WordPress database error: [Expression #1 of ORDER BY clause is not in GROUP BY clause and contains nonaggregated column 'oldsite_dcvwp.wp_posts.post_date' which is not functionally dependent on columns in GROUP BY clause; this is incompatible with sql_mode=only_full_group_by]
SELECT YEAR(post_date) AS `year`, MONTH(post_date) AS `month`, count(ID) as posts FROM wp_posts WHERE post_type = 'post' AND post_status = 'publish' GROUP BY YEAR(post_date), MONTH(post_date) ORDER BY post_date DESC

 
|

Nói chuyện vui với chưởng môn người làng Hà Thượng

Với những người hoạt động lâu năm trong giới truyền thông, báo chi… miền Nam thì hầu như ai cũng ít nhiều nghe danh, biết đến cụ Hà Thượng Nhân. Tiên sinh là người nổi tiếng về tài làm thi phú nhanh – có thể nói là xuất khẩu thành thơ – cũng như về đức độ, về tính tình ôn nhu, phóng khoáng đối với mọi người. Ông còn là một vị giám khảo thường trực cho giải Văn chương Toàn quốc – do yêu cầu của Phủ Quốc Vụ Khanh VNCH.

Ở tuổi hoa niên, lúc mới bắt đầu làm thơ Hà quân lấy bút hiệu là Hoàng Trinh. Cụ là bạn thơ cùng thời với những thi sĩ tiền chiến hữu danh như: Hoàng Cầm, Huy Cận, Hữu Loan, Phùng Quán, Quang Dũng, Thâm Tâm, Trần Dần, Xuân Diệu… Trong số những người này, tiên sinh chơi thân thiết nhất với Hữu Loan, tác giả bài thơ được người người ưa chuộng, lưu truyền rộng rãi: Màu Tím Hoa Sim. Hai người vốn là bạn cùng quê, cùng lứa tuổi nên sau này vẫn xưng mày-tao-mi-tớ mỗi khi gặp nhau chuyện trò. Nhị vị còn được dân Thanh Hóa gọi là Tú Trinh và Tú Loan vì thời đó rất hiếm người đậu được bằng tú tài toàn phần, tức bằng Bac. complet. Nhà thơ Hữu Loan nhận giải Văn chương toàn sự nghiệp năm 2007 của nguyệt san Khởi Hành vừa rồi, tôi nghĩ một phần lớn là nhờ sự liên lạc và giới thiệu của Hà chưởng môn.

Năm 1997, sực nhớ nếu miền Nam không mất vào cuối tháng 4 năm 75 thì chắc hẳn tôi đã được về hưu, hưởng an nhàn từ lâu, kể từ khi vừa đáo hạn tuổi 55. Từ ‎ý niệm này, tôi đã quyết định xin từ nhiệm ngay với một công ty tư vấn tài chánh. Vì công vụ và chờ người điền khuyết mãi đến đầu năm 2000 tôi mới được “thoát thân”.

Tánh vốn ưa ngao du, từ đó tôi bắt đầu cuộc sống lang bạt mỗi xứ vài ba tháng, hoặc cả năm. Khi hết hứng thú thì trở về miền Trung du Hoa Kỳ để tiếp tục hành trình rong chơi, chạy đến các tiểu bang khác ngoạn cảnh hoặc thăm viếng anh em. Việc gặp gỡ, liên lạc lại với một số thân hữu cũ và nhất là nghe những lời có vẻ “thuận tai” của những bạn bè trong giới văn nghệ trước 75, nên cuối năm 2004 tôi đã tham gia vào nhóm chủ trương biên tập của một tờ tạp chí tại San José, sau 33 năm gác bút.

Cuối tháng 4/2005 tôi lại nổi máu giang hồ vặt, “thoát ly” gia đình chạy qua miền Bắc Cali với ‎ý định trực tiếp giúp anh em cải tiến, mở rộng tờ tạp chí để thân hữu, bạn bè cũ. Nhất là những bằng hữu còn kẹt lại trong nước có chỗ trở lại sinh hoạt văn học sau một thời gian dài bị chế độ Cộng sản gạt ra ngoài lề. Tôi biết chính họ cũng không muốn uốn cong ngòi bút để cộng tác với một cơ chế kềm kẹp, gian trá…

Tại nơi lưu cư mới này tôi đã gặp lại Hà chưởng môn và anh bạn Hải Bằng. Từ đó, tôi và tiên sinh đã hầu như hằng ngày gặp nhau để thù tạc, hàn huyên chuyện xưa, người và việc cũ. Lúc này dường như tiên sinh vui vẻ hơn, làm thơ nhiều hơn và thường giao cho tôi để nhờ đánh máy, phổ biến nếu cần hay khi có người xin. Đôi khi vừa làm được bài thơ đắc ‎ý nào tiên sinh đều gọi điện thoại đọc cho tôi nghe, ngay cả lúc đêm đã vào khuya hay khi trời chưa kịp sáng. Gặp nhau xong thì mỗi lần tôi ngỏ ý ra về là tiên sinh tỏ ý quyến luyến, nắm chặc tay tôi giữ lại. Ngay cả sau những lúc tôi vừa đưa tiên sinh đi ăn uống hay thăm thân hữu về.

 

***

Hà quân tên thật là Hoàng Sĩ Trinh, sinh năm 1919 (giấy khai sanh ghi ngày 15-01-1922). Cụ quê làng Hà Thượng, tỉnh Thanh Hóa. Năm 1945, sau khi rời bỏ kháng chiến, dinh tề, tiên sinh được thầy Phạm Xuân Độ nhận làm nghĩa tử, nên đã được đổi tên thành Phạm Xuân Ninh. Sau này, ông lấy bút hiệu Hà Thượng Nhân là để kỷ niệm về nơi chôn nhao cắt rún của mình. Thật ra thì bút hiệu này do giáo sư Phạm Việt Tuyền – người chủ trương nhật báo Tự Do đặt cho khi ông mời tiên sinh phụ trách mục Đàn Ngang Cung để thay thế Thần Đăng tức Đinh Hùng. Bởi vị thi sĩ nho nhã, hiền hòa này muốn từ nhiệm để lo chăm sóc chương trình Tao Đàn của Đài Phát Thanh Sàigòn. Sau cuộc đảo chánh năm 1963 nhiều báo bị đóng cửa, trong đó có tờ Tự Do. Mục Đàn Ngang Cung sau 1968 xuất hiện lại trên nhật báo Tiền Tuyến của Hà quân.

