WordPress database error: [Expression #1 of ORDER BY clause is not in GROUP BY clause and contains nonaggregated column 'oldsite_dcvwp.wp_posts.post_date' which is not functionally dependent on columns in GROUP BY clause; this is incompatible with sql_mode=only_full_group_by]
SELECT YEAR(post_date) AS `year`, MONTH(post_date) AS `month`, count(ID) as posts FROM wp_posts WHERE post_type = 'post' AND post_status = 'publish' GROUP BY YEAR(post_date), MONTH(post_date) ORDER BY post_date DESC

 
|

Đọc “Chuyện tình của Liên Hoa Hòa Thượng”

Cuốn sách “Chuyện tình của Liên Hòa Hòa Thượng” vừa xuất bản tại chùa Viên Giác, Hannover, Đức quốc là một cuốn sách độc đáo. Độc đáo vì tác giả là một cao tăng: Hòa Thượng Thích Như Điển.
Hòa

Thượng Như Điển giải thích cơ duyên đưa đẩy Thầy viết câu chuyện tình này là do thời gian tịnh thất tu học hằng năm tại Úc châu lần thứ 8 năm 2010 Thầy có cơ hội đọc cuốn “Lịch sử Phật giáo Đàng Trong” của tác giả Nguyễn Hiền Đức. Cuốn sách có thuật lại chuyện tình một chiều của Quận chúa Hoàng Cô, em ruột vua Gia Long với một vị cao tăng đã gắn bó với triều đại nhà Nguyễn Gia Long từ khi còn bôn ba chống Tây Sơn cho đến khi lên ngôi Hoàng đế.

Hòa Thượng Như Điển đánh giá câu chuyện của tác giả Nguyễn Hiền Đức với những chứng cớ trưng dẫn có thể là sự thật nên Thầy đã dàn dựng phóng tác để qua đó nói đến những kín đáo của nhân sinh mà xưa nay ít có cây bút nào bàn đến. Thầy Như Điển thấy rằng trong văn chương cũng có vài tác phẩm về chuyện tình trong chốn thiền môn, nhưng – theo như Thầy biết – đều do thường nhân viết. Họ tiểu thuyết hóa qua tưởng tượng hay hư cấu theo chuyện có thật. Chưa có một tác phẩm nào nói đến tình yêu tại chốn sơn môn do một tu sĩ viết. Bởi nhiều lẽ, và lẽ đơn giản nhất là tu sĩ trên nguyên tắc thoát tục đi tu thì không nói đến chuyện tình . Hòa Thượng Như Điển cho rằng như vậy là chưa đào sâu cội nguồn tình cảm của con người, một thiếu sót tài liệu về mặt tu học và cũng là một thiếu sót về mặt văn học.

Mối tình trong “Lịch sử Phật giáo Đàng Trong” của tác giả Nguyễn Hiền Đức kết thúc trong bi ai, nhưng không làm cho thiền môn nhuốm màu tục lụy. Thầy Như Điển nghĩ rằng có ai hiểu được tình yêu của Hoàng Cô, có ai hiểu được tinh thần của Liên Hoa Hòa Thượng trước một mối tình trong sáng như vậy … nếu không phải là một tu sĩ.

Hòa Thượng Như Điển lấy một quyết định quan trọng. Thầy tạm gác ra mấy tuần lễ để viết cuốn “Chuyện tình của Liên Hoa Hòa Thượng”. Thầy nói với độc giả rằng, người tu sĩ vẫn còn một quả tim con người với những xúc động tự nhiên của nó. Nhìn khác đi là thần thánh hóa người khóac áo tu hành dù vị tu sĩ đã đạt đến một đẳng cấp nào được “người đời” trao tặng trong nghi lễ. Đi tu không phải là tìm cách diệt những cảm xúc đó mà chính là để thăng hoa nó, biến nó thành hoa, thành trái tô điểm cho cuộc đời. Và người nữ khi yêu thương một tu sĩ cũng chưa hẵn đã làm một việc sai trái.

Hiểu Hòa Thượng Như Điển như vậy, tôi thấy Thầy thật can đảm. Thầy đi vào hỏa ngục để cứu chúng sinh. Thầy đụng chạm đến vấn đề không một cao tăng nào dám đụng chạm để mang đến những lý giải cho những điều từ trước đến nay còn bỏ trống.
Câu chuyện thật có trong chính sử như sau: Vua Gia Long khi còn bôn ba ở Gia Định tranh giành ngôi vương với vua Quang Trung có thời gian cùng kẻ tùy tùng trú tại chùa Từ Ân, để Mẹ, vợ, các em và các con nương nhờ chùa Khải Tường trong tỉnh Gia Định. Hoàng Tử Nguyễn Phước Đảm, sau này là vua Minh Mạng sinh tại chùa Khải Tường năm 1791. Thiền sư Thiệt Thành – Liễu Đạt thuộc Thiền tông Lâm Tế trụ trì chùa Khải Tường. Tiếp cận với Hòa Thượng Liễu Đạt tại chùa Khải Tường, một người em gái của vua Gia Long thường được gọi là Hoàng Cô, đã thọ Bồ Tát giới với ngài, pháp danh Tế Minh – Thiên Nhựt đem lòng luyến ái ngài.

Sau khi vua Gia Long lên ngôi, Hoàng Cô theo anh về Phú Xuân (nay là Huế) mang theo mối tình thầm kín trong tim. Năm 1817 vua Gia long ban chiếu triệu thỉnh Hòa Thượng Liễu Đạt về làm Tăng cang chùa Linh Mụ, và mời Hòa Thượng vào cung mỗi tháng 8 kỳ giảng kinh cho Hoàng Thái Hậu, Hoàng Hậu và các em, trong đó có Hoàng Cô. Năm 1820 vua Gia Long mất, vua Minh Mạng lên ngôi ban danh hiệu Liên Hoa cho Hòa Thượng Liễu Đạt. Lần lửa thêm mấy năm Hòa Thượng Liên Hoa quyết chạy trốn lưới tình của Hoàng Cô vây bủa. Năm 1823 nhân được tin sư huynh là Hòa Thượng Linh Nhạc tại chùa Từ Ân viên tịch Hòa Thượng Liên Hoa xin phép vua Minh Mạng trở về Gia Định thọ tang và giữ chùa Từ Ân. Lưu luyến mãi,nhưng vua Minh Mạng phải để Hòa Thượng trở về Gia Định.

Tưởng đã thoát nợ trần. Không ngờ Hòa Thượng trở về chùa Khải Tường đầu năm thì cuối năm Hòang Cô xin phép vua Minh Mạng vào Gia Định lấy cớ đi cúng dường để thăm Hòa Thượng Liên Hoa.

Sau mấy ngày ở dinh quan trấn thủ thành Gia Định cho phải phép Hoàng Cô cho lệnh sắp xếp bà ở lại chùa Từ Ân để bà được gần Phật cho đến khi bà hồi kinh.
Mấy ngày sau Liên Hoa Hòa Thượng nguyện đến chùa Đại Giác tại tỉnh Biên Hòa nhập thất hai năm. Sau khi Hòa Thượng đi, Hoàng Cô bỏ ăn. Sợ Hoàng Cô có mệnh hệ gì có lỗi với triều đình nên nhà chùa phải tiết lộ nơi Hòa Thượng Liên Hoa nhập thất cho Hoàng Cô. Lửa tình nung nấu , Hoàng Cô cho người kiệu đến chùa, quỳ ngoài thất xin Hòa Thượng Liên Hoa nếu không cho gặp mặt thì cho cô nhìn thấy bàn tay ngài và cô hứa sẽ hồi kinh ngay. Cầm lòng không đậu, Hòa Thượng Liên Hoa đưa bàn tay ra chiếc cửa sổ nhỏ dùng đưa thức ăn vào cho Hòa Thượng đang nhập thất, Hoàng Cô cầm tay ngài hôn và khóc sướt mướt, xong cô trở về chùa chờ Hòa Thượng xuất thế. Hoàng Cô nghĩ rằng khi để cho cô hôn bàn tay Hòa Thượng đã không còn tinh tấn tiếp tục tu hành.

Vài ngày sau Hòa Thượng Liên Hoa tự thiêu. Sau đó Hoàng Cô uống thuốc độc tự vận theo Hòa Thượng. Chùa Từ Ân thờ linh vị của Hòa Thượng Liên Hoa nơi dành cho các bậc xuất gia, và thờ Hoàng Cô tại bàn linh của người trần thế. Trong chùa luôn luôn có bóng người xuất hiện gây xáo trộn làm cho tăng chúng không tu hành được. Cho đến khi chùa mang hai linh vị thờ cạnh nhau chùa mới trở lại yên tịnh .
Hòa Thượng Như Điển nghĩ rằng không ai có thể hiểu được tình cảm khúc mắc và trong sạch của Hòa Thượng Liên Hoa và Hoàng Cô bằng một tu sĩ. Và Hòa Thượng Như Điển có thẩm quyền nhìn vấn đề một cách chủ quan như vậy. Thầy là một trong những bậc chân tu ít oi còn lại trong thời đại mạt pháp này. Thầy can đảm không ngại thị phi xuyên tạc cầm ngọc đuốc soi vào góc thầm kín nhất của nhân sinh.
Hòa Thượng Như Điển không nhiều lời miêu tả tâm hồn của Hòa Thượng Liên Hoa, nhưng bàng bạc độc giả cảm thấy như chia sẻ cơn sóng dữ Hòa Thượng phải trải qua suốt cuộc đời tu tập.

