Bẫy việt vị
Ủy ban Tài chính của Quốc hội cần yêu cầu Ngân hàng Nhà nước công bố danh sách các tổng công ty, tập đoàn nhà nước đã mở tài khoản và ồ ạt chuyển một lượng tiền lớn vào VietCapital Bank ngay sau khi con gái của Thủ tướng, bà Nguyễn Thanh Phượng, thôn tính ngân hàng này từ tên gốc của nó là Gia Định.
Những con số ấy có thể là một ví dụ thú vị về “lợi ích nhóm” mà Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nhắc tới trong đợt kiểm điểm theo Nghị quyết Trung ương Bốn. Nhưng, quan trọng hơn, Quốc hội cần biết công cụ chủ đạo của nền kinh tế đang được sử dụng như thế nào.
Kinh Doanh Đa Ngành
Ý tưởng thành lập tập đoàn không chỉ đến từ thời Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Nhưng, cần có đủ thông tin để phân biệt mô hình tập đoàn Nguyễn Tấn Dũng với mô hình tập đoàn áp dụng từ những người tiền nhiệm.
Năm 1994, khi những nỗ lực phát triển kinh tế tư nhân chững lại vì bị các nhà lý luận “cánh tay phải” của ông Đỗ Mười như Đào Duy Tùng, Nguyễn Hà Phan, Nguyễn Đức Bình, coi là chệch hướng. Sau Hội nghị giữa nhiệm kỳ, 1-1994, Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã ký hai quyết định thành lập tổng công ty 90, 91. Trong đó, quyết định 91 có nói đến “thí điểm thành lập tập đoàn kinh doanh”.
Ý tưởng thành lập tập đoàn là từ ông Đỗ Mười với quan niệm nền kinh tế cần những quả đấm thép. Nhưng cả ông Kiệt và nhiều ủy viên bộ chính trị đều tán thành. Lúc ấy, hơn một nửa ủy viên bộ chính trị đã được đưa tới Hàn Quốc tham quan và gần như ai cũng choáng ngợp mô hình Cheabol của họ.
Nhưng, từ 1994 cho đến 2005, chưa có tập đoàn nào được thành lập theo quyết định 91. Cuối nhiệm kỳ thứ II, Thủ tướng Phan Văn Khải cho lập 3 tập đoàn: Ngày 26/12/2005, tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam; Ngày 09-01-2006, Tập đoàn Bưu chính Viễn thông; Ngày 15/5/2006, Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt Nam Vinashin.
Thủ tướng Phan Văn Khải thừa nhận, ông là người quyết định cho Vinashin vay 700 triệu USD từ tiền bán trái phiếu chính phủ. Ông Khải cho rằng, Việt Nam, một nước có hơn 3000 km bờ biển không thể không phát triển ngành vận tải biển. Suy nghĩ về tiềm lực biển của ông Phan Văn Khải không sai nhưng đầu tư bằng tiền cho quốc doanh không phải là một cách làm tốt. Nhưng, sự sụp đổ của Vinashin bắt đầu từ khi tập đoàn này được phép kinh doanh đa ngành.
Trước Đại hội Đảng lần thứ X, ông Nguyễn Tấn Dũng được giao làm Tổ trưởng biên tập báo cáo kinh tế của Ban chấp hành Trung ương trước Đại hội. Ông đòi ghi vào báo cáo chủ trương cho doanh nghiệp nhà nước được kinh doanh đa ngành. Các thành viên trong tổ phản đối vì điều này ngược với quan điểm phát triển doanh nghiệp nhà nước xác lập từ thời thủ tướng Võ Văn Kiệt.
Thay vì tiếp thu, ông Nguyễn Tấn Dũng đã viết ra giấy, buộc các thành viên trong tổ phải ghi vào Báo cáo kinh tế nguyên văn: “Thúc đẩy việc hình thành một số tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước mạnh, hoạt động đa ngành, đa lĩnh vực, trong đó có một số ngành chính; có nhiều chủ sở hữu, trong đó sở hữu nhà nước giữ vai trò chi phối”.
