Giảm rừng trong pháp luật
Trong những ngày qua chúng ta đã được xem những hình ảnh đáng lo từ Dương Nội, Hà Nội, nơi mà những tranh chấp về đất đã bùng nổ một cách hỗn loạn và mang tính bạo động. Ở đây tôi sẽ không đề cập chi tiết đến trường hợp (hay là vụ việc) Dương Nội. Thay vì đó tôi chỉ xin chia sẻ hai phản ứng sau khi đã xem những video-clip trên mạng.
Phản ứng thứ nhất, chắc là chẳng có gì khác với những người khác: Ôi dồi, ghê quá, kinh khủng. Đáng tiếc, đến tận 2014 những hiện tượng như vậy còn xảy ra ở Việt Nam, đất nước mà, theo chúng ta được biết, đang hoạch định phát triển tới một nước “văn minh.” Dù nghĩ gì về tiềm năng hay tương lai của Việt Nam, rõ ràng sự văn minh đó còn xa (dù tôi cũng thừa nhận có những cái ở chính nước mình cũng thiếu “văn minh” trong khá nhiều khía cạnh khác nhau).
Phản ứng thứ hai, mà những bạn đọc có lẽ sẽ quan tâm hơn, là một khái niệm từ thông luật (common law) gọi là “due process,” mà tôi sẽ đề cập ở dưới nay đây. Trước khi đi vào vấn đề xin nêu rõ: Việc còn có những cảnh tượng như ở Dương Nội xuất phát từ việc cái gọi là “due process” thực sự là chưa có ở Việt Nam, chủ yếu vì Việt Nam chưa phải là một xã hội pháp quyền theo đúng nghĩa của nó. Sau khi đề cập ý nghĩa của khái niệm “due process” tôi sẽ quay về những bước cần thiết mà Việt Nam cần hay nên làm để hướng tới một xã hội mà nếu mất “due process” thì không thế nào có “văn minh.”
Vậy, “due process” là gì? Trong một thảo luận ngắn với những bạn hiểu biết về luật, đã có những mô tả như sau:
• Là pháp trình chính đáng
• Là tôn trọng quyền cá nhân
• Là công minh …. là minh bạch và công bằng trong xử sự
• Là quyền được xét xử công bằng & minh bạch theo đúng pháp luật
• Là những nguyên tắc pháp luật bắt buộc mà phải tuân thủ
• Là “đúng thủ tục” hoặc “đúng trình tự”
Như một người bạn đặc biệt sáng suốt đã chia sẻ:
“Khái niệm/concept này không có trong hệ thống luật Việt Nam/khoa học pháp lý Việt Nam. Câu trả lời của bạn phiên dịch là: “công bằng, đúng trình tự thủ tục luật định”. Tuy nhiên, khái niệm này trong hệ thống common law gắn với luật hiến pháp (của Việt Nam), một số triết lý cơ bản về việc hạn chế quyền lực của nhà nước, và bảo vệ quyền tự do cá nhân (rule of law in general). Nó cũng gắn với cách tiếp cận (luật pháp)… Cách tiếp cận này dựa trên (giả định) là nhà nước có thể dùng luật để điều chỉnh hành vi của đám đông/cộng đồng/xã hội. Tuy nhiên (ở Việt Nam), hệ thống này lại được dựa trên những nguyên lý vay mượn từ hệ tư tưởng Xô-viết coi pháp luật là công cụ của giai cấp tầng lớp thống trị.
Ngoài ra, văn hóa Việt Nam còn dựa trên nền triết lý cơ bản của Khổng giáo. Vì vậy, những quy trình, thủ tục, nội dung luật của Việt Nam còn phản ánh những quy chuẩn văn hóa này. Ví dụ: cáo trạng của một tội phạm, ngoài việc ghi tên bị cáo, còn có thể ghi tên cả các thành viên trong gia đình (vợ, chồng, bố, mẹ, con) của bị cáo. Điều này giống như hành vi “chu di tam tộc” theo luật của vua chúa phong kiến.
(Song) việc du nhập hệ thống/quan điểm pháp luật từ nơi này sang nơi khác đã tốn rất nhiều giấy mực và (cần) có nhiều công trình nghiên cứu công phu (trong luật so sánh – comparative law, xã hội học luật – v.v). Hiệu quả của du nhập pháp luật thì còn gây nhiều tranh cãi. Cải cách pháp luật – nếu không làm thật sự cẩn trọng và khoa học – có thể đem lại những kết quả ngoài dự kiến kiểu “lợi thì có lợi nhưng răng không còn.”
Sau cùng, bạn này cho rằng, một hệ thống luật pháp về nhiều mặt là như một sản phẩm văn hóa. Quan điểm này tôi cũng hiểu và chấp nhận.
Nhưng cuối cùng, ở bất cứ xã hội nào, những thể chế đều là sản phẩm của những quan hệ xã hội, gồm cả văn hóa lẫn chính trị, kinh tế, v.v. Việc còn vay mượn từ hệ tư tưởng Xô-viết coi pháp luật là công cụ của giai cấp thống trị cũng là một yếu tố trong văn hóa chính trị Việt Nam đương đại chứ, nhưng cuối cùng, đó là một quyết định chính trị cũng như không chấp nhận những nét xấu trong Khổng giáo về những vấn đề giới tính, chẳng hạn.
Ở Hàn Quốc, Đài Luân (Loan), những nước cũng có những nét ảnh hưởng văn hóa từ Khổng giáo, ít khi còn thấy những chuyện như đã thấy ở Dương Nội. Vì vậy, vấn đề có lẽ không phải ở phạm trù văn hóa mà là ở chỗ Việt Nam còn chưa với tới một xã hội pháp quyền.