Nhưng với Hoàng Cô Hòa Thượng Như Điển đã soi rọi tận tình. Thầy hư cấu 15 lá thư tình của Hoàng Cô nói về “nỗi lòng” của cô với chính mình, với Mẹ, với Chị, với Vua và một lá thư đầy nước mắt viết cho Liên Hoa Hòa Thượng.

Thầy Như Điển viết: “… tôi mong tác phẩm này không làm hạ uy tín của các bậc Tăng cang Hòa Thượng thuở ấy hay ngay cả ngày nay, mà ngược lại qua câu chuyện tình này, ta thấy Liên Hoa Hòa Thượng đã thoát tục như đóa hoa sen tinh khiết nhiệm mầu khi bị nghiệp trần duyên ràng buộc. Còn Hoàng Cô, cũng là một nhân vật lịch sử, tôi thăng hoa cho bà siêu thóat. Mặc dầu tất cả “những lá thư tình” của bà đều do tôi viết. Nếu bà có đầu thai đâu đó, sẽ bảo tôi rằng ‘Tại sao ông Hòa Thượng này lắm chuyện thế …!’ Vì lẽ khi yêu thầm nhớ trộm một người, người ta khó có thể chôn hết nhưng ngôn từ vào lòng đươc, mà phải thổ lộ bằng giấy trắng mực đen thì mới có thể nói hết cõi lòng của mình. Nếu tôi có mạo phạm lời lẽ của một Công Chúa Hoàng Triều, thì mong tâm thức của bà đại xá cho …” (“Chuyện tình của Liên Hòa Hòa Thượng”, trang 624).

Viết cuốn sách Hòa Thượng Như Điển còn có mục đích “tùy căn cơ chúng sanh mà độ” để hoàng dương chánh pháp. Kinh Kim Cang là một tạng kinh dạy chuyện đời thường của Phật giáo nhưng lời lẽ cao siêu nên Phật tử tại gia ít ai để tâm nghiên cứu. Hòa Thượng Như Điển đã dùng cuốn “Chuyện tình của Liên Hòa Hòa Thượng” làm con thuyền chuyên chở nội dung kinh Kim Cang đến cho độc giả “tò mò thích đọc chuyện tình”.

Trong cuốn “Lịch sử Phật giáo Đàng Trong” tác giả Nguyễn Hiền Đức không ghi Liên Hoa Hòa Thượng khi vào cung đã giảng kinh gì, và Hòa Thượng Như Điển tưởng tượng Hòa Thượng Liên Hoa đã giảng kinh Kim Cang. Qua 32 thời giảng và 103 trang giấy (128 – 130) Hòa Thượng Như Điển đã mang kinh Kim Cang đến cho độc giả của Thầy, trong đó có Hoàng Cô ngồi nghe Hòa Thượng Liên Hoa giảng kinh mà bồi hồi trăm mối tơ lòng.

Trần Bình Nam
April 28, 2012
binhnam@sbcglobal.net
www.tranbinhnam.com

—————————————-
Ghi chú:

Tôi được biết cuốn sách “Chuyện tình của Liên Hòa Hòa Thượng” của Hòa Thượng Như Điển khi đọc bài viết: “Hoàng Cô tình sử” của cô Thiện Giới – Hoa Lan. Bài viết của cô Hoa Lan biểu lộ một sự hiểu biết triết lý Phật giáo vững chắc, một văn tài, và sự thẳng thắn của cô khi tranh luận với Liên Hoa Hòa Thượng.

Qua “Hoàng Cô tình sử” tôi liên lạc với chùa Viên Giác để có một cuốn. Gặp may vào lúc Hòa Thượng sắp lên đường hoằng dương Phật Pháp 3 tháng tại Hoa Kỳ. Tôi được phép gặp thăm Thầy tại Nam California vào một ngày cuối tháng 3/2012 và nhận một cuốn sách Thầy cho. Sau đây là bài viết : “Hoàng Cô tình sử” của Thiện Giới – Hoa Lan.

–:o0o:–

Hoàng Cô tình sử
Đã lỡ hứa với lòng là từ đây nhất định sẽ không viết chuyện tình nữa, nhưng có lẽ mối dây ràng buộc của nghiệp trần duyên của tôi vẫn còn nên phải đành viết tiếp câu chuyện tình của Liên Hoa Hòa Thượng và nàng công nương em gái vua Gia Long. Thiên tình sử kéo dài đến 40 năm với một tình yêu độc đạo, nghĩa là đường yêu chỉ có một chiều. Nàng yêu đắng, yêu cay trong tuyệt vọng vị Hòa Thượng làm Tăng Cang chùa Thiên Mụ ở kinh đô Huế và cũng là sư phụ truyền Bồ Tát giới cho nàng. Để tránh mối tình ngang trái chỉ làm cản trở đường tu và sự trong sáng của mình, vị Hòa Thượng khả kính đã tìm cách trở về chùa xưa, Sắc Tứ Từ Ân ở Gia Định để tỵ nạn tình duyên. Nhưng Hoàng Cô – cô của vua Minh Mạng vẫn bám theo kiểu, cho dù chàng có đi đến chân trời góc biển nào, thiếp cũng khăn gói theo chàng.
Thế rồi đoạn cuối một chuyện tình đã kết thúc một cách thật bi ai, lửa và độc dược đã mang đi hai mạng người, nhưng Lửa Tam Muội của Hòa Thượng chỉ thiêu được xác thân phàm của ngài chứ không dập tắt được ngọn Lửa Tình cháy ào ào như thác đổ triều dâng của Hoàng Cô. Vì sau khi chết không siêu thoát thần thức luyến ái của Bà quá mạnh đã gây xáo trộn trong chùa để đòi yêu sách, được thờ chung với long vị của Hòa Thượng Liên Hoa cho đúng với câu:

Tu đâu cho Thiếp tu cùng.
Sau khi thành Phật ngồi chung một bàn.

Tưởng rằng bụi thời gian đã xóa nhòa đi tất cả, câu chuyện tình chỉ còn lưu lại trong sử sách mà thôi. Nhưng hơn 200 năm sau một vị Hòa Thượng đã khơi lại câu chuyện này bằng một phóng tác dài trên sáu trăm trang giấy, với những diễn biến lịch sử thời Trịnh Nguyễn phân tranh lấy sông Gianh làm ranh giới, đến thời nhà Tây Sơn nổi lên làm Chúa Nguyễn Ánh phải lánh nạn tại các chùa, từ đấy mới sinh ra câu chuyện tình đầy dấu chấm hỏi, chỉ có nhân vật trong cuộc mới thấu rõ nguồn cơn. Kẻ hậu bối này có vài điều không rõ, xin mạn phép viết cho Hòa Thượng Liên Hoa một lá thơ để mong ngài làm sáng tỏ vấn đề:

Berlin, ngày ….. tháng …. năm Nhâm Thìn (2012)
A Di Đà Phật.
Kính thưa Hòa Thượng Liên Hoa,

Con là một Phật tử của chùa Linh Thứu Đức Quốc, pháp danh Thiện Giới, bút hiệu Hoa Lan. Là đệ tử hàng tép riu của Hòa Thượng Phương Trượng chùa Viên Giác ( người đã nhập vai Hoàng Cô viết cho ngài 15 bức thơ tình đấy!).

Nhân duyên nào đã xui khiến cho con biết chuyện tình của ngài và Hoàng Cô? Đấy là thời thuyết pháp của Hòa Thượng Sư phụ con trong khóa Huân Tu Tịnh Độ tại chùa Núi Thứu, người đang giảng về Tịnh Độ Tông thao thao bất tuyệt bỗng thấy chúng con hơi lim dim bay bổng. Người bèn đổi đề tài hỏi chúng con muốn nghe tiếp hay nghe chuyện tình của Hòa Thượng Liên Hoa. Cả chánh điện im phăng phắt đồng ý với lời đề nghị như có lực hút của nhựa tình, chỉ một tiếng kêu yếu ớt đòi vãng sanh từ bên dưới vang lên mà thôi.

