Chúc thư chính trị của một danh tướng
Vào thế kỷ 13, trong lịch sử Đại Việt, xảy ra một cuộc đảo chánh êm thắm bằng cuộc chuyển nhượng quyền hành giữa hai vợ chồng trẻ, từ họ Lý qua họ Trần. Số là vào năm 1209, triều đình nhà Lý gặp loạn Quách Bốc. Vua Lý Cao Tông (trị vì 1176-1210) cùng thái tử Sảm đi lánh nạn. Thái Tử Sảm chạy đến Hải Ấp, Thái Bình và nhờ một người đánh cá giàu có giúp đỡ là Trần Lý. Thái tử Sảm cưới con gái Trần Lý, thường được gọi là Trần thị.
Trần Lý giúp Cao Tông dẹp yên Quách Bốc. Cao Tông về lại kinh đô, phong cho gia đình Trần Lý nắm giữ nhiều quyền lực trong triều. Chẳng bao lâu, Cao Tông từ trần, con là thái tử Sảm lên nối ngôi tức Lý Huệ Tông (trị vì 1211-1224). Huệ Tông cùng Trần thị không có con trai, chỉ có hai người con gái là Lý Thuận Thiên và Lý Chiêu Thánh. Năm 1224, Lý Huệ Tông nhường ngôi cho con gái thứ hai mới 7 tuổi là công chúa Lý Chiêu Thánh. Chiêu Thánh lên làm vua tức Lý Chiêu Hoàng. Lý Huệ Tông bị bệnh cuồng, khi tỉnh khi điên, nên bỏ đi tu. Công việc triều chính do hoàng hậu Trần thị, mẹ của Chiêu Thánh, đảm trách. Hoàng hậu Trần thị được một người anh họ, vừa là tình nhân là Trần Thủ Độ phụ giúp.
Anh ruột của Trần thị là Trần Thừa cai quản mọi việc trong cung vua. Con trai lớn của Trần Thừa là Trần Liễu kết hôn với công chúa Lý Thuận Thiên, con gái đầu của Trần thị, nghĩa là anh em cô cậu ruột lập gia đình với nhau. Trần thị cùng Trần Thủ Độ sắp đặt để con trai thứ của Trần Thừa là Trần Cảnh, kết hôn với vua Lý Chiêu Hoàng, em của Lý Thuận Thiên, tức hai vợ chồng trẻ nầy cũng anh em cô cậu kết hôn với nhau, giống như trường hợp anh chị của mình. Trần Cảnh và Lý Chiêu Hoàng cùng tuổi với nhau.
Ngày 11 tháng 12 năm ất dậu (qua năm 1226), tại điện Thiên An, Lý Chiêu Hoàng làm lễ nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh, chấm dứt nhà Lý. Nhà Lý trị vì được hai trăm mười sáu năm, truyền chín đời vua. Trần Cảnh lên làm vua tức Trần Thái Tông (trị vì 1226-1258), lập ra nhà Trần (1226-1400).
1.- THÙ NHÀ
Trần Thái Tông và Lý Chiêu Hoàng sống với nhau được 8 năm thì sinh một trai năm 1233, đặt tên là Trịnh. Chẳng may Trịnh bị yểu tử, có thể từ trần ngay khi mới sinh. Thêm một thời gian nữa, Thái Tông vẫn chưa có con nối dòng. Điều nầy làm cho Trần Thủ Độ cùng vợ là cựu thái hậu Trần thị, mẹ của Lý Chiêu Hoàng và là cô ruột của Thái Tông, lo ngại cho tương lai của nhà Trần mới thành lập. Cả hai liền yêu cầu vua Thái Tông truất phế hoàng hậu Chiêu Hoàng vào đầu năm 1237 (đinh dậu), và đưa Lý Thuận Thiên, vợ của Trần Liễu, đang mang thai 3 tháng, vào cung làm vợ Thái Tông. Nói cách khác, hai người thúc đẩy Thái Tông lấy chị dâu của mình làm vợ, và lúc đó người chị dâu lại đang có mang với người anh ruột của nhà vua.
Trần Thái Tông còn trẻ, khoảng 20 tuổi (tuổi ta), bị chú họ là Trần Thủ Độ và cô ruột là Trần thị áp lực, nên phải nghe theo, nhưng trong lòng phân vân, áy náy. Ông liền bỏ kinh thành, đang đêm lên núi Yên Tử (giữa Bắc Giang và Quảng Ninh ngày nay), nơi quốc sư Phù Vân trụ trì.
Trần Thủ Độ là người quyết đoán, đã làm việc gì thì đi tới cùng. Được tin vua lên chùa Phù Vân, núi Yên Tử, Trần Thủ Độ tự thân hành dẫn người lên đón vua về triều. Trần Thái Tông buồn rầu nói: “Trẫm hãy còn thơ ấu, chưa đảm đang được việc trọng đại, vua cha [Trần Thừa] lại vội từ trần, thành ra Trẫm mất người nương tựa, không dám để nhơ nhuốc đến xã tắc.” Thủ Độ nài nĩ mời vua trở về, nhưng Thái Tông dùng dằng không chịu. Thủ Độ liền quay qua nói với các quan rằng: “Xa giá vua ở đâu, tức triều đình ở đấy.” Ông ra lệnh chuẩn bị xây dựng cung điện để biến Yên Tử thành kinh đô. Quốc sư Phù Vân lo ngại, thưa với vua Thái Tông: “Bệ hạ nên sớm quay loan giá về kinh thành, không nên để họ làm hại đến núi rừng của đệ tử nầy.” Nhà vua bất đắc dĩ phải hồi kinh. Tuy lúc đầu Trần Thái Tông tỏ ý không vui về việc gán ghép của Thủ Độ và Trần thị, nhưng sau đó, nhà vua vẫn sống với Lý Thuận Thiên.