Nguyễn Tấn Dũng nhận chức thủ tướng ngày 27/6/2006. Ngày 29/8/2006, ông cho ngành dầu khí được nâng lên quy mô tập đoàn; Ngày 30-10-2006 ông cho thành lập thêm Tập đoàn Công nghiệp Cao su… Tốc độ thành lập tập đoàn có chững lại sau khi ông Võ Văn Kiệt khuyến cáo tính ít hiệu quả của mô hình này trên Thời báo Kinh tế Sài Gòn số ra ngày 26/7/2007.
Ông Võ Văn Kiệt mất gần 11 tháng sau đó và từ đó cho đến năm 2011, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã đẩy con số tập đoàn từ 5 lên tới 13. Nhưng, không phải số lượng các tập đoàn mà số lượng ngành nghề mà các tập đoàn này được làm mới là nguyên nhân đẩy các doanh nghiệp nhà nước và nền kinh tế đến bên bờ vực. Rất nhiều tập đoàn có ngân hàng, công ty tài chính và chúng ta có thể nhìn thấy đất của Vinashin ở sâu trong đất liền và hầu như không có tỉnh nào không có một tòa PetroLand mọc lên dưới thời Đinh La Thăng.
Đại Nhảy Vọt
Không có một vị thủ tướng nào thừa kế một cơ ngơi có thể ngồi mát ăn bát vàng như Nguyễn Tấn Dũng: Tốc độ tăng trưởng cao, lạm phát thấp; lần đầu tiên Việt Nam có dự trữ ngoại tệ lên tới 23 tỷ đô la; đặc biệt, chính phủ Phan Văn Khải đã hoàn tất đàm phán để Việt Nam chỉ cần làm thủ tục kết nạp là trở thành thành viên WTO. Nhưng, ngôi nhà tưởng là vững chãi ấy đã bị đốt cháy chỉ hơn một năm rưỡi sau đó.
Thoạt tiên, khu vực kinh tế nhà nước được Nguyễn Tấn Dũng sử dụng như một công cụ để thúc đẩy tăng trưởng. Ông Phan Văn Khải nói: “Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng muốn tạo ra một thành tích nổi bật ngay trong nhiệm kỳ đầu tiên của mình, muốn hoàn thành kế hoạch 5 năm chỉ trong 4 năm. Ngay trong năm 2007, ông đầu tư ồ ạt. Tiền đổ ra từ ngân sách, từ ngân hàng. Thậm chí, để có vốn lớn, dự trữ quốc gia, dự trữ ngoại tệ cũng được đưa ra. Bội chi ngân sách lớn, bất ổn vĩ mô bắt đầu”.
Thời Thủ tướng Phan Văn Khải, mỗi khi tổng đầu tư lên tới trên 30% GDP là lập tức Thủ tướng được báo động. Trước năm 2006, năm có tổng đầu tư lớn nhất cũng chỉ đạt 36%. Trong khi, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, ngay sau khi nhận chức đã đưa tổng mức đầu tư lên 42% và đạt tới 44% GDP trong năm 2007. Năm 2006, tăng trưởng tín dụng ở mức 21,4% nhưng con số này lên tới 38,7% trong năm 2007. Kết quả, lạm phát cả năm ở mức 12,6%. Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã gần như hốt hoảng. Những cú shock được áp dụng sau đó đã làm cho nền kinh tế trở nên vô phương cứu chữa.
Đầu quý I-2008, khi con số lạm phát lên tới gần 3% mỗi tháng, thay vì chẩn bệnh để có phương thuốc đúng, Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã buộc các ngân hàng nâng mức dự trữ bắt buộc từ 10 lên 11%, các ngân hàng nháo nhào tìm kiếm thêm 20.000 tỷ khiến lãi suất qua đêm thị trường liên ngân hàng mấy ngày cuối tháng 1-2008 tăng vọt lên tới 27%, trong khi đầu tháng, con số này chỉ là 6,52%.