Đến năm 1958, theo lời yêu cầu của ông Hồ Anh tiên sinh phụ trách thêm chuyên mục Những Điều Trông Thấy cho nhật báo Ngôn Luận với một bút hiệu khác là Nam Phương Sóc. Bằng giọng thơ trào phúng, tiên sinh đã đả phá, phê phán những thói hư, tật xấu của thói đời, những hành vi, hiện tượng thiếu trong sạch của giới hữu trách, những người có chức vị trong chính quyền, chính trường…

Trước khi vào Nam, tiên sinh dạy học tại trường Dũng Lạc ở Hà Nội. Chắc hẳn vì vậy mà đầu tháng 8 năm 2009 sau khi thoát cơn bệnh thập tử nhất sinh Hà quân đã nhận bí tich thánh tẩy với tên thánh là Phéro Dũng Lạc.

Tiên sinh là người cổ kim uyên bác, nhất là thi ca Đông và Tây phương và quen biết hầu hết với những nhân vật lãnh đạo, chính trị quan trọng của cả 2 nền đệ nhất, đệ nhị Cộng Hòa và các văn nghệ sĩ hữu danh. Tính cụ vốn cởi mở, ôn nhu, khiêm cung, thể hiện rõ rệt phong thái của một bậc nho sĩ. Đặc biệt là lòng bao dung, độ lượng với thuộc cấp hay những người trẻ tuổi hơn. Điều này phản ảnh thêm nơi tiên sinh bản chất của một văn nghệ sĩ, của một bậc chân nhân từ ái.

Năm 1955, theo sự đề cử của ông Bộ trưởng Quốc phòng Lê Ngọc Chấn, tiên sinh được cụ Ngô Đình Diệm bổ nhậm về phục vụ tại Phòng 5 với cấp bậc Đại Úy trừ bị đồng hóa [1]. Đơn vị này là tiền thân của ngành Chiến Tranh Tâm L‎ý [Psychopolitical warfare] hay Tâm L‎ý ‎ Chiến – thuộc Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH. Ngành này, kể từ những năm đầu thập niên 60 đã càng ngày càng được mở rộng khắp các quân binh chủng, binh đoàn và cải danh thành Chiến Tranh Chính Trị [Political warfare] mà Trung Tướng Trần văn Trung làm Tổng Cục Trưởng. Riêng Nha Chiến Tranh Tâm L‎ý thì vị giám đốc đầu tiên – nếu tôi không nhớ lầm là Tr/Tá Nguyễn Văn Châu. Về sau Nha CTTL được đổi thành Cục Tâm L‎ý Chiến, ‎một cơ quan chiến lược quan trọng về chánh sách lục đại chiến, bên cạnh Mưu Lược Chiến, Tư Tưởng Chiến, Tình Báo Chiến, Tổ Chức Chiến và Quần Chúng Chiến. Cơ quan này, sau cùng do Đại Tá Hoàng Ngọc Tìêu tức thi sĩ Cao Tiêu giữ nhiệm vụ Cục trưởng cho đến ngày miền Nam VN bị nhuộm đỏ.

Nhờ việc bành trướng ngành này nên quân lực ngoài tờ Chiến Sĩ Cộng Hòa lại có thêm 2 tờ báo mới là nguyệt san Tiền Phong và nhật báo Tiền Tuyến. Sau khi tờ Tiền Tuyến ra mắt không lâu thì năm 1968 Trung Tá Phạm Xuân Ninh tức Hà Thượng Nhân được đề cử thay thế Tr/Tá Lê Đình Thạch trong vai trò Chủ Nhiệm, vì Tr/Tá Thạch bận trông coi Khối Kế Hoạch/Kỷ Thuật, rồi đi học trường Tham Mưu Cao Cấp… Sau cùng đến năm 1972 thì giải ngủ.. Tôi quen và kết tình huynh đệ với anh Tường Linh từ đầu năm 1959 là qua sự giới thiệu của vị niên trưởng khả kính này, khi Tr/tá Thạch còn mang cấp bậc Đại Úy, làm trưởng phòng Báo Chí kiêm Chủ Nhiệm/CB tờ CSCH mời tôi vào thăm tòa soạn.

Dưới sự chỉ đạo, điều hành của Hà tiên sinh, tờ Tiền Tuyến đã sớm phát triển và trở nên một nhật báo lớn phổ biến rộng rãi và qui tụ khá đông văn thi sĩ, k‎ý giả, phóng viên hữu danh của miền Nam thời bấy giờ. Dĩ nhiên phải nói đến công sức của 2 người trợ tá đắc lực là Tr/Tá Phan Lạc Phúc tức ký giả Lô Răng và anh Viên Linh. Sau khi Hà tiên sinh giải ngủ thì tờ Tiền Tuyến cũng có nhiều thay đổi, với Đại Tá Nguyễn Huy Hùng làm Chủ Nhiệm. Anh Hoàng Văn Lân được nâng lên Phụ Tá CN. Chủ Bút mới là anh Huy Vân.

Trước khi về Tiền Tuyến tiên sinh đã từng làm Chánh sự vụ Sở Binh Vận và Giám Đốc Đài Phát Thanh Quốc Gia mãi cho tới sau ngày chế độ đệ nhất Cộng Hòa bị lật đổ oan ức. Có thể nói Hà quân là vị sĩ quan chưa từng học qua trường quân sự nào và cũng có thể cụ chưa từng khoác áo chinh nhân, vì suốt thời kỳ tiên sinh đảm nhận chức vụ Chủ Nhiệm Tiền Tuyến lúc nào gặp tôi cũng thấy cụ mặc thường phục. Nghe nói, danh xưng Hà chưởng môn là do ký giả Lô Răng đặt ra.