Trần Liễu rất tức giận vì mất vợ, liền họp quân dưới trướng, nổi lên chống lại triều đình. Tuy nhiên lực lượng Trần Liễu quá yếu, không làm gì được. Ông liền thay đổi kế hoạch. Nhân khi vua Thái Tông ngự thuyền du ngoạn trên sông, Trần Liễu dùng thuyền nhỏ, giả làm người đánh cá, đến chỗ nhà vua xin hàng.
Anh em ôm nhau cùng khóc. Trần Thủ Độ được mật báo, liền đi thẳng đến thuyền vua, rút gươm hô lớn: “Giết thằng giặc Liễu.” Nhà vua liền đẩy Trần Liễu trốn vào trong khoang thuyền, rồi nói với Thủ Độ: “Phụng Càn Vương [chỉ Trần Liễu] đến xin hàng đấy.” Thấy nhà vua che chở Trần Liễu, Thủ Độ giận lắm, vất gươm xuống sông nói rằng: “Tao thật là con chó săn, biết đâu anh em mầy hòa thuận với nhau hay trái ý nhau.” Trần Thái Tông đứng ra hòa giải hai bên, vỗ về Trần Liễu lui binh, lấy đất An Phụ, An Dưỡng, An Sinh, và An Bang (vùng Hải Dương ngày nay) giao cho Trần Liễu làm thực ấp, ăn bổng lộc, rồi nhân đó phong Trần Liễu tước An Sinh Vương.
An Sinh Vương Trần Liễu đành thủ phận, ôm mối hận lòng chờ đợi thời cơ kiếm cách phục thù. Chưa thực hiện được việc nầy thì hoàng hậu Lý Thuận Thiên từ trần năm 1248 (mậu thân), còn Trần Liễu từ trần năm 1251. Trần Liễu biểu lộ ý chí phục thù rõ nét trong việc ông chuẩn bị tương lai cho người con thứ của ông là Trần Quốc Tuấn (1226-1300). Khi Quốc Tuấn mới sinh ra, một thầy tướng tiên đoán: “Người nầy ngày sau có thể giúp đời.” Đến khi Quốc Tuấn lớn lên, Trần Liễu tìm rước những người tài giỏi về dạy Quốc Tuấn. Lúc sắp mất, Trần Liễu trối trăng với Quốc Tuấn tâm sự của mình và kết luận: “Con mà không vì cha lấy được thiên hạ [đất nước], thì cha chết dưới suối vàng cũng không nhắm mắt được.” Trần Quốc Tuấn ghi nhận di huấn của cha, nhưng không có phản ứng cụ thể.
2.- NỢ NƯỚC
Khi Trần Quốc Tuấn lớn lên là lúc nước nhà bị người Mông Cổ đe dọa. Quân Mông Cổ tấn công nước ta ba lần:
LẦN THỨ NHỨT: Năm đinh tỵ (1257), quân Mông Cổ tấn công Đại Việt do tướng Ngột Lương Hợp Thai (Uriyangqadai) chỉ huy. Quân Mông Cổ từ hướng Vân Nam tiến vào Đại Việt theo đường sông Thao, xuống Hưng Hóa, đe dọa Thăng Long. Vua Trần Thái Tông sai cháu là Trần Quốc Tuấn lãnh đạo nhóm tiền quân ra kháng cự. Trần Quốc Tuấn là con Trần Liễu, và là cháu gọi vua Thái Tông là chú ruột.
Trần Quốc Tuấn quân ít, phải lui về Sơn Tây. Vua Thái Tông tự cầm quân đánh trận, cũng thua phải bỏ Thăng Long về Hưng Yên. Thái Tông lo ngại, nhưng thái sư Trần Thủ Độ cương quyết thưa với vua: “Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin Bệ hạ đừng lo!” Quân Mông Cổ không hạp thủy thổ, lâu ngày tỏ dấu hiệu mỏi mệt. Thái Tông liền phản công. Quân Mông Cổ thất bại, phải rút lui.
Trong thời gian nầy, người Mông Cổ xâm chiếm Trung Hoa. Năm 1264, Hốt Tất Liệt (Qubilai) tức Nguyên Thế Tổ (trị vì 1260-1294), đổi quốc hiệu là Nguyên, dời đô đến Yên Kinh (Bắc Kinh ngày nay) năm 1264. Nhà Tống tiếp tục chống cự đến năm 1279 thì nhà Tống mất hẳn.
Dầu đã chiếm toàn cõi Trung Hoa,vua Nguyên vẫn tiếp tục tham vọng đánh chiếm Đại Việt.. Về phía Đại Việt, vua Trần Thái Tông lên làm thái thuợng hoàng năm 1258, nhường ngôi cho con là Trần Thánh Tông (trị vị 1258-1278). Khi thượng hoàng Thái Tông từ trần, vua Thánh Tông thế chỗ thượng hoàng và nhường ngôi vua cho con là Trần Nhân Tông (trị vì 1279-1293).
Để bảo vệ quyền lợi dòng họ, nhà Trần cho phép bà con anh em trong hoàng tộc thành hôn với nhau. Vợ vua Trần Thánh Tông, hoàng hậu Thiên Cảm, là con gái của Trần Liễu và là em của Trần Quốc Tuấn, tức Thiên Cảm là chị con bác ruột nhà vua,. Việc Thánh Tông phong Thiên Cảm làm hoàng hậu ngay khi vừa lên ngôi năm mậu ngọ (1258) có thể để hòa giải với gia đình Trần Liễu. Nói cách khác, Trần Nhân Tông gọi Trần Quốc Tuấn vừa là bác họ, vừa là cậu ruột. Hơn thế nữa, khi vừa lên ngôi vua năm 1279, Trần Nhân Tông liền sách lập con gái lớn của Trần Quốc Tuấn làm hoàng hậu tức Khâm Từ hoàng hậu, nghĩa là Trần Quốc Tuấn còn là nhạc gia của vua Trần Nhân Tông.
