WordPress database error: [Expression #1 of ORDER BY clause is not in GROUP BY clause and contains nonaggregated column 'oldsite_dcvwp.wp_posts.post_date' which is not functionally dependent on columns in GROUP BY clause; this is incompatible with sql_mode=only_full_group_by]
SELECT YEAR(post_date) AS `year`, MONTH(post_date) AS `month`, count(ID) as posts FROM wp_posts WHERE post_type = 'post' AND post_status = 'publish' GROUP BY YEAR(post_date), MONTH(post_date) ORDER BY post_date DESC

 
|

Tổng thống Thiệu triệt thoái quân đoàn hai

Gần đây trong một cuộc tiếp xúc riêng với cựu Đại Tá Lê Khắc Lý, Tham mưu trưởng Quân đoàn 2, Đại tá cho tôi biết đã có rất nhiều người hỏi ông:

“Có phải TT Thiệu rút bỏ Quân đoàn 2 tại Pleiku giữa tháng 3-1975, giả vờ thua chạy để tháu cáy Mỹ, khiến cho Mỹ sót ruột phải nhẩy vào?”

Cách đây khoảng nửa năm, trong một lần tiếp xúc khác Đại tá có nói ông nghi ngờ TT Thiệu rút bỏ Cao nguyên để tháu cáy Mỹ nhưng thất bại và ông có gợi ý tôi viết về chủ đề này.

Đại Tá Lê Khắc Lý nói ông đã tốt nghiệp Trường Cao Ðẳng Quốc Phòng khóa 4 năm 1972 và đã đi học ở Mỹ nhiều lần, lớp học cao nhất là “Trường Ðại Học Chỉ Huy và Tham Mưu Lục Quân Hoa Kỳ” tại Fort Leavenworth, Kansas (US Army Command and General Staff College). Chính tại trường Chỉ Huy và Tham Mưu Command and General Staff College này, ông đã học nguyên tắc chiến thuật (tactical) căn bản ngoài chiến trường là luôn luôn chiếm giữ “high ground” (vùng cao) để chế ngự các vùng đất chung quanh. Nhưng khi giảng, “thầy” cũng có nói nguyên tắc này cũng áp dụng cho “chiến lược” (strategy) nữa. Trong trường hợp Quân đoàn 2 của ta hồi 1975, ông nghĩ là đúng với nguyên tắc này. Ông cho rằng quyết định bỏ cao nguyên của ông Thiệu là sai lầm. Rôi từ vùng đất thấp là vùng duyên hải sẽ đánh ngược lên để gọi là “tái chiếm Ban Mê Thuột” là chuyện quá khó nếu không nói là “không tưởng.
Tóm lại TT Thiệu đã sai lầm về chiến thuật chiến lược khi ban lệnh lui binh xuống đồng bằng duyên hải để từ đó lên tái chiếm Ban Mê Thuột.

Trên thực tế nhiều người cũng đã nghi ngờ ông Thiệu tháu cáy Mỹ cho rút bỏ Cao nguyên. Khoảng năm 1975,1976 khi chúng tôi ở trong trại tù CS, có một anh bạn tù tin rằng ông Thiệu giả vờ thua chạy đưa tới sụp đổ, thua luôn cuộc chiến.

Sơ lược tái phối trí

Trước hết tôi xin sơ lược về cuộc triệt thoái lịch sử này, dựa theo tài liệu, lời kể của ký giả Phạm Huấn, Nguyễn Đức Phương, các vị Tướng lãnh Cao Văn Viên, Hoàng Lạc, có tham khảo thêm tài liệu phía Cộng Sản. Như chúng ta đều biết, cuộc lui binh này đã bị thất bại nặng, nó là khúc quành quan trọng nhất trong cuộc chiến tranh VN giai đọan cuối. Người ta kết án TT Thiệu đã làm sụp đổ cả hai Quân khu 1 và 2, kế đó sụp đổ miền nam.

Sau ngày Ký Hiệp định Paris 27-1-1973, Quốc hội cắt giảm quân viện mỗi năm khoảng 50% khiến cho miền nam VN lâm vào tình trạng thiếu thốn trầm trọng về hỏa lực, tiếp liệu đạn dược.

Ngày 11-3-1975, Tổng thống Thiệu bàn luận tình hình với Thủ tướng Trần Thiện Khiêm, Đại Tướng Cao Văn Viên, Trung Tướng Đặng Văn Quang. Ông Thiệu cho biết với khả năng hiện có Quân đội VNCH không thể bảo vệ tất cả lãnh thổ, nên phải tái phối trí lực lượng để bảo vệ những vùng đông dân trù phú, quan trọng nhất là Vùng 3 và Vùng 4. Ông Thiệu không lạc quan về Vùng 1 và Vùng 2. Tại vùng 2, Ban Mê Thuột quan trọng sẽ phải chiếm lại, miền duyên hải Vùng 2 giữ được phần nào hay phần nấy.

Ngày 12-3-1975 ngân khoản 300 triệu quân viện bổ túc đã bị Quốc hội Mỹ bác bỏ, ngoài ra họ cũng không chuẩn chi cho năm tới, nghĩa là từ náy sẽ không cho một xu viện trợ nào. Tin sét đánh đã khiến TT Thiệu bị mất tinh thần khiến ông quả quyết tái phối trí.

Ngày 13-3-1975 mất Ban Mê Thuột, hôm sau ông Thiệu bay ra Cam Ranh mở phiên họp cao cấp quân sự, có mặt các Tướng Trần Thiện Khiêm, Đặng Văn Quang, Cao Văn Viên, Phạm Văn Phú, Tư lệnh vùng 2 . Phạm Huấn ghi lại theo lời kể của Tướng Phú: Tổng thống Thiệu cho biết Quốc hội Mỹ cắt quân viện, hủy bỏ những cam kết yểm trợ không lực, lãnh thổ phòng thủ quá rộng nên ta phải tái phối trí lực lượng. Ông cho biết Tướng Phú Tư lệnh Quân đoàn 2 phải rút quân bỏ Pleiku-Kontum về duyên hải, Nha Trang sau đó sẽ hành quân tái chiếm Ban Mê Thuột. Tại Quân khu 2, VNCH chỉ có 2 Sư đoàn bộ binh (22, 23) và 7 liên đoàn Biệt động quân trong khi BV có 5 sư đoàn bộ binh và 4 trung đoàn độc lập ( theo tài liệu CS)

Tướng Phú xin ở lại tử thủ nhưng Tổng thống Thiệu bác bỏ, ông còn cho biết Tướng Phú phải dấu không được cho địa phương, các Tỉnh trưởng Quận trưởng biết, họ phải ở lại chiến đấu. Các vị Tướng lãnh không có ai phản đối trừ Tướng Phú xin ở lại tử thủ. Về buổi họp này Tướng BV Văn Tiến Dũng ghi lời khai của Chuẩn tướng Phạm duy Tất cũng gần giống như vậy, ông Cao Văn Viên cũng ghi lại chi tiết buổi họp cũng gần giống như lời Phạm Huấn.