Tiên sinh đã từng được đề cử đi tham dự nhiều cuộc họp về văn hóa, báo chí quốc tế ở nước ngoài như Anh, Bỉ, Ba Tây, Hòa Lan, Pháp, Nam Hàn, Phi Luật Tân, Nhật Bản, Đài Loan.

Đến năm 1972 thì tiên sinh xin giải ngũ vì hội đủ điều kiện mang lon hơn 7 năm chưa được thăng cấp. Tướng Trung xin đề nghị thăng cấp để giữ lại, nhưng tiên sinh dứt khoát với quyết định giã từ quân ngủ để trở về cuộc sống an nhàn.

***

Tiên sinh sang Hoa kỳ theo diện H.O và định cư tại San Jose từ năm 1990. Tại đây Hà chưởng môn sống như một vị trích tiên dưới sự nể trọng, thương yêu của moi người, mọi giới, và sự ân cần, săn sóc thường nhật của phu nhân và các con cháu trong gia đình. Trong thời kỳ tôi còn tạm trú trên SJ, tôi thấy Phạm Xuân Dương – con trai thứ của cụ, bao giờ cũng sống kề cận bên cụ. Tôi rời Hoa kỳ từ 2009 đến cuối năm 2010 mới về lại quận Cam thì rất tiếc Dương đã đi về cõi vĩnh hằng từ 5-8-2010. Thế là tôi lại mất đi cơ hội thỉnh thoảng cụng vài ba ly với người bạn trẻ thân thiết này.

Như đã nói ở trên tiên sinh là người có tài nhả ngọc phun châu và làm thơ rất nhanh. Sáng ngày 01-09-2006 trong lúc tôi, tiên sinh đang uống trà đàm đạo cùng anh Vũ Đức Nghiêm thì được tin anh Hoàng Anh Tuấn vừa từ trần. Tiên sinh buồn bã cất tiếng than và lấy giấy bút viết ngay bài thơ Khóc Hoàng Anh Tuấn. Bài này, ngày hôm sau tôi đã trao cho Phạm Hùng – em trai của anh Phạm Huấn – để Ban Tổ Chức đọc truy điệu trong ngày tang lễ Hoàng thi sĩ tại nghĩa trang.

Cho đến nay tiên sinh đã làm cả chục ngàn bài thơ đủ thể loại, có một số viết bằng Pháp ngữ, nhưng phần lớn là thất ngôn. Qua loại Đường thi này tiên sinh quả là người có tâm linh sâu sắc, là bậc thượng thừa trong việc vận dụng bút pháp, thi thanh, thi ảnh và âm điệu. Về những bài thơ dịch thì cũng đã thể hiện đầy đủ các yếu tố: hiệp thời, hiệp ý, hiệp thể và thanh thoát khó có người sánh kịp.

Tuy làm thơ nhiều nhưng có điều tiên sinh thường trao tặng cho các thân hữu, ít khi lưu trữ và chưa hề tự xuất bản các tác phẩm của mình. Tập thơ Bên Trời Lận Đận ra đời là do Khôi, một người con thứ khác của tiên sinh âm thầm ấn loát năm 1992 và thêm vài lần nữa sau đó – mỗi lần một ít, lúc Khôi còn làm việc cho nhà in.

Khi tôi còn ở trên đó, tiên sinh cũng đã giao cho tôi một số thơ do cụ sáng tác. Tôi vì hay di chuyển đó đây, lại là người lơ đểnh, nên trao bớt cho bạn Vũ Uyên Giang. Theo tôi nghĩ những người hiện đang thu giữ được nhiều thơ của Hà thi sĩ là cô Huệ Thu, niên trưởng Đông Anh Nguyễn Đình Tạo và bạn Mạc Phương Đình… Theo cụ cho biết thì ngày trước ký giả Lô Răng cũng từng giữ một số lượng không nhỏ.

Còn nhớ trước 75, có một năm, khi tờ báo Sống sắp thực hiện số báo Tết, nhà văn Chu Tử đã hỏi xin tiên sinh một bài thơ Xuân và đã trả cho Hà tiên sinh ba chục ngàn đồng. Nên nhớ báo chí thời bấy giờ hiếm khi có tờ chịu trả tiền nhuận bút cho thơ. Nếu có thì cũng chỉ trả tượng trưng một vài ngàn cho các thi sĩ thành danh, cộng tác thường trực hoặc thân quen. Đây có thể được coi như là một trường hợp hi hữu về tiền nhuận bút dành cho một tác phẩm thi ca. Chính vì vậy mà từ ngày về tạm trú tại quận Cam, đôi khi giúp cung cấp bài cho vài tờ báo Xuân ở đây, riêng bài của Hà tiên sinh, tôi luôn yêu cầu các vị chủ báo trả tiền nhuận bút cho thơ, câu đối Tết… của cụ cao gấp đôi ba lần số tiền trả cho các tác giả khác.

Theo tôi, thi phẩm ấn loát duy nhất được sự đồng ý của Hà tiên sinh là Men Thu gồm những bài xướng họa giữa cô Huệ Thu và tiên sinh. Cô này là một người rất kính mộ tài thơ của cụ Hà. Còn Hà chưởng môn thì luôn xem cô như một người em gái văn nghệ, cần được tận tình chỉ dẩn, khích lệ. Men Thu tuy mỏng nhưng trình bày rất trang nhả, do cô in năm 2006 trên giấy vân ảnh hoa tiên, bìa cứng. Rất tiếc là số lượng không nhiều, phổ biến hạn chế, nên ít người biết đến.

Trong “Đôi lời trước sách” Hà quân đã viết:

“Tôi đã xướng họa với Huệ Thu rất nhiều thơ. Tôi đã từng xướng họa thơ với rất nhiều người. Nhưng tôi vẫn không thích lối họa thơ đầy thù tạc này. Tuy nhiên, những bài thơ tôi xướng họa với Huệ Thu thì nó thoát khỏi mọi khuôn sáo. Tuồng như là tôi chỉ nương theo ý thơ của Huệ Thu mà phát triển ý thơ của mình. Thơ Huệ Thu đã giúp tôi một nguồn cảm hứng đặc biệt. Tôi tưởng như không còn xướng họa nữa. Ðây là những vần thơ sáng tạo đích thực.