LẦN THỨ HAI: Tình hình giao thiệp giữa Đại Việt và Trung Hoa càng ngày càng căng thẳng vì nhà Nguyên hạch sách khó khăn. Nhà Trần chịu triều cống, nhưng vẫn cương quyết bảo vệ nền độc lập nước nhà. Năm 1282 (nhâm ngọ), Hốt Tất Liệt sai Toa Đô (Sogatu) cầm quân đi đường biển xuống đánh Chiêm Thành, và dòm ngó Đại Việt.
Vua Trần Nhân Tông liền họp các vương hầu và tướng lãnh ở Bình Than (Chí Linh, Hải Dương) để tìm kế chống Nguyên. Cuối năm sau (1283), Trần Nhân Tông bổ nhiệm Trần Quốc Tuấn làm quốc công, tiết chế thống lĩnh chư quân. Năm 1284 (giáp thân), Hốt Tất Liệt sai một cánh quân khác do thái tử là Trấn Nam Vương Thoát Hoan (Togan) tiến xuống bằng đường bộ, nhắm trực chỉ Đại Việt. Trong khi đó, Toa Đô ở phía nam (Chiêm Thành) đánh bọc lên. Đây là lần thứ hai quân Nguyên sang xâm lăng nước ta (1284-1285). Được tin nầy, nhà vua ra lệnh Trần Quốc Tuấn tổ chức cuộc duyệt binh lớn ở Đông Bộ Đầu (bến Đông Tân sông Hồng ngày nay), chuẩn bị chống xâm lăng.
Lúc đó, chẳng những nắm binh quyền, Trần Quốc Tuấn còn ảnh hưởng rất lớn về chính trị, vì ngoài thế lực bản thân của ông, ông còn là anh của hoàng thái hậu và là cha của hoàng hậu đương triều. Đây chính là cơ hội thuận tiện để Trần Quốc Tuấn thực hành di mệnh của phụ thân. Di mệnh nầy là mối hận thù và hoài bảo lớn lao suốt đời Trần Liễu ấp ủ. Trần Quốc Tuấn đã hành xử như thế nào trong hoàn cảnh nầy?
Chính sử kể lại rằng khi quân Nguyên sang xâm lăng, Trần Quốc Tuấn lúc đó đã nắm hết binh quyền trong tay, đem di mệnh của phụ thân hỏi hai người gia nô thân tín và trung thành là Yết Kiêu và Dã Tượng. Hai người can ngăn: “Nếu thi hành kế ấy, dầu có giàu sang được một lúc, mà tiếng xấu để mãi đến ngàn đời. Đại Vương bây giờ chả phải đã giàu sang rồi ư? Chúng tôi tình nguyện chết già làm người nô bộc, mà được như người mổ dê tên Duyệt ở thời Xuân Thu ngày trước, chứ không muốn làm sự bất trung bất hiếu để cầu may.” Quốc Tuấn nghe những lời nầy, cảm động ứa nước mắt.
Một lần khác, Trần Quốc Tuấn dò ý con là Hưng Vũ Vương Trần Quốc Nghiện: “Cổ nhân giàu có cả thiên hạ [ý nói làm vua], để truyền cho con cháu về sau, việc ấy con nghĩ thế nào? ” Quốc Nghiện thưa rằng: “Việc ấy đối với người khác họ cũng không nên làm, huống chi là cùng một họ.” Trần Quốc Tuấn rất bằng lòng, lại cũng dùng câu trên để hỏi người con thứ là Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng. Quốc Tảng hăng hái: “Tống Thái Tổ là một người làm ruộng, chỉ nhờ gặp thời vận mà lấy được thiên hạ.” Trần Quốc Tuấn giận quá, kể tội Quốc Tảng: “Những người bầy tôi phản loạn chính là do những đứa con bất hiếu mà ra.” Ông rút gươm định giết Quốc Tảng, may nhờ Quốc Nghiện can thiệp, xin tha tội.
Những giai thoại trên đây do chính sử của các triều đại kể lại. Chính sử thường vinh danh những hành động và ngôn ngữ trung quân, vì ông vua nào, triều đại nào, cũng đều quý trọng và khuyến khích những kẻ trung thành với chính thể quân chủ. Do đó, cũng có thể chính sử đã thậm khen Trần Quốc Tuấn trong việc hành xử trong gia đình của ông.
Tháng 12 năm giáp thân (qua năm 1285), thái tử nhà Nguyên là Thoát Hoan dẫn quân qua ải Chi Lăng (Lạng Sơn), nhắm Thăng Long trực chỉ. Trần Quốc Tuấn lui về Vạn Kiếp (vùng sông Lục Nam gặp sông Thương). Vua Trần Nhân Tông được tin nầy, dùng thuyền nhỏ qua Hải Đông (Hải Dương), cho người vời Trần Quốc Tuấn đến bảo: “Thế giặc mạnh như vậy, ta hãy chịu hàng để cứu muôn dân.” Trần Quốc Tuấn khẳng khái trả lời: “Nếu bệ hạ muốn hàng, xin hãy chém đầu thần trước rồi hãy hàng.”
Quân Nguyên tiến chiếm Thăng Long. Trần Quốc Tuấn rước vua và thượng hoàng chạy vào Thanh Hoa (sau nầy đổi thành Thanh Hóa). Khi đi theo phò tá vua, Trần Quốc Tuấn thường cầm cây trượng bằng gỗ, đầu trượng có cắm mũi sắt nhọn, nên nhiều người liếc mắt trông chừng Trần Quốc Tuấn. Người ta nghi ngờ ông có thể sát hại vua. Ông hiểu ý, bỏ mũi sắt nhọn, chỉ cầm cái trượng gỗ để mọi người yên tâm.