Sau khi nghe xong nội dung câu chuyện do một giọng đọc khá truyền cảm trình bày, chúng con thật xúc động và gần như quên bẵng Phật A Di Đà trong giây lát để chỉ nghĩ đến ngài và Hoàng Cô. Tại sao ngài phải đốt thân và tịnh thất sau khi Hoàng Cô ôm hôn tay ngài? Vị pháp thiêu thân? Vị quốc vong thân? Hay vì tình mà thiêu? Không ai hiểu được ngoài ngài!

Dĩ nhiên chúng con cũng đặt nhiều câu hỏi với Hòa Thượng viết chuyện tình của ngài. Một chị bên Thụy Sĩ đã hỏi, nếu trường hợp của Hòa Thượng rơi vào tình trạng như thế, Thầy giải quyết làm sao?

Hòa Thượng cười thật tươi, trả lời rằng, đời tôi không bao giờ có chữ Nếu! Thật ra trong đời tu của tôi cũng có rất nhiều người yêu tôi. Nhưng quý vị thấy đó! Giờ này tôi vẫn còn ngồi nơi đây.

Vâng, Hòa Thượng này sẽ tồn tại mãi mãi vì người đã giữ giới và hành trì kinh Lăng Nghiêm một cách nghiêm mật, không một kẽ hở nào cho sóng tình chui lọt vào trong. Nói thế không có nghĩa là con muốn ám chỉ ngài không trì tụng kinh Lăng Nghiêm rốt ráo. Chẳng qua ngài không tránh được mối dây ràng buộc của nghiệp trần duyên như lời Đại Lão Hòa Thượng Phật Ý chùa Từ Ân đã tiên đoán trước từ lâu.
Sau đó dư âm câu chuyện tình thê thảm của ngài vẫn len lỏi vào từng cá nhân, nhiều ít tùy theo nồng độ cảm xúc của mỗi người. Cho đến khi một chị ở Hòa Lan đến rỉ tai con nói nhỏ, có chị nào đó bỏ ăn tối, ngồi khóc vì thương cảm cho cuộc tình của ngài và Hoàng Cô, tại sao ngài phải tự thiêu, có phải tâm ngài bị động không? Vì con là chuyên viên gỡ rối tơ lòng, chuyên hàn gắn những cung đàn lỡ nhịp, nên vội vã xuống hiện trường xem xét tình hình. Chúng con tụ nhau lại thành một diễn đàn, đem hết các kinh điển đã thu thập được trong các khóa tu ra mổ xẻ đề tài của ngài. Chị nào đeo bảng hiệu “Tịnh khẩu” thì xoay mặt chữ vào trong để tranh cãi cho thoải mái.

Một chị bên Đan Mạch cho việc ngài giơ bàn tay ra ngoài theo lời yêu cầu tha thiết của Hoàng Cô là phạm giới. Ngài đã để sáu căn tiếp xúc với sáu trần, nên chiếu theo nhân quả Hoàng Cô phải ôm lấy tay ngài hôn, không thể nào khác hơn được. Cách hay nhất là án binh bất động đừng trả lời gì cả.

Chị khác ở Đông Bá Linh, chuyên luyện phim bộ đã đem chuyện Quốc sư Ngọc Lâm trong Thoát Vòng Tục Lụy ra dẫn chứng. Một giải pháp tuyệt vời để bắt cô thiên kim quận chúa phải tỉnh ngộ, trong đêm động phòng hoa chúc Cát Cát phải mặc áo cưới nặng nề đi kinh hành theo chú rể đến mệt nhoài, để thấy được sự vô thường của dung nhan. Cô Cát Cát này còn ngang ngược gấp mấy lần Hoàng Cô mà Quốc sư Ngọc Lâm vẫn trị được. Từ đó suy ra, gặp khổ đau ta phải nhận diện nó, ôm ấp rồi tìm cách nghiền nát ra thành tro bụi chứ không được lẩn tránh.

Một chị ở Tây Bá Linh nghĩ sự việc rất đơn giản, nếu Hòa Thượng Liên Hoa đã giảng kinh Kim Cang Bát Nhã Tâm Kinh cho hậu cung nghe thì khi bị Hoàng Cô hôn tay, ngài chỉ cần đọc câu “không dơ cũng không sạch” rồi cười ha hả là mọi việc đâu lại hoàn đấy, cần gì phải tự thiêu. Chị còn kể chuyện nhà thơ Bùi Giáng chẳng điên tí nào, khi ở trong Đại học Vạn Hạnh đã thử đường tu của một vị Hòa Thượng chuyên giảng kinh Kim Cang. Hôm đó Hòa Thượng vừa mua một đôi dép mới rất đẹp, nhà thơ Bùi Giáng đem giấu một chiếc dép trên tay và một cảnh tượng ngoạn mục là Hòa Thượng đuổi theo chạy vòng vòng trong sân trường đòi dép. Lúc ấy Bùi Giáng mới quay lại trả dép và nói với người, Hòa Thượng giảng kinh Kim Cang cái gì cũng không, tại sao chỉ mất một chiếc dép đã la toáng lên rồi.

Ngài thấy đó, diễn đàn của chúng con toàn những tay một bụng Đại thừa, họ giật “micro” tranh nhau phát biểu. Một chị ở gần Potsdam đã đem câu chuyện Ma Bà đậu phụ đốt thảo am ra kể, chẳng là sau 20 năm nuôi cơm cho Thầy tu học, bà lão họ Ma bán đậu phụ đã thử đường tu của Thầy bằng cách gửi cô cháu gái xinh đẹp đem cơm lên cho Thầy và dò hỏi lòng dạ của Thầy trước nữ sắc. Cô gái cho biết Thầy đã nhắm mắt lại không dám nhìn cô gái rồi đọc bài thơ ví mình như cành cây khô trơ trơ trước gió xuân. Bà lão tức giận đuổi Thầy đi rồi đốt thảo am vì thấy mình uổng công nuôi mà tâm Thầy vẫn chưa chuyển.

Một chị khác phụ họa theo kể chuyện hai sư huynh đệ sang sông gặp cô gái ngồi khóc vì sợ lội qua sông sẽ ướt hết áo. Sư huynh thương tình cõng cô gái qua sông, trên đường về sư đệ trách sư huynh mình đã phạm sắc giới. Vị sư huynh bảo, qua sông ta đã buông cô gái xuống rồi, chỉ có đệ mới còn vướng mắc mà thôi. May quá, cuộc hội thảo đến đây phải tạm ngừng vì tiếng chuông thỉnh chúng gọi chúng con lên chánh điện Niệm Phật và đi kinh hành.

Thưa ngài, vì lỡ hứa với chị bỏ buổi ăn tối ngồi khóc thương cho cuộc tình của ngài, sẽ viết thơ hỏi ngài một số điểm, con phải bỏ ra 2 buổi tối đọc cho hết 600 trang chuyện tình của ngài cùng 15 bức thơ tình của Hoàng Cô gửi cho ngài, để phản biện lại cái nhìn của một cư sĩ Phật Giáo đã bị Lửa Tình thiêu đốt gần 40 năm nay. May nhờ ánh sáng nhiệm màu của Phật Pháp soi sáng con mới tỉnh táo ngồi đây viết thơ cho ngài.
Hòa Thượng Liên Hoa ơi, nếu đời của vị Hòa Thượng viết chuyện tình của ngài không có chữ Nếu, đời con ngược lại chỉ toàn chữ nếu mà thôi. Xin cho phép con được dùng 2 chữ nếu với ngài:

1. Nếu con được nhập vai ngài, con sẽ không trốn tránh Hoàng Cô. Cứ nhìn thẳng vào mắt Bà rồi nghiêm khắc cho một bài Pháp thật hay, dĩ nhiên lúc nào cũng có sự hiện diện của các thị giả Mật Đĩnh hay Mật Hạnh để sự việc được trong suốt. Ngài không hiểu được câu “Khi yêu mới biết tình yêu là gì?” trong một bài hát nào đó, nên đã trốn chạy tình yêu của Hoàng Cô. Bà ta đã tốn bao nhiêu công sức và gian nguy đi từ Huế ra đến Gia Định tìm ngài, thế mà ngài chỉ gắng gượng theo lời khuyên của Hòa Thượng Viên Quang chùa Giác Lâm ở Phú Thọ tiếp kiến và hầu chuyện với Hoàng Cô được 2 buổi. Đến ngày thứ ba chắc không chịu nổi sự tấn công như vũ bão bằng những lá thư tình ghép chữ đối câu: “Liên Hoa Hòa Thượng” đối với “Hoàng Cô Cô Nương” rất chỉnh, nên ngài đã trốn đi nhập thất ở xa. Ngài không biết rằng tình yêu được ví như hình với bóng một trò đuổi bắt mà thôi, cái bóng Hoàng Cô sẽ không đuổi theo ngài nữa nếu ngài đừng tạo dáng tượng hình. Tình yêu đấy sẽ tiêu tan khi đối tượng là một cái không to tướng. Con nghĩ Phật pháp rất nhiệm màu, cái gì cũng giải được chỉ sợ ta không quyết tâm đấy thôi.