Buổi chiều tôi theo lời khuyên của Bác Sĩ thường uống rượu chát – Huệ Thu cũng vậy. Một buổi tối, khi tôi đang ngà ngà say Huệ Thu gọi điện thoại lại. Người bạn thơ xin tôi một bài thơ, đúng một trăm câu viết cho Huệ Thu. Tôi biết đây lại là một trò chơi chữ. Tôi vẫn viết, nào ngờ thơ bay trên đầu ngọn bút. Tôi viết không ngừng, không nghỉ, không sửa chữa, nhìn đồng hồ, mới 45 phút đã viết xong. Sau đó ít lâu, cuộc chơi thơ lại tiếp diễn đến chục lần, lần nào cũng qua điện thoại, và lần nào cũng một trăm câu và viết trong lúc say, viết về Huệ Thu.”

Không lâu sau đó, cô này còn lấy thơ cụ ấn hành thêm một tập thơ nữa tên Hương Xưa, cũng với một số lượng khiêm nhường để dành trao tặng cho giới thân hữu thưởng ngoạn, giữ làm kỷ niệm,

Sau hơn một năm tạm trú trên vùng thung lũng hoa vàng, tôi lại nổi máu phiêu lưu nên cuối năm 2006 đã di chuyển xuống Westminster. Tuy vậy, cứ năm ba tháng nếu không bận đi du lịch xa, tôi lại chạy lên thăm viếng cụ cùng các niên trưởng. Đầu năm 2009 biết cơ sở Thi Văn Lạc Việt và thân hữu trên đó sắp tổ chức mừng sinh nhật, thượng thọ cho lảo trượng nên tôi vội vàng bay về Mỹ. Trong buổi gặp mặt tại nhà Hà quân lần này, tôi đã cho tiên sinh hay về việc nhiều độc giả và thi hữu khắp nơi khen ngợi bài thơ Ngông của tiên sinh, sau khi tôi phổ biến trên các trang thơ do tôi hoặc thân hữu phụ trách:

Ngông

Quay ngựa xích thố buộc khóm trúc
Ném gươm long tuyền về non Tây
Chí thôi đã lỡ, kệ binh lửa,
Danh vốn không màng, mặc cỏ cây.
Gà chó đôi con năm tháng rộng
Ruộng vườn dăm khoảnh gió trăng đầy
Buông câu, xốc áo quay nhìn vợ:
Trời đã chiều chưa? Ta đã say?
(Hà Thương Nhân)

Thừa dịp vui, tôi đã tìm hiểu về hoàn cảnh ra đời của bài thơ bất hủ này. Với tôi, đây là một đọan trích trong những cuộc hội thoại vui, cởi mở và thú vị:

-    Thưa chưởng môn, trong những bài thơ của tiên sinh mà tôi có trong tay, phải công nhận Ngông là một bài thơ đặc sắc, tuyệt hay. Xin vui lòng cho biết tiên sinh đã sáng tác thi phẩm này lúc nào? Có phải là sau khi tiên sinh được giải ngũ, rời cương vị chủ nhiệm, chưởng môn tờ Tiền Tuyến?

-    Anh cũng đã hiểu lầm như nhiều người khác. Tôi làm bài thơ này lúc còn trẻ sau khi ly khai, từ bỏ “kháng chiến” về Hà Nội. Lúc ấy tôi mới hơn 22, 23 tuổi thì phải. Trí tuệ bây giờ đã bị lão hóa nên chi tiết về mấy chuyện xa xưa tôi không còn nhớ chính xác lắm.

-    Nghiã là đã làm trước khi tiên sinh di cư vào Nam. Theo cặp kết ở cuối bài: “Buông câu xốc áo quay nhìn vợ, Trời đã chiều chưa, ta đã say?” thì chẳng lẽ lúc ấy phu nhân đang kề cận bên tiên sinh sao?

-    Đâu có, khi ấy tôi làm gì đã có vợ. Giá có, chưa chắc “ẻn” chịu theo tôi đi vào nơi hoang vắng, quạnh hiu như vậy để lo công việc phục dịch trà dư tửu hậu cho chồng. Anh nghĩ xem, trong hoàn cảnh cá nhân còn nhiều khó khăn, xã hội đang nhiễu nhương như vậy, tôi làm gì yên tâm để toan tính việc “ca bài hôn phối”.

-    Thì ra là sản phẩm của giả tưởng, hư cấu. Thưa, có phải tiên sinh muốn ngụ ‎ý: “Tôi về nhà cửa sương thâu. Bước đi mà chẳng thấy đâu con đường” [2]. Trong hoàn cảnh phiêu linh, tiêu đìu “sương khói mờ nhân ảnh” như thế sao tiên sinh có thể an định tâm trí để nhàn nhã đi câu và dệt nên những vần thơ đầy hào khí, sảng khoái một cách thần sầu như vậy?

-    Cũng hư cấu luôn.

-    Thế còn 2 câu đầu bài thơ: “Quay ngựa xích thố buộc khóm trúc. Ném gươm long tuyền về non Tây” thì thế nào thưa tiên sinh? Theo tôi biết, gươm long tuyền là bảo vật mà vua hay thiên tử chỉ dành ban cho tể tướng. Xích thố là loại ngựa hiếm quí mà Quan Công, bậc danh tướng thời Tam quốc đã cưỡi để chinh đông, phạt bắc giúp nghĩa huynh Lưu Bị của ngài tóm thâu thiên hạ. Theo tôi nghĩ, chẳng lẽ lúc ấy chí cả, hoài bảo của lảo trượng đã mòn hao phân nửa rồi chăng. Tôi nói phân nửa vì tuy tiên sinh đã ném gươm Long tuyền, nhưng sao không ném về các hướng Bắc, Đông hoặc Nam? Có phải lúc ấy tiên sinh đã tiên liệu rằng sau này sẽ có ngày “quy mã”, nên mới ném bảo kiếm về phương Tây? Thưa, có phải chưởng môn cố ý để dành về sau, khi qua Mỹ định cư thì còn có vũ khí, phương tiện hầu tung hoành ngang dọc cho thỏa chí trượng phu?