Cuối cùng, sau các chiến thắng lẫy lừng của quân dân nhà Trần ở Hàm Tử, Chương Dương, Tây Kết (cả ba đều trên song Hồng, phía nam Thăng Long), Vạn Kiếp (giao lưu sông Lục Nam và sông Thương) vào giữa năm 1285, Thoát Hoan trốn trong ống đồng, đặt lên xe cho quân sĩ đẩy về Trung Hoa. Vua Trần Nhân Tông cùng thượng hoàng Thánh Tông trở về Thăng Long. Nước ta được thái bình trở lại, nhưng chỉ một thời gian sau, quân Nguyên lại xâm lăng lần thứ ba.
LẦN THỨ BA: Quyết tâm trả thù, cuối năm 1287, quân Nguyên tràn vào nước ta vừa bằng đường bộ, vừa bằng đường biển. Trên bộ, quân Nguyên chia làm hai cánh, Thoát Hoan tiến qua ải Nam Quan, còn Áo Lỗ (Aruq) từ Vân Nam theo đường sông Hồng tiến xuống. Trên biển, bằng đường sông Bạch Đằng, Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp đi trước và Trương Văn Hổ tải lương theo sau
Thoát Hoan chiếm Vạn Kiếp, tấn công Thăng Long. Vua Nhân Tông và thượng hoàng Thánh Tông chạy vào nam. Quân Nguyên đóng ở Thăng Long lâu ngày thiếu lương thực. Thoát Hoan sai Ô Mã Nhi trở ra biển đón đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ. Khi qua cửa Vân Đồn, Ô Mã Nhi thắng quân của Trần Khánh Dư. Sau khi gặp Trương Văn Hổ, cả hai đi vào. Trần Khánh Dư để cho Ô Mã Nhi di qua, và chận đánh tan tành đoàn thuyền tải lương của Hổ.
Lâu ngày hết lương, Thoát Hoan phải lui binh. Ông Mã Nhi dẫn thủy quân trở ra biển, bị chận đánh ở sông Bạch Đằng. Còn Thoát Hoan theo đường bộ trở về Tàu, bị phục binh chận đánh ở Lạng Sơn. Quân Nguyên thua to, Thoát Hoan một lần nữa trốn về Trung Hoa. Đất nước chúng ta lại thanh bình nhờ quân dân hết lòng đoản kết chiến đấu chống ngoại xâm dưới sự lãnh đạo của các vua đầu đời nhà Trần, với sự giúp đỡ đắc lực của danh tướng Trần Hưng Đạo.
3.- THƯỢNG PHỤ CỦA VUA TRẦN
Sau khi công cuộc kháng Nguyên thành công, triều đình xét định công trạng. Năm 1289 vua Trần Nhân Tông (trị vì 1279-1293) gia phong Trần Quốc Tuấn làm Đại Vương. Cuối cùng, khi hết làm quan dưới triều Trần Anh Tông (trị vì 1293-1314), Trần Quốc Tuấn lui về trí sĩ ở Vạn Kiếp.
Tại Vạn Kiếp, sau cuộc kháng Nguyên, vua Trần Nhân Tông ra lệnh xây dựng sinh từ cho Trần Quốc Tuấn, tức đền thờ ông khi ông còn sống. Khi soạn bài văn bia đặt tại sinh từ của Trần Quốc Tuấn, thượng hoàng Trần Thánh Tông (cha của Nhân Tông) đã kính cẩn gọi Trần Quốc Tuấn là “Thượng phụ”. Trong lịch sử Việt Nam, Trần Quốc Tuấn là người duy nhứt được vua của ông tôn vinh là “Thượng phụ”. (Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư, bản dịch Nxb. Khoa Học Xã Hội, tập II, Hà Nội: 1998, tr. 80.)
Trần Quốc Tuấn rất quý trọng nhân tài. Ông đã tiến cử nhiều người tài ba để phụng sự đất nước như Phạm Ngũ Lão, Trần Trì Kiến, Trương Hán Siêu, Yết Kiêu, Dã Tượng… Bên cạnh khả năng dụng nhân trong nghệ thuật chỉ huy, Trần Quốc Tuấn rất có biệt tài về dụng binh, tự mình soạn bộ Binh gia diệu lý yếu lược (bốn quyển nói về lý thuyết mầu nhiệm và phương lược cốt yếu của nhà binh) để dạy tướng sĩ, và viết bài “Hịch tướng sĩ văn”, lời văn rất hùng tráng để kích thích lòng quân. Ngoài ra, Trần Quốc Tuấn còn soạn bộ binh thư Vạn Kiếp tông bí truyền nay đã bị thất lạc. Ông là một nhà tướng văn võ toàn tài.
Chính nhờ vừa có tài dụng binh, vừa có tài dùng người, vừa sống hài hòa với cấp dưới, vừa trung thành với vua, với nước, Trần Quốc Tuấn đã giúp nhà Trần chiến đấu kháng Nguyên thành công rực rỡ. Lúc đầu, trong triều đình nhà Trần có nhiều nghi kỵ đối với Trần Quốc Tuấn vì vấn đề Trần Liễu, nhưng dần dần cung cách xử sự của ông đã thuyết phục được mọi người.
Trần Quốc Tuấn đã tách bạch giữa những người lãnh đạo quốc gia và lý tưởng cao cả của kẻ sĩ là phục vụ đại cuộc quốc gia. Những người lãnh đạo có thể sai lầm, nhưng kẻ sĩ không thể vì thế mà bỏ đi lý tưởng của riêng mình. Vào thời đại Trần Quốc Tuấn, lý tưởng đó là lòng trung quân ái quốc, khuông phò xã tắc chống ngoại xâm. Lòng ông thẳng thắn, không gợn một chút manh tâm phản trắc, ông chỉ một mực trung thành với vua với nước. Ông dứt khoát bỏ qua thù riêng, tránh hẳn sự cám dỗ của quyền lực.