2. Nếu con được nhập vai ngài, khi Hoàng Cô quỳ lạy khóc lóc trước tịnh thất của ngài đòi xin gặp mặt không được, sau hạ xuống chỉ đòi nhìn thấy bàn tay ngài. Con sẽ khoan thai mở cửa thất đi ra an ủi vỗ về một chúng sanh đang đau khổ vì mình. Nếu cần sẽ cho mượn bờ vai để Hoàng Cô dựa vào khóc mùi mẫn trước sự chứng kiến của các cung nữ và thị giả của ngài. Theo tinh thần Đại thừa ta chỉ xét cái Tâm chứ không để ý tiểu tiết cảnh một vị Hòa Thượng trên 60 cho một Hoàng Cô 65 tuổi mượn bờ vai khóc cho vơi tình sầu. Có thể đáp án của con đưa ra quá thời đại, không thích hợp với 200 năm về trước trong chốn thiền môn của cung đình.

Qua bài kệ Niết Bàn của ngài viết bằng mực đen trên vách chánh điện: “Thiệt đức rèn kinh vẹn kiếp trần. Thành không vẫn đục, vẫn trong ngần. Liễu tri mộng huyễn, chơn như huyễn. Đạt đạo minh vui, đạo mấy lần.” Phía dưới có đề: Sa Môn Thiệt Thành – Liễu Đạt. Con tin là ngài đã liễu đạo, việc ra đi của ngài là do ngài đã mãn nguyện ở kiếp này rồi; không vì một vấn đề gì của sự sanh tử có thể chi phối ngài được cả.

Ai muốn cho ngài là cố chấp hay xử sự không phải kẻ trí, mà ngài là Tăng Cang trụ trì chùa Linh Mụ gần như Quốc sư của triều đình. Làm sao có thể kết liễu cuộc đời một cách nhanh chóng như thế ?… Hỏi là hỏi thế thôi … Ngài ơi!

Phần Hoàng Cô, con đành á khẩu không dám nói nửa lời. Nếu xét về nghiệp duyên tình ái Bà là cao thủ đáng mặt thượng thừa, nhưng là Phật tử thì than ôi chính ngài cũng phải bó tay với người đệ tử quá đặc biệt này. Nói cho cùng cũng nên thương cảm cho bà Hoàng Cô suốt đời bị nhốt kín trong lầu son gác tía, tình cảm bị đè nén đến tột cùng. Nhưng có điều con vẫn thắc mắc là trong 40 năm quy y tam bảo, nghe bao nhiêu Pháp, Hoàng Cô không ngấm được một tí gì Pháp nhũ hay sao? Nếu Bà lọt vào đạo tràng tu học của chúng con, bảo đảm với ngài chúng con sẽ cùng nhau giáo hóa Bà ấy bỏ cái tính Ma Đăng Già đó ngay.

Hiện nay chuyện tình của ngài đang được lưu hành trên internet, họ dàn dựng thành những bộ phim ngắn dưới dạng pps dùng photoshop để ghép hình ngài dưới ngọn lửa thiêu. Dĩ nhiên họ cũng không quên ghép hình Hoàng Cô lúc còn trẻ với nét đẹp tuyệt vời. Nhưng tất cả chỉ là biểu tượng vẽ vời, làm gì có ảnh thật mà chưng.

Thơ bất tận ngôn, con xin ngừng bút và kính mong ngài thứ lỗi cho những lời sai trái của một người trần mắt thịt. Không biết bây giờ hóa thân của ngài ở đâu? Ngài có trở về lại cõi Ta Bà này để độ chúng sanh không? Nếu có xin ngài hãy trả lời thư con.

A Di Đà Phật
Ký tên: Thiện Giới – Hoa Lan

 

29 Phản hồi cho “Đọc “Chuyện tình của Liên Hoa Hòa Thượng””

  1. butcun says:

    Phải công nhận bác Trần bình Nam rất “ghiền”mấy ông thầy:Trí Quang,Như Điển..Hết chuyện thầy làm chính chị,chính em đến chuyện thầy phóng tác chuyện tình

    Thầy ( Liên Hoa) với ta tuy hai là một
    Ta (Như Điện) với thầy tuy một mà hai.
    Lưới tình tạo những thiện tai
    Thiện tai,mô Phật sư tài Như Điên

  2. Huon says:

    Xin quý Thầy hãy hoàn tục hay làm Tân Tăng kiểu Nhật Bổn đi, cưới vợ, có con, có ai nói gì đâu?
    Tu hành là tự nguyện có ai ép quý ngài? xưa thì có vị tự thiêu vì tình, nay thì có vị cảm xúc mà viết 15 bức thư tình, quý Thầy làm gương xấu cho các vị tăng trẻ, rồi đây sẽ có một fashion các vị tăng làm thơ vừa tình tình vừa thiền thiền thật là bịnh. Mà hễ ai nói thẳng thì bị chửi là đồ dốt không hiểu đạo, không tức sắc, sắc tức không, tình là thiền, thiền là tình…

  3. NGÀN KHƠI says:

    CHUYÊN TÌNH VÔ CĂN

    Chuyện tình thật đẹp như mơ
    Công nương Hòa thượng trời thơ rõ ràng
    Dục tình vốn lửa nhân gian
    Giống ai đem đốt giữa ngàn lau khô
    Căn tu nào dễ mơ hồ
    Bởi vòng ngủ uẩn lẽ nào buông trôi
    Tiếng lòng ngàn dặm xa khơi
    Trách ai ai trách lẽ đời nhiêu khê
    Đường tu đâu để vụng về
    Đường tình đâu để ai chê cuộc tình
    Hồng trần rực sắc tim nồng
    Đường trần lửa dục vô vàn với duyên
    Tình yêu đây phận thuyền quyên
    Lẽ đời lẽ đạo vốn miền nhân gian
    Giọt tình khó thể giải oan
    Tâm tu khó thể hồng nhan kéo vào
    Tình cao như núi xiết sao
    Cuộc đời bể khổ lẽ nào phôi pha
    Thôi đành trong cõi người ta
    Lửa thiền cầu được bao la tháng ngày
    Tiếc thay băng tuyết thẳng ngay
    Vô tình tiệt diệt uổng thay cuộc tình
    Hỏi ai đâu cỏi mê lầm
    Lửa tình hay lửa cửa Thiền vô căn ?

    NON NGÀN
    (30/4/12)