Ngày 13/2/2008, Ngân hàng Nhà nước lại ra quyết định, buộc các ngân hàng thương mại phải mua một lượng tín phiếu trị giá 20.300 tỉ đồng. Áp lực tiền bạc của các ngân hàng lên tới hơn 40.000 tỉ đồng đã làm náo loạn các tổ chức tín dụng. Các ngân hàng cổ phần buộc lòng phải tăng lãi suất huy động. Sự chênh lệch về lãi suất đã khiến cho các tổng công ty nhà nước rút tiền, đang cho vay lãi suất thấp ở các ngân hàng quốc doanh, gửi sang ngân hàng cổ phần.
Chỉ trong ngày 18/2/2008, các tổng công ty nhà nước đã rút ra hơn 4.000 tỉ đồng. Các ngân hàng quốc doanh, vốn vẫn dùng những nguồn tiền lãi suất thấp từ nhà nước đem cho các ngân hàng nhỏ vay lại. Nay thiếu tiền đột ngột, vội vàng ép các ngân hàng này, rút về. “Cơn khát” tiền mặt toàn hệ thống đã đẩy lãi suất thị trường liên ngân hàng trong những ngày này có khi lên tới trên 40%.
Lãi suất huy động tăng, đã khiến cho các ngân hàng phải tăng lãi suất cho vay. Nhiều ngân hàng buộc khách hàng chấp nhận lãi suất cho vay 24 – 25%. Các biện pháp chống lạm phát của Chính phủ đã làm cho lạm phát ba tháng đầu năm 2008 lên tới 9,19%. Ngày 25-3-2008, ngân hàng Nhà nước lại khiến cho tình trạng khan hiếm tiền mặt thêm nghiêm trọng khi yêu cầu thu về 52.000 tỉ đồng của ngân sách đang được đem cho các ngân hàng quốc doanh vay với lãi suất 3%/năm.
Từ mức trên 1000, ngày 6/3/2008, chỉ số VN-index xuống còn 611. Cho dù Phó Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng cố dùng uy tín chính trị của mình để cứu vãn bằng cách tuyên bố rằng, “đầu tư vào chứng khoán bây giờ là thắng” vì VN-index đã xuống đến đáy. Nhưng, những ngày sau đó, VN-index liên tục lập đáy mới: Ngày 25-3-2008, 492 điểm; Ngày 5-12-2008, 299 điểm.
Chính những “đại gia” gần gũi thủ tướng nhất lại “chết” đau thương nhất vì họ đã từng được vay tiền dễ dàng, có dự án dễ dàng, kể cả các dự án trong khu vực chuẩn bị sáp nhập về Hà Nội. Từ năm 2008, mỗi năm các đại gia này đã phải chịu lãi suất 24-25%/ năm chưa kể những khoản lót tay, trong khi giá trị các dự án chỉ có thể bán được phân nửa so với thời 2007. Thay vì tìm một lối thoát cho nền kinh tế, đặc biệt là khu vực tài chính ngân hàng, giai đoạn tái cấu trúc ngân hàng, tái cấu trúc nợ lại là một cơ hội kiếm tiền cho nhiều đại gia thân hữu mới.
Tham nhũng chưa phải là vấn đề lớn nhất dưới thời Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Chính phủ Thủ tướng Phan Văn Khải đã từng rất nỗ lực để tạo ra một môi trường kinh doanh bình đẳng. Ban nghiên cứu của Thủ tướng Phan Văn Khải đã sát cánh nhiều năm với Tổ thi hành Luật Doanh nghiệp. Hơn 500 loại giấy phép đã bị Thủ tướng Phan Văn Khải bãi bỏ. Khi ông Khải rời nhiệm sở, Tổ công tác tiếp tục đề nghị bãi bỏ thêm hàng trăm giấy phép con. Nhưng, thay vì ra quyết định, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã giải tán Ban nghiên cứu và để cho các loại giấy phép lại mọc lên như nấm.
Có lẽ một người được coi là bảo thủ như ông Đỗ Mười cũng không thể nào ngờ có ngày “hậu duệ” của mình lại ký lệnh tái độc quyền nhà nước đối với vàng. Nhà nước đã từng độc quyền vàng, những người sở hữu từ 2 chỉ trở lên từng bị coi là bất hợp pháp. Ngày 24-5-1989, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười ký Quyết định 139, cho phép tư nhân mở tiệm vàng với điều kiện chỉ cần ký quỹ 5 lượng. Chỉ sau hai tháng cả nước có tới 400 tiệm vàng. Quyết định của ông Đỗ Mười được đưa ra như là một giải pháp cộng hưởng để chống lạm phát.
