WordPress database error: [Expression #1 of ORDER BY clause is not in GROUP BY clause and contains nonaggregated column 'oldsite_dcvwp.wp_posts.post_date' which is not functionally dependent on columns in GROUP BY clause; this is incompatible with sql_mode=only_full_group_by]
SELECT YEAR(post_date) AS `year`, MONTH(post_date) AS `month`, count(ID) as posts FROM wp_posts WHERE post_type = 'post' AND post_status = 'publish' GROUP BY YEAR(post_date), MONTH(post_date) ORDER BY post_date DESC

 
|

Ý niệm về sự trị vì của luật pháp trong thời đại toàn cầu hóa [1]

… as in absolute governments, the King is law, so in free countries the law ought to be the king; and there ought be no other. (… vì trong các chính quyền chuyên độc, Vua là luật, vậy thì trong các quốc gia tự do, luật phải là Vua; và không nên có gì khác nữa)
Thomas Paine (Commense Sense, Jan. 1776)

… men have a duty to obey the law but have the right to follow their consciences when it conflicts with that duty (…con người có bổn phận tuân theo luật pháp nhưng cũng có quyền làm theo lương tâm mình khi luật pháp xung đột với bổn phận đó)
Ronald Dworkin (Taking Rights Seriously, 1970)

environment.law_
Từ khi Liên Bang Xô Viết tan rã và hình thành những quốc gia độc lập và bắt đầu xây dựng nền dân chủ non trẻ, đồng thời thế giới càng ngày càng tiến xa trên đường toàn cầu hoá, thì ý niệm về sự trị vì của luật pháp càng ngày càng được phổ biến. Các nhà lãnh đạo, các chính trị gia, các ứng cử viên vào các chức vụ cấp quốc gia cũng như địa phương tại các quốc gia dân chủ, cũng như độc tài đều đề cập đến ý niệm này một cách say sưa nồng nhiệt. Mọi người xem đó là viên thuốc trị bá bệnh giúp ổn định trật tự xã hội, xây dựng dân chủ, tôn trọng nhân quyền, phát triển kinh tế, cải thiện guồng máy công quyền nói chung, và hành chánh nói riêng vv. Tại Hoa Kỳ, khi vận động tranh cử Donald Trump, ứng cử viên chức vụ tổng thống của đảng Cộng Hòa không ngừng hô hào “luật pháp và trật tự” (law and order); ứng cử viên không thành công Clinton của đảng Dân Chủ và Tổng Thống Obama cũng lần lượt nói đến “sự trị vì của luật pháp” (the rule of law) trong bài diễn văn liền sau khi cuộc bầu cử kết thúc.

Trong hơn thập niên vừa qua, các cơ quan kinh tế, luật pháp thuộc Liên Hiệp Quốc đã thực hiện nhiều công trình nghiên cứu, huấn luyện cho các quốc gia giao thời nói trên, cũng như cho các quốc gia đang phát triển. Hoa Kỳ, Canada, Liên Âu v.v. cũng dành không ít ngân quỹ và nhân sự để giúp cho việc cải tổ pháp luật, truyền bá và rao giảng “sự trị vì của pháp luật” ở các nước vừa nói, hy vọng rằng khi “nguyên tắc” này được tôn trọng, hay “lý tưởng” này được tiến gần, thì mọi sự tốt đẹp sẽ đến từng các quốc gia, cũng như cho toàn thế giới.

Về Thuật Ngữ Tiếng Việt

Trong bài viết này, thuật ngữ “sự trị vì của luật pháp” được dịch theo nguyên ngữ tiếng Anh “the rule of law”. Nó có thể hiểu một cách đơn giản là trong việc cai trị đất nước, luật pháp đứng trên hết, trên cả vua (nếu đó là vương quốc), nhà nước, các đảng phái chính trị và dân chúng. Nói cách khác, mọi người thuộc mọi tầng lớp trong nước đều là đối tượng bình đẳng trước luật pháp. Chính vì vậy mà “sự trị vì của luật pháp” còn được gọi là “tính thượng đẳng của luật pháp” (the supremacy of the law). Chúng tôi chọn cách dịch sát nghĩa, nhưng không ngắn gọn này, vì nó dễ hiểu và hy vọng sẽ tránh được sự hiểu lầm cho một người đọc vốn quen với một số thuật ngữ thông dụng hiện nay, chẳng hạn “pháp trị”, “pháp quyền”. Hơn nữa, nguồn gốc của thuật ngữ này là từ tiếng Anh, chứ không phải từ tiếng Pháp, tiếng Hoa, hay tiếng nước khác được dịch sang tiếng Anh. Theo từ điển The Oxford Encyclopedic English Dictionary, 1996, trang 1262, thì trong thuật ngữ này, “rule” có nghĩa là government (cai trị) hay dominion (chế ngự); do đó chúng tôi đề nghị dịch là “sự trị vì” để nói lên tính thượng đẳng của luật pháp; hơn nữa trong lịch sử Anh quốc, có lúc luật pháp đã thật sự đứng trên vua. (sẽ đề cập trong bài).