  4. Sigma says:

    Tu Là Cõi Phúc, Tình Là Giây Oan
    Thương nhớ Hoàng lan
    Trần Thuỳ Mai

    Tôi sinh ra dưới một mái chùa. Nghe kể rằng sư phụ tôi khi ấy còn trẻ, một hôm đi ngang bỗng động tâm hỏi : Mô Phật, sao sau chùa lại phơi tã lót ?
    Nghe chuyện đời cha tôi, thầy bảo :
    - Hãy nhớ ngày này. Nếu có cơ duyên, mười năm sau ta sẽ trở lại.
    Trở về thầy bỏ tăng viện, lên một ngọn núi hẻo lánh trong rú xa, dựng mấy nếp nhà cổ. Từ ấy, thầy ẩn tu, hiếm khi xuống núi.
    Lớn lên, tôi giống cha tôi như đúc và rất được mẹ yêu chiều. Cha tôi mắt sáng, mũi cao, tiếng nói trầm ấm, tính tình hiền hoà trung thực. Khi còn là một chú tiểu đầu để chỏm, người đã nổi tiếng thông minh, mười lăm tuổi chép rành kinh chữ Hán. Rồi vì học giỏi, được cử làm giáo sư ở trường Trung học Bồ Đề, một trường phổ thông tư thục của Giáo hội. Lúc người sắp được phong Đại Đức thì gặp cô bé nữ sinh tinh nghịch, có đôi mắt hút hồn, đôi môi đầy đam mê và cái tính thích gì thì làm cho bằng được. Ban đầu, cô bé chỉ định quấy phá chơi để thử bản lĩnh của thầy. Nhưng rồi tình yêu là lửa, chính người muốn đốt lại cháy.
    Cả chùa ngẩn ngơ khi người thanh niên đạo hạnh vòng tay trước sư cụ trụ trì : “Yến bệnh nặng đã bốn tháng rồi, sợ rằng cô ấy chết. Thầy dạy con tu hành để cứu chúng sinh. Nay con có thể cứu một sinh linh, sao lại khước từ ?”
    Cha tôi rời chùa, cô Yến khỏi bệnh rồi hai người thành vợ thành chồng.
    Ông bà tôi để lại một ngôi nhà, cha tôi cho dỡ đi, xây vào chỗ đó một ngôi chùa tư. Đã không bỏ đời theo đạo được, thì ông đem đạo về giữa đời. Sau khi đã có con, ông vẫn ăn chay, mặc áo nâu và tụng kinh sớm chiều.
    Có lần mẹ tôi đi chợ mua một xâu ếch, những con ếch theo phản xạ cứ chắp hai chân trước vái lia lịa. Một bà đi ngang bảo mẹ tôi : “Mấy con ếch lạy khéo không thưa thầy MH”.
    Rồi bà cười ha hả :
    “Đi tu mà chẳng trót đời,
    làm thân con ếch cho người lột da”.
    Mẹ tôi mau nước mắt, cứ vừa đi vừa khóc thút thít cho đến lúc tới nhà. Tối đó bà kèo nhèo mãi, năn nỉ mãi cha tôi tội gì không để tóc, ngả mặn, làm người trần cho sướng cái thân. Tu kiểu này, người ta nói không chịu nổi. Cha tôi chỉ cười, dường như chẳng để tâm.
    Cả đời người không tranh giành với ai mà như có phép thần thông, chạm vào đâu thì phất lên đến đó. Cơ sở làm hương trầm của người càng phát triển, mẹ tôi càng béo đẹp ra thì lời đàm tiếu của thiên hạ càng rần rần. Cuối cùng, chẳng hiểu vì sao, mẹ bỗng đột ngột bỏ đi mất tăm …
    Cô ruột tôi giận lắm, bảo : “Mẹ mi là con yêu tinh, khi trước đã phá đời tu của cha mi, chừ lại phá luôn đời tục của ổng”.
    Ai cũng khuyên đăng báo tìm, nhưng cha tôi chỉ nói Đừng ! Ông không trách móc gì, nhưng có lẽ ông buồn, tiếng tụng kinh đêm khuya nghe chừng khắc khoải. Chao ôi, với những con thuyền khắc khoải ấy, kiếp nào cha mới đến Tây Phương ?
    Cơ sở làm hương từ đó phó mặc cho cô tôi. Cô tôi cho chặt cây, nhổ cỏ, sửa sang lại khu vườn sáng sủa. Thiệt là hư sự, ai đời lập chùa mà lại trồng hoàng lan trong sân. Mùi hoàng lan là mùi ma, hèn chi ma chướng nó phá cho như thế ni.
    Tôi dân dấn nước mắt nhìn người ta chặt cây hoàng lan, cành lá vứt bừa bãi trên mặt đất. Ngày xưa, gội đầu xong mẹ tôi thường hái hoa giấu vào búi tóc cho thơm. Bây giờ người đã đi, hoa cũng không còn …
    Năm tôi mười tuổi, có vị Đại Đức trên núi về thuyết pháp ở chùa Diệu Đế. Tôi đi theo cô tôi đến nghe. Khi trở về tôi xin xuất gia.
    Cha tôi bảo : “Kinh sách ở đây, chuông mõ ở đây, con còn đi đâu ?”.
    Tôi chỉ lắc đầu …
    Nơi thầy tôi ẩn tu là Bích Vân am – am Mây Biếc. Mười năm khai sơn, thầy đã cùng đồ đệ trồng hơn hai chục mẫu bạch đàn và ba ngàn giò phong lan đủ loại. Các sư huynh dạy tôi chăm hoa, tưới cây mỗi sáng. Buổi chiều đi học ở trường Nam Giao.
    Năm mười lăm tuổi tôi bắt đầu chướng tính.
    Sư huynh hạch tôi : “Bạch thầy, Đăng Ninh trốn học, la cà ở quán cà phê Tím. Người quanh đó ai cũng chê cười, họ nói cô ruột Ninh làm hương giàu có, cúng dường nhiều tiền nên thầy thả cho Ninh tha hồ tự tung tự tác”.
    Tôi ức, lầm lì không nói, thầy cũng không quở. Tính thầy rất nghiêm, không mấy khi la rầy mà đồ đệ ai nấy tuân lời răm rắp. Chỉ riêng với tôi, không hiểu sao thầy đặc biệt khoan thứ.
    Sợ thầy phạt, đợi lúc sắp tụng kinh, tôi biện bạch : “Bạch thầy, ngày xưa cha con thường bảo : tu trên núi, tu giữa chợ mới là khó. Không ở giữa đời, làm sao hiểu đời đục mà tránh ?”
    Thầy hỏi : “Ai bảo con là đời đục ? Đời không đục, không trong”.
    Tôi hụt hẫng, không hiểu ý thầy định nói gì.
    Tu trên non bây giờ thật ra cũng không phải dễ. Thầy tôi tránh đời vào núi sâu nhưng rồi vườn lan Mây Biếc nổi tiếng quá nên người trần lại kéo lên thưởng ngoạn. Thứ bảy, chủ nhật, học trò đạp xe lác đác trắng trên con đường mòn tới thảo am. Mấy cô nữ sinh nhỏ tuổi mê hoa ngẩn ngơ ngắm bông súng tím trong hồ, chạy vào tới tận hiên, chỗ thầy ngồi viết sách. Thầy không quở, cũng không ngẩng lên nhìn. Một cô bé chạy đến gần tôi, nhìn những làn sương li ti mà tôi đang xịt lên những chồi đang đơm nụ.
    Cô hỏi tôi tên hoa, tôi giảng : “Đây là giống Tiểu Hồ Điệp, nghĩa là bươm bướm nhỏ. Em thấy không, trông xa chấp chới như đàn bướm cải màu vàng”.
    Cô chìa tay với những ngón búp măng, hứng sương.
    Tôi cau mày : “Này, đừng nghịch”.
    Cô bé cứ đùa với những bụi nước, chẳng để ý lời tôi. “Anh cứ tưới đi, em cũng là Lan”.
    Tôi cáu, xịt cho nước rơi ướt cả tóc, cả áo cô bé. Mấy cô bạn cười rúc rích, khi về có cô còn nói vọng lại : “Con Lan hên quá, gặp chú tiểu vừa đẹp trai vừa quậy”.
    Tôi tủm tỉm cười.
    Sư huynh tôi cáu kỉnh : “Mấy con Thị Màu đời nay quá quắt lắm. Bay không biết quyến rũ sư tăng là tội đoạ địa ngục hử ?”.
    Tôi cự : “Người ta chỉ đùa thế, có gì mà gọi là quyến rũ”.
    Từ đó, vài hôm một lần, Lan lại đến giúp tôi tưới hoa. Tôi dạy cho cô biết về phong lan, đây là cả một thế giới còn đa dạng hơn thế giới người. Phượng Vĩ đỏ rực, Tuyết Điểm thì trắng, Vũ Nữ thì như đang múa trước gió.
    Lan phụng phịu : “Hoa nào cũng có tên riêng, chỉ em không có”.
    Tôi nhìn khuôn mặt cô, đôi mắt trong trẻo với cái miệng hồn nhiên như trẻ thơ Vậy tôi đặt cho cô một cái tên. Tên cô là Tinh Khôi.
    Thầy biết tình thân giữa tôi và Lan.
    Sư huynh không vui lòng, thầy chỉ bảo : “Không can gì”.
    - “Bạch thầy, người này có bạn thì người kia có bạn, rồi con gái kéo đến đầy thảo am, còn cái thể thống gì nữa ?”
    Thầy gật đầu.
    Chiều lại, tôi mài mực hầu thầy, thầy đem cho tôi xem bộ tranh mười bức vẽ mục đồng chăn trâu. “Đây là thập mục ngưu đồ, cũng là quá trình tu học của một con người. Trâu không là trâu, mà chính là cái tâm ta đó”.
    Tôi động lòng, hỏi : “Bạch thầy, con xem bức vẽ cuối cùng, không còn trâu, chẳng còn người, chỉ còn trăng soi. Vậy cớ gì phải sống trong dây trói. Ngày xưa Tuệ Trung Thượng Sĩ là bậc ngộ đạo mà không kiêng rượu thịt, vì chay mặn chỉ là hình tướng bên ngoài, không can hệ đến sự giác ngộ bên trong”.
    Thầy cười : “Đúng, con ạ, với bậc đắc đạo là thế. Nhưng khi ta còn là một người phàm, thì cũng như con trâu kia, phải có sợi dây buộc, có người chăn dắt. Đến khi cái tâm vững rồi, sáng rồi, mới có thể như trâu đen thành trâu trắng, không ràng không buộc, chẳng những nhởn nhơ trên cỏ xanh mà còn bay lên chín tầng mây”.
    Tôi vái thầy mà thưa : “Con hiểu rồi, nhưng nhà chùa chẳng thể xua đuổi ai. Từ mai con xin thôi không giữ vườn lan nữa”.
    Mấy hôm sau, Lan thấy sư huynh ra tưới vườn, còn tôi thì chẻ củi.
    - “Anh không thích phong lan nữa sao ?”
    - “Không. Muôn hồng nghìn tía, chẳng qua cũng chỉ để nhìn trong chốc lát. Một đời tôi chỉ riêng nhớ hoàng lan”. Tôi giảng cho cô bé biết hoa hoàng lan cánh mảnh mai, vàng như màu chim hoàng yến. Thuở trước, cứ rằm, mồng một, các bà hàng hoa lại đến mua, họ gói hoa trong lá chuối, từng gói nhỏ xinh xinh toả thơm ngây ngất.
    Lan bảo :
    - “Thích ghê, em chưa thấy bao giờ”.
    - “Ừ, loài cây ấy có lẽ giờ đây đã tiệt giống rồi hay sao, nhiều lần theo sư huynh đi chợ mua bông chuối, tôi để ý tìm mà không thấy nữa. Tôi lớn lên, lòng bâng khuâng như thiếu vắng một thứ gì, cứ mơ hồ nhớ nhớ, thương thương … ”