-    Anh đọc thi phẩm này khi thấy tôi ở đây nên suy diễn quá xa xôi kỳ ảo, chứ tôi làm gì có tài trực giác, tiên tri giỏi như vậy. Nếu có, tôi đâu dại gì ở lại để bị bọn Cộng sản lùa vào tù, đày đọa cả chục năm trong lao lung, khổ nhục…

-    Lại cũng là chuyện tưởng tượng, mà còn được bịa một cách thật tinh xảo. Nghe nói trước 75 có lúc tiên sinh đã được đề cử làm phụ tá bộ trưởng nhưng tiên sinh đã khước từ. Giả sử lúc đó họ trao gươm long tuyền cho tiên sinh, nghĩa là mời làm thủ tướng thì liệu tiên sinh có ném đi không?

-    Chẳng có trong tay nên tôi mới viết như thế cho có vẻ oai phong thần võ một chút thôi. Thời tóc còn xanh, lòng còn đầy nhiệt tình, tôi cũng mong ước được cống hiến tài sức mọn của mình cho đất nước lắm chứ.

-    Có thể tiên sinh còn vui sướng, hân hoan, giấu kỹ báu kiếm vì sợ người ta cưỡng đoạt nữa là khác?

-    Không chừng là vậy. Nói thế cho vui thôi. Chứ về chuyện tham gia sinh hoạt chính trị thì tôi chẳng thấy hứng thú gì và cũng chưa từng nghĩ đến.

-    Thưa tiên sinh, mới vài ngày trước đây khi nhận giải thưởng văn chương Jerusalem của Israel, nhà văn Murakami Haruki đã phát biểu:

”Hôm nay, tôi đến Jerusalem với tư cách tiểu thuyết gia, nghĩa là một chuyên gia     bịa chuyện. Tất nhiên, chẳng phải chỉ có tiểu thuyết gia bịa chuyện mà thôi. Chính     trị gia cũng bịa chuyện, là điều ai cũng biết. Những nhà ngoại giao và hàng tướng     lãnh tùy lúc mà bịa chuyện trong giới của họ, chẳng khác gì những người bán xe cũ,     hàng thịt, hay thợ xây cất. Tuy nhiên, chuyện bịa đặt của tiểu     thuyết gia thì khác với     những giới kia ở chỗ chẳng ai phê phán rằng tiểu thuyết gia là vô đạo đức khi họ tạo     dựng hư cấu. Hơn nữa trong thực tế, tiểu thuyết gia nào khéo léo phịa được những     chuyện hư cấu càng to lớn và tinh xảo, thì lại càng được người đọc và các nhà phê     bình khen ngợi.”

Xem ra nhà văn Nhật Bản này quên, còn chưa đề cập đến giới thi sĩ. Mấy ông thần mơ mộng này cũng là những chuyên viên bịa chuyện, vẽ vời tình tiết thuộc hàng cự phách. Xin phép “bố già” cho kẻ hậu sinh phát ngôn bậy bạ một chút để được nói nhỏ câu này: “Điển hình cụ thể, chính xác nhất là Hà thi sĩ qua bài thơ Ngông. Tiên sinh đồng ‎ý chứ?

-    Anh cũng là người viết văn làm thơ, chẳng lẽ anh chưa từng tạo hư cấu. phiạ chuyện trong tác phẩm của mình sao? Thôi đã đến giờ hẹn rồi, mình đi là vừa. Anh Vũ Đức Nghiêm vừa được cô em dâu dưới Westminster gởi lên biếu nửa k‎ý thịt cầy. Vũ quân mời tôi và anh đến chung vui. Giờ này, chắc vợ chồng anh ấy đang đợi.

-    Dạ, thì cũng phải bắt chước tiểu xảo của các bậc trưởng thượng, đàn anh, phịa sơ sơ tình tiết cho có vẻ “hoa lá cành trăng lên lều vải” một tí xíu để mong gây xúc động lòng người chứ. Còn buổi tiệc hôm nay thì Vũ huynh đã báo với tôi hôm qua. Thưa tiên sinh, bây giờ còn quá sớm. Khoảng nửa tiếng nữa tôi sẽ đưa tiên sinh đến thưởng thức món khoái khẩu của tiên sinh. Còn tôi thì phải ghé tiệm Thanh Hiền lấy mấy hộp nhắm khác, vì tôi kỵ “mộc tồn. Phần của tôi thì xin phép nhường cho Vũ Uyên Giang. Để tôi gọi anh ta mang mấy loại rượu chát mà tiên sinh và Vũ quân thích xuống nhập hội.

-    Ủa, lạ nhỉ. Anh là người uống rượu, sao lại không ăn được thịt cầy? Ngày trước anh thường cùng 2 anh Phạm Lê Phan, Tường Linh tụ tập, la cà cuối tuần ở các tiệm nổi tiếng khu Nguyễn văn Học và L‎ý ‎Thái Tổ… thế anh đến đó làm gì?

-    Tôi ham vui, các anh ấy ỷ lớn tuổi bắt đi thì đến chầu rìa, gặm bánh tráng, nhắp bia với đậu phộng thôi. Điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu khá hơn tôi nhiều vì ảnh còn dám chan nước thịt xáo măng vào tô bún. Thấy 2 me xừ này ăn nhậu ào ào, hết xị này đến xị khác, hết món rựa mận này đến dĩa dồi, chả chìa kia, lại còn vênh mặt ra điều hả hê, thích thú, tôi cũng ứa gan lắm chứ. Nhưng dù 2 anh ấy “dụ khị” cách nào tôi cũng không dám nếm thử các món “nai đồng quê” chưa quen đó. Giả cầy thì mấy tuần trước tại nhà của họa sĩ Rừng/Kinh Dương Vương dưới Hawthorne, khi các bạn Phạm Tự Trong, Hà Thúc Sinh vừa làm xong, dọn ra, khỏi cần mời là tôi đã vội vàng khởi sự “thanh toán” trước.