Trong buổi thảo luận ông Cao Văn Viên cho biết đường quốc lộ 21 về Nha Trang không thể sử dụng được vì đường 14 từ Pleiku tới Ban Mê Thuột đã bị BV cắt, đường 19 nối Pleiku với Qui nhơn Cộng quân đóng chốt nhiều nơi, đèo An Khê bị cắt ở hai phía đông tây, ngoài đường số 7 xuống Tuy Hòa không còn đường nào khác. Đường số 7 tuy tạo được yếu tố bất ngờ nhưng là con đường bỏ hoang cầu cống hư hỏng.
Kế hoạch được hợp thức hoá và giữ bí mật cho tới giờ phút chót. Kế hoạch của Tướng Phú là Liên đoàn 20 công binh chiến đấu đi trước mở đường , thiết giáp đi theo các đoàn xe để bảo vệ, hai liên đoàn Biệt động quân và thiết giáp đi bọc hậu đoàn quân di tản.

Ngày 16-3-1975 đoàn xe bắt đầu rời Pleiku gồm các đơn vị quân cụ, đạn dược, pháo binh, khoảng 200 xe. Tướng Phú và bộ tư lệnh đi trực thăng về Nha Trang, Chuẩn Tướng Phạm Duy Tất lo đôn đốc cuộc di tản, mỗi ngày một đoàn xe khoảng 200 hay 250 chiếc, ngày đầu êm xuôi vì bất ngờ.

Ngày hôm sau 17-3-1975 các đơn vị pháo binh còn lại, công binh, quân y, tổng cộng chừng 250 xe. Khi ấy dân chúng, gia đình binh sĩ chạy ùa theo, làm náo loạn gây trở ngại cho cuộc triệt thoái.

Ngày 18-3 Bộ chỉ huy và ban tham mưu Quân đoàn về tới Hậu Bổn, Phú Bổn, các đoàn xe từ ba ngày trước kẹt lại đây, đoạn đường từ Hậu Bổn về Tuy Hoà chưa giao thông được vì công binh chưa làm xong cầu qua sông Ae Pha. Tối ấy Việt Cộng đuổi theo pháo kích dữ dội gây thiệt hại hầu hết chiến xa và trọng pháo tại đây. Sư đoàn 320 BV đóng tại Buôn Hô, Ban Mê Thuột được lệnh đuổi theo đoàn xe triệt thoái từ 16-3 đến 18-3-1975 vào Phú Bổn rồi tiếp tục đánh phá tới Củng Sơn. Ngày 19-3 một số lính địa phương quân người Thượng cướp giựt và bỏ hàng ngũ trốn đi gây thêm hỗn loạn. Các liên đoàn Biệt động quân, thiết giáp, bộ binh bị thiệt hại nặng, BV cũng xử dụng các chiến xa đại bác của ta bị bỏ lại để tấn công đoàn triệt thoái.

Đoàn quân rời Hậu Bổn ngày 20-3 nhưng chỉ đi được 20 km thì phải đi chậm lại vì Phú Túc phía trước bị VC chiếm, đoàn quân di tản vừa chống trả vừa tiến. Không quân đến yểm trợ nhưng ném bom nhầm vào đoàn quân gây tử thương gần một tiểu đoàn BĐQ, thiệt hại này lại càng gây thêm rối loạn. Tại Phú túc hỗn loạn diễn ra dữ dội. BV đóng chốt, một tiểu đoàn Địa phương quân và Biệt động quân được giao nhiệm vụ nhổ chốt. Khi đến Củng Sơn cách Tuy Hoà 65 km đoàn di tản phải băng qua sông Ba. Trực thăng CH-47 chở từng đoạn cầu lên sông Ba để ráp, ngày 22-3 cầu ráp xong đoàn di tản qua sông theo hương lộ 436 về Tuy Hoà, vì xe cộ quá đông cầu bị sập chết nhiều người phải sửa chữa thêm lần nữa.

Chặng đường cuối cùng từ đây về Tuy Hoà rất cam go vì có nhiều chốt VC, trời mưa lạnh, VC pháo kích đoàn di tản để cầm chân ta. Tiểu khu Tuy Hoà không còn quân để tiếp viện nên đoàn quân di tản phải tự lo lấy, các binh sĩ tiểu đoàn 34, Liên đoàn 7 BĐQ lều mạng lên tấn công các cứ điểm CS cùng với chiến xa M-113 tiêu diệt chốt địch. Ngày 27-3 sau khi thanh toán chốt cuối cùng đoàn di tản về tới Tuy Hoà buổi tối tổng cộng 300 xe (trong số 1,200 xe) mở đường máu về được Tuy Hoà,
Đường rút quân tỉnh lộ 7 lại gần vị trí đóng quân của Sư đoàn 320 BV tại Buôn Hô, Ban Mê Thuột, họ được lệnh đuổi theo ngày 16-3, chỉ hai ngày là đã đuổi kịp. Ngày 18-3 Cộng quân pháo kích phi trường gây kinh hoàng cho đoàn di tản. Lực lượng chiến xa pháo binh dồn đống tại Phú bổn bị thiệt hại nặng tới 70%.

Các kho quân dụng tại Kontum, Pleiku bỏ ngỏ, tất cả quân dụng, vũ khí trị giá 253 triệu Mỹ Kim lọt vào tay CS. Sự thiệt hại về tinh thần còn to tát hơn nhiều.
Theo Nguyễn Đức Phương trong số 60,000 chủ lực quân chỉ có 20,000 tới được Tuy Hoà, 5 Liên đoàn BĐQ 7,000 người chỉ còn 900 người. Lữ đoàn 2 Thiết Kỵ với trên 100 xe tăng nay chỉ còn 13 chiếc M-113.

Ông Cao Văn Viên nói ít nhất 75% lực lượng, khả năng tác chiến của Quân đoàn 2 gồm Sư đoàn 23 BB, BĐQ, Thiết giáp, Pháo binh, Công binh… bị hủy hoại trong vòng có 10 ngày. Kế hoạch tái chiếm Ban Mê Thuột không thể thực hiện được vì không còn quân.

Tái phối trí lực lượng có mục đích co cụm lại vì không đủ lực lượng trải rộng toàn lãnh thổ.

Những nguyên do thất bại chính của cuộc di tản có thể gồm:

-Di tản quá gấp rút, cả một quân đoàn quá đông đảo, đường xá bị tràn ngập xe cộ và người chạy loạn.

-Đường số 7 bị bỏ hoang, cầu cống hư hỏng khiến cho cuộc di tản bị ngừng trệ.

-Dân chúng di tản làm náo loạn mất tinh thần quân đội

-Thiếu chuẩn bị, không lập kế hoạch lui binh vì quá gấp rút

Thực ra cuộc di tản thất bại nặng nề vì xui xẻo, đường di tản lại gần với vị trí đóng quân của Sư đoàn 320 CSBV tại Buôn Hô. Tối 16-3 Văn Tiến Dũng đã điều động, đốc thúc đạo quân này đuổi theo, hai hôm sau họ bắt kịp đoàn di tản tại Phú Bổn và đã pháo kích gây thiệt hại nặng cho ta về thiết giáp, pháo binh. Sự thất bại chứng tỏ ta không có tin tình báo chính xác về vị trí các đơn vị Cộng quân.

