bản mại sản”. Người ta chê kẻ chiến thắng quá tham lam, họ đã được cả một đất nước to lớn mà vẫn chưa vừa lòng tham vô đáy còn đi chiếm từng căn nhà một.

    Cho tới nay bộ mặt đổi đời của miền Nam càng lộ rõ hơn bao giờ hết bộ, kẻ thắng trận ngày càng giầu có, họ vơ vét bóc lột, tập trung tài sản của đất nước trong tay, bà con của họ cũng được chia chác những chức vụ béo bở, cơ sở làm ăn lớn tha hồ mà đớp hít… trong khi ấy người dân miền Nam, những kẻ bại trận ngày càng khốn khổ, trừ những người có thân nhân ở nước ngoài trợ cấp còn đa số phải làm lụng đầu tắt mặt tối vì miếng cơm manh áo . Người miền Bắc nay đã trở thành giai cấp thống trị người miền Nam, họ tước đoạt tài sản nhà cửa của người miền Nam, đuổi người miền Nam đi các vùng kinh tế xa xôi khỉ ho cò gáy. Những kẻ bị áp bức bóc lột này dẫu căm phẫn cũng đành ngậm đắng nuốt cay vì họ phải chịu khuất phục trước lưỡi lê và họng súng của bọn độc tài thống trị. Theo như lời kể của những người đã về thăm quê hương đã nói ở trên chúng ta có thể mường tượng ra cái hận thù Nam Bắc hiện nay nó sâu đậm như thế nào rồi..

    Năm ngoái nhân ngày Quốc Hận, một viên chức chính quyền cũ nhìn những hình ảnh biểu tình, chống đối rồi thở dài bảo:

    -Anh nghĩ xem, cái hận thù Nam Bắc biết bao giờ mới hết… Theo tôi nghĩ cái hận thù Nam Bắc nay không phải là chỉ mối hận của lớp người cũ đã bị tù đầy cải tạo mà nó thể hiện ở một bình diện rộng lớn bao quát hơn của cả một đất nước, của cả một khối quần chúng đông đảo, của những kẻ bị trị … đó là mối hận thù giữa kẻ bị trị và những bọn cầm quyền cai trị, giữa những kẻ bại trận và bọn thắng trận..

    Người ta thường nói cuộc chiến tranh Việt nam là cuộc chiến tranh ý thức hệ giữa hai luồng tư tưởng đối nghịch nhau của hai khối Cộng Sản và Tư bản . Những người khuynh tả cho rằng cuộc chiến tranh Việt Nam 1960-1975 là cuộc chiến chống Đế Quốc xâm lăng cũng như cuộc chiến tranh giành độc lập chống Pháp 1945-1954. Cũng có người cho rằng đó là cuộc chiến tranh ủy nhiệm, nghĩa là chính quyền hai Miền đã được các siêu cường uỷ nhiệm thực hiện.. nhưng nay thì sự thể đã quá rõ ràng, nó chỉ là một cuộc “chiến tranh ăn cướp” giữa một nước nghèo đói lạc hậu và một đất nước giầu có sung túc với một vựa lúa phì nhiêu. Thằng nghèo đói đã ra sức đánh thí mạng cùi để chiếm cho được mảnh đất phì nhiêu rồi tha hồ mà vơ vét, bóc lột… thằng nghèo đói chỉ biết dùng lưỡi lê và họng súng để theo đuổi cuộc chiến tranh ăn cướp lâu dài. Nhiều người ngoài Bắc vào Nam nói “các anh không thể thắng được chúng tôi những thằng nghèo đói, thằng nghèo đói không sợ chết”. Sau di cư 1954, Hà Nội sống chết cũng phải chiếm cho được vựa lúa miền nam, họ đã thèm thuồng cái vựa lúa này từ lâu..

    Nay tại hải ngoại nhiều người chủ trương hoà giải với Cộng Sản Việt Nam, họ lý luận rằng cuộc chiến tranh ba mươi năm đã tàn phá đất nước nhiều rồi, chúng ta hãy bắt tay nhau cùng xây dựng lại những vết thương do chiến tranh để lại, cùng nhau xoá bỏ hận thù. Luận điệu ấy thoáng nghe thật chan chứa tình thương yêu đồng loại, nhưng thực ra họ đã đặt sai đối tượng hoà hợp hoà giải vì có phải rằng khối người lưu vong hải ngoại hận thù Cộng Sản đâu? thực ra như chúng tôi đã trình bầy ở trên hận thù sâu sắc hiện nằm ngay trong lòng quần chúng miền Nam nước Việt, hận thù Nam Bắc hiện nay đang nằm trong lòng dân tộc, nó đã ăn sâu vào tận xương tủy kẻ bị trị nghèo nàn đói khổ..