Để cho ngắn gọn trong sự trình bày, chúng tôi còn dịch “rule of law” thành “luật trị”, tức sự trị vì/ sự cai trị của luật pháp, để đối chiếu với đảng trị, gia đình trị mà người ta thường nghe và hiểu rõ nội dung. Theo cách dùng chữ này, thì “luật trị” có ý nghĩa khác biệt với “pháp trị” và “pháp quyền” như sẽ được đề cập phần sau. Nhưng ngay từ đây, xin đừng hiểu “luật trị” là cai trị bằng luật pháp. Nói cách khác, trong phần còn lại của bài viết 2 nhóm từ sự trị vì của luật pháp” và “luật trị” được dùng thay thế cho nhau. Cũng cần nói thêm là trong thời kỳ chuyển tiếp, nhiều chế độ “cai trị bằng chính sách” trong khi chưa có đủ luật lệ mới để điều hành guồng máy nhà nước — Việt Nam sau 1975 là một thí dụ. Đối với một xã hội văn minh, tình thế này không thể tồn tại trong một thời gian dài.

Khoảng 9-10 năm trước đây, khi bản dự thảo hiến pháp (về sau thành Hiến Pháp 2013) của Việt Nam Cộng Sản được đưa ra thảo luận trong nước, đã có sự tranh luận về việc dùng thuật ngữ “pháp trị” hay “pháp quyền” để dịch thuật ngữ tiếng Anh “the Rule of Law”. Nhóm chủ trương dùng chữ “pháp trị” giải thích “pháp trị” là dùng pháp luật nghiêm khắt để cai trị, một chủ trương của nhóm pháp gia thời xa xưa bên Trung Hoa, mà tiêu biểu là Công Tôn Ưởng thời Đông Chu Liệt Quốc. Đối nghịch với trường phái “pháp trị” này là trường phái “nhân trị”, tức dùng lòng nhân để mà cai trị. Với ý nghĩa đó, “nhân trị” còn được coi như là đức trị (rule of virtues). Trước năm 1975, các sinh viên năm thứ nhất của Đại Học Luật Khoa và Học Viện Quốc Gia Hành Chánh đều được học bài học nhập môn này; do đó, khi ra trường và hòa mình vào xã hội có luật pháp kỷ cương, chẳng mấy ai dám liều lĩnh, quên “nguyên tắc thượng tôn luật pháp”, vì biết rằng luật pháp sẽ chẳng tha nếu mình vi phạm.

Nhóm chủ trương sử dụng chữ mới “pháp quyền” khẳng định “pháp quyền” là “rule of law”, nhưng khi đọc bản dịch, thì người ta không còn thấy dấu vết của “rule of law” ở đâu nữa. Thật vậy, Điều 2, khoản 1 tiếng Việt là:

Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân.

Trong các bản dịch sang tiếng Anh này, giống hệt nhau trên mạng khiến người viết nghĩ là chỉ từ một bản dịch “chính thức” của nhà nước, Điều 2 khoản 1 trên đây được dịch như sau:

The Socialist Republic of Vietnam is a socialist state ruled by law and of the People, by the People and for the People. [Người viết thêm dấu gạch dưới].

Nếu hiểu “nhà nước pháp quyền” là nhà nước chịu sự chi phối cuả luật pháp theo lối viết tiếng Anh này, thì người viết thiết nghĩ dịch như sau có thể gọn gàng hơn:

The Socialist Republic of Vietnam is a law-ruled (or (or a law-governed) sate of the People, by the People and for the People.

Cũng cần nhớ lại là 2 chữ “pháp quyền” này mới được ghi thêm vào Hiến Pháp 2013, chứ không có trong các hiến pháp trước đó. Từ câu tiếng Anh này, người đọc có thể hiểu pháp quyền có nghĩa là cai trị bằng /bởi luật pháp; và cả câu sẽ có nghĩa nôm na như sau: Nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nước xã hội chủ nghĩa [thừa] được cai trị bằng luật pháp, của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Nhưng theo Tiến Sĩ Nguyễn Văn Hiệu, Ủy Viên Trung Ương Đảng, Chánh Án Tòa Án Nhân Dân Tối Cao trong bài Một số vấn đề về nhà nước pháp quyền ở nước ta trên Tạp Chí Cộng Sản Thứ Hai 14/11/2007, thì “Nhà nước pháp quyền là nhà nước được xem xét dưới góc độ pháp luật trong đó tính tối cao của pháp luật được tôn trọng vv.” [Người viết cho in nghiêng]. Người viết nghĩ với học vị và chức vụ của ông, ý kiến của TS Hiệu phản ảnh trung thực ý muốn của những người soạn thảo Hiến Pháp. Điều đó có nghĩa là “nhà nước pháp quyền” là nhà nước trọng nguyên tắc sự trị vì của luật pháp, do đó dịch sang tiếng Anh “rule of law state” như bản dịch “không chính thức” (unofficial) dưới đây của International Institute for Democracy and Electoral Assistance (viết tắt International IDEA) là chuẩn vì vẫn giữ được cái lõi “rule of law” quen thuộc trong ngôn ngữ của giới nghiên cứu chính trị và luật pháp nước ngoài:

The Socialist Republic of Vietnam is a socialist rule of law state of the People, by the People and for the People. [Người viết thêm dấu gạch dưới]

Tuy nhiên, chữ “state” có nhiều nghĩa trong đó có 2 nghĩa đáng lẽ không nên lẫn lộn: nước (quốc gia), và nhà nước (tổ chức chính quyền của nước đó). Do đó, người viết thiết nghĩ Khoản 1 bản tiếng Việt có thể dịch gọn (không luộm thuộm như trong bản dịch phía Việt Nam và rõ nghĩa hơn so với trong bản dịch “không chính thức” của International IDEA), như đề nghị dưới đây:

The State of the Socialist Republic of Vietnam is a socialist rule-of-law state of the People, by the People and for the People. (có thể không cần hai dấu gạch nối, như International IDEA)

Thật ra “sự trị vì của luật pháp” tuy đã có một lịch sử lâu dài, nhưng vẫn chưa được định nghĩa rõ ràng. Theo người viết, dù chỉ là một ý niệm chưa được định nghĩa rõ ràng, hay một lý tưởng muốn theo đuổi, nếu nay được đưa vào hiến pháp thì e rằng nó sẽ khiến Hiến Pháp trở thành quá tải! Hay nói đúng hơn là Hiến Pháp quá ôm đồm và tạo thêm mơ hồ khi nó phải gánh thêm ý niệm “sự trị vì của luật pháp”, ngoài cái lý tưởng “chủ nghĩa xã hội” mà đến nay vẫn chưa được định nghĩa cụ thể. Lý tưởng luật trị, cũng như các lý tưỏng chính trị khác như xã hội dân sự, dân chủ, nhân quyền, tự do cá nhân v.v. đã được làm sống lại và hiện đại hóa trong thời đại toàn cầu hiện nay, nhất là từ sau khi chủ nghĩa cộng sản không còn đất đứng như trước đây.

Bài viết này đề cập đến các phần sau đây:

- Sơ lược về sự phát triển của ý niệm luật trị
- Vài quan điểm kinh điển về luật trị
- Luật trị trong thời đại toàn cầu hóa
- Đo lưòng nguyên tắc luật trị

1. Sơ Lược Về Sự Phát Triển Của Ý Niệm Luật Trị

Trong lịch sử Tây phương, ý niệm luật trị phát triển từ Hy Lạp, chậm nhất cũng từ thế kỷ thứ 5 trước Tây Lịch. Thời đó, Hy Lạp có một nền dân chủ đại chúng. Trong lĩnh vực xử kiên, các nam công dân thành Athens (trừ nô lệ) từ 30 tuổi trở lên lần lượt được cử làm phán quan để xử kiện. Các phán quan này phải căn cứ theo luật pháp để phán quyết, ai vi phạm luật pháp hiện hành sẽ bị nghiêm trị. Triết gia Socrates đã bị đưa ra xét xử vì ông chế nhạo các vị thần mà dân thành Athens thờ phượng, là thầy của một người học trò theo giặc (thành Sparta ), cũng là bạn của một nhóm chống đối chính quyền đương thời. Socrates có thể trốn thoát ngục tù với sự giúp đỡ của một môn đệ, nhưng ông từ chối. Ông cho rằng bỏ trốn tức là phủ nhận và do đó làm tổn thương thành Athens , cũng như thủ tục tố tụng của nó. Theo ông, luật pháp của thành Athens không có trách nhiệm đối với cái án tử hình ông mang, mà chính những kẻ kết án ông, do thiên lệch, mới là những kẻ có tội. (Philosophy: History and Readings, S. E. Stumpf & J. Fieser, 8th ed, trang 40)

Một môn đệ khác của Socrates là Plato đồng ý là chính quyền phải dựa vào luật pháp. Theo ông, khi luật pháp là đối tượng của một quyền lực khác, mà không phải là của chính mình, thì nhà nước sẽ sụp đổ; nhưng nếu luật pháp là chủ nhân ông của chính quyền, và chính quyền là đầy tớ, thì tình thế sẽ đầy hứa hẹn và người ta sẽ hưởng ân sủng của các thần linh gieo rắc. Ông còn cho rằng luật pháp phản ảnh trật tự thiêng liêng, phù hợp với điều Thiện; nếu trái lại, thì đó chỉ là luật giả (bogus law, tiếng lóng gọi là “luật dõm”). (On The Rule of Law, Brian Z Tamanaha, trang 9)

Aristotle, một môn đệ uyên bác của Plato, khẳng định rằng luật pháp cai trị thì tốt hơn là người cai trị. Và ông chủ trương những người phụ trách về luật pháp cũng phải tuân theo luật. Do đó mà nhiều người cho rằng chính Aristotle là người đầu tiên đưa ra ý niệm mà cách dịch hiện đại sang tiếng Anh là “rule of law”, mặc dù câu viết của ông được dịch sát sẽ như sau: “It is better for the law to rule than one of the citizens and so even the guardians of the laws are obeying the law.” (Luật pháp trị vì thì tốt hơn là một trong những công dân trị vì, thế nên ngay cả những người phụ trách luật cũng tuân theo luật.) Cũng từ đó, nhiều người cho rằng Aristotle đối kháng “rule of law” với “rule of men” (The Rule of Law, Tom Bingham, trang 3). Ở đây, cũng cần lưu ý là nếu dịch “rule of men” là “nhân trị”, thì lại gây thêm rối rắm! Vì viết theo chữ quốc ngữ, nhân là người mà cũng có thể hiểu là lòng nhân.