-  Anh đã về thăm Sài gòn mấy năm trước, chắc biết 2 anh Linh và Kiệm hiện giờ ra sao?

-    Dạ, anh Tường Linh đã hom hem lắm rồi, bị đủ thứ bệnh, sống trong cảnh luôn thiếu thốn, nên chẳng mấy khi ra khỏi nhà. Còn anh Phạm Lê Phan thì sau khi Vi Xi chiếm Sàigon đuổi dân, bắt quân cán chính vào các trại tù, tập trung lao động khổ sai, anh đã sớm tình nguyện đi vùng kinh tế mới tại miền Định Quán, Lâm Đồng, để tránh bị họ truy ra lý lịch. Tại đó anh sống bằng cách hàng ngày đi câu cá ở sông rạch và theo anh TL cho biết thì mấy năm sau anh bị sét đánh chết ngoài bờ ruộng, trong một đêm trời mưa giông, lúc anh đang trên đường mang cá về cho gia đình đem ra chợ bán. Tôi mới lần đầu về nước nên không dám đi xa vào vùng hẻo lánh, vì vậy đã nhờ anh Tường Linh trao dùm cho chị Phạm Lê Phan một số tiền làm vốn để chị có thể buôn bán và lo cho các cháu.

-    Tội nghiệp. Anh Phạm Lê Phan và anh Linh là 2 trong những người hiền lành mà tôi luôn quí mến.

-    Dạ tôi hiểu rõ. Ngay cả việc anh Tường Linh bị ANQĐ bắt giữ lầm hay vì một nguyên nhân nào đó vào năm 1972. Nếu không nhờ chưởng môn can thiệp và bảo lảnh tôi sợ anh ấy chưa chắc đã được thả về ngay.

-    Anh TL làm thơ hay lắm nên thường được trúng giải. Có người nghĩ rằng tôi muốn giúp đỡ anh nên thiên vị chăng. Do đó có một lần họ đã thử thay đổi giám khảo và rốt cuộc anh ấy vẫn là người chiếm giải đầu.

-    Tôi còn nhớ có lần tiên sinh đã kể cho nghe về chuyện thời tiên sinh mới 15 hay 16 tuổi đã từng đi theo cụ Nguyễn Tiến Lãng đến dự hội thơ tại Vỹ Dạ. Tôi đầu óc đã kém minh mẫn, suy thoái nhiều nên không còn nhớ bao nhiêu. Xin tiên sinh vui lòng kể lại giai thoại đó một lần nữa.

-    Năm 1935 tôi được ông Nguyễn Tiến Lãng, giáo sư Pháp văn hỏi: “Cậu có muốn đi dự hội thơ không? Tôi mừng quá liền thưa ngay: Dạ rất muốn. Thế là Trung Thu năm đó tôi theo ông đến biệt thự của nhà thơ Ưng Bình ở Vỹ Dạ. Tôi đi theo chứ không được mời nên không có chỗ ngồi. Khách toàn vào hạng trung, lão niên, hầu hết đều mặc quốc phục và đeo bài ngà. Ðầu đề bài thơ hôm đó là Trăng Thu, nhưng có một điều cấm kỵ: trong bài viết tuyệt đối không được dùng chữ Trăng cũng như chữ Thu. Tôi cảm thấy hứng thú nên cũng làm và nộp bài:

Trăng Thu
Sương mỏng manh canh vắng lặng tờ
Buồn xưa náo động mấy vần thơ
Rưng rưng mắt lệ chàng mong nhớ
Phơi phới mây xa thiếp hững hờ
Bến quạnh lau già người chểnh mảng
Rượu tàn canh vắng khách bơ vơ
Lầu cao ai đó mây rèm tím
Hồn lẻ đêm nay có thẫn thờ
(Hà Thương Nhân)

Ðến ngày rằm tháng chín thì hội thơ lại họp để tuyên bố kết quả. Lần ấy tôi cũng không ngờ là bài Trăng Thu của mình được trúng giải. Khi gọi đến tên người trúng giải thì cụ Ưng Bình hơi ngỡ ngàng vì thấy một cậu học trò đi lên. Bỗng cụ đọc:

 

Trăm mặt thẹn thua chàng trẻ tuổi
Một bài cũng đủ gọi thi ông

Tôi bèn đáp ngay:

Bảy bước dám thua Tào Thực trước
Một lời xin gửi tạ tôn ông

Bấy giờ trong hội nghị có cụ Kỉnh Chỉ. Cụ là Bác sĩ mà cũng là thi sĩ. Có thời cụ đã làm tổng trưởng y tế cho chính phủ Trần Văn Hữu hay Nguyễn Văn Tâm, tôi không còn nhớ rõ. Cụ Kỉnh Chỉ thấy vậy nói lớn: “Tào Thực thất bộ thành thi, cháu không chịu thua à? Kiêu ngạo nhỉ ! Tuy nhiên Tào Thực phải bảy bước mới thành thơ, cháu chỉ cần một bước đã thành thơ, thế thì cháu nói đúng. Nhưng cháu à, cháu nên nhớ: “Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài”. Sau đó khi đi qua cụ Kỉnh Chỉ, tôi khoanh tay cúi đầu, thưa khẽ để một mình cụ nghe: “Cháu xin vâng lời dạy bảo của cụ”. Ðó cũng là lý do, tuy đã viết rất nhiều thơ, hàng mấy chục tập, tôi vẫn không chịu xuất bản dù có dư điều kiện.

Trên đường đến nhà nhạc sĩ Vũ Đức Nghiêm, bỗng nhiên tiên sinh quay sang tôi cười ý nhị rồi từ tốn bảo:

-    Vừa rồi ở nhà tôi, anh đã uống hết mấy cốc rượu chát của tôi, lại còn nổi hứng chất vấn, chọc phá lung tung. Bây giờ chắc anh cũng chẳng hà tiện gì để cho tôi hỏi qua vài điều?
-    Dạ, xin lảo trượng cứ tự nhiên “như người Hà Nội”.