Trần Quốc Tuấn xử sự quang minh chính đại đối với các vua nhà Trần tuy là bà con nhưng cũng là cựu thù của cha ông, và xử sự ngay thẳng với tất cả mọi người. Điều nầy là một tấm gương sáng về tình gia đình, về tinh thần đoàn kết quốc gia, khiến cho sĩ chúng thời Trần trên dưới một lòng, cùng nhau sát cánh tạo sức mạnh tổng lực chiến đấu chống ngoại xâm, bảo vệ nền độc lập quốc gia. Vì lẽ đó, mà ngay khi Trần Quốc Tuấn còn sống, ông đã được vua Trần gọi là thượng phụ, kính trọng như cha. Khi Trần Quốc Tuấn từ trần tại Vạn Kiếp ngày 20-8 năm canh tý (1300), ông được vua Trần Anh Tông tặng tước Thái sư Thượng phụ Thượng Quốc Công Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương. Riêng việc phong tước “Hưng Đạo Đại vương”, tức vị đại vương đã chấn hưng đạo làm người, cho thấy nhà vua và triều đình lúc bấy giờ nêu cao tinh tuý ý nghĩa công nghiệp của Trần Quốc Tuấn, một tướng lãnh đức độ, tài ba, văn võ song toàn.
4.- KẾ SÁCH CHỐNG QUÂN XÂM LƯỢC TRUNG HOA
Dưới chế độ quân chủ, những tước vương, công, hầu, bá, tử, nam không phải là tên. Người Việt thường gọi Trần Quốc Tuấn là Trần Hưng Đạo, Hưng Đạo Vương hay Hưng Đạo Đại Vương, nhưng hầu như người ta không biết cụ thể khi nào Trần Quốc Tuấn được phong tước “vương”? Ngay cả sử sách cũng không viết điều nầy, mà luôn quen gọi Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn hay Trần Hưng Đạo mà thôi.
Theo hai bộ cổ sử là Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên và Khâm định Việt sử thông giám cương mục của Quốc sử quán nhà Nguyễn, thì vào năm 1257, lần đầu tiên, quân Mông Cổ đe dọa nước ta ở biên giới phía bắc. Vua Trần Thái Tông “hạ mệnh lệnh cho Quốc Tuấn đem quân trấn ngự biên thùy phía bắc.” Trong câu văn nầy của sử xưa, rõ ràng chữ “Quốc Tuấn” trống không, không có tước hiệu.
Năm 1283, có tin từ biên giới quân Nguyên đang tiến sang nước ta, vua Trần Nhân Tông “hạ lệnh cho Quốc Tuấn làm Quốc công, tiết chế thống lĩnh các sắc quân…” Như thế, năm 1283 Trần Quốc Tuấn mới được phong tước “công”, mà chưa được phong tước “vương”. Tước “công” đứng đầu trong ngũ đẳng là “công, hầu, bá, tử, nam”.Vì sách xưa, quá tôn sùng Trần Quốc Tuấn, khi nào cũng viết “Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn”, nên không biết ông được phong tước vương khi nào, nhưng chắc chắn sau tước “công”, tức sau năm 1283, thì ông được phong “Hưng Đạo Vương” vì tước “vương” trên tước “công” một bậc.
Chẳng những là một tướng lãnh có tài dụng binh và dùng người, Trần Hưng Đạo còn là nhà chính trị có tầm nhìn chiến lược rất sâu sắc. Khi Trần Hưng Đạo sắp từ trần, vua Trần Anh Tông đến thăm và hỏi Trần Hưng Đạo: “Thượng phụ một mai khuất núi, phỏng có quân bắc lại sang thì làm thế nào? ”
Trần Hưng Đạo trả lời: “Đại để, kẻ kia cậy có tràng [trường] trận, mà ta thì cậy có đoản binh; lấy đoản chống nhau với tràng, phép dùng binh thường vẫn phải thế. Còn như khi nào quân giặc kéo đến ầm ầm, như gió, như lửa, thế ấy lại dễ chống. Nếu nó dùng cách dần dà, như tằm ăn lá, thong thả mà không ham của dân, không cần lấy mau việc, thế ấy mới khó trị, thì ta nên kén dùng người giỏi, liệu xem quyền biến, ví như đánh cờ, phải tuỳ cơ mà ứng biến, dùng binh phải đồng lòng như cha con một nhà, thì mới có thể đánh được. Cách ấy cốt phải tự lúc bình thì khoan sức cho dân, để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là cái thuật giữ nước hay hơn cả.” (Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Hà Nội: Nxb. Giáo Dục, 1998, bản dịch tập 1, tt. 558-559.)
Kế sách của Trân Hưng Đạo rất rõ ràng, cụ thể. Nếu quân Trung Hoa ỷ mạnh, kéo quân tấn công ào ạt, thì người Việt dùng đoản binh đẩy lui dần dần. Trái lại nếu quânTrung Hoa xâm nhập từ từ, theo thế tầm ăn dâu, thì nước ta phải làm thế nào tạo sự đoàn kết toàn dân như cha con một nhà thì mới chống trả được giặc. Đọc đến đây, có lẽ ai cũng nghĩ đến tình hình Việt Nam hiện nay.
Hiện nay, Việt Nam đang bị Trung Cộng đe dọa trầm trọng. Ở bên ngoài Việt Nam, Trung Cộng đang mở một gọng kềm rộng lớn kẹp Việt Nam vào giữa. Trung Cộng dàn quân áp lực dọc biên giới phía bắc, giữa hai nước Hoa Việt. Ở phía tay trái (từ nam nhìn về bắc), tức phía tây Việt Nam, Trung Cộng viện trợ, giúp đỡ Lào và Cao Miên. Với sự giúp đỡ của Trung Cộng, hai nước nầy sẵn sàng gây hấn, quấy rối vùng biên giới phía tây Việt Nam. Ở phía tay mặt (từ nam nhìn về bắc), tức phía đông Việt Nam, Trung Cộng hiện đang thao túng biển Đông, thiết lập căn cứ quân sự trên Hoàng Sa và Trường Sa cướp được của Việt Nam, đe dọa hải phận Việt Nam. Như thế Trung Cộng bao vây cả ba mặt bắc, tây và đông, như hai cánh tay giương ra, bao vây và ôm trọn Việt Nam vào giữa.