    Cuối năm, anh em tôi kẻ kéo người đẩy, chở phong lan xuống phố đổi gạo. Ông chủ tịch hội hoa cảnh hài lòng lắm khi thấy những giò mũm mĩm với chồi xanh đầy nụ. Ba bao gạo lớn được bưng ra.
    - “Cha ơi, con có làm một ít bánh trái cây để cúng dường”.
    Tôi nghe tiếng, quay lại, sững người vì thấy Lan.
    Ông chủ tịch âu yếm bảo : “Cúng dường thì phải cung kính. Con phải tự lên chùa lạy Phật mà dâng”.
    Tôi hãi hồn, vội nói : “Thôi thôi, khỏi phiền nữ thí chủ. Nhận ngay ở đây”.
    Lan bật cười, lại cái cười tinh khôi.
    Rồi Lan nhìn tôi buồn thiu : “Sao lâu nay anh không ra vườn ? Em lên chùa, biết anh trong bếp mà mấy chú không cho vào. Riết rồi em buồn không muốn đến nữa”.

    Mấy buổi sau, tôi theo các bạn cùng lớp vào quán. Lan ngồi ở đó, sau chiếc bàn con bên cửa sổ. Các bạn tôi ai cũng nhìn về phía Lan, còn cô bé thì chẳng nhìn ai, cứ lặng lẽ một mình. Ngồi ở một bàn xa mà tôi như thấy cả bầu trời hoàng hôn tím, tím ngát ngoài kia đang in trong đôi mắt Lan. Mãi đến khi chúng tôi ra về, Lan mới ngoái nhìn, ánh mắt thơ ngây mà não nùng. Bỗng dưng đỏ mặt, rồi tôi thấy hoảng sợ vì mình đã đỏ mặt …
    Một người con gái chiều nào cũng ngồi ở quán Tím, chẳng bao lâu đã thành đề tài để bọn con trai bàn tán
    - “Con Lan sữa tươi trông xinh vậy chứ nó mắc bệnh sợ đàn ông. Đếch thằng nào đến gần được, nó tránh như tránh tà”.
    - “Không phải đâu, nó giữ giá để chờ lấy Việt kiều, thằng Hùng ở Cali về ngày nào cũng trực ở nhà nó”.
    - “Giữ giá cái gì, nó ưa thằng Quắn chạy bàn ở cà phê Tím. Tao thấy nó ngồi một bàn với thằng Quắn, khóc rưng rức”.
    Tôi im lặng, một lát sau mới bảo : “Khó tin”.
    – “Ở đời chuyện gì mà chẳng có thể xảy ra,” bạn tôi nói, vẻ ông cụ non : “Chiều qua chính mắt tao thấy nó chạy ra sau quầy đưa bức thư cho thằng Quắn”.
    Đạp xe về đã đến quá lăng Tự Đức, tự nhiên tôi bứt rứt không chịu được. Tôi quay xe, đạp về nHoà Lan. Mưa phùn lướt thướt trên con đường về Bao Vinh xa tắp.
    Mẹ Lan hỏi : “Nhà chùa có việc gì mà nhắc cháu lên ? Thấy Quắn về nhắn, tôi cho cháu đi ngay rồi”.
    Tôi tái mặt, không kịp chào, đạp xe đi như tên bắn. Tim tôi dội thình thịch vì âm vang những lời nói của sư huynh khi Lan mới lên thảo am lần đầu : “Cô gái này đẹp đẽ thanh tú nhưng đuôi mắt quá dài, môi mỏng, cổ cao, tai nhỏ. Đấy là tướng hồng nhan mệnh yểu … ”.
    Trời chập choạng tối, tới Nam Giao. Nhìn dáo dác hai bên đường, tình cờ thấy Quắn và Lan cùng ngồi trong quán ốc. Quắn gọi rượu, đang ép Lan uống, Lan lắc đầu, Quắn cố nài. Tôi đi vào, đấm mạnh vào mũi Quắn : “Đồ lừa đảo. Từ nay chừa cái thói dỗ gái đi”.
    Quay sang Lan, tôi nạt : “Đi về !”
    Không biết Lan có bị một thứ thuốc mê gì không, mặt ngây ngây như bị bỏ bùa. Tôi chở Lan đi. Quắn biết tôi có võ Thiếu lâm nên đành chịu phép, hậm hực chùi máu mũi nhìn theo, cái nhìn của một con thú mất mồi …
    Trên đường về, Lan tỉnh lại, gục mặt vào lưng tôi, khóc : “Em nhờ Quắn chuyển đến anh nhiều thư, anh có nhận được không ?”.
    Tôi cau mặt :
    - “Em khờ lắm, sao lại đi với thằng Quắn ?”.
    - “Quắn bảo em uống vài chén cho ấm rồi lên đàn Nam Giao chờ Ninh đến”.
    - “Em đừng quên, tên em là Tinh Khôi. Đừng dại dột để bọn lưu manh làm nhơ bẩn”.
    Nước mắt Lan chảy thấm qua chiếc áo lam của tôi, thấm vào đến da thịt. Dừng xe, tôi ngồi xuống vệ cỏ ven đường. Lan ngồi bên tôi.
    - “Đêm nào nằm mơ cũng thấy anh dắt em đi thăm vườn phong lan. Mình về trồng lan trong sân nhà em đi, có thích hơn không ?”
    Tôi không trả lời, ngắt những cọng cỏ, vò nát trong đôi tay run run. Trên kia, trăng sáng quá, tròn và rực rỡ như chiếc mâm vàng giữa trời. Bỗng nhiên lòng tôi miên man nhớ những câu chuyện cha tôi vẫn kể ngày xưa …
    - “Em có thích nghe chuyện cổ tích không ?”.
    - “Thích”.
    Tôi kể cho Lan nghe chuyện người tử tù đội chiếc mâm vàng đầy nước đi từ cổng hoàng cung vào trước ngai vua mà không sánh ra ngoài một giọt,
    Lan nghi ngờ : “Sao có người làm được như thế ?”.
    Tôi gật đầu : “Ngày ấy, nhà vua cũng đã hỏi như vầy. Vị thiền sư trả lời : Bệ hạ hứa nếu y làm được thì sẽ tha tội chết. Vì lẽ sống chết của y, nên dù việc khó vô cùng mà y vẫn chăm chăm làm bằng được. Nay nếu bệ hạ cầu giải thoát cũng như người này cầu sống thì việc tu hành dù khó mấy cũng có thể vượt qua”.
    Lan ngước nhìn tôi, lần đầu tiên tôi nhận ra trong hai cái giếng êm như nhung của mắt cô bé những tia sáng ương ngạnh lạ lùng.
    - “Em hiểu rồi. Anh xem tu hành là chuyện sinh tử của anh. Vậy nếu em lại xem anh là chuyện sinh tử của em thì sao ? Anh và em, ai đi trọn đường, ai bỏ cuộc ?”.
    Tôi bảo : “Em nói gì thế ? Chuyện sống chết mà nghe cứ như là trò chơi sấp ngửa của trẻ con”.
    Lan cười … Bàn tay nhỏ nắm lấy tay tôi, ngón thon vuôn vuốt như cánh hoa ngậm sữa. Vẻ đẹp này có phải phù du ? Vẻ đẹp này là sắc hay không ? Chỉ thấy ngợp vì trăng. Trăng sáng quá.
    - “Thôi, về đi em”.
    Tôi đạp xe, trước mặt tôi chập chờn lấp loá những con đường. Những mê lộ giữa đạo và đời, giữa ma và Phật …
    Việc lộn xộn ở quán ốc chẳng mấy ngày đã đồn đến chùa. Cô tôi biết, tốc lên ngay. Tôi bảo :
    - “Cô đừng lo. Chẳng có chuyện gì đâu”.
    - “Không có lửa làm sao có khói. Ăn ốc, đánh lộn, dành gái. Thế còn gì là tu hành ? Tau mà gặp con ma nữ đó, tau tước từ dưới tước lên”.
    Tôi ngẩn người một lúc rồi hiểu ra, không nín được cười.
    Cô bực tức : “Cháu tưởng chuyện gì cũng cười là xong sao ?”
    Quả là chuyện không thể cười mà xong. Mấy hôm sau, gia đình Lan mời tôi về.
    Con ma nữ đã uống hai mươi viên Sedusen, may sao nhà biết được, chở đi cấp cứu. Mẹ Lan chắp tay lạy tôi như lạy Bồ Tát : “Bác biết tính con Lan lắm, từ nhỏ nó đã nói là làm, đã làm là làm tới cùng. Sợ e cứu thoát lần này, nó lại tự sát lần nữa. Con cứu nó cho bác đi con”.
    Tôi cuống quýt : “Bác bảo con làm sao được ?”
    - “Con cứ giả vờ ừ đi, bây giờ nó mới lớn, tính còn ngông cuồng, vài ba năm nữa chững chạc rồi tự nhiên nó hiểu ra”.
    Ông chủ tịch hội hoa cảnh mắt đỏ au, nhìn tôi chờ đợi một lúc rồi bảo vợ : “Nói như bà cũng khó. Chú Ninh đây tướng mạo khôi ngô, trước sau rồi sẽ có phước được che lọng vàng. Lẽ nào vì con mình mà để người ta mang tai mang tiếng”.
    Tôi thở dài : “Cháu đi tu không phải là mong lọng vàng che đầu. Chỉ vì nguyện giữ thân trong sạch để tụng cho mẹ cháu một nghìn lần kinh Thuỷ Sám”.
    Nhớ tới mẹ, tôi bất giác đau đớn trong lòng, đứng dậy đi …
    Tôi về chùa, từ ấy không đi đâu. Thầy bảo : “Sao con bỏ học ?”.
    Tôi nói : “Suối ở xa, con muốn ra triền núi đào giếng”.
    Tôi tự đày mình trong những nhát cuốc trên sỏi đá, đêm về tụng kinh, vẫn đôi khi chợt nghe tiếng mình khắc khoải. Có lúc nửa đêm chợt tỉnh, thấy thầy ngồi bên giường, lâm râm niệm chú.
    Tôi hốt hoảng vùng dậy : “Bạch thầy”.
    Thầy tôi bảo : “Con giật mình, nói mê luôn, hất tung cả chăn”.
    Tôi nói : “Con tỉnh rồi. Rước thầy đi nghỉ, con xin ra bệ Phật niệm Cầu An”.
    Thầy lặng lẽ một lúc rồi bảo tôi : “Tâm không an, có cầu cũng vô ích.
    Tôi gật đầu thú nhận. Bao nhiêu đêm, cứ chợp mắt là thấy Lan hiện ra, mảnh dẻ, thanh thoát, đầu đội chiếc mâm vàng sóng sánh nước đi thẳng đến bờ vực. Tôi nghe tiếng thét của nàng vang động cả giấc mơ, nàng nhào xuống rơi thẳng vào không gian mênh mông như chiếc lá lìa cành trước gió.
    - “Thầy ơi, nếu vào Niết bàn mà phải đạp lên một chiếc lá, Phật có làm không ? Xin thầy cho con hay, trời đất nặng hơn hay chiếc lá nặng hơn ?”.
    Thầy nhìn vào mắt tôi : “Chỉ có con tự trả lời được thôi. Ngày mai con hãy về, cứ nhìn thẳng vào nghiệp duyên mà tự quyết định lòng mình”.
    Tôi lắc đầu : “Thầy quên sao ? Con đã thề khi nào đào xong giếng mới xuống núi”.
    Ra xuân, đường lên núi khô ráo. Hai tay tôi ướt bùn đỏ, những giọt nước đầu tiên đã ứa ra từ lòng đất sâu. Tôi chạy về chùa, định vào trình thầy nhưng người đang làm lễ. Có người thí chủ dâng hương trong bệ Phật, mùi trầm mới thơm thơm trong không gian.
    Đang dội nước rửa tay, tôi nghe có người bước đến : “Chú Ninh !”.
    Tôi ngẩng lên. Mẹ của Lan. “Bác lên chùa cầu cho em đi bình an …”.
    Bà đưa cho tôi một cái túi nhỏ, rồi vừa quay đi vừa đưa khăn lau mắt.
    Những dòng chữ trong thư, mảnh mai và run run như những cánh lan :
    - “Bốn trăm ngày chờ anh ở quán Tím, cuối cùng em cũng hiểu ra là mình thua cuộc. Đã đi mà chẳng tới, lẽ ra thì phải chết. Nhưng em chết thì anh làm sao yên lòng đi trọn con đường tu. Vì vậy, em đã quyết định lấy chồng xa xứ. Trong cái túi này là cây hoàng lan con, em nguyện tìm cho anh bằng được rồi mới ra đi. Em vẫn nhớ lời anh nói, một đời anh chỉ thích hoàng lan …
    Người ta cứ bảo em khôn, lấy ông Việt kiều đi Tây đi Mỹ cho sướng chứ theo chi chú tiểu trọc đầu. Nhưng đi Tây đi Mỹ không phải là chí nguyện của em. Lấy một người mình không thương, đến một nơi xa lạ với em còn khổ hơn là chết. Xin anh hãy tụng cho em một lần kinh cầu siêu thoát, một lần thôi … ”.
    Bất giác, tôi oà khóc. Nước mắt theo nhau lăn trên má tôi như ép cho hết những dòng tục luỵ cuối cùng.
    - “Cứ khóc đi con” Thầy vỗ về khi thấy tôi luống cuống che mặt “Thầy chưa nghe nói gỗ đá thành Phật bao giờ”.
    Tôi nức nở : “Bạch thầy, thầy có cho con trồng cây Hoàng Lan không ?”.
    Thầy bảo : “Cỏ cây vô tội, sao mình không thể bao dung ?”.
    Rồi một tay dắt tôi, một tay cầm túi cây đến bên góc vườn, thầy tự mình trồng xuống.
    Tôi tưới cây bằng nước giếng chùa. Hoàng lan lớn lên, năm này qua năm khác, nở hoa vàng mong manh. Mong manh như tất cả những gì đẹp trên thế gian.
    Tôi cầm lòng thôi thương, thôi nhớ.