Ngoài ra theo lời kể của một một nhân dân tự vệ cùng gia đình từ Kontum di tản trên đường số 7, anh thanh niên này cho biết Pleiku di tản trước nên phần nhiều dân quân đã chạy thoát khỏi cuộc truy kích của Cộng quân. Người dân Kontum ở phía bắc, cách Pleiku 40 cây số khi biết Pleiku di tản thì cũng ùa chạy theo, vì chạy sau họ bị VC đuổi kịp pháo kích dữ dội. Khi ấy đoàn xe dân quân dồn đống dưới một vùng đất trũng. Đạn pháo khiến bụi bay mù mịt, không ai thấy ai chỉ thấy tiếng đạn nổ ấm ầm ghê rợn, người chết vì pháo kích, người bị xe cán nằm la liệt. Theo lời nhân chứng này dân chết rất nhiều, lính chết ít vì họ lanh lợi hơn, biết tránh đạn, nạn nhân đa số là dân Kontum . Ký giả chiến trường Phạm Huấn mô tả đây là một hành lang máu.

Giả thuyết

Ngoài những nghi ngờ của Đại Tá Lê Khắc Lý, Tham mưu trưởng Quân đoàn 2 kể trên tôi xin góp ý thêm về giả thuyết này.

Như chúng ta đã thấy, ông Thiệu lệnh cho cả một đại đơn vị (60 ngàn người) hành quân từ Pleiku xuống Tuy Hòa phía đông , rồi từ Tuy Hòa xuống Nha Trang phía nam, rồi lại từ đó lên tái chiếm Ban Mê Thuột ở phía tây. Chặng đường hành quân hình chữ U rất dài và tốn kém nhiên liệu trong khi ta đang kiệt quệ về tiếp liệu. Kế hoạch không logic lại viển vông cho thấy ông Thiệu có mục đích tháu cáy, giả vờ thua chạy hơn là mục đích quân sự. Việc tái chiếm Ban Mê Thuột theo kế hoạch của ông rất gay go và khó thực hiện trong khi ta đang thiếu thốn về mọi mặt.

Ngoài ra tôi nghĩ ông Thiệu rất chủ quan, ông vẫn tin người Mỹ không thể bỏ Đông Dương. Hạ tuần tháng 10-1972 Tiến sĩ Kissinger sang Sài Gòn thuyết trình cho ông Thiệu biết BV đã nhượng bộ những đòi hỏi chính mà họ đã dai dẳng đòi từ mấy năm qua: Không đòi lật đổ Thiệu, không có Liên Hiệp, Hội đồng hòa giải chỉ hữu danh vô thực… nhưng có điều họ không chịu rút về Bắc. Kissinger tưởng là ộng Thiệu sẽ đồng ý ký bản Dự thảo đã soạn chung với phía BV ngày 9-10-1972, dự định ký 25-10, trước bầu cử Mỹ (7-11-1972). Ông Thiệu chống đối bản dự thảo và chỉ trích Kissinger.Nixon khuyên Kissinger không nên ép Thiệu vì Nixon không muốn Hiệp định được ký trước bầu cử, qua thăm dò Nixon biết chắc sẽ tái đăc cử nhiệm kỳ hai.

Tháng sau 11-1972 và cả tháng 12 ông Thiệu mở chiến dịch trên báo chí đài phát thanh lên án Kissinger và cả Nixon ép VNCH ký bản Hiệp định bất bình đẳng, mục đích để vận động cánh tả, diều hâu bên Mỹ áp lực hành pháp không được ép VNCH . Theo TT Nixon (No More Vietnams trang 152), nếu đòi điều kiện BV rút quân sẽ không có Hiệp định, Hà Nội sẽ không chịu ký. Đó là một điều nguy hiểm, nếu VNCH gây trở ngại hòa bình thì Quốc hội thù nghịch sẽ ra tay giải quyết, họ sẽ ra luật chấm dứt chiến tranh, cắt viện trợ miền Nam, thực hiện rút hết quân để đánh đổi lấy tù binh Mỹ.

Người Mỹ coi việc lấy 580 người tù binh là quan trọng vào hàng đầu, dĩ nhiên đứng trên cả sự sống còn của Đông Dương, TT Nixon, Kissinger, Tướng Haig.. và các nhà học giả nghiên cứu về chiến tranh VN đều nói thế.

Cuối tháng 11, ông Thiệu quảng bá tin TT Nixon gửi hậu thư cho Thiệu bắt phải ký Hiệp định Paris mục đích vận động phe diều hâu bên Mỹ ủng hộ miền Nam VN.

“Sài Gòn như nghĩ rằng chuyện tối hậu thư sẽ khiến cánh hữu áp lực tòa Bạch Ốc không bỏ rơi một đồng minh đang bị CS bao vây đe dọa. Nhưng thực ra đó là sự đánh giá sai lầm lớn, câu chuyện không được chú ý tới”

(Saigon apparently assumed that an “ultimatum” story would encourage America’s right wing to apply pressure on the White House not to abandon a beleaguered ally threatened by Communism. It turned out to be a gross and embarrassing overestimation. The Story caused barely a ripple – Marvin Kalb, Bernard Kalb, Kissinger- p. 405).

Từ TT Nixon tới Kissinger, Tướng Haig tới Đại Sứ Bunker đều nhắc nhở cho ông Thiệu biết đừng hy vọng gì vào sự ủng hộ tại chính trường Mỹ, nay diều hâu đã đổi lông đổi cánh biến thành bồ cu hết, Quốc hội thù nghịch chỉ tìm cách xiết cổ Đông Dương. Tại nước Mỹ nay số người còn ủng hộ chiến tranh Đông Dương chỉ còn đếm trên đầu ngón tay trước hết TT Nixon, Kissinger, Tướng Haig và một số phụ tá của Tổng thống và của Kissinger. Người dân và Quốc hội đã quá chán ngấy cuộc chiến sa lầy đến tận cổ. Mặc dù hành pháp Mỹ nhắc nhở TT Thiệu nhưng ông vẫn không tin, ông vẫn chủ quan cho rằng Mỹ không dám bỏ miền Nam, nơi đây vẫn là tiền đồn chống Cộng.

Vì quá chủ quan nên tháng 3-1975 ông đã sai lầm tháu cáy giả vờ thua chạy để Mỹ xót ruột nhẩy vào.

Trên đây chỉ là những giả thuyết về việc Tổng thống Thiệu tháu cáy người bạn đồng minh.

Kết Luận

Tuy nhiên không có nghĩa là TT Thiệu tháu cáy sai lầm làm sụp đổ Quân đoàn 2 đưa tới sụp đổ miền Nam. Thực ra sự sai lầm của ông chỉ làm cho miền Nam sụp đổ nhanh hơn dự kiến. Nếu TT Thiệu không thực hiện tái phối trí và để Tướng Phú tử thủ tại Pleiku, chính ông Tướng này đã nói nếu được tiếp viện có thể giữ được một tháng nhưng đó chỉ là hy vọng chủ quan trong khi đạn dược tiếp liệu miền Nam đang lâm vào tình trạng kiệt quệ. Sự sụp đổ cả hai Quân đoàn 1, 2 và cả miền Nam tháng 4-1975, một phần vì sự sai lầm của TT Thiệu và nhất là do hỏa lực yếu kém của ta trước áp lực mạnh, đông đảo của đối phương. Người ta thường nói vì ông Thiệu sai lầm triệt thoái Cao nguyên mà mất nước hoặc nói vì ông Dương Văn Minh đầu hàng CS mà mất miền Nam, vấn đề không đơn giản như thế.