Ở bên trong Việt Nam, Trung Cộng thâm nhập dần dần bằng nhiều cách, từ văn hóa, chính trị, khoa học, đến kinh tế, tài chánh, đầu tư… Trung Cộng đưa ra những đòn phép rất tiểu xảo, từ thuê rừng, khai thác bauxite, thuê biển, phá hoại môi trường. phá hoại kinh tế, lủng đoạn hệ thống đảng cộng sản…
Tuy nhiên, khác với nhà Trần vào thế kỷ 13, trước đại họa Trung Cộng hiện nay, đảng cộng sản Việt Nam (CSVN) một mặt qụy lụy Trung Cộng để tồn tại, tiếp tục nắm giữ quyền lực, một mặt đàn áp dân chúng, không “khoan sức cho dân” tý nào, không vỗ về giúp đỡ dân, không tạo điều kiện cho dân phát triển sinh sống, bóp nghẹt tự do tôn giáo, tự do chính trị, và cộng sản lại áp đặt kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tàn hại sức dân, quá tham nhũng, ra sức bóc lột, cướp đất, cướp nhà của dân, đàn áp tàn nhẫn những người oan ức đi khiếu nại và kiện tụng (khiếu kiện). Những người yêu nước phản đối một cách bất bạo động ý đồ xâm lăng của Trung Cộng, thì bị nhà nước CSVN tấn công, đánh đập, bắt giam, tù đày…
KẾT LUẬN
Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn là một tướng lãnh tài ba, và là một nhà chính trị khôn ngoan, đức độ, dùng nhân nghĩa để hòa giải gia đình, đoàn kết quân đội và quần chúng, tạo sức mạnh tổng lực dân tộc, ba lần đẩy lui quân Nguyên, là một đạo quân hùng mạnh vào bậc nhất thế giới lúc bấy giờ.
Kinh nghiệm chiến thắng ngoại xâm đã được Trần Hưng Đạo tóm lược trong lời dặn dò vua Trần Anh Tông năm 1300, có thể được xem là chúc thư chính trị của danh tướng Trần Hưng Đạo, để lại cho tất cả những nhà cầm quyền hậu thế trong công cuộc bảo vệ đất nước.
Đảng CSVN hiện nay không theo chúc thư nầy, mà làm ngược lại, ký kết hiệp ước nhượng bộ Trung Cộng để nhờ Trung Cộng bảo vệ quyền lực, và đảng CSVN luôn tìm cách vơ vét của dân, rồi cách tẩu tán ra nước ngoài. Như thế hiểm họa bắc thuộc một lần nữa đang chờ đợi dân tộc Việt Nam.
Vậy chỉ còn con đường duy nhứt là phải tranh đấu giải thể chế độ cộng sản Việt Nam hiện nay, mới có thể thực hiện chúc thư chính trị của danh tướng Trần Hưng Đạo, nhằm đưa Việt Nam thoát khỏi cảnh bắc thuộc lần nữa.
(Toronto, 05-09-2016)
© Trần Gia Phụng
© Đàn Chim Việt
Trích: “nhà Trần cho phép bà con anh em trong hoàng tộc thành hôn với nhau. Vợ vua Trần Thánh Tông, hoàng hậu Thiên Cảm, là con gái của Trần Liễu và là em của Trần Quốc Tuấn”
Vua Trần Thánh Tông lấy em gái của Trần Quốc Tuấn. Có lẽ vì thế mà Trần Quốc Tuấn không cướp ngôi của Trần Thánh Tông. Trần Thánh Tông khá thân thiện với bà con họ hàng, cho các hoàng thân vào cung ăn chung, không có vẻ là xa cách giữa vua với tôi.
Nói chung, phong trào nào mà mọi người ý thức được quyền lợi chung thì dễ bỏ qua các xích mích xung đột, phong trào đó sẽ lên mạnh. Khi trong phong trào đó có những người ích kỷ, xem quyền lợi bản thân cao hơn lợi ích chung thì sẽ sinh ra lục đục, chia rẽ. Đế quốc La Mã lúc đầu hùnh mạnh vì theo lối bầu cử, chọn người tài giỏi ra lãnh đạo chứ không theo lối cha truyền con nối. Khi chọn người như vậy thì người ta phải xét xem ai là người phục vụ tốt nhất cho quyền lợi chung. Muốn vậy mọi người phải có tiêu chuẩn giống nhau về cách thế nào là tốt cho quốc gia. Có thế thì việc bầu cử mới được mọi người công nhận .
Không muốn, nhưng với bản chất trai lỳ, tham ô, ác độc, bám Tầu Cộng giữ ghế của Đảng Cộng Sản Việt Nam, sẽ đến lúc Nhân dân Việt Nam, trong và ngoài nước, đành lại phải đổ máu để giữ nước chứ không thể cứ xuôi theo trào lưu “bất bạo động” ở thời đại đầy vật chất của thế giới hôm nay.
Ai thương mình bằng mình? Thiên hạ Âu Mỹ chỉ đứng ngoài, ta sống theo họ, bất bạo động mất nước ai lấy lại cho ta.
Mà chắc chắn, nước còn tiếp tục tàn tạ, héo mòn, lần hồi sẽ thành một tỉnh của Trung Cộng, nếu đảng CSVN còn thao túng đất nước.
Văn, nghệ sĩ nghĩ gì về hiện trạng đất nước ?
***Song Chi – Đạo diễn phim-: Nhiều nhân sĩ, trí thức Việt Nam từng phải thốt lên rằng chưa bao giờ trong lịch sử Việt Nam, ngay cả trong giai đoạn bị Trung Quốc đô hộ đi nữa, tương lai của đất nước này, dân tộc này lại u ám đến thế. Bởi lần này âm mưu thôn tính Việt Nam của Trung Cộng có sự tiếp tay của đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam, trở nên dễ dàng hơn rất nhiều, thậm chí Bắc Kinh có thể khống chế, chiếm đoạt dần dần Việt Nam mà không cần phải nổ ra chiến tranh, theo đúng ý đồ “bất chiến tự nhiên thành”.