    Nay Cộng Sản Việt Nam vẫn cho thực hiện những phim tuyên truyền kết án chế độ địa chủ ác ôn như trong phim Áo Lụa Hà Đông nhưng trớ trêu và trơ trẽn thay chế độ của họ tự nhận là “Đảng của giai cấp công nhân” lại là một chế độ áp bức, bóc lột gấp trăm gấp ngàn lần thời kỳ địa chủ, cường hào ác bá thập niên 40 trở về trước. Đảng Cộng Sản ViệtNam hiện nay chính là một tập đoàn địa chủ giầu có ác ôn, hà hiếp bóc lột dân nghèo tàn nhẫn nhất chưa từng thấy trong lịch sử nước nhà từ trước đến nay.

    Một người mới về Việt Nam sang Mỹ cho biết chênh lệch giầu nghèo thì không thể tưởng tượng nổi, bọn nhà giầu không ai hơn là cán bộ cao cấp ăn chơi hưởng thụ tại những nhà hàng, khách sạn sang trọng hằng nghìn, hằng mấy nghìn đô la một đêm trong khi có nhiều bà mẹ tay trái thì bồng con, tay phải bán vé số .. chạy ăn từng bữa. Nay nhiều người chủ trương hoà giải với người Cộng Sản Việt Nam bằng một lối lý luận đạo đức giả “ xoá bỏ hận thù, xây dựng đất nước” nhưng họ không biết rằng người Cộng Sản có chịu xoá bỏ hận thù hay đào sâu thêm hận thù? người Cộng Sản xây dựng đất nước hay xây dựng cho chế độ của họ thêm vững mạnh bằng lưỡi lê và họng súng?

    Nhiều người thuộc lớp trẻ cho rằng lớp người cũ, sĩ quan, viên chức chính phủ, cải tạo HO… đã chịu nhiều ngược đãi của Cộng Sản nên cho tới nay họ vẫn giữ lập trường hận thù Cộng Sản. Ngược lại giới trẻ đã không từng trải qua những cay đắng gian khổ của chiến tranh như tù đầy, loạn lạc vì họ còn nhỏ hoặc thậm chí chưa ra đời nên họ không có cái nhìn hằn học với người Cộng Sản như thế hệ cha ông của họ. Họ chủ trương hoà giải với Cộng Sản để cùng bắt tay nhau xây dựng đất nước vì nay Cộng Sản vẫn lớn tiếng kêu gọi người Việt hải ngoại hãy quên dĩ vãng, cùng nhau xoá bỏ hận thù..

    Người Cộng Sản có thực sự xoá bỏ hận thù hay không? Họ xóa bỏ hận thù hay đào sâu thêm cái hố hận thù đã vốn dĩ sâu thăm thẳm từ bao năm qua? Chúng ta hoà hợp hoà giải với Cộng Sản , đem tài nguyên tài năng về Việt Nam xây dựng đất nước hay là để củng cố thêm quyền lực và tài sản cho bọn thống trị, để họ vơ vét thêm tài sản nhân dân cho đầy túi tham và đè đầu cưỡi cổ nhân dân miền Nam thêm nhiều thế kỷ nữa? Trước mắt chúng ta thấy Cộng Sản Việt Nam vẫn ngoan cố như tự bao giờ, trước sau như một. Địa vị của Đảng vẫn phải được củng cố vững mạnh hơn bao giờ hết bằng lưỡi lê và họng súng.

    Nay Cộng Sản Quốc tế đã sụp đổ tan tành nhưng Cộng Sản Việt Nam và Trung Hoa vẫn còn bám víu vào quyền lợi riêng tư của Đảng một cách trơ trẽn và ngoan cố, họ không biết rằng con người không thể nào quay ngược bánh xe lịch sử, không thể nào vặn ngược chiều kim đồng hồ. Để quay ngược bánh xe lịch sử họ vẫn ngoan cố bảo vệ Đảng, bảo vệ tập đoàn thống trị bằng bạo lực.