Xin nói sơ về thực trạng bi đát này do hậu quả của việc Hoa kỳ cắt giảm quân viện năm 1974, 75.

-Trước hết trang 92 Cuốn Những Ngày Cuối của VNCH, ông Cao Văn Viên cho biết trong tháng 2-1975 tồn kho đạn dược của tất cả các loại súng lớn, súng nhỏ chỉ còn đủ xài 30 ngày.

-Trước đó hai tháng sau khi Cộng quân chiếm Phước Long ngày 7-1-1975, vài tuần sau vào ngày 24 và 25-1-1975, TT Thiệu gửi thư cầu cứu TT Ford về tình trạng nguy khốn của VNCH. Bức thư này được Tiến sĩ Kissinger nói tới trong Years of Renewal trang 490 như sau.

“Ông Thiệu diễn tả cuộc tấn công này của địch rất qui mô hùng hậu bằng hỏa lực mạnh và thiết giáp. Trái lại quân đội miền nam VN đã phải đếm từng viên đạn pháo để tiết kiệm để còn đạn sử dụng

(He described the intensity of the North Vietnamese attacks, backed by the “massive application of fire power and armor”. By contrast, the South Vietnamese troops “had to count every single shell they fired in order to make the ammunition last)”.

-Theo Kissinger tháng 1-1975 báo Học tập cùa CS viết về tình trạng khó khăn của VNCH.

“Hỏa lực và sự di động của quân Ngụy giảm mạnh trong quí ba 1974, hỏa lực pháo binh hàng tháng của quân Ngụy giảm ba phần tư (3/4) so với 1973. Số phi vụ chiến thuật hàng ngày của Ngụy giảm chỉ còn một phần năm (1/5) so với năm 1972. Số máy bay Ngụy so với thời ký chiến tranh trước đây giảm 70%, trực thăng giảm 80%…Kho bom đạn Ngụy giảm mạnh và gặp nhiều khó khăn về tiếp liệu, bảo trì, sửa chữa các loại máy bay, xe tăng, tầu thuyền, vũ khí nặng…
Years of Renewal trang 480

Nhận xét của CS về sự thiếu thốn của quân đội miền Nam cũng gần với các dữ kiện trong cuốn NNCVNCH kể trên của ông Cao Văn Viên trang 86. 87. Từ trang 89 tới trang 94 tác giả đề cập vấn đề đạn dược tiếp liệu, từ tháng 8-1974 tới tháng 2-1975 quân đội ta chỉ xử dụng 19,808 tấn đạn hàng tháng chỉ bằng 27% so với 73,356 tấn dùng hàng tháng trong thời gian trước đó, nghĩa là hỏa lực đã giảm 70%!
Trong khi ấy Hà Nội được CS quốc tế viện trợ dồi dào.

Giai đoạn 1969-1972 họ được Nga, Trung Cộng và các nước xã hội chủ nghĩa viện trợ 684,666 tấn vũ khí. Giai đoạn 1972-1975 họ nhận được 649,246 tấn hàng vũ khí, số lượng hàng viện trợ của hai giai đoạn tương đương nhau.(Bản tin của BBC.com ngày 5-10-2006).

Theo Kissinger, Hà nội đã xin được viện trợ của Sô viết tăng gấp bội. Thàng 12- 1974, một viên chức cao cấp Nga viếng Hà Nội lần đầu tiên kể từ sau ngày ký Hiệp định Paris. Tổng tham mưu trưởng Nga Viktor Kulikov tới tham dự họp chiến lược với Bộ chính trị BV, nay họ bãi bỏ hạn chế trước đây. Sô Viết đã chở vũ khí viện trợ quân sự cho Hà Nội tăng gấp 4 lần trong những tháng sau đó. Nga khuyến khích BV gây hấn
(Years of Renewal trang 481).

Quân khu 2 diện tích rộng nhất toàn quốc gồm 12 tỉnh chỉ có 2 Sư đoàn bộ binh và 7 Liên đoàn biệt động quân bảo vệ là nơi yếu nhất so với các Quân khu khác nên CS đã chọn để tấn công trước. Sư đoàn 23 chịu trách nhiệm cao nguyên, Sư đoàn 22 bảo vệ vùng duyên hải.

Lực lượng BV tại đây gồm 5 Sư đoàn (10, 320A, 316, 968, 3) và 4 Trung đoàn độc lập (25, 271, 95A, 95B), Trung đoàn đặc công (14, 27), chưa kể các lực lương yểm trợ. Tổng cộng khoảng 6 Sư đoàn bộ binh.

(Theo Dương Đình Lập, Trần Minh Cao, Cuộc Tổng Tiến Công Và Nổi Dậy Mùa Xuân 1975, trang 90, 91.)

Như vậy dù ông Thiệu không rút bỏ Cao nguyên và giao cho Tướng Phú tử thủ thì cũng chỉ giữ được một thời gian nào đó, có lẽ không quá một tháng vì như đã nói trên miền Nam đã bị kiệt quệ đạn dược tiếp liệu trước áp lực mạnh và hỏa lực áp đảo của địch.

Tướng Phú nói một câu rất anh hùng, ông xin TT cho ông ở lại giữ đất chiến đấu và chết tại đó, nhưng dù ông có chết tại trận địa cũng không cứu được Quân khu, không cứu được miền Nam mà chỉ kéo dài sự dẫy chết thêm hơn một chút.

Trường hợp Tướng Phú đẩy lui được cuộc tấn công của địch tại Pleiku, Kontum…, sau đó ta lâm vào tình trạng hết đạn VNCH cũng sẽ phải xin viện trợ khấn cấp. Thực tế cho thấy hạ tuần tháng 4-1975, Quốc hội Mỹ đã bác bỏ tất cả các khoản viện trợ cho chiến tranh VN. Đảng Dân chủ đã thắng lớn trong cuộc bầu cử Hạ viện tháng 11-1974, họ chiếm 66.9% Hạ viện, gồm nhiều người mới chủ trương chống chiến tranh tới cùng và bác bỏ tất cả mọi ngân khoản quân viện cho Đông Dương. Trên thực tế tại chính trường Mỹ năm 1975 số người ủng hộ chiến tranh VN chỉ còn vài người: Tướng Weyand, Kissinger và TT Ford. Ngay tại nội bộ Hành pháp, các cố vấn, phụ tá của Tổng thống cũng đã căn ngăn ông đừng can thiệp vào cuộc chiến sa lầy. Quốc hội thù nghịch như ta đã biết thái độ của họ rõ ràng là “Sống chết mặc bay”.