-    Anh không giao du nhiều, chẳng mấy khi chịu viết lách, sao tôi thấy những người thân quen với anh ai cũng yêu mến anh? Lạ thật, lúc nào anh cũng ung dung, nhàn nhã, luôn bay nhảy đó đây. Sống độc thân, độc hành như vậy mãi anh không thấy buồn sao?

-    Thưa, tôi cũng hư đốn, ưa chọc phá nhưng tại anh em, bằng hữu chưa chịu ghét tôi đó thôi. Tôi thích rong chơi, cà tịch cà tang một mình quen rồi. Khi cảm thấy buồn, hoài nhớ ai thì tôi chạy đến thăm. Nếu lười đi xa hoặc bận chưa gặp nhau được thì tôi cứ hình dung, tưởng tượng là những người ấy đang ở bên mình, hình dung họ đang cùng mình đấu hót, chén tạc, chén thù là đủ vui, thấy ấm lòng rồi.

-    Thế còn các cô bạn gái, em gái tiền phương, hậu phương của anh thì sao? Bộ chẳng có ai khuyên giải, giữ nổi anh à? Nghe nói về món này anh cũng phong lưu lắm.

-    Dạ làm gì có. Tôi không muốn vướng lụy, lười giao tiếp, lại không biết kính trọng, chìu chuộng nữ giới,… thì ai mà thèm. Vả lại, già rồi, kéo theo “remorque” cũng mệt, phiền lắm chứ. Tôi bản chất cù lần, nên hiện giờ thật sự chỉ vỏn vẹn có vài em gái văn gừng, đúng nghĩa huynh muội mà thôi. Họ vẫn thỉnh thoảng viếng thăm hoặc trao đổi điện thư để đùa giỡn, nói chuyện cà kê dê ngỗng… Hơn nữa, anh em thân hữu ở đây thấy tôi luôn quởn, thích đi hoang, nên thường rủ rê, lúc cà phê, khi khề khà cùng nhau bên ly trà, chén rượu. Như vậy thì cũng đủ quên đời rồi, còn đòi hỏi gì hơn cho tốn sức lao động.

-    Sang đây anh kinh doanh việc gì mà ai cũng bảo anh là người khá giả, nên cứ hay du lịch, sống ở nước ngoài?

-    Thưa tiên sinh, tôi làm gì biết kinh doanh. Nhờ có chút ít vốn về kinh tế, tài chánh cũ qua đây học hỏi thêm, lại nhờ giúp việc cho một công ty tư vấn quản trị tài chánh lớn nên hiểu biết thêm đôi điều về thị trường chứng khoán. Do đó khi đến tuổi 59 tôi mới bỏ việc. Theo luật, tôi được quyền rút tiền 401K và stock option mà công ty đã cho để chuyển qua IRA, rồi tự điều hành portfolio của mình. Chắc trời thương, hậu đãi kẻ khù khờ, mất nước phải tha hương, nên trong mấy năm trước đã ban phát cho chút đỉnh “cơm cháo”.

-    Lần này tái xuất giang hồ, lại chẳng còn chuyện gì vướng bận, anh có định trụ ở Cali để ngoan ngoản sinh hoạt, viết lách cùng anh em không hay lại cứ dở trò ló ló thụt thụt như xưa? Thấy anh ấn hành nhiều tác phẩm của người quen, sao anh không gom góp lại bài của mình để in một vài cuốn?

-    Dạ, tôi đâu có mặn mà gì sâu đậm với việc in sách, làm báo hay viết lách. Thân hữu nhắc nhở, kêu gọi thì cộng tác một thời gian ngắn. Hết hứng thú thì bổn cũ soạn lại đi tìm nguồn vui khác. Bài vở viết xong thì coi như nhẹ gánh tang bồng, nên chẳng hề lưu trữ. Tánh lơ đảng, lại cứ nay đây mai đó có đưa vào USB thì rốt cuộc cũng bị thất lạc, đánh rớt. Còn ấn hành tác phẩm của mình ư? 50 năm nay tôi chưa từng có ý định làm việc đó.

Gần đây, thấy tôi sinh tật ấn hành một số sách của các thân hữu nên con cháu lại nhắc nhở, yêu cầu. Bằng hữu thấy vậy cũng thúc giục mãi mà tôi vì lười nên cứ ù lì. Noel này tôi sẽ bay qua nước khác sống vài năm. Chẳng biết bầu không khí mới lạ vxứ người có giúp tôi sáng tác, tối tác gì được không. Khi đi chơi về rồi hãy tính. Cali thì nhộn nhịp, vui quá, nhưng tôi vốn như con ngựa hoang, chắc có ngày rồi cũng nhớ, tìm về với cảnh núi rừng cô tịch. Tôi tới đây từ nơi im vắng dĩ nhiên sẽ trở về nơi im vắng. Có thể vì nó thích hợp với bản chất sâu kín trong tôi. Trước khi tôi đi xa, lâu lắm mới về, xin “lảo từ phụ” vui lòng dạy bảo cho một câu.

-     Quand quelqu’un a le privilège d’aimé et d’être aimé, sa vie est extrêmemement
riche. Nói một cách khác, đơn giản hơn: Ân sủng được người thương yêu chỉ dành     cho những kẻ biết thương yêu người. Hãy tiếp tục cuộc sống vui vẻ như anh đã     sống.

Nói đến đây thì nhà Vũ quân đã hiện ra trước mắt và câu chuyện vui cũng chấm dứt. Tiên sinh là người hiền hòa, khiêm ái, tôi lại là người hay trêu chọc, nên dĩ nhiên, bầu không khí cuộc hội thoại này luôn luôn thoải mái, đầy ắp tiếng cười.

Hai năm qua sức khỏe của tiên sinh càng ngày càng suy nhược, ngũ quan hầu như không còn hoạt động bình thường và phải cần người săn sóc thường trực. Cũng may là các vị thân hữu trên ấy như các niên trưởng Đông Anh Nguyễn Đình Tạo, Vũ Đức Nghiêm, Thanh Thương Hoàng, Ngô Đình Chương, Trường Giang, Nguyễn Liệu, các bạn Chinh Nguyên, Mạc Phương Đình, Võ Thạnh Văn, Hải Bằng, Hải Phương, Hà Ly Mạc, Huệ Thu… vẫn thường xuyên đến thăm viếng và tạo niềm vui cho vị chưởng môn luôn được mọi người trân quí, thương kính này.