    • Lý Na-Uy says:

      Tuyệt quá đi chứ lỵ.Làm ơn viết tiếp.

    • Lão Ngoan Đồng says:

      Giời ơi truyện khá hay, nhưng tôi lại bâng khuâng !

      Tại sao ư ?

      Nhớ lại ngày xưa thiên hạ đua nhau bắt chước làm thơ Thiền theo kiểu Phạm Thiên Thư ! Nhưng làm sao ngộ đạo và làm thơ hay như Thiên Thư được. Ít ra phải có tài, chưa kể phải ngộ đạo thật kỹ..

      Lại nhớ hồi còn bé đọc HỒN BƯỚM MƠ TIÊN của Khái Hưng mà mộng mơ, bởi thấy hay quá chừng chừng.

      Tuổi thơ đi qua nhanh như tên bắn, cuộc đời vật cho nhiều cú ê ẩm toàn thân, rồi cái già sồng sộc xông tới thật mau ! Giờ chỉ mong có sức khỏe để, trước hết ăn ngủ tiêu tiểu bình thường, thứ hai khỏi phải nhờ vả một ai trong cuộc sống thường nhật, ba là hưởng cái sướng cuộc đời (nào là internet, mạng xã hội, điện thoại di động, iphone ipad ….), rồi có chết cũng an lòng bởi mọi lạc thú trên đời đã biết được ít nhiều !

      Tu theo tôi chỉ là cái trò khổ dâm, gọi là tự giải thoát mình và chúng sinh bla bla bla, rồi ép mình gò bó trong một khuôn khổ nào đó, cũng do con người đẻ ra thôi.

      Trong khi luật tạo hóa, là tứ khoái (ăn ngủ đụ ỉa) theo bản năng, cộng thêm với đời sống tâm linh để làm thăng hoa cuộc sống qua những sáng tạo tài tình, chế ngự thiên nhiên ít nhiều (chữ viết, sáng tác văn chương nghệ thuật, TV tủ lạnh cellphone xe hơi máy bay)..

      Tóm lại, íu có đọc kinh sách mja gì hết.
      Tất cả chỉ là thứ GIẢ HÌNH (kiểu như đạo Phật khuyên ăn chay, dứt bỏ lòng dục … đạo Hồi ko ăn thịt heo, đạo Bà La Môn ko ăn thịt bò ….)
      Con người cũng chỉ sống gửi thác về, một thứ GIẢ TƯỚNG ! Bởi chết là về với cát bụi, dù đẹp dù xấu, dù cao dù thấp, dù học rộng hay dốt đặc cán mai ….

      Tóm tắt tất cả chỉ gom lại trong bốn chữ GIẢ HÌNH GIẢ TƯỚNG !

    • Lão Ngoan Đồng says:

      TU LÀ CÕI PHÚC

      TÌNH LÀ … DÂY THUNG !