Cựu Đại Tướng Cao văn Viên cho biết

Nghĩ lại việc đã qua, câu hỏi là miền Nam có sống sót nếu chúng ta không áp dụng kế hoạch tái phối trí lực lượng quân sự hay không. Bây giờ nói thì sự đã rồi, nhưng tác giả tin miền nam có nhiều cơ hội hơn nếu không thực hiện tái phối trí. Tinh thần chiến đấu của quân đội VNCH và nhân dân bị hủy diệt là nguyên nhân trực tiếp của kế hoạch tái phố trí. Không có kế hoạch đó, có lẽ quân đội của chúng ta không tan rã nhanh như vậy. Chúng ta có thể mất đi một phần của sư đoàn 23 BB nhưng tất cả những đơn vị khác vẫn còn nguyên vẹn. Dù lấy được ban Mê Thuột Cộng quân vẫn phải ngừng lại, suy tính kỹ trước khi mở một mặt trận mới ở vùng II. Vùng II vẫn còn Sư đoàn 22BB, cộng thêm với một lực lượng tương đương với 2 sư đoàn bộ binh và hai sư đoàn không quân. Vùng II có đủ quân nhu và tiếp liệu để chiến đấu đến hết mùa khô. Không có kế hoạch tái phối trí, tác giả không nghĩ Cộng Sản có thể thành công, đánh nhanh và chiếm được nhiều đất như họ đã làm ở vùng I. Tình hình quân sự nhân lực của VNCH vẫn gặp những khó khăn dai dẳng như trước khi có quyết định tái phối trí: thiếu thốn về quận viện; không còn nhân lực để lập thêm những đơn vị tổng trừ bị. Nhưng ít ra quân đội VNCH sẽ không tan rã nhanh chóng như khi quyết định tái phối trí được thực hiện”.
Những Ngày Cuối của VNCH, trang 134

Theo ông Cao Văn Viên sau khi mất Ban Mê Thuột ngày 13-3-1975 lực lượng VNCH tại Quân khu 2 còn tương đối đầy đủ, nếu TT Thiệu không cho rút khỏi Pleiku, Kontum miền Nam sẽ có nhiều cơ hội hơn. Sự thực thì chẳng có cơ hội nào cả vì cuộc bầu cử Hạ viện Mỹ thượng tuần tháng 11-1974 đã là bản án tử hình cho cả Đông Dương. Đảng Dân chủ phản chiến đã chiếm đại đa số tại Hạ viện 66.9%, họ nắm giữ túi tiền, họ nắm giữ sinh mạng của cả Đông Dương. Hạ viện đã hai lần trả lời miền Nam xin viện trợ bổ túc tháng 3-1975 và viện trợ khẩn cấp tháng 4-1975 một cách thẳng thừng “Sống chết mặc bay”.

Tôi xin ngược dòng thời gian một chút để vấn đề được sáng tỏ hơn. TT Nixon thắng cử nhiệm kỳ hai tháng 11-1972 với 60% số phiếu bầu, hơn đối thủ McGovern 18 triệu phiếu phổ thông, 530 phiếu cử tri đoàn. Người ta ủng hộ ông vì ông sắp mang lại hòa bình, nhưng họ chống lại ông vì ông còn tiếp tục ủng hộ cuộc chiến VN. Từ sau Hiệp định Paris đảng đối lập và phản chiến tiếp tục chống Nixon. Sự thực ngay từ sau trận Mậu thân khi số người ủng hộ cuộc chiến tụt thang nhanh chóng, số chống chiến tranh lên cao, khi ấy số phận Đông Dương đã bắt đầu ngắc ngoải. Sang năm 1969 khi Nixon lên nhậm chức Tổng thống phong trào phản chiến càng dữ dội hơn trước. Từ 1969, 70..biểu tình tiến tới giai đoạn bạo động, đổ máu, sinh viên bắn cảnh sát, bắn súng đốt nhà, đập cửa kính, ném bom lớp học (No more Vietnams, trang 126-127). Họ chán ngấy cuộc chiến tranh Đông Dương.

Đứng trước sự chống đối ngày càng mạnh của phong trào phản chiến, họ đòi phải ra khỏi cuộc chiến Đông Dương ngay. TT Nixon và Kissinger, người phụ tá cố tìm lối thoát, mở cuộc tấn công qua biên giới Mên, Lào…rút quân về nước để xoa dịu sự chống đối. Nhưng thực ra tình trạng ngày càng bi đát, mọi cố gắng của Nixon và Kissinger cũng chỉ là giải pháp tạm thời, vá víu, nói khác đi chỉ giúp cho Đông Dương và miền Nam sống thêm ngày nào hay ngày nấy.

Sự ngoan cố của Hà nội đã khiến hòa đàm Paris kéo dài tới bốn năm. Mặc dù Nixon đã dội 20 ngàn tấn bom lên Hà Nội, Hải phòng cuối năm 1972 nhưng ông vẫn phải nhượng bộ BV để cho họ được ở lại miền Nam vì bị Quốc hội thúc ép phải ký. Lập pháp luôn hăm dọa ra luật chấm dứt chiến tranh, cắt viện trợ VNCH để đánh đổi lấy tù binh Mỹ. Trước khi ký Hiệp định, các Trưởng ban tại Quốc hội hứa hẹn tiếp tục viện trợ nhưng ký xong, họ trở mặt cắt giảm viện trợ dần dần và trói tay hành pháp. Tháng 6-1973 Quốc hội ra luật cắt bỏ mọi ngân khoản cho việc oanh tạc cũng như mọi hoạt động quân sự khác tại Đông Dương, có hiệu lực từ 15-8-1973. Họ còn đi xa hơn thế, ngày 7-11-1973 ra luật War Power Act hạn chế quyền Tổng thống, trước khi gửi quân ra ngoại quốc tham chiến, TT phải hỏi Quốc hội.

Trói tay hành pháp bằng các luật mới như trên chưa đủ, người ta sợ Nixon sẽ làm liều, làm ẩu cho ném bom B-52 khi BV vi phạm Hiệp định. Quốc hội thù nghịch và phong trào chống đối tìm cách loại bỏ Nixon vì ông vẫn là trở ngại hòa bình. Mặc dù đã ký Hiệp định ngưng bắn nhưng họ thừa biết Nixon và Kissinger vẫn tiếp tục chiến tranh dưới hình thức cưỡng bách thi hành Hiệp định (to enforce the agreement), trừng trị mọi vi phạm của CS bằng B-52, hai người đã lên kế hoạch nghiền nát BV. Khi Nixon đã mang lại hòa bình, họ chống đối hành pháp mạnh hơn trước, hết chống chiến tranh họ quay ra vụ Watergate từ tháng 4-1973, cho tới ngày 8-8-1974 Nixon phải từ chức. Vài tháng sau, 7-11-1974, họ hả hê kéo nhau vào Hạ Viện, Dân chủ phản chiến từ 242 ghế (55.6%) năm 1972 tăng lên 291ghế (66.9%) năm 1974, Cộng hòa giảm từ 192 ghế (44.2%) năm 1972 xuống còn 144 ghế (33.1%) năm 1974.

Nay những người Dân chủ mới, kiên quyết chống chiến tranh Đông Dương đã vào Hạ Viện, số phận của ba nước Việt Miên Lào đã được quyết định rồi. Họ chống bất cứ khoản viện trợ nào cho cuộc chiến sa lầy. Tháng 3-1975, và tháng 4-1975, hai khoản viện trợ Bổ túc 300 triệu và viện trợ Khẩn cấp 722 triệu của VNCH đã bị bác bỏ không thương tiếc.