Hầu hết các tác giả khi nghiên cứu về luật trị (rule of law) đều cho rằng luật gia người Anh, A.V. Dicey, tác giả quyển Introduction to the Study of the Constitution, nền tảng cho việc nghiên cứu về luật trị, xuất bản năm 1886 (sẽ bàn thêm ở phần dưới), là cha đẻ của thuật ngữ này. Nhưng theo 2 tác giả hiệu đính Pietro Costa và Danil Zolo trong tác phẩm The Rule of Law: History, Theory and Criticism in năm 2007, thì Dicey đã viết rằng luật gia William Edward Hearn giới thiệu thuật ngữ này năm 1867. Người viết đọc Dicey thì không tìm ra xác minh đó. Tuy nhiên, khi đọc William Ed. Hearn lý luận về căn cứ quyết định của các quan tòa, (trong quyển The Theory of Legal Duties and Rights: An Introduction to Analytical Jurisprudence, xuất bản lần đầu vào năm 1883) người viết thấy một đoạn như sau đây:

The policy of this rule is the urgent need of certainty in law. “It is generally more important, said Lord Cottenham, that the rule of law should be settled than that it should be theoretically correct.” [người viết cho in nghiêng]

Lord Cottenham tên thật là Charles Christopher Pepeys (1781-1851) là một luật gia và chính trị gia nước Anh, từng giữ nhiều chức vụ cao cấp trong đó Solicitor General). Tuy nhiên, theo Wikipedia, thì trước đó, Samuel Rutherford (1600-1666), một nhà thần học đã dùng thuật ngữ này trong tác phẩm Lex, Rex (The Law of the Prince), xuất bản năm 1644.
Đến đây, về phương diện nguồn gốc, chúng ta có thể tạm xem Samuel Rutherford là cha đẻ của thuật ngữ “rule of law”.
Trước Samuel Rutherford trên 400 năm, quan điểm luật pháp đứng trên tất cả đã được long trọng ghi vào bản tuyên ngôn Magna Carta bằng tiếng Latin, ra đời năm 1215 sau sự thắng thế của giới quý tộc Anh đối với vua King John. Theo tinh thần của bản tuyên ngôn này, thì không ai sẽ bị bắt giữ, bị cầm tù, bị tước đoạt quyền hay tài sản, bị đặt ra ngoài vòng pháp luật, bị lưu đày, hay bị áp chế bằng vũ lực v.v. trừ phi được xét xử công bằng và theo luật.

Mặc dù về sau, Hoàng Gia Anh cũng như Giáo Hội La Mã lấy lại quyền lực của mình, nhưng tinh thần tuyên ngôn Magna Carta vẫn bàng bạc trong dân chúng. Mãi đến hơn 500 năm sau, tuyên ngôn Magna Carta mới thực sự hồi sinh. Thực vậy, sang Thời Đại Bừng Sáng (the Enlightenment) thế kỷ 18, tính chính đáng/chính danh (legitimacy) của vương quyền cũng như của Giáo Hội La Mã bị thử thách mạnh mẽ. Các nhà triết gia chính trị như John Loke, J.J. Rousseau viện dẫn lý lẽ, luật thiên nhiên, cũng như sự đồng thuận của nhân dân như là nguồn gốc của quyền lực nhà nước và nghĩa vụ chính trị của công dân. Năm 1770, William Pitt the Elder, một nghị sĩ của Viện Quý Tộc (The House of Lords), một người rất có cảm tình với các thuộc địa Mỹ Châu, gọi tuyên ngôn này là “Thánh Kinh của Hiến Pháp nước Anh” (the Bible of the English Constitution.” Thật ra nước Anh không có một “Bản Hiến Pháp” như chúng ta thường thấy ở những quốc gia khác; mà Hiến Pháp của Anh chỉ là tập hợp những bộ luật, những nguyên tắc, và Magna Carta vẫn còn duy trì trong Satute Book cho đến khi luật cải cách the Law of Reform Act ra đời năm 1863. Được mang sang các thuộc địa châu Mỹ, Magna Carta ảnh hưởng không ít đến Hiến Pháp Hoa Kỳ và luật lệ của hầu hết các tiểu bang. (Theo 1215 The Year of Magna Carta, do Danny Danziger & John Gillingham, nxb Touchstone, 2003, trang 267-268) . Trước khi trở thành tổng thống thứ hai (1797-1801) của Hoa Kỳ, và khi chưa tin tưởng Hoa Kỳ sẽ độc lập khỏi Anh, John Adam trong một bài viết đăng trên tờ Massachusetts Gazettes ra ngày 6 Feb. 1775 đã viết: “Họ [Aristote, Livy, và Harrington] định nghĩa một nền cộng hòa là sự trị vì của các luật, chứ không phải của con người. Nếu định nghĩa này đúng, thì hiến pháp nưóc Anh, là một thể chế cộng hòa, không hơn không kém, trong đó nhà vua là vị phán quan thứ nhất.” (They define a republic to be government of law, and not of men. If this definition be just, the British constitution is nothing more or less than a republic, in which the king is first magistrate.) Tiếp theo, ông bàn về sự truyền ngôi báu trong hoàng gia và các hoạt động của quốc hội Anh, để lập luận rằng vì các thuộc địa trên thực tế không thể có đại diện tại nước Anh, cho nên các thuộc địa phải có đại diện tại bộ phận lập pháp tại vùng đất mới này; bằng không thì nước Anh sẽ mất các thuộc địa. [“John Adams: The Rule of Law and the Rule of Men”, trong The Annals of America, Vol. 2, trang 308-310]