Trong suốt 23 năm tồn tại của Quyết định 139 nền kinh tế chưa bao giờ đổ tội lạm phát cho vàng. Vậy mà bất lực trước khủng hoảng kinh tế, ngày 25/5/2012, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã ký nghị định 24, giành lấy quyền sản xuất vàng miếng cho nhà nước và buộc doanh nghiệp kinh doanh vàng miếng phải có vốn trên 100 tỷ đồng.
Lẽ ra ông Trương Đình Tuyển phải từ chức đứng đầu nhóm 13 người tư vấn sau khi một quyết định như thế ra đời. Bỏ qua các động cơ trục lợi, Nghị định 24 là vi hiến vì nó làm cho vàng miếng không phải SJC của người dân tự nhiên mất giá. Đặc biệt, nó đi ngược lại các cam kết WTO mà ông Tuyển đóng vai trò quyết định trong đàm phán.
Bẫy Việt Vị
Ngày 2-8-2011, trung tướng Nguyễn Đức Nhanh khẳng định trong một buổi họp báo: “Hà Nội không có chủ trương trấn áp người biểu tình”. Để rồi, ngày 18/11/2011, từ chỗ coi những người biểu tình chống Trung Quốc là yêu nước, Hà Nội ra thông báo vu cho người biểu tình là “gây rối Thủ đô”, là có “các thế lực chống đối trong và ngoài nước”.
Dân chúng nào biết, tác giả bản thông báo này là thượng tướng Nguyễn Văn Hưởng, Phái viên của thủ tướng đặc trách an ninh, tôn giáo. Buổi tối trước khi bản thông báo được đưa xuống Hà Nội, Tướng Hưởng đã đưa đến nhà để Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trực tiếp đọc duyệt. Cho dù không có quan chức nào ở Hà Nội chịu ký, bản thông báo và những “tác phẩm báo chí” bôi nhọ người biểu tình khác vẫn được phát trên các phương tiện truyền thông của Hà Nội. Từ đó, các vụ bắt bớ người biểu tình diễn ra khốc liệt liên tục vào các ngày chủ nhật.
Mấy tháng sau, trong khi chính quyền Thủ đô bị kiện và phải mang một gương mặt xấu trong mắt dân chúng, ngày 25-11-2011, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đề nghị Quốc hội “sớm có luật biểu tình để nhân dân thực hiện quyền đã được ghi trong Hiến pháp”.
Cũng thời gian đó, trong khi chính phủ đang đứng trước nguy cơ bị truy vấn bởi món nợ tới hạn không trả được của Vinashin và nguy cơ sụp đổ của các ngân hàng, ông Nguyễn Tấn Dũng đã việt vị Quốc hội khi đăng đàn nói về biển đảo. Nguyễn Tấn Dũng đã khiến cho dân chúng tạm quên đi những vết thương kinh tế do ông gây ra khi trở thành chính trị gia đầu tiên của Hà Nội nói “Trung Quốc đã dùng vũ lực chiếm Hoàng Sa từ năm 1974”. Ngay cả Bộ chính trị cũng bị bất ngờ. Ông Dũng đã bí mật soạn bài diễn văn này, diễn đi diễn lại nhiều lần trước khi xuất hiện ngày 25/11/2011 trong phiên họp toàn thể được truyền hình trực tiếp.
Sau bài phát biểu ấy, nhằm chuẩn bị dư luận chống đỡ những đợt kiểm điểm trong nội bộ, thông tin bắt đầu được rỉ tai, “phe thân Tàu đang tìm cách chống ông Tấn Dũng”. Nhóm “13” hiện đã chuẩn bị theo đơn đặt hàng của ông Nguyễn Tấn Dũng một bài phát biểu về nhà nước pháp quyền.
Sau khi các đại gia gần gũi ông như Nguyễn Đức Kiên, Dương Chí Dũng, bị bắt; Trầm Bê ở trong tầm ngắm…, những ai nghĩ rằng ông Dũng đang hoảng sợ rất có thể sẽ mắc bẫy việt vị. Ông Nguyễn Tấn Dũng rất có thể lại xuất hiện như một nhà cải cách.