Trở lại vấn đề đang bàn trên đây, dù TT Thiệu cho rút khỏi Cao nguyên hay không cũng không tránh khỏi sự sụp đổ sau cùng, không bao giờ miền Nam VN còn hy vọng được Hoa Kỳ cấp viện trợ để tiếp tục chống xâm lăng. Ngay cả TT Nixon cũng không thể quay ngược bánh xe lịch sử, người Mỹ đã quá ghê tởm cuộc chiến tranh bẩn thỉu của Hà Nội.

Tác giả Walter Isaacson trong Kissinger, A Biography trang 487có nói

“Một khi người Mỹ đã tìm được con đường ra khỏi Việt Nam, cả Quốc hội lẫn người dân đều đã không muốn can thiệp trở lại, dù có hay không vụ Watergate. . .
. . . Bất kể có hay không có vụ Watergate, người Mỹ không còn muốn dính dáng gì với Việt Nam”

(Once America had found a way to disengage from Vietnam, neither the Congress nor public would have permitted a reengagement, with or without Watergate. . .
. . . Irrespective of Watergate, Americans wanted nothing more to do with Vietnam).

© Trọng Đạt

© Đàn Chim Việt
————————————————–
Tham Khảo

Phạm Huấn: Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên 1975, Cali 1987
Cao Văn viên: Những Ngày Cuối Của Việt Nam Cộng Hoà, Vietnambibliography 2003.
Hoàng Lạc, Hà Mai Việt: Việt Nam 1954-1975, Những Sự Thật Chưa Hề Nhắc Tới Texas 1990.
Nguyễn Đức Phương: Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập, 1963-1975, Làng Văn 2001.
Nguyễn Kỳ Phong: Vũng Lầy Của Bạch Ốc, Người Mỹ Và Chiến Tranh Việt Nam 1945-1975, Tiếng Quê Hương 2006
Dương Đình Lập: Cuộc Tổng Tiến Công Và Nổi dậy Mùa Xuân 1975, Nhà xuất bản Tổng Hợp T.P.H.C.M 2005
Phạm Bá Hoa: Cuộc Rút Quân Trên Đường Số 7B, Người Việt Dallas 19-3-2004
Hồi Ký Của Trung Uý D: Những Ngày Cuối Cùng Trên Liên Tỉnh Lộ 7B, Người Việt Dallas, 25-3-2005

Henry Kissinger: Years of Renewal- Simon & Schuster 1999
Walter Isaacson: Kissinger A Biography Simon & Schuster 1992.
Larry Berman: No Peace No Honor, Nixon, Kissinger and Betrayal in Vietnam-The Free press 2001
Richard Nixon: No More Vietnams, Arbor House, New York 1985
Marvin Kalb and Bernard Kalb: Kissinger; Little, Brown and company 1974
The Word Almanac Of The Vietnam War: John S. Bowman – General Editor, A Bison-book 1985
Wikipedia: Opposition to the US involvement in the Vietnam war

 

36 Phản hồi cho “Tổng thống Thiệu triệt thoái quân đoàn hai”

  1. CĐ16 says:

    Sáng nay 19/06/12, đọc những phản-hồi mới nhất trong bài chủ này, tôi đặc-biệt hoan-nghênh các bạn :
    (1) – Đao cong Khai với phần trích đoạn của Duyên Anh ‘ về bộ mặt của Mỹ ‘. Nhận-xét đó của DA tuy không hoàn-toàn đúng, nhưng cũng đa phần nói lên tâm-lý người Mỹ bấy giờ. Tôi đã từng sinh-họat nhiều với cố-vấn Mỹ ( khi còn ở LLĐB, mà 1 Toán A/ LLĐBVN chưa đến 10 người, làm việc với 1 Toán A/ LLĐB/HK làm cố-vấn, có trên 10 quân-nhân Mỹ), hiểu tâm-lý họ nói chung, rất như sự mô-tả của DA. Hi-hữu mới thấy một vài SQ Mỹ ‘ có học ‘, thường do tốt-nghiệp từ WestPoint, biết tự-trọng, hiểu đúng vai-trò cố-vấn của mình, tôn-trọng cấp chỉ-huy ngưới Việt.
    (2) – Việt Phú với phản-hồi 19/06/12 lúc 00:31, có nghiên-cứu công-phu, phân-tích tỉ-mỉ, giúp tôi học-hỏi được nhiều. Duy có hai điểm tôi không đồng-ý lắm : (a) ‘ TT Thiệu muốn giữ Tây-nguyên, không phải là quân-sự mà là kinh-tế-xã-hội và văn-hóa, thu-phục nhân-tâm mà ông chưa đủ cơ-hội thực-hiện ‘. Ở đây, trong bài chủ, đang nói về sự rút khỏi Tây-nguyên, là nói về mặt quân-sự.Hơn nữa khi nói về mặt KT,XH,VH và thu-phục nhân-tâm là chuyện lâu-dài, có tính-cách chiến-lược, không phải là cái point xoay quanh việc rút khỏi Tây-nguyên nói riêng và VNCH bị bức-tử nói chung. (b) ‘ Đối với Tây-nguyên, trong hoàn-cảnh đó, Nguyễn-Huệ và Trần Quốc Tuấn có tái-sanh cũng rút quân ‘. Phản-hồi không đưa ra một luận-cứ thuyết-phục, mà chỉ khẳng-định suông với một sự rút quân, e có hơi võ-đoán. Giả-thử có người đề-nghị thế này : Ngay trong thời-điểm Ban-mê-thuột bị CS Bắc-Việt chiếm, cùng với cho-là 5 hay 6 sư-đoàn khác tấn-công toàn Vùng 2 CT, thì Văn Tiến Dũng có mật-điện khẩn-cấp từ Hà-nội báo cho biết ( dĩ-nhiên kèm theo là một quyết-định của BCT/CSVN điều-động một số lớn binh-đoàn CS Bắc-Việt đang tham-chiến tại Nam VN ) rằng khoảng 10 sư-đoàn CSTQ đang ‘ thiện-chí giúp-đở ‘ Bắc VN, bước vào VN từ biên-giới Việt-Trung ( lý-do vì sao, thì có những thuyết-minh khác trình-bày). Giả-thuyết đó không phải là không thể xảy ra. Còn nữa, bài viết của Giao Chỉ ‘ Kịch-bản 75 :…’ tuy không phải là thượng-sách, nhưng cũng là một cớ trì-hoãn-chiến, và bảo-vệ cho chiến-thuật không rút quân. Dĩ-nhiên khi phân-tích cặn-kẽ, còn có những đề-án chiến-thuật khác tốt hơn thế. Chúng ta chỉ qua lịch-sử mới biết một ít về Nguyễn-Huệ và Trần Quốc Tuấn ; chúng ta chưa khai-thác triệt-để thiên-tài của hai vị anh-hùng này, nên chưa thể khẳng-định họ sẽ làm như mình, như ‘ điều mình tưởng là impossible ‘.
    (3) – Phạm Hoàng Châu với phản-hồi 18/06/12 lúc 18:43. Ý-kiến của bạn không phải là không hợp-lý. Đó có thể là một trong những đáp-án chấp-nhận được cho việc VNCH bị bức-tử một cách mau-chóng đáng ngạc-nhiên, mà những suy-luận hợp-lý, khách-quan không thể đổ lỗi cho một ‘ TT Thiệu bất tài ‘. Tôi nghĩ và tin rằng Hà Châu chắc hẳn đã có được những nguồn tin có giá-trị để đề ra đáp-án trên. Tiếc rằng NCK được điều này, lại mất điều kia – về đạo-đức và về tư-cách -

    • Hà Châu says:

      Thưa CĐ-16 .Chuyện riêng :Tin buồn: Võ đăng Diệu, bút hiệu Hà Ly Mạc,
      Khóa 16 VBQG, qua đời vào ngày Chù nhựt 17 tháng Sáu tại S. J. Lễ
      hỏa thiêu cử hành vào thứ Sáu 22 tháng Sáu này. Diệu theo Phật giáo.