Ngày thứ tư 24-11-2010 vừa rồi nhà xuất bản Văn Đàn Đồng Tâm đã tổ chức ra mắt tuyển tập Kỷ Niệm Về Thi Sĩ HÀ THƯỢNG NHÂN tại San José. Buổi lể tuy không rơi vào những ngày cuối tuần, nhưng cũng qui tụ được nhiều thân hữu và giới ái mộ tiên sinh. Đặc biệt, còn có một số người ở các quốc gia xa xôi đã bay về vùng thung lũng hoa vàng để thăm hỏi và chúc tụng cụ. Văn đàn này do nhà văn Doãn Quốc Sĩ, BS Tạ Xuân Thạc và Việt Hải chủ trương và sau cuộc Ra Mắt Sách tại miền Bắc Cali văn đàn còn dự tính tổ chức ít nhất là tại miền Nam Cali và Texas. Cũng vì nguyên nhân này tôi đã rời Bangkok sớm hơn để về quận Cam kịp chạy lên SJ gặp chưởng môn. Lần này tôi thấy tiên sinh đang ngồi xe lăn do anh Phạm Hoàng Chương, trưởng nam của Hà quân đẩy. Lúc ấy, tôi còn nhận ra tiên sinh đã kém linh hoạt hơn trước và giọng nói càng yếu hơn.

Nghe nói chưa đầy một tháng sau, vào trưa ngày chủ nhật 19 tháng 12 năm 2010, trưởng nữ của tiên sinh là cô Phạm Hoàng Minh Phi đã cùng các anh Hồng Dương, Phạm Gia Cát, Trần Phong Vũ lại đứng ra tổ chức buổi ra mắt tác phẩm thi ca “Thơ Hà Thượng Nhân”tại trung Tâm VIVO – San Jose. Tôi nghĩ, cô ấy muốn tạo sự ngạc nhiên cho thân phụ mình nên lo thu góp được một số tác phẩm thi ca của Hà quân, rồi âm thầm nhờ một số người đã từng cộng tác hay ái mộ chưởng môn thực hiện công việc ấn loát tại miền Nam Cali. Tiên sinh chỉ biết được sự kiên này sau khi được chính trưởng nữ của mình trao tặng tuyển tập thơ trước mặt quan khách.

Sách in bằng loại giấy tốt, bìa cứng, dày 300 trang, chỉ dành để tặng. Ngoài một số thi phẩm tiêu biểu của tiên sinh còn có những bài viết của một số nhà văn, nhà báo nói về cuộc đời và đức độ… của vị trích tiên xứng đáng được trọng vọng, tôn kính này. Muốn có sách, xin liên lạc với cô Minh Phi: 2746 Agua Vista Drive, San Jose – CA 95132, điện thoại: (408) 506.2307 hoặc minhphipham@sbcglobal.net

Tóm lại, ngoài các tác thẩm thi ca do con cái hay người ái mộ Hà quân tự ấn hành đã kể trên, chưởng mộn còn những ấn phẩm chuyên biệt khác, được Bộ Quốc Phòng hay những cơ quan trực thuộc Tổng Cục CTCT ấn hành trước 75. Đó là các cuốn sách, cẩm nang liệt vào hạng sách lược, chiến lược do tiên sinh soạn thảo. Những ấn phẩm này đề cập, dẩn giải về binh vận, địch vận và nghệ thuật thu phục nhân tâm, quần chúng với bút danh Hà Sĩ [nếu tôi nhớ không lầm].

Hơn 4 tháng trước, tôi lại chạy lên San Jose. Lúc tôi đến nhà thăm viếng thì tiên sinh đang mê mệt ngũ. Biết tiên sinh cần tịnh dưỡng, nên tôi chỉ ngậm ngùi đứng nhìn. Trong giây phút tĩnh lặng đó tôi đã mơ hồ, tưởng tượng như mình đang trước giường bệnh của thân phụ ngày nào, vào hơn 30 năm trước – trước ngày tôi xuống thuyền vượt biển rời bỏ quê hương.

Là con người, có ai thoát khỏi lẽ thành trụ, hoại không hay luật tuần hoàn sinh diệt của tạo hóa. Vì vậy đến tối ngày 15 tháng 10 vừa qua Hà thi sĩ đã cởi hạc qui tiên để lại trong lòng bạn bè, thân hữu và những kẻ hậu sinh như chúng tôi biết bao nỗi luyến tiếc, đau thương. Công trình sáng tạo, sáng tác thi ca cả một đời của chưởng môn lại vì hoàn cảnh tang thương, thay đổi của đất nước mà thất lạc đi quá nhiều, vì chính sách đốt sách, vùi dập hiền tài, đọa đày người yêu nước, kẻ sĩ miền Nam. Tôi nghĩ đó là một sự mất mát, thiệt thòi lớn lao cho nền văn học, di sản văn học Việt Nam.

Garden Grove 24-10-2011.
(trong “Những trích tiên phiêu bạt trong dòng thi ca, nghệ thuật VN”)

—————-
Ghi Chú:

[1]: Nghị định do chính cụ Ngô Đình Diệm – lúc còn là Thủ tướng ký:
Mr Pham Xuan Ninh est mobilisé par besoin de service à titre de Capitain de réserve.
[2]: Bùi Giáng dịch thoát 2 câu Canzoniere của thi sĩ tu xuất người Ý: Francesco Petrarca [1304-1374]. F.P còn được biết đến với biệt danh Petrarch. Hai câu này được trích trong một bài thơ diễm tình loại Sonnet mà ông đã viết cho Laura, người tình trong mộng của ông. Nhiều học giả, phê bình gia nghĩ rằng Laura là bà Laura de Noves – một thiếu phụ quí phái mà Francesco đã gặp gở tại nhà thờ Sainte Claire ở Avignon. Từ đó ông đã đơn phương đem lòng thầm yêu trộm nhớ nàng mỹ nữ nọ, nhưng không được bà đáp ứng.

Phản hồi