    Sáu mươi năm trước đây, thánh Ghandi đã nói “ Chúng ta thấy qua lịch sử, con đường của sự thật và tình thương luôn luôn thắng bạo tàn, độc ác, bất nhân… Bạo tàn chỉ thắng lợi được một thời gian rồi cũng phải thất bại sụp đổ tan tành”.

    Thật vậy lịch sử loài người tự cổ chí kim đã cho ta thấy rằng tất cả những triều đại, những chế độ tàn bạo, độc ác bất nhân cho dù có vững mạnh tới đâu cuối cùng cũng phải bị bánh xe lịch sử nghiền nát như tương như cám. Nay Cộng Sản Việt nam không chiu nhìn lại cái gương của quá khứ, nếu họ tiếp tục đào sâu hận thù Nam Bắc bằng lưỡi lê và họng súng, cho dù họ có thể tồn tại được trong một khoảng thời gian nào đó, nhưng cuối cùng họ sẽ tự đào hố chôn mình…

  6. chánh tất thắng says:

    XHDS thật sự góp phần hửu hiệu cho Xả Hội ,khi có một thề chế TDDC thật sự ,bằng bầu cử tự do dưới sự giám sát quốc tế ,có đa đãng đa nguyên. nếu không , thì XHDS chỉ là hình thức làm mạnh thêm cho chế độ CHXHCNVN ,mà CSVN đôc quyền đôc tài toan trị . CSVN là nguyên nhân của mọi sự thối hóa trên toàn diện mọi lảnh vực , mà tệ hại nhất là tay sai và bán nước cho Tàu Cộng . Nhưng làm sao cho người CS ,phải châp nhận trả quyền lại cho NDVN và trở lại với NDVN . Vai trò NVHN ? vai trò Trí Thức lảnh đao ? Hơn 37 năm nói nhiều hơn hành động ? chỉ trích hơn góp phần xây dựng ? mổi trí thức là một lảnh đạo ? đến lúc cần hội luân ,làm sao có được TDDC ,mà không tổn thương ,giử tình đoàn kết,cùng giử nước ,cùng xây dưng VN thật sự đôc lập tiến bộ . Chỉ có can đảm đạo đức ?

  7. nguoivn says:

    Cần Chỉnh Đốn Lại Việt Nam

    ——————————————————————————–

    Muốn quốc gia giàu mạnh và hùng cường thì cần phải chỉnh đốn những việc như sau:

    Chính trị, kinh tế, văn hóa, xả hội, và khoa học kỹ thuật phải thay đổi hoàn toàn để đáp ứng với tình hình thay đổi của thế giới .

    1. Chính trị :

    Chấm dứt CNCS, XHCN, giải tán và giải thể đảng CSVN trong ôn hòa và trật tự .

    Cần có tự do, dân chủ, công bình bác ái, luật pháp công minh, nghiêm minh hoàn chỉnh cho toàn dân VN.

    2. Kinh tế :

    Một khi dẹp bỏ được CNCS, XHCN cùng đảng CSVN có nghĩa là dẹp bỏ được “Bức màn sắt” hay còn gọi là dẹp bỏ được sự cản trở, cản bước tiến của đà văn minh tiến bộ của toàn dân VN và cũng bắt đầu dẹp bỏ đường lối, chính sách “Bế quan tỏa cảng” chỉ biết lệ thuộc vào sự sai khiến của CSTC .

    Phải biết dùng chính sách trung dung, mềm dẽo, khôn ngoan, khôn khéo và thân thiện cỡi mở với mọi người, mọi quốc gia trên thế giới để có được sự giúp đỡ và hiệp lực của những quốc gia giàu mạnh trên thế giới như là Anh, Pháp, Đức, Ý, Gia nả Đại, Nhật Bản, Úc, Ấn Độ, Hoa Kỳ,…vv… và có sự giao hảo thân thiện và tương kính lẩn nhau như là Nga, Tàu chứ không phải là làm nô lệ, làm tay sai để cho chúng đè đầu cưỡi cổ, chà đạp cùng xâm lăng, xâm lấn cùng xâm chiếm quê hương xứ sở của mình.