      • May Vu says:

        Xin thành thật chia BUỒN gia đình bác Võ đăng Diệu ,
        Cầu chúc Vong linh bác về nơi cỏi phúc

      • CĐ16 says:

        Chuyện riêng. Cám ơn Hà Châu. ‘ Tuổi già hạt lệ như sương, Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan ‘. Nhớ những năm tháng còn ở Cali, tôi vẫn thường đến và ở lại với anh chị Diệu, chị ấy cũng thường hay nấu ăn mời mọc tôi ; và tôi cũng thường y/c Diệu đọc cho nghe những bài thơ mới nhất của Diệu, và tôi đã lắng nghe và góp ý, có khi đến hằng tiếng. Đã 20 năm rồi. Kkóa tôi, người lớn nhất cũng 75 tuổi, người nhỏ nhất như Đ/tá Vĩnh Dác, sinh năm 1942, 70 tuổi ; nếu những ai còn sống thì cũng là thọ rồi. Chúng tôi, K.16 ở Atlanta – 4 người – đã gởi message phân-ưu. Năm trước hình như cũng đã rụng đi hết 3 người. Tôi quên nhắc anh một người, tên TCĐ – tôi viết tắt để anh ráng nhớ lại – cũng K.13 với anh, có người anh ruột là Trần trọng Hợp, K.14 đi ND và đã tử-trận. Hai anh em TCĐ đó đều là cháu họ của tôi. TCĐ bị ung thư cổ, đi tù cải-tạo ít năm, bệnh trở nặng, được cho về thì qua đời. TCĐ, cấp bậc sau cùng là Tr/tá Công-Binh.Vậy thôi, lần nữa cám ơn anh về việc báo tin đám tang của VĐD.

  2. hsf says:

    Mỹ đóng quân ở VN làm 1 số người chướng mắt, cũng như Bin Laden rất chướng mắt về việc lính Mỹ đóng quân ở xứ Saudi Arabien, quê hương của hắn…

    Duyên Anh sau nầy vượt biên rồi sống ở đâu nhỉ?

    • Ngua Mom says:

      Duyên Anh không vượt biên mà được Hội Ân Xá QTế can thiệp để đi Pháp.

  3. Phạm Hà Châu says:

    Bổ túc: Về việc MTGPMN sẽ có vùng trái độn, như nửa úp nửa mở,
    và MTGPMN tự mình tin rằng họ sẽ có vùng đệm đó trong hòa
    giải hai bên tại miền Nam. — Thế nhưng, Tt Thiệu đã ra lệnh
    quân hồi vô phèng cho…chạy về Nam, nhường lãnh thổ quá mau
    lẹ cho cánh Bắc Việt ” thừa thắng xông lên,” qua mặt MTGPMN,
    phá vỡ luôn cái Vùng Đệm ảo tưởng của MTGPMN ( hẳn là trong
    bóng tối, phải có sự đưa đẩy tình hình như thế. Ai trong bóng
    tối, ta suy ra, cũng dễ biết). — Cánh Bắc Việt muốn chắc ăn,
    đã ” biên chế” Tướng Trà của MTGPMN sang với QĐ IV BV, nói
    là…thay Hoàng Cầm đánh thua, mà sự thật là ” cách ly” Trà khỏi
    quyền tư lệnh các lực lượng GPMN — Và cánh Bv đã tận tụng khai
    thác sự di động mau của Thiết giáp để tiến chiếm Dinh Độc Lập,
    ép ông DV Minh phải hàng với…MTGPMN, mà thưc ra là do
    cánh bắc Việt tiếm danh và tiếm dạng. Vậy, như trò trẻ con, sự
    quan sát quốc tế chỉ thấy rẵng, ông Big Minh đọc ” Lời đàu hàng”
    với MTGPMN, và lá cờ MTGPMN trưng lên trên nóc Dinh ĐL.
    Có dịp, PHC sẽ thưa thêm về màn kịch sáng 30.4.75 tại Dinh
    ĐL, và ý nghĩa sắp đặt của màn kịch này. Bài này đã gời đên
    cả hai ĐCV, nhưng chăc khó được đăng, bởi cách suy nghĩ của
    các bạn miền Bắc vẫn hướng vế đưiờng lối CS vào thời 1975.

  4. Dao Cong Khai says:

    Nhà văn Duyên Anh viết (về bộ mặt của Mỹ):
    “Tôi nói tiếp về lý tưởng khai phóng tự do, dân chủ và sự có mặt của người Mỹ, chính sách Mỹ ở nước tôi. Trước hết, lý tưởng ấy được khai phóng một cách trịch thượng, xấc láo và đốn mạt. Nó khỏi sự bằng 2 bàn tay thân hữu. Rồi không thân hữu nữa. Vì nó không muốn kết bạn với nước nhỏ. Nó có đầy tớ. Nó rút bàn tay biểu tượng trên nên cờ sao sọc khỏi bàn tay nước nhỏ. Để nắm cổ nước nhỏ! Muốn nắm cổ nước nhỏ mà thao túng, nó phải tiêu diệt thần tượng của nước nhỏ, nó phải gạt loài người công chính mà đem mồi phú quý nhữ lũ cầy cao tay sai. Và nó đã chơi trò bẩn y hệt Nhạc Bất Quần cộng sản. Nếu cộng sản phát động quần chúng để chôn sống các giai cập đối nghịch thì người Mỹ cũng xúi bẩy các phong trào quần chúng vùng dậy bắn bỏ lãnh tụ của họ, kẻ đối nghịch với quyền lợi Mỹ. Cộng sản trơ trẽn tuyên bố: Đó là sự phẫn nộ của nhân dân. Người Mỹ trơ trẽn tuyên bố: Đó là sự phẫn nộ của các phong trào đối lập muốn có tự do, dân chủ thật sự! Về thủ thuật giết người ái quốc nước nhỏ, chỉ khoái xử dụng đầy tớ ngoan ngoãn, cộng sản và tư bản giống nhau. Tư bản tệ hơn cộng sản ở điểm, đã tình nguyện làm đầy tớ cho nó mà nó vẫn không bênh vực tận tình. Hà Nội và Sàigòn là sự so sánh chính xác nhất.