Nguồn: Osin Huy Đức Facebook
NHÀ THƠ TỐ HỮU
Nực cười Tố Hữu làm thơ
Chỉ nhằm ca ngợi lơ mơ thế nào
Ngợi ca lãnh tụ tầm cao
Ngợi ca học thuyết thế nào cho ngon
Nhà thơ thành chú tí hon
Chạy theo thần tượng lon ton một đời
Thơ toàn mạng yểu rớt rơi
Chôn theo thời đại qua thời còn chi
Đến khi miệng tỉ tì ti
Ra làm kinh tế quả khi nực cười
Ôi thôi thật ngán cho đời
Như ông đại tướng có thời hộ sinh !
NGÀN KHƠI
(10/09/12)
CÔNG CHỨC VÀ KINH TẾ
Công chức là viên chức
Làm nhà nước ăn lương
Sao lại làm kinh tế
Việc thật sự bất thường !
Nhà nước là guồng máy
Làm hành chánh quốc gia
Chủ yếu là quản lý
Sao lại thành đua đòi !
Kinh tế vốn tư nhân
Thuộc xã hội dân sự
Kinh doanh vì lợi nhuận
Sống còn chỉ ở đây !
Tư nhân làm kinh tế
Nhà nước thu thuế vào
Chức năng nhằm quản lý
Làm kinh tế là sao !
Kinh tế không thể mạnh
Nếu không có tập đoàn
Tập đoàn tư nhân mạnh
Nhà nước cũng giàu sang !
Vậy sao lại bày đặt
Nhà nước lập tập đoàn
Kinh tế thành phá sản
Bởi tham nhũng tràn lan !
Nên những tay tư vấn
Hoặc là ngu hoặc khờ
Hoặc biết mà miệng hến
Khiến nhà nước lơ mơ !
Kinh doanh vì lợi nhuận
Nhà nước phải vì dân
Nếu chỉ vì lợi nhuận
Xã hội thành ngu đần !
Do vậy mà kết luận
Kinh tế phải tư nhân
Nếu kinh tế tập thể
Chắc chắn phải chết trân !
Nên nước nào phát triển
Dân tộc cần phải hay
Có nhiều người sáng suốt
Toàn ngu thật hại thay !
Tài năng là con người
Tự nhiên trời sinh ra
Cùng học hành mà có
Giai cấp chỉ quỷ ma !
Nên nêu cao giai cấp
Kiểu vô sản thuần thành
Gôm toàn anh ngu dốt
Đất nước phải toanh hoanh !
Hoan hô ông Các Mác
Giương giai cấp đấu tranh
Đã nhiều nơi ăn bã
Bao xã hội tanh bành !
ĐẠI NGÀN
(10/9/12)
Sau 75, Lê Duẩn hăng say chiến thắng, trói buộc đất nước vào hệ thống quần khố áo ôm, lấy nền kinh tế XHCN làm kim chỉ nam để phát triển đất nước, bổ nhiệm Tố Hữu nhà thơ, đứng đầu nghành kinh tế VN. chính nhà thơ này đưa nền kinh tế VN trược dốc, nghèo đói nghiệt ngã, dân ăn bo bo mà sống. Khi Lê Duẫn mất, những nhà cải cách xuất hiện để cứu nền kinh tế VN như ông Linh, Kiệt, Khải , đã thành công cứu vớt nền kinh tế VN vốn èo ọp, mất máu. Nền kinh tế VN đang khởi sắc, thì bổng nhiên , không biết ai bổ nhiệm anh y tá 3 Dũng đứng đầu chính phủ, nắm nền kinh tế VN, đưa đất nước đến tình trạng tham nhũng chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc.