    3. Văn Hóa, Xả Hội cùng Khoa Học Kỹ Thuật:

    Tự do, dân chủ, công bình, bác ái, luật pháp công minh, nghiêm minh hoàn chỉnh để chỉnh đốn lại quốc gia, xây dựng lại nước nhà, cùng canh tân và phát triển đất nước bằng cách chấm dứt ngay lập tức truyền bá những tư tưởng ngu xuẩn, ngu đần và không tưởng như là Chủ Nghĩa Cộng Sản, Xả Hội Chủ Nghĩa cùng Tư tưởng chỉ đạo của tên trâu sanh mọi rợ, phản quốc, phản dân, lừa thầy phản bạn, côn đồ mất dạy, khốn nạn, khốn kiếp và trời tru đất diệt Nguyễn tất Thành hổn danh Hồ chí Minh .

    Chấm dứt ngay lập tức truyền bá và dạy dổ chủ thuyết CS trong học đường và khắp nơi khắp nước VN bỡi vì Chủ thuyết Cộng Sản là ngu xuẩn, ngu đần, không thực tế, thực tiển và chẳng có ý nghĩa và ích lợi gì cho sự trường tồn và phát triển đất nước VN cả .

    Chỉ dạy dổ và truyền đạt những gì cần thiết và hết sức thực tế, thức tiển cho cuộc sống an vui, an lành, và hợp với thời đại văn minh tiến bộ của cộng đồng trên thế giới như là những điều như sau:

    1. Phép hành xử và đối xử đàng hoàng tử tế và có hiếu đạo cùng tôn kính đối với ông bà tổ tiên, cha mẹ, anh chị em, bà con lối xóm và những người thân yêu trong gia đình như là học về “Đạo Làm Người”, “Công Dân Giáo Dục”,…vv…

    2. Tình yêu nước thương dân, sự thương yêu, hòa thuận, gương hy sinh, đạo đức, khiêm tốn, khiêm nhường và đối xử tốt đẹp với nhau giữa người VN với người VN và với những cộng đồng trên thế giới như là trao dồi và học hỏi về Sử, Địa Lý, …vv…

    3. Khoa học kỹ thuật, và khuyến khích mọi người công dân nước VN ngày như đêm siêng năng học hành và trao dồi những môn học cần thiết và thực tế, thực tiển để áp dụng vào cuộc sống và suốt cuộc đời của mình như là Toán, Hóa Học, Vật Lý, Kiến Thức Khoa Học, …vv…

    4. Cần mở nhiều trường học để dạy dổ và học hỏi những ngoại ngữ như là Anh, Pháp, Đức, Tàu, Nga, Nhật Bản,…vv…

    5. Cần mở nhiều trường chuyên huấn luyện và đào tạo những nghề chuyên môn như là “Thợ mộc, thợ nề, thợ hớt tóc, thợ uống tóc, thợ điện, thợ sửa TV, thợ sửa Computer, thợ sửa xe hơi, thợ vẽ, thợ sơn, thợ đóng tàu, y tá, nhà băng, đầu bếp nhà hàng,…vv…. để sẳn sàng cung cấp thật nhiều những tay nghề chuyên môn cho những công ty Công Kỹ Nghệ khắp nơi, khắp nước VN .

    Tóm lại là VN muốn thành công tốt đẹp và phát triển đất nước về mọi mặt như là chính trị, kinh tế, văn hóa, xả hội, khoa học kỹ thuật,…vv… thì phải dứt khoát từ bỏ và dẹp bỏ CNCS, XHCN, đảng bất công, bất trí, bất nhân và hết sức tham tàn khát máu CSVN ngay lập tức nếu VN muốn thoát ra kiếp sống CHẬM TIẾN, NGHÈO NÀN, LẦM THAN KHỐN KHỔ, …VV… trước khi quá muộn .

    Chỉ có TỰ DO, DÂN CHỦ, CÔNG BÌNH BÁC ÁI, LUẬT PHÁP CÔNG MINH,…VV… là con đường an toàn nhất, thành công tốt đẹp nhất cho mọi người công dân nước VN (CS và không CS) .

    Thương yêu toàn dân VN với hết cả tâm hồn .

    Kính chào đoàn kết và quyết thắng trong tình YÊU NƯỚC THƯƠNG DÂN .

    “V”, “VK”

    HS. TS. VN

Leave a Reply to NHƯNGUYEN