***Nghệ sĩ ưu tú Kim Chi: “Về quan hệ quốc tế thì Việt nam ngày càng phụ thuộc vào Trung Quốc một cách thảm hại cả kinh tế lẫn chính trị:
Biển đảo, đất đai biên giới của Việt nam bị Trung Quốc ngang nhiên lấn chiếm mà các lãnh đạo Việt nam cam tâm im lặng . Đáng lẽ ra Việt nam phải kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế về việc Trung quốc ngang nhiên đưa con tàu HD 981 vào hải phận Việt nam. Không dám kiện đã là hèn. Hèn hơn nữa là thẳng tay đàn áp những ai lên tiếng phản đối. Đội ngũ công an luôn sẵn sằng khủng bố, bắt bớ, tù đầy những người chống Trung Quốc. Đám dư luận viên hung hãn như một lũ chó ghẻ điên khùng , chúng vô học , vô giáo dục , vô lương tri , chúng tấn công, chửi bới những người đi tưởng niệm các chiến sĩ đã hi sinh ở Hoàng Sa, Trường Sa. Chúng gán tội , ghép tội , dán cho những người dám đấu tranh cái nhãn hiệu là “ phản động”…………
***Nhà văn Dương Thu Hương- gia nhập Thanh Niên Xung Phong xâm nhập Miền Nam . Có hơn 15 tác phẩm-: “Về mặt đại cuộc, tôi thấy trong toàn thể lịch sử nước Việt, có lẽ cái triều đình Cộng sản hiện nay là cái triều đình hèn hạ và khốn nạn hơn tất cả những triều đình bán nước trước kia .
“Bây giờ, mặc dù họ còn giữ được chính quyền nhưng cái thất bại thì rõ ràng không ai có thể chối cãi được là họ đã trở thành một bộ phận nô lệ của triều đình Cộng sản phương Bắc và cái sự bán nước của họ dù diễn ra trong bóng tối, nhưng nhân dân và tất cả nh người có lương tâm đều đoán được một cách chính xác “.
Bộ môn Việt sử ở học đường dưới thời bọn Cộng sản bán nước:
7/11/2014- “Làm gì để cứu non sông?”- Bảo Giang : Từ sau ngày quốc nạn 30-4-1975, đã chẳng có sách vở nào được ghi chép, đã chẳng có người dân nào được phép nhắc nhở đến bản đồ địa lý mà cha ông ta để lại, cũng như chẳng ai được nhắc đến chuyệt phạt Tống, bình Ngô, triệt Hán, diệt Thanh của cha ông ta nữa.
4/9/12- VNnet.vn :… Bài tập đọc Hai Bà Trưng (Tiếng Việt 3, tập 2, trang 4, 5) cháu đọc hoài mà vẫn không hiểu Hai Bà Trưng đánh giặc nào. Bài học tuyệt không một chữ nào vạch mặt chỉ tên kẻ cướp mà toàn những danh từ nhợt nhạt, mập mờ, chung chung: tướng giặc, quân thù, giặc ngoại xâm, kẻ thù, quân xâm lược.
Xem ra việc “sinh hoạt nội bộ” của nhà Trần đã trở thành thông lệ sau này của nhiều làng “văn hóa” ở nơi em đang …tập kết. Số là trong cuộc chiến chống Mỹ cứu nước thì trai tráng hùng hục lên đường, lớp này thay lớp…chết. Sót lại chỉ còn vài con gà trống què ở được “bố trí” xây dựng hậu phương với cả bầy gà mái đều rất muốn…cập kê. Vì thế, để đạt chỉ tiêu thì hàng đêm mỗi con gà trống phải tranh thủ đến 3 giờ sáng nhằm “giải quyết vụ việc” cho các chị em trong thôn xóm. Cái gì cũng có hậu quả. Vâng, đàng ấy đưa cửa Hậu để anh cho…Quả. Điều đáng mừng là mấy mươi năm sau, khi các cháu thanh niên nam nữ trong làng bày tỏ ý định muốn lập gia đình với nhau thì các cụ trong hội châm cứu đều nhất trí đến 90%…chúng mày là anh em. Và rồi, hài nhi bị khuyết tật ra đời. Ủy ban kế hoạch nhà nước tức tốc đưa phần lớn các cháu vào Đà Nẵng để làm…nạn nhân của chất độc màu da cam. Một số ít bị thiểu não thì đảng dạy chúng nó hò hét, và cuối cùng thì đưa lên mạng như trường hợp của 3 anh em: Huy rau, Minh nọc, Vĩnh lông.
Viết đến đây, em chỉ những mong quý bác niệm tình các cháu không óc mà an ủi, vỗ về chứ đừng đấm đá, giật chỏ hay lên gối mà bố đẻ của chúng là Tonydo sẽ vác súng đến nhà. Tội nghiệp nhất là cháu Huy, vừa mới kết duyên với một cháu gái…3 vú ở làng bên. Đêm động phòng cháu hô vang khẩu hiệu “Hồ Chí Minh muôn năm” mãi đến sáng. Làm sao ngờ được cô ấy…để râu dài như cụ. Bố nó mà biết thì chắc đã…cạo cho con dâu trước rồi. Em rơi nước mắt.
“Kế sách cho hiện tại và tương lai” của Cộng sản Hà nội đương đầu với quan thày Tàu cộng xâm lược :
Hiện tại: Thượng tướng Bùi Văn Huấn – Phó Chủ Nhiệm Tổng Cục Chính Trị – trong cuộc phỏng vấn của Trung tâm Phát Triển Văn học Nghệ Thuật ngày 18/3/2012 : Trung Quốc lấy cái gì của ta thì ta phải chịu thôi.