Muốn tìm hiểu thêm về lịch sử của ý niệm luật trị, quý độc giả có thể nghiên cứu thêm tác phẩm The Rule of Law của Tom Bingham (2010) nói trên, hoặc tác phẩm On The Rule of Law: History, Politics, Theory của Brian Z. Tamanaha (2014).
Ở đây cũng xin nói thêm về khái niệm luật trị trong hệ thống pháp luật của nước Pháp. Theo Danilo Zolo, một trong 2 người hiệu đính quyển The Rule of Law nói trên, thì lý thuyết về “nhà nước pháp quyền” (l’État de droit, thường được dịch sang tiếng Anh là “law-ruled state”) được hình thành khá trể, do Raimond Carré de Malberg vào thời Đệ Tam Cộng Hòa, chịu ảnh hưởng phần lớn ý niệm Rechtsstaat của Đức (được sử dụng đầu tiên vào thập niên 1830, coi tự do cá nhân là mục tiêu chính của các hoạt động của nhà nước). Theo ông, sự bảo vệ các quyền tự do cá nhân chống lại sự tùy tiện của nhà nước là mục tiêu chính của nhà nước pháp quyền. Để đạt mục tiêu này, nhà nước pháp quyền phải tự hạn chế thẩm quyền của mình bằng cách tuân theo những qui định có giá trị chung cho xã hội và cho từng cá nhân. Ông cũng đề nghị xét lại thẩm quyền của Quốc Hội (Đệ Tam CH), và chủ trương thẩm quyền của nó cũng như tất cả thẩm quyền của các định chế khác phải tôn trọng tinh thần luật trị. Cũng theo ông, nhà nước hợp pháp (État légal) chưa nhất thiết là nhà nước pháp quyền đúng nghĩa. Một nhà nước pháp quyền còn phải cung ứng cho các cá nhân những phương tiện hợp pháp để chống lại ý chí của cơ quan lập pháp mỗi khi cơ quan này vi phạm những quyền cơ bản của nhân dân. (trang 13-15)
Ngoài l’État de droit, tùy theo trường hợp, người Pháp còn dùng các nhóm từ khác như la primauté de la loi, hay l’autorité de la loi v.v. để chỉ ý niệm luật trị.

2. Vài Quan Điểm Về Ý Niệm Luật Trị

Như được đề cập ở phần trên, luật trị là một ý niệm chưa có một nội dung được mọi người đồng ý. Tuy nhiên, nó đã được nghiên cứu khá nhiều. Dưới đây, xin trình bày ngắn gọn một vài công trình nghiên cứu được coi như kinh điển và làm nền móng cho nhiều nghiên cứu sau đó.

Trước hết phải kể đến Albert V. Dicey (1835-1922). Trong tác phẩm đề cập ở trên, ông chủ trương luật trị bao gồm 3 yếu tố sau đây:

(1) Không ai bị trừng phạt hay chịu thiệt thòi về thân thể hay của cải, trừ phi vi luật và được xét xử theo thủ tục bình thường trước tòa;
(2) Không ai đứng trên luật pháp, mọi người đều bình đẳng trước tòa;
(3) Các quyết định ảnh hưởng đến tự do cá nhân bắt nguồn từ hiến pháp, hay các định chế mà các quan tòa phải hành xử.

Điều quan trọng ở điểm (3) này là Dicey tin tưởng vào các cơ chế và tổ chức đã bàng bạc hay ăn sâu trong lòng dân chúng –tức dân Anh– hơn là các bản hiến pháp thành văn hay bản tuyên bố của các nước khác. Nhận định này của ông bị nhiều nhà nghiên cứu công kích, với lý do là nếu chưa có được một truyền thống như nước Anh, thì sẽ lấy gì làm khởi điểm để từ đó nuôi dưỡng và phát huy tinh thần tôn trọng nguyên tắc luật trị? Đây là trường hợp của Hoa Kỳ, nơi mà tiến trình học hỏi qua những khuyết điểm hay thất bại (learning curve) giúp quốc gia này củng cố và phát triển trên nhiều lãnh vực, trong đó có sự tôn trọng luật pháp và các quyền tự do. Ngoài ra, quan điểm của Dicey đã trở nên quá giản dị trong thời đại hiện nay, khi mà lập pháp phải đương đầu với nhiều vấn đề hơn, và bộ máy hành pháp và hành chánh thừa hành phải thi hành –kịp thời, chi tiết, chính xác –nhiều điều luật liên quan đến kỷ thuật tân tiến và mối liên lập phức tạp với thế giới bên ngoài mà các nhà lập pháp không tiên liệu được khi thông qua các bộ luật.