    Không hề thấy báo chí Liên Xô phê bình cuộc chiến đấu chống Mỹ của Hà Nội. Nghệ thuật tuyên truyền của Liên Xô đã kích thích cả ông già sắp chết, con nít còn hôi mùi sữa ủng hộ nước bạn Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Đến Simonov, nhà thơ kích thước của Liên Xô, còn chi một bài thơ ca ngợi sự hứng bom Mỹ của Hà Nội và lên án Mỹ kịch liệt. Ngoài Liên Xô, trước 30-4-1975, không hề thấy bảo chí Đông Âu nói xấu người anh em cộng sản Việt Nam. Không hề thấy một lời ngắn nào của các nhà lãnh đạo xã hội chủ nghĩa công kích Hà Nội… Trong lòng nó, dĩ nhiên, bẩn thỉu, bẩn thỉu như lòng đàn anh nước lớn tư bản. Thế giới cộng sản nó chơi với nhau, thế đấy. Còn thế giới tự do chơi với nhau ra sao? Thế giới tự do luôn luôn ngoác cái miệng vinh tôn “Sàigòn là tiền đồn chống cộng ở Đông Nam Á”, “Nam Việt Nam là thành trì bảo về tự do thể giới” nhưng cũng luôn luôn uốn lưỡi bôi nhọ Sàigòn đủ cách, đủ kiểu, mặc dù, đại diện của cái thế giới nhỏ mọn, bất công ấy đã làm giàu trong chiến tranh tủi nhục 20 năm của Sàigòn…
    Tôi xin đan cử một vị tiêu biểu cho tinh hoa của dân tộc Hoa Kỳ thôi. Vị này, ngài Fullright đã nằm ngủ ở Hoa Thịnh Đốn, trong chiêm bao, ngài ú ớ: “Sàigòn là một ổ điểm!”. Anh thấy vị nghị sĩ tinh hoa của văn mình 200 năm Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ này có mặt dầy, vô giáo dục không? Kẻ thù của Mỹ là Liên Xô. Kẻ thù hung hãn nhất thời đó là Việt Cộng mà không dám sủa: “Washington là một ổ lưu manh!” Những đồng minh Mỹ đã xất xược ví thủ đô “nước bạn”, thủ đô của văn hóa, của văn học nghệ thuật, của mọi cơ cấu quốc gia, của anh hùng dân tộc Việt Nam là “ổ điếm” thì, quả thật, miệng ông ta và công ty có gang có thép…

    Anh hãy đến thư viện nước Mỹ, bất cứ một thư viện lớn của tiểu bằng nào, lục lại các báo đã xuất bản năm 1954, trước ngày chí sĩ Ngô Đình Diệm về nước chấp chánh mà đọc. Anh đừng quên đọc chuyện Mỹ du của chí sĩ Ngô Đình Diệm mà báo chí Mỹ đã thắp hào quang rực rỡ chung quanh thân thế và sự nghiệp vị lãnh tụ anh minh của Nam Việt Nam. Đọc kỹ, anh nhé, chuỗi ngày dẹp sứ quân, chuỗi ngày xây dựng ấp chiến lược. Đủ rồi, anh lại tìm đọc, vẫn những tờ báo đã ca ngợi chí sĩ Diệm, bởi nhờ ông quyết liệt, xả láng, xuất bản năm 1963, trước ngày ông bị tay sai của Mỹ bắn chết trong xe bọc sắt của Mỹ. Họ đã khạc đờm xuống vỉa hè rồi họ hạ mình cúi liếm những bãi đờm họ đã khạc! Chữ nghĩa có 2 tiếng phản tỉnh vừa dễ yêu vừa ghê tởm. Những kẻ trót “bốc thơm” người khác, trót đánh bóng, mạ kền người khác vì những quyền lợi nào đó, khi cảm thấy mình hố hay khi cảm thấy quyền lợi mới beo bở hơn thì “thối” hóa “thơm” vá “thơm” hóa “thối”…
    Cái số báo chí đã nhục mạ quân đội của Sàigòn: “Chết bị xe cán nhiều hơn là chết bị Việt Cộng giết”, chắc chắn, chưa hề đọc “Nghĩa vụ luận” nghề nghiệp. Họ không ưa ông tướng Phan Trọng Chinh, họ bênh cố vấn của họ bị ông Chinh khinh thường thì họ cứ “bốc thối” ông Chinh, việc gì họ phải hèn hạ xuyên tạc lính của Sư đoàn 25? Và báo Mỹ đã không phê bình cá nhân các nhà lãnh đạo, mà nó cứ ra rả miệt thị chế độ Sàigòn. Báo chí Mỹ là lũ cán bộ tuyên truyền cấp xã của cộng sản Hà Nội…”

    http://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237nvnnnqnnnqn31n343tq83a3q3m3237n2n

    • Người Việt Hải Ngoại says:

      Ô hô …, Cứ thẳng toẹt ra Sự Thật Cay Đắng ấy của Chủ Mẽo , còn hơn là cố nhăn nhở bợ đỡ đám ngoại bang . – Hê…hê…!!!

  5. May Vu says:

    B63 uan me Thuộc tràn ngập rồi chờ Tiếp viên QĐ II tiếp chờ TT Thiệu và TT chờ TT Ford và cuối là chờ quốc hội Mỷ ….không thông qua viên trợ thì Miền nam ,,Chết hay bỏ Chạy củng gần giống nhau.
    Nhớ đổi về dơn vị chổ Chó ăn đá ,gà ăn muối lèo tèo Tr Đ chỉ hơn Tiểu độichổ ban ngày bốn bề thọ địch ,giống Trạng Trình sang sứ Tàu thế nào củng chết bền bày kế kêu đại Nguyển văn meo may còn đường về …’chổ ban ngày QG ban đêm VC dân làng tối về gần đồn ngủ ,sáng trở lại ruông đồng và đón hỏi tin tức tình báo và báo cáo qua loa ,họ cho tin gì gửi về quận ,chỉ đi lén hoen dọc quốc lộ vài trăm mét ,đi sâu hơn nửa phải chờ Quân ,Tỉnh ,Phào phối hợp hành quân ,mà mổi lần đi rầm rộ là VC nó chạy xa rồi ,và hết ồn ào lại mọc ra lại,và hỏi ra dân ngủ đêm thì họ sợ chúng ta pháo ,bà bắn nhầm lúc bật đèn lo con cái đau ốm hay đau bụng thổ tả ,thật vậy hể nơi xa ban đêm có tia sáng ,bóng đèn là mục tiêu địch là bắn hay gọi pháo dập không biết là ai.,Và một lần hơn 2 đại đội địch tấn công trần ngập ,may mùa khô ra khỏi vì nhờ ống cống dài thoát nước công sự , và bạn cùng khóa hứa giúp gả em gái, tôi cho tọa đô kỷ ,pháo chính xác và địch rút lui và củng còn bị hèo là bỏ đồn
    Cho nên đich tràn ngập Ban mê thuộc ,Lộc ninh 72 (trung đoàn 9) Phan rang và Tình báo Dinh độc Lập, và Hải ngoại mà ta chăng bao giờ hay , vì chúng ta Không đi sát DÂN =không có DÂN mà chỉ qua loa như tôi báo cáo gà ,báo cáo vịt mà sao tôi biết