Anh y tá này, bước đầu còn dè dặt, nhưng sau đó dùng tay chân đàn em như tướng Hưởng thâu tóm ngân hàng trong tay để trở thành Putin VN. Nhưng anh y tá không có tài cán gì, vì chỉ biết băng bó mà thôi, như Tố Hữu chỉ biết làm thơ, đâu hiểu gì về kinh tế mà cầm đầu vận mệnh quốc gia. Tham lam cực độ, chỉ định người con gái rượu liên kết với các đại gia, mua quan bán chức, bổ nhiệm những người vô tài đứng đầu những tập đoàn kinh tế lớn của nhà nước, đã phá nát gia tài của ông Kiệt, ông Khải để lại. Anh y tá còn muốn tiêu diệt những đại gia thân phe ông Sang, ông Trọng nên đánh phá bà Đặng Thị Hoàng Yến, tống bà ra khỏi quốc hội. Nhưng y tá Dũng có con gái kết hôn với bọn phản động, từng làm khổ bọn chúng, nhưng anh y tá không đả động tới và anh bù nhìn Nguyễn Sinh Hùng vẫn để cho anh y tá đăng đàn múa miệng, dương oai về những tập đoàn phá sản khánh tận của nhà nước.
Nhưng trước khi anh y tá muốn tiêu diệt những đại gia phe ông Sang ông Trọng, anh y tá bắt trước những người thân tín của mình như ông Nguyễn Đức Kiên để dân chúng khỏi thắc mắc, tại sao không bắt phe ta mà bắt phe người, chứng tỏ mình không dúng túng phe ta,chỉ lấy luật pháp làm chỉ đạo. Nhưng trò tiểu yêu này ai cũng biết.Đùng một cái, anh y tá ra lịnh cho ông vua không ngai Hưởng bắt ông Nguyễn Duy Hưng, Trưởng Văn phòng đại diện Công ty Cổ phần đầu tư Sài Gòn (SGI).Công ty này ai cũng biết là thân ông Sang, ông Trọng,vu oan giá họa cho bà Nguyễn Thị Bích Trang là ăn cắp bí mật quốc gia bằng bách nhét vào máy tính của bà những hồ sơ giả, hay đưa lén vào nhà bà ta những hồ sơ bí mật quốc gia để kết tội bà. Anh y tá hèn mạt này làm điều bất nhân mà không thấy nhục. Tố Hữu nhà thơ kiêm kinh tế, anh y tá băng bó nay đứng đầu chính phủ ,cho nên đấ nước từ bị thương đến chết mà không dám la, phản đối vì trong tay chúng vẫn còn những lực lượng công an hùng hậu.
Nhà thơ, anh y tá câu chuyện vui buồn của dân Việt, mong những danh dân lỗi lạc về văn chương làm những câu thơ như bút thép, để lưu truyền muôn đời cho hậu thế
KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ
Nền tảng khách quan duy nhất của kinh tế là xã hội dân sự. Bởi mỗi người dân là một đơn vị kinh tế, một chủ thể kinh tế, một mục tiêu kinh tế hay một đối tượng kinh tế nguyên thủy nhất. Điều đó có nghĩa mọi tập đoàn kinh tế phải xuất phát ra từ xã hội dân sự và lấy tiềm lực cũng như sức mạnh từ xã hội dân sự. Đó là thực tế của các nước tư bản phương Tây, hay mọi nước nói chung không đi theo hệ thống và ý thức hệ chính trị độc đảng mác xít lênin nít. Từ cơ sở xã hội dân sự là nền tảng khách quan, duy nhất của kinh tế như thế, chính trị cũng có chung một nguồn gốc và mục đích đó, đó là chính trị theo kiểu tự do dân chủ, phi ý thức hệ chính trị đặc thù, tiền chế, giả tạo, cứng ngắt, tức là nền chính trị đa nguyên, đa đảng, có sự kiểm soát hiệu quả bởi nền pháp luật mang tính cách tự do dân chủ của toàn dân, của xã hội dân sự khách quan, đúng đắn, hiệu quả, lành mạnh, tự nhiên và trong sáng.