Lon L. Fuller (1902-1978), một giáo sư luật nổi danh của Harvard University, trong quyển The Morality of Law, xuất bản năm 1969, chủ trương rằng căn bản tinh thần nội tại của luật pháp (the internal moral basis of law) phải hội đủ 8 yếu tố sau đây:

(1) luật phải tổng quát (general), không đi vào các trường hợp đặc biệt;

(2) luật phải được công bố (public), nghĩa là dân chúng phải biết trước để liệu bề mà hành động;

(3) luật phải cho tương lai (prospective), không hồi tố (non-retroactive); đó là hệ luận của điều (2), tức luật áp dụng phải ban hành trước khi vụ án xảy ra và sau đó bị đem ra xử;

(4) luật phải đầy đủ, rõ ràng (comprehensive, clear), để người bình thường cũng có thể hiểu;

(5) luật phải không mâu thuẩn nhau (noncontradictory), có nghĩa là người chịu sự chi phối của luật lệ chỉ phải theo một điều và không phải theo điều ngược lại; nếu có sự mâu thuẩn, thì phải có sự hướng dẫn của hệ thống tư pháp;

(6) luật có thể thi hành được (possible to perform; able to conform person’s behavior), nghĩa là không vượt quá khả năng thể chất, trí tuệ, tài chánh v.v. của công dân;

(7) luật phải tương đối ổn định (relative stable), tức không thường xuyên thay đổi đến nỗi người dân không biết đâu mà lường; và

(8) luật phải phù hợp (congruent) với luật lệ hiện hành, tức luật mới không được trái với luật hiện hành.

Một số nhà nghiên cứu cho rằng 8 yếu tố mà Fuller đưa ra trên đây chỉ là khía cạnh hình thức (formal aspect) và người ta có thể ban hành một đạo luật hội đủ các điều kiện hình thức này, nhưng về thực chất nó không bảo đảm được nhân quyền hay đưa đến kỳ thị. Một số luật gia lại cho rằng, khi ra một luật mới, những nhà lập pháp luôn luôn muốn bày tỏ hoặc bảo vệ một giá trị, một mục tiêu nào đó, và các yếu tố mà Fuller đưa ra là nhằm giúp đạt được giá trị hay mục tiêu đó. Ngày nay, khi guồng máy hành pháp và hành chánh càng ngày càng cồng kềnh, thì các đòi hỏi nói trên sẽ trở thành những hướng dẫn hữu hiệu cho các quyết định thi hành luật mới.

Bàn về luật trị, thì không thể không nói đến Friedric von Hayek (1899-1992), một học giả gốc người Áo, di cư sang Hoa Kỳ năm 1950 và dạy ở University of Chicago (1950-62). Ông từng được Giải Nobel Kinh Tế (1974, chia với Gunnar Myrdal), và huy chương Presidential Medal of Freedom (1991) do Tổng Thống G.H. W. Bush trao tặng. Trong quyển The Road to Serfdom (xb năm 1944 khi ông sống ở Anh), ông đồng ý nguyên tắc luật trị là hòn đá tảng của tự do, và đưa ra nhận xét rằng sự bành trướng của bộ máy hành chánh với tính chất cưỡng bách của nó ảnh hưởng không ít đến nguyên tắc luật trị vốn được trân quý. Ông lý luận rằng nguyên tắc này bảo vệ cũng như cổ vũ tự do vì nó giúp cho người dân tiên liệu được hậu quả của việc làm để từ đó mà định hướng hành động của mình.

Trong một công trình nghiên cứu đồ sộ khác, The Constitution of Liberty (xb lần đầu năm 1960, và được hiệu đính công phu bởi R. Hamowy, do The University of Chicago Press xb năm 2011), ông lược xét nguồn gốc, bàn về ảnh hưởng của nguyên tắc luật trị đối với tự do, đối với chính sách kinh tế; cùng các mối quan hệ giữa tự do và những vấn đề hiện đại, và trở thành những đề tài tranh luận nóng bỏng mỗi khi có bầu cử ở Hoa Kỳ trong mấy chục năm nay, gồm sự vươn lên của nhà nước an lạc (welfare state), nghiệp đoàn và nhân dụng; an sinh xã hội; thuế khoá và tái phân lợi tứ; khung tiền tệ; trợ cấp nhà cửa; nông nghiệp; giáo dục v.v.