Về Biển Đông , Phó chủ tịch quốc hội Thượng tướng Huỳnh Ngọc Sơn- trong cuộc gặp cử tri thành phố Đà Nẵng sau kỳ họp quốc hội vào ngày 29 tháng 6,15 – “: “Không lẽ bây giờ bà con bảo là đánh nhau…. Nhiều lần ta cũng nghĩ tới việc lấy lại nhưng trong lúc này chưa thể lấy lại được. Để đời con đời cháu chúng ta lấy lại “.
“Ta như thế này thì bà con thấy ta ăn thua với họ được không? Ai tài giỏi thì thử chỉ huy ra đó coi có thắng không? Đánh được rồi nhưng có giữ được không?”.
Đại tướng Phùng Quang Thanh: Xu thế ghét Trung Quốc nguy hiểm cho dân tộc.
Tương lai :Theo tài liệu của Tổ chức Di cư quốc tế (IMO) lấy từ nguồn của Vụ Liên Hiệp quốc về vấn đề kinh tế và xã hội (UN DESA), từ năm 1990 đến năm 2015 có 2.558.678 người Việt Nam di cư ra nước ngoài. Như vậy tính trung bình trong 26 năm, mỗi năm có khoảng gần 100 nghìn người Việt di cư ra nước ngoài.
Về vấn đề du học sinh trốn không về nước, ngày 28/12/2015, thứ trưởng Bộ Nội vụ Nguyễn Duy Thăng phát biểu ở Quốc Hội rằng ” Tôi nghĩ con em nhiều người ngồi ở đây cũng không về. Cá nhân gia đình tôi cũng vậy, 2 đứa không về”.
Tương lai Việt nam: Tờ Thời Báo Hoàn Cầu và Tân Hoa Xã của Trung Cộng công bố một phần sự thật được gọi là “Kỷ Yếu Hội Nghị Thành Đô”:
“Vì sự tồn tại của sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa Cộng sản, Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam đề nghị phía Trung Quốc giải quyết các mối bất đồng giữa hai nước. Phía Việt Nam sẽ cố gắng hết sức mình để vun đắp tình hữu nghị vốn lâu đời vốn có giữa hai đảng và nhân dân hai nước do Chủ tịch Mao Trạch Đông và Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã dày công xây đắp trong quá khứ. Và Việt Nam bày tỏ mong muốn sẵn sàng chấp nhận làm một khu vực tự trị thuộc chính quyền Trung ương tại Bắc Kinh, như Trung Quốc đã dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây….
Phía Trung Quốc đồng ý và chấp nhận đề nghị nói trên, và cho Việt Nam thời gian 30 năm (1990-2020) để Đảng Cộng sản Việt Nam giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc vào Trung Quốc.”
Lực lượng Mông Cổ trong ba lần xâm lăng Việt Nam
( Trích) Việt Sử Toàn Thư- Sử gia Phạm Văn Sơn :
Cuộc xâm lăng thứ nhất của Mông Cổ : Mông Cổ theo đường Vân Nam tiến xuống sông Thao, Hưng Hóa và Thăng Long. Quân số của họ có 2000 ấy là chưa kể đạo quân của Á Châu là con vua Nguyên đi hậu tập và tiếp viện. Ngoài ra đạo quân Ô Lạp Cáp Đạt tức là Ngột Lương Hợp Thai tiến sang nội địa Việt Nam định vào đánh phá thành Thăng Long.
Cuộc xâm lăng thứ hai của Mông Cổ mở vào ngày 21 tháng chạp năm Giáp Thân (1284) tức là ngày quân Mông Cổ thực sự xuất thân toàn bộ qua giày đạp nước ta. Lần này họ huy động tới 50 vạn binh sĩ đặt dưới quyền các danh tướng như: Tả Thừa Lý Hằng, Bình Chương A Thích, Bình Chương A Lý Hải Nha, Tổng chỉ huy của Mông Cổ là Thái Tử Thoát Hoan. Phụ tá của Thoát Hoan có hai Thượng tướng Ô Mã Nhi và Toa Đô. Các lực lượng của quân Nguyên bấy giờ đều hội tại Hồ Quảng chia làm hai đạo: Lục quân tiến vào Lạng Sơn do Thoát Hoan điều động, Thủy quân xuất phát tự Quảng Châu theo Toa Đô vượt biển tới Chiêm Thành.
Cuộc xâm lăng thứ ba của Mông Cổ : Mùa xuân, tháng hai năm Đinh Hợi (1287), Thoát Hoan làm Đại Nguyên súy, A Bát Xích làm Hành tỉnh Tả thừa, Áo Lỗ Xích làm Bình chương Chính sự, Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp làm Tham tri Chính sự dẫn 30 vạn quân sang ta .
TRẦN HƯNG ĐẠO ĐẠI VƯƠNG
Xưa nay vốn chỉ có một người
Đạo đức tài năng quả tuyệt vời
Cứu nước phá tan quân địch mạnh
Ba lần chiến thắng giặc Nguyên Mông
Tấm lòng son sắc cùng non nước
Một dạ trung vua chẳng ngại ngần
Giặc mạnh có gì đâu phải sự
Chém đầu thần trước mới hàng sau
Lòng son vằng vặc hơn trăng sáng
Mũi sắt cầm tay vụt bẻ đầu
Cán gỗ còn đây ai phải ngại
Tấm lòng trung liệt chói ngàn sau
Luyện quân hùng tráng ai đều tỏ
Hịch Tướng Sĩ kia vẫn sáng ngời
Kế quốc an dân còn muôn thuở
Đền thờ Hưng Đạo khắp nơi nơi
Cả nước toàn dân đều kính cả
Kiếp Bạc đền thiêng mãi vững vàng
Kiếm bạc tay vung thù khiếp vía
Ống đồng lũi trốn thân Thoát Hoan
Lịch sử muôn đời luôn vậy đó
Tự do độc lập mới ngang tàng
Nước Tàu bị giặc Nguyên Mông Chiếm
Hưng Đạo ba lần thảy đánh tan
TIẾNG NGÀN
(09/9/16)