Bởi thế, khi nền kinh tế là nền kinh tế giả tạo nhằm phục vụ cho ý đồ nào đó của chính trị ý thức hệ giả tạo, nền kinh tế đó không thể nào hay không bao giờ hoàn toàn lành mạnh, bởi vì nó phải khung theo các mục đích hay cái khung chính trị giả tạo, không phải có ý nghĩa tự nhiên, chính đáng, lành mạnh của nó, tức nó vẫn chỉ là sản phẩm nào đó của cái gì không phải chính sức mạnh tự nhiên, chủ động của nó. Có nghĩa những tập đoàn kinh tế nhà nước không bao giờ là những mô hình, mô thức tập đoàn kinh tế đúng nghĩa trong xã hội dân sự khách quan thực sự, song chúng chỉ là sự kết thành, sự tạo nên giả tạo từ một nguồn gốc không mang ý nghĩa khách quan thật sự, năng lực khách quan hay sức mạnh khách quan thật sự, có nghĩa chỉ là khập khễnh, giả tạo hay được nuôi cấy không có thực lực, không có sức mạnh tự phát thật sự. Có nghĩa chính trị và kinh tế là hai bản chất hoàn toàn khác. Chúng luôn hỗ tương, có ích, kéo theo lẫn nhau, nhưng không bao giờ đồng hóa, nhập nhằng hay khuynh loát được giữa nhau. Bởi vậy những tập đoàn kinh tế kiểu nhà nước, tưởng rằng chúng có thể thay thế các tập đoàn kinh tế tư nhân đều là các quan điểm lệch lạc, không có chân, không thực tế, phản hiệu quả, phản tác dụng, phản hiệu dụng, mà thật sự chỉ là phung phí, tốn kém vì hoàn toàn giả tạo. Đó chính là sự chính trị hóa kinh tế nên đồng thời cũng đưa tới hậu quả là kinh tế hóa chính trị, là điều mà ai cũng có thể thấy ra được mọi hệ lụy phát sinh ra trong mọi hiện tượng xã hội khác nhau của chúng.
Chính sự nô lệ, mù quáng vào một ý thức hệ giả tạo mọi mặt, sự khống chế bởi một hệ lụy như thế mà dẫn tới mọi cái chỉ lòng vòng theo một thứ công thức xơ cứng, loay hoay mọi mặt không có đường ra, không hề có triển vọng. Đó cũng là lý do nền kinh tế, chính trị bao giờ cũng chỉ là sự chữa cháy nhất thời nào đó, ngắn hạn chiến thuật theo các giai đoạn nào đó, không bao giờ mang tính chiến lược dài hạn, có nền tảng khoa học khách quan, chắc chắn, hiệu quả và đầy đủ. Cho nên mọi cái được gọi là tư vấn, cố vấn chính trị, kinh tế, thật sự chẳng qua cũng chỉ là kiểu nước đổ lá khoai, nước đổ đầu vịt, hay mang các hình thức cuội. Bởi vì cố vấn là phải phù hợp theo cái đầu của người được cố vấn mà không theo cái đầu của người cố vấn. Tức cố vấn khéo nói thế nào để chỉ nghe được mà không làm sai lạc các tiên kiến đã có, các thức đã có, các công thức cứng nhắc chung đã có mà không là gì khác. Đó là thứ cố vấn dọn đường cho trơn thế thôi, không bao giờ là chỉ đường cho đúng, mang lại được các cái khách quan, đúng hướng thật sự.
Đấy cái ý nghĩa tinh tế trong sự dị biệt giữa xã hội dân sự phi ý hệ giả tạo và xã hội bị lậm trong ý hệ giả tạo của kinh tế giả tạo và chính trị giả tạo theo một ý thức hệ giả tạo, theo sự phi dân sự hóa xã hội một cách giả tạo để phục vụ cho kiểu ý thức hệ giả tạo hoặc chỉ là hệ lụy của một xã hội hậu ý thức hệ giả tạo nhưng lại rơi vào trong tính cách phi khoa học, phi khách quan, tức hoàn toàn chủ quan, hoàn toàn tùy tiện, bóp nghẹt ý nghĩa xã hội dân sự, thoát ly xã hội dân sự, phản lại xã hội dân sự, phi lý hóa xã hội dân sự đều có thể hiểu được cũng chính là cac hiện tượng liên quan hoàn toàn như vậy.