Hayek ít bàn về tòa án và các thủ tục pháp lý, mà thay vào đó, triển khai các yếu tố hình thức như tính tổng quát, sự bình đẳng và tính chắc chắn của nguyên tắc luật trị.Theo ông, tổng quát có nghĩa là luật phải trừu tượng, áp dụng cho mọi người trong những tình huống đã được mô tả sẵn. Bình đẳng là áp dụng cho mọi người mà không có sự phân biệt tùy tiện; nếu có thì phải có sự chấp thuận của đa số, chẳng hạn sự phân biệt nam nữ trong vấn đề gia nhập quân đội. Tính chắc chắn (certainty) có nghĩa là nguời ta biết trước được luật sẽ hiệu lực như thế nào đối với hành động của mình. Ba yếu tố đó giúp con người định hướng được hành động của mình, muốn làm gì thì làm miễn luật không cấm; không phải lo sợ sự tùy tiện của nhà cầm quyền cũng như những người cầm cán cân công lý, nghĩa là nguyên tắc luật trị giúp bảo vệ tự do.
Theo Tamanhana, “Đối với Hayek, công lý sống bám vào dân luật về quyền sở hữu, khế ước, và quyền lợi dân sự (torts); và luật hình sự… Công lý là sự thi hành các luật ban hành trước. Tiêu chuẩn công lý của ông ta thì trống rỗng về thực chất, vì nó không kéo theo sự đánh giá luân lý nào cả và không phải thỏa mãn tiêu chuẳn nào khác trừ tiêu chuẩn phổ quát (universality)” … Công lý của Hayek là sự diễn đạt nguyên tắc luật trị theo cách khác mà thôi. (Sách đã dẫn, trang 70-71).

Thật ra, Hayek có đề cập đến một thứ công lý, nhưng chỉ để lập luận chống lại nó. Ông viết: “Sự đòi hỏi chính quyền phải thực hiện không những công lý hình thức (formal justice), mà còn công lý thực chất nữa (substantive justice), tức là công lý phân phối (distributive justice) hay công lý xã hội (social justice) đã được đẩy mạnh từ cuộc Cách Mạng Pháp.” Tiếp theo, Hayek trích lời chế nhạo của Anatole France , như sau:”Sự bình đẳng hoành tráng trước pháp luật cấm cản người giàu và kẻ nghèo ngủ dưới gầm cầu, đi ăn xin ngoài đường, và ăn cắp bánh mì.” (Nguyên văn tiếng Pháp ghi ở Chú Thích: của sách: ‘La majestueuse égalités de lois, qui interdit au riche come au pauvre de coucher sous les ponts, de mendier dans les rues et de voler du pain’). [The Constitution, trang 342-3]

Hayek còn cho rằng sự bình đẳng trước pháp luật có thể tự nhiên sẽ đưa tới sự bình đẳng làm ra luật pháp, và điều sau có thể hủy bỏ đìều trưóc, vì đây là hai nguyên tắc hoàn toàn khác nhau. Để bài bác cái công lý xã hội nói trên, ông đưa ra một giả thuyết cực đoan rằng một chính quyền độc đoán áp chế cử tri phổ thông nhưng bảo vệ nguyên tắc luật trị có thể duy trì chế độ dân chủ tốt hơn nền dân chủ thích can thiệp vào guồng máy kinh tế và phân phối xã hội. (Spectrum: From Right to Left in the World of Ideas, do Perry Anderson, Verso xb 2005, tr. 15-16)

Từ các yếu tố thuộc khía cạnh hình thức của các quan điểm kinh điển trên, người ta cũng có thể rút ra những hệ luận lý thú. Chẳng hạn, đối với 2 yếu tố không ai được đứng trên luật pháp, và mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, thì người ta suy ra rằng phải có những định chế “đứng ngoài”, “tách biệt”, tức là phải có một hệ thống tư pháp với tòa án và các quan tòa độc lập. Hay là từ các yếu tố luật phải tổng quát, phải được công bố, phải tương đối ổn định, chúng ta thấy được sự cần thiết của một thứ luật tổng quát hơn, ổn định hơn và phải được soạn thảo và công bố long trọng hơn; đó là luật hiến pháp, thường được gọi tắt là hiến pháp. Từ yếu tố luật phải được công bố, người công dân bình thường có quyền suy diễn rằng một khi đã được công bố, thì phải được áp dụng khi luật bắt đầu có hiệu lực, vì không áp dụng có nghĩa tiếp tục duy trì những bạc đãi hay ưu đãi cũ cho một số đối tượng nào đó. Chẳng hạn một quốc gia ban hành đủ mọi luật cải tiến quyền lợi người khuyết tật, nhưng nhà cầm quyền nấn ná không áp dụng, tức tiếp tục bạc đãi họ. Hay ban hành luật lệ môi sinh tiên tiến không kém các nước kỹ nghệ phát triển, nhưng không áp dụng cho các nhà máy hay cơ xưởng nào đó, nhất là do người ngoại quốc làm chủ, tức là tiếp tục ưu đãi họ.