Một ví dụ của khái niệm “due process” là “cảnh báo Miranda’ mà ai đã xem phim Mỹ đều biết. (“You have the right to an attorney…”) – công an ở Mỹ phải thông báo cho mọi nghi phạm hình sự ngay lúc bị bắt giữ:
“Anh có quyền giữ im lặng và từ chối trả lời câu hỏi. Bất cứ điều gì anh nói cũng sẽ được dùng để chống lại anh trước tòa án. Anh có quyền có luật sư trước khi khai báo với cảnh sát và luật sư sẽ hiện diện khi cảnh sát thẩm vấn anh. Nếu anh không thể tìm được luật sư, anh sẽ được cung cấp một luật sư trước khi trả lời các câu hỏi. Anh có thể trả lời câu hỏi khi không có luật sư, nhưng anh vẫn có quyền ngưng trả lời bất cứ lúc nào để chờ sự có mặt của luật sư”.
Ở đây tôi lấy cảnh báo Miranda là một ví dụ của khái niệm “due process.”
Ở Dương Nội vấn đề không phải là bắt giữ mà là giải quyết một vụ biểu tình kéo dài. Là chuyện khác. Nhưng quá tiếc, khi chúng ta thấy những người Việt Nam đang đánh nhau như vậy. Sao đánh nhau? Vì hệ thống luật pháp của Việt Nam còn phản ánh lịch sử phức tạp của đất nước. Người Việt Nam càng ngày càng yêu cầu những vấn đề được xử lý “đúng thủ tục” hoặc đúng “trình tự”. Nhưng, như một bạn đã nêu, nói “đúng quy trình” lại đến một trong những ác mộng của người dân hiện giờ.
Người bạn sáng suốt trên lại chia sẻ:
Vấn đề có lẽ phức tạp hơn vì thủ tục/quy trình hiện giờ là hệ quả của một quá trình phát triển lịch sử. Hệ thống pháp luật phong kiến (pre-colonial law) không có khái niệm “quy trình” như thế hệ chúng ta hiểu/mong muốn. Lý tính/cá nhân (rationality/individualism) chưa bao giờ mạnh trong hệ tư tưởng VN. Pháp luật thuộc địa (colonial French law) giới thiệu một số triết lý/quan điểm pháp luật phương Tây (và lần đầu tiên thiết lập hệ thống tòa án với tư cách cơ quan xét xử) nhưng cũng đồng thời duy trì luật/phong tục bản địa.
Cách mạng giải phóng dân tộc muốn xoá bỏ hoàn toàn “hệ tư tưởng phong kiến” và ảnh hưởng của thực dân Pháp nên du nhập những ý tưởng pháp luật Xô-viết. Sau khi mở cửa/hội nhập thì các nhà tài trợ/tổ chức quốc tế khác nhau lại giới thiệu một số quan điểm mới như rule of law/due process (những quan điểm này đã trải qua hàng trăm năm phát triển ở nơi chúng ra đời).
Tuy nhiên, không quan điểm pháp luật nào trong số những quan điểm nói trên chiếm ưu thế tuyệt đối ở Việt Nam hiện nay. Vì thế, chúng ta không có quy trình/luật nào mang tính thống nhất cả (đặc tính cơ bản của pháp luật phải là tính phổ quát – universality). Bản thân người dân Việt Nam cũng không thích quy trình. Phỏng vấn với nhiều đối tượng (trừ những đối tượng rất nghèo và cực kỳ ít sự lựa chọn trong cuộc sống) cho thấy họ sẵn sàng trả tiền cho thẩm phán/luật sư/công an để có một kết quả như ý muốn của riêng mình. Ở một xã hội như Việt Nam đương đại có lẽ khái niệm “công bằng xã hội” vẫn hết sức cần thiết và quan trọng ngang/hơn việc xây dựng quy trình/thủ tục hợp lý và minh bạch. Về phương diện này, “thấu tình, đạt lý” có lẽ vẫn là một quan điểm (popular narative) được rất nhiều người chấp nhận.”
Làm sao có những người thông minh thế mà vẫn còn luật rừng ở Việt Nam? Lý do cũng không xa những vấn đề luật pháp. Vì, đặc biệt trong những bối cảnh mà thiếu ‘due process’ ta sẽ thấy chuyện những người giỏi không dám hay không có đủ cơ hội để lên tiếng, phản biện xã hội một cách xây dựng, mạnh mẽ. Luật rừng thật là đối thủ của tiến bộ xã hội.
Ở các nước ‘văn minh’, ít khi thấy những quang cảnh như đã thấy ở Dương Nội. Vấn đề không phải là ở chỗ Việt Nam vẫn còn là một nước đang phát triển. Vấn đề là làm sao Việt Nam có thể xây dựng những cơ chế hữu hiệu để xử lý những tranh chấp về đất đai hay những vấn đề xã hội khác. Muốn như vậy, có lẽ phải hướng tới một hệ thống tư pháp minh bạch hơn, độc lập hơn, như đã được đề nghị nhiều lần rồi mà đến nay chưa được cấp trên ủng hộ.
Tôi không phải là chuyên gia về pháp luật nên chỉ hy vọng Việt Nam có thể sớm thực hiện những cải cách cơ bản như vấn đề thiếu ‘due process.’ Nếu không, toàn dân Việt Nam sẽ tiếp tục sống với luật rừng, một tình trạng không hứa hẹn cho sự phát triển của đất nước.
© JL