      Dây thung aka dây cao su, rất co dãn (elastic). buộc vào cổ tay là ôm chặt lấy và tạo nên một vết hằn sâu trên da thịt, nếu như cổ tay lớn quá (ví như tình quá nặng sâu)

  5. dân đen says:

    Nhân ngày tang thương của đất nước Trần Bỉnh Nam không còn đề tài nào “bình luận ” sao mà lại đem chuyện “hư cấu” vào đầu .
    Hòa thượng Như Điển ăn cơm đàn na tín thí nhín bớt thì giờ tu hành để hư cấu “thơ tình ý đạo” là chuyện của Thầy.
    Đệ tử Bịnh Nam lại góp sức “cấu cho hư ” thêm và quảng cáo không công cho tiểu thuyết vọng tưởng . Tác ý không lành mạnh khi đất nước rơi dần vào tay Tàu cộng .
    Lẻ nào Trần trụi Bịnh Nam lại sắp theo gương Bác Trần Dâm Tiên chuyên trị hồi ký Hồ Chó Minh ???

  6. Khinh Binh says:

    Một “vấn nạn” của các ông già có chút tiếng tăm (tiếng tốt hay xấu thì chưa nói) là cứ sợ đời quên mình nên càng già càng viết nhảm! Các cụ VKK, Đặng Văn Âu, Trần Bình Nam…đều thuộc tạng ấy!
    Ngán!

    • Lão Ngoan Đồng says:

      hahahahahahhha

      GIÀ …SANH TẬT !

      Chẳng nọ thời kia í mà

      Kẻ thích tu tập linh tinh theo đủ trường phái
      Kẻ khoái chơi trống bỏi, cưa sừng làm nghé (như tui)
      Kẻ mê làm chính khách … salon (như ông Nam thuở nao)

      Tóm tắt, bá nhân bá tánh, bá .. sở thích, sở nguyện !
      Cứ tự nhiên, miễn đừng làm hai ai và ô uế cuộc đời !
      Chẳng bao lâu nữa rồi theo ông bà ông vải … ăn đất hết !

      Bận tâm làm chi cho mệt một đời mình chứ ta ơi !

      Kết luận, đời đục hay trong hoặc thế nào

      cũng mặc mjạ cuộc đời. Bởi đời vốn thế !

      Hòa Lan có câu: Het Leven is een Feestje !
      Dịch sát nghĩa: Đời là một cuộc hội nhỏ !
      Dịch thoát ý : Đời là một kiếp rong chơi !

      Lão Ngoan

      • Thích Nói Thẳng says:

        Bác LNĐ nói xạo. Mới hôm nào tui thấy “sừng bác vẫn… dải dài dài…”
        Cưa sừng hồi nào mà không bảo để “lão gia” tới thăm.

        Ha a a a..

  7. says:

    Tôi là người ngoại đạo , nhưng tôi nghiêng về thuyết giáo đạo Phật .. Từ thời thơ ấu …Nhưng hiện nay ở VN trong mắt tôi ,nhìn thấy đạo phật bị CQ lạm dụng …mà đến nỗi dân chúng bây giờ gọi một từ xưa nay hiếm là : ( Đạo Quốc Doanh ). Tôi vẫn tin vào đức Phật khuyên chúng sanh, làm điều lành tránh điều dữ ! giảm bớt tham ,sân ,si ….!? ,Nhưng tôi nhìn thấy hiện nay ở VN nhan nhãn thầy tu có hiện tượng ( lạ )…Không tổ chức thuyết pháp cho đạo hữu, cũng như chúng sanh nghe… theo tiết lý đạo phật ,răng dạy con người tu thân tích đức …Tiết thay ,các vị thầy tu này thích khoa trương khoe hình thức = những chiếc xe tay ga đời mới đắc tiền ,các vị có chức sắc lớn hơn xài xế hộp sang trong …Khi có dịp đến phòng của các vị sư này được trang bị không thiếu một thứ gì ? như một ông cán bộ cs cở bự , hoặc như một DN ,đại gia giàu sụ ,uống bia hạng sang …xài đồ đắc tiền .Khi đi tụng ma chay ,kinh kệ đều có phong bì và được mặc cả từ trước công việc …sắp làm !
    Chùa chiềng tại VN hiện nay mọc lên nhân nhãn ,hoành tráng hiện đại nhưng có nét giống chùa ở Đài Loan -TQ không giống chùa thuần Việt ,như chùa Bái Đính là một ví dụ ! Hiện nay ở VN có một đoạn Video clip là : Thầy trò Đường Tông đi thỉnh bao cao su ,…do HVBCTT của ĐTN CS HCM dàn dựng hôm 17/3/2012 ( theo BBC )…!? với sự phản ứng yếu ớt của cả giới phật giáo VN …Ngày nay tại VN ,đại gia, cán bộ chi tiền CQ QG ra xây chùa ,thu hút khách thập phương ,và thu tiền chia nhau từ những hòm công đức của chúng sanh như : Chùa Linh ứng tại Bà Nà – Sơn Trà ( Đà Nẵng ) do bt Nguyễn bá Thanh ĐN làm chủ xị ,cung với chùa Bà Đa phía Đông Bắc cầu Tuyên Sơn ĐN …v v …Tôi thấy PG VN hiện nay đang bị chính quyền lạm dụng và có hơi hướng tham gia chính trị ngầm …do đó dân chúng gọi là đạo Quốc Doanh .Đáng lẽ tôi không viết lên điều này nhưng tôi thấy …đạo pháp hiện nay không thực tu theo đạo …mà chỉ bị biến thái và chạy theo vật chất, kim tiền ,giã danh ,giã hiệu đễ một nhóm người trục lợi ! .Còn lại những chùa chính tu thì khó hoạt động tu hành vì bị CA -AN theo dõi nghiêm ngặt ! Người dân lương thiện bây giờ cũng phải nói có khuôn khổ ,,loại trừ ẩn danh nói trong mạng Internet .Nếu không có mạng này thì VN cũng như Cu Ba -Bắc Triều Tiên !?
    Vụ cưỡng chế thu hồi đất Văn Giang hơn 700 tờ báo lề đảng …không có tờ nào đăng cả, vì bị BTTTT tít còi ,các PV báo lề đảng chỉ viết , nói theo chỉ thị ,mệnh lệnh của đảng mà thôi !kieur “ăn cơm chúa múa tối ngày ” nhìn thấy việc bất công xã hội cũng dành câm như hến !? Vì VN theo thể chế độc đảng !

  8. maison says:

    “Hiểu Hòa Thượng Như Điển như vậy, tôi thấy Thầy thật can đảm. Thầy đi vào hỏa ngục để cứu chúng sinh. Thầy đụng chạm đến vấn đề không một cao tăng nào dám đụng chạm để mang đến những lý giải cho những điều từ trước đến nay còn bỏ trống.”

    “Thầy đi vào hỏa ngục để cứu chúng sinh”. Ai biết thầy tự độn thổ ? Ai biết được thầy tự ý vào hoả ngục?

    Lưỡi không xương, nhiều đường lắt léo.

    Ví với von. Thật lếu láo!

  9. Lâm Vũ says:

    Hòa thượng Thích Như Điển “hư cấu (ra) 15 lá thư tình” diễm lệ để “độ chúng sanh”? Hiểu được… chết liền!

    Lại thêm nữ đệ tử của hoà thượng Như Điển viết thư cho hòa thượng Liên Hoa – đã viên tịch (tự thiêu) gần 200 năm, xin ngài có linh thiêng thì hãy viết thư (email?)… giải đáp tâm tình cho nữ thì chủ này!

    Coi bộ DCV ngày càng giống báo “Sài Gòn Mới” thời Đệ Nhất Cộng Hòa, không biết “thí chủ” NKTA có được bà (Bút Trà) nhập không nhỉ?

  10. Liễu-Mộng says:

    Hi TG-HòaLan,
    Là Ta,LiênHoa Liễu-Đạt.Ngày xưa nào dám tự thiêu,chỉ là vì bị tụi công-an của triều đình xuống tay đánh chết,rồi châm lửa mà đốt cho ra vẽ tự thiêu! Con bà nó!Nhớ lại ngày đó ở chốn kinh thành,Ta trú trì Linh-Mụ Tự cũng chẳng được ổn yên.Biết bao gã trai Huế vì ghen tương mà lận dao,lận kiếm tìm ta..luận đạo.Bất quá ta là kẻ tu hành,ko muốn phạm giới “Sát” đành phải bỏ Huế mà dzong.Ôi ! Cuộc đời..cứ nghĩ kiếp xưa đã trốn mà vẫn còn ko thoát nợ …Kiếp này chắc sẽ được yên thân…Nào ngờ đâu…Ôi ! Cái đám thầy tu với phật tử tu thì ko lo tu mà “tám” thì hơn cả chợ,còn bày đặt kinh kinh đìển điển,thấp thủ dzới lại cao nhơn,lại còn kêu tên ta ra mà thư dzới truyện.Vô minh ! Thật đúng là sở tri chướng mà.

Phản hồi