(Còn nữa)

Virginia, tháng 11 năm 2016

Lê Văn Bỉnh

———————————–

Tác giả là cựu sinh viên Đốc sự khóa 10, Cao Hoc 2 Ban Kinh Tế Tài Chánh, Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, Saigon .  Du học Hoa Kỳ (1972-74), xong M.A. (Economics).Về nước, phục vụ tại Khu Chế Xuất Saigon và dạy học tại Đại Học Kinh Thương, Đại Học Cửu Long v.v…
Ông từng có bài viết kinh tế, chính trị  đã đăng trên các báo Việt ngữ và các trang mạng hải ngoại. 

2 Phản hồi cho “Ý niệm về sự trị vì của luật pháp trong thời đại toàn cầu hóa [1]”

  1. QUAN ĐIỂM LUẬT TRỊ VÀ QUAN ĐIỂM NHÂN TRỊ

    Luật trị có nghĩa dùng nguyên tắc pháp luật chung khách quan để quản lý xã hội. Nhân trị có nghĩa là dùng ý chí, mong muốn, chủ quan, quyền lực của cá nhân hay nhóm người nào đó để trị vì, khống chế toàn xã hội.

    Cho dù nguyên tắc xã hội hay mọi sự đều chỉ tương đối, nhưng luật trị thì vẫn khách quan hơn, tootss đẹp hơn là nhân trị. Bởi luật trị thì đúng ý nghĩa khoa học thực tế, còn nhân trị không thuộc nguyên tắc khách quan nào cả mà phần lớn chỉ có thể tùy tiện và đầy tinh thị hiếu, chủ quan, tiêu cực và hạn hẹp.

    Quy luật xã hội thật ra cũng là quy luật khoa học khách quan như khoa học tự nhiên, nhưng ở đây chỉ khác là nó hành xử và áp đụng theo ý nghĩa khoa học xã hội. Mà đã nói quy luật thì phải là cái gì phổ biến nhất, dù là trong phạm vi nào đó. Như vậy có thể thấy ngay được nguyên lý tự do dân chủ mới thật sự là nguyên lý phổ biến còn mọi thực trạng độc tài độc đoán cá nhân hoặc tập thể đều chỉ là chủ quan, tùy tiện, cho dù nó có nhân danh mọi ý nghĩa hay nguyên lý do bất cứ ai tự phịa đặt ra nào đó cũng vậy. Bởi dân chủ tự do luôn là kêt quả lựa chọn của mọi người hay phần lớn mọi người. Trong khi đó độc tài độc trị chỉ là sự lựa chọn của thiểu số nào đó hay thậm chí chỉ là một hay vài người cầm quyền.

    Một điểm nữa cần nói, là ý nghĩa của chân lý nói chung, hay chân lý xã hội nói riêng, luôn chính là thực chất hay tính khách quan đúng đắn xác thực mà không phải chỉ là sự vơ quàng hay những từ ngữ, luận điệu thuần túy bên ngoài nào đó. Nên chân lý là điều mọi người đều nhận thức đúng đắn nó là như thế, mà không phải ý muốn của vài người muốn cho là nó như thế.

    Nói cách khác đi, chỉ những con người cụ thể trong xã hội mới là những thực thể chắc chắn có thực. Còn những quan niệm như giai cấp, ý thức hệ, chế độ chính trị kiểu chủ quan nào đó, đều là những ý tưởng hóa được trừu tượng hóa hay được xây dựng nên một cách thị hiếu hay giả tạo. Có nghĩa con người có thật thì phải đi liền với mọi chế độ chính trị dân chủ tự do có thật, khách quan, cụ thể thật, không thể đánh lẫn vào những ý tưởng ý hệ nào đó huyễn hoặc, tưởng tượng, không khi nào mang ý nghĩa thật.

    Ngày nhân loại còn chưa phát triển, còn người còn dốt nát và mù quáng phần nhiều, chế độ quân chủ chuyên chế luôn là điều phổ biến, vì nó còn gắn liền với xã hội lạc hậu, chưa phát triển về mọi mặt. Đó còn là thời tiền sử của văn minh và văn hóa chính trị. Thế nhưng thời đại nhân loại đã phát triển nhận thức và thực tế lên mọi mặt, dân chủ tự do phải là ý nghĩa hiện đại của loài người mà không gì khác. Marx là người quá say mê vào ý hệ chủ quan, giả tạo, huyền ảo, thậm chí mê tín nên chủ trương độc tài giai cấp một cách sai trái. Đó thực chất chỉ là quan điểm chính trị bệnh hoạn, phản khoa học, phản tiến hóa, phản thực chất, phản lịch sử phát triển, đi lùi lại trong quá khứ loài người, đó là điều mà không phải ai cũng thấy.

    Nói chung quan điểm luật trị là quan điểm tự do dân chủ khoa học thực sự, hay ngược lại. Trong khi đó quan điểm độc tài nhân trị chỉ là quan điểm sai trái, phản khoa học, phản lịch sử phát triển, phản tiế hóa khách quan, hay thực chất nó chỉ là quan điểm phản động thực sự trong thế giới loài người hiện nay cũng như tương lai, toàn cầu hay ở từng quốc gia đất nước cũng thế.

    ĐẠI NGÀN
    (29/01/17)

  2. người xưa says:

    Bài viết rất rõ rang, dễ hiểu. cần phải được phổ biến tại Việt nam để tra

Phản hồi