ĐẠI NGÀN
(08/9/12)
Ông Khải cũng chỉ học đễ có băng cấp mà thôi ? Thời ông khải là có nhờ biết nghe các chuyên gia KT . Nếu ko thì Khải cũng lâm trận .Khải chả có tài cán gì ? đễ cho con trai là HOAN TY lộng hành , còn phần ông Khải khi làm thủ tướng đi đến đâu chỉ biết thốt ra là : Các đ/c phải biết ( Trồng cây gì ? nuôi con gì ? ) Ông Khải phá nát đề án 112 – CT ĐB xa bờ phá sản , tiền mất tật mạng – PMU18 .Trước khi rút lui trước nhiệm kỳ Khải than, tuy tôi làm thủ tướng nhưng ko có quyền , nên ko kỹ luật được ai kể cả những tên tội phạm thuộc hạ !. Còn Nguyễn tấn Dũng thì muốn bắt ai là bắt, để ai là đễ , muốn đầu tư ở đâu ? đa ngành , ngoài ngành , sân trước , sân sau ,đều được tất tần tật . Những lại phát ngôn lạ đời là : Tôi học tập TT PVĐ nên ko kỹ luật ai ? vì ai cũng đồng môn với 3 D …Câu nói nầy vô tình 3 D vẽ đường cho Hươu chạy .
Khi anh y tá Ba Dủng lên làm TT, hắn đã đàn áp các nhà bất đồng chính kiến rất là dã man với những bản án nặng nề làm cho dư luận trong và ngoài nước rất là căm phẩn. Nếu nhìn sơ qua, ai cũng nghĩ là anh y tá một lòng vì đảng, nhưng cái đảng cs chỉ là nơi cho bọn chúng kiếm ăn, lý tưởng cs nào là yêu quê hương, dân tộc chỉ là xảo trá, nếu chúng thật lòng yêu quê hương thì chúng sẽ cùng đồng bào tay trong tay xuống đường tỏ thái độ cho bọn Tàu phù thấy nước Việt Nam không dể gì đàn áp. Mưu mô của tên y tá và đàn em phải nói thẳng ra là mượn “đầu heo nấu cháo” dùng tiền của nhân dân để đổ vào ngân hàng của con gái tên y tá, nếu có lời chúng sẽ hả hê chia chác, nếu lổ thì lấy tiền khác của nhân dân lấp vào. Số tiền đó thay vì xây bệnh viện, giúp trẻ em nghèo hiếu học,…,thì bị bọn chúng dùng quyền lực cưỡng chiếm,chúng ta đang nói đến số tiền hàng tỷ đô la chứ phải là không trăm ngàn đô la, tội của bọn chúng (trấn áp nhân dân, độc quyền tham nhủng) nếu lấy tất cả biển Đông cũng không rửa sạch được hết.
Bài viết rất cụ thể,chi tiết ,mang tính chất thống kê thời sự bằng các dữ kiện quan trọng thực tế. Chúng ta biết đấy ông Phan Văn Khải đã từng tốt nghiệp trường Plekhanov Moskova Liên Xô thời đầu năm 1960, đó là một học viện kinh tế có tiếng trên thế giới,cho nên ít nhiều ông Khải đương nhiên là một chuyên gia kinh tế nòi có đào tạo cơ bản.Ngược lại ông Nguyễn Tấn Dũng thì không có học hành gì cả, lên nắm quyền là do ý thức chính chị của hệ thống điều hành của ĐCSVN thực hiện,ông Dũng do vì mù tịt về cách điều hành kinh tế,lại đưa một đội ngũ cố vấn cho mình chuyên nghề bẩm báo và xu nịnh để hưởng bổng lộc của chế độ,báo cáo tình trạng kinh tế VN hoàn toàn không đúng sự thật,cho nên các giải pháp sửa đổi chính sách,điều phối kinh tế không hiệu quả,càng lún sâu vào bờ vực phá sản. Đọc bài này lại nhớ đến một tay nghị nào đó phun ra khi định quyết 56 tỷ $ đi vay xây đường sắt cao tốc VN : chúng ta sẽ làm được đường cao tốc,vì chúng ta có quyết tâm chính trị…,đấy kiểu suy tư và hiểu biết như vậy mà nền kinh tế VN đang còn chưa “đứt mạch máu não” mới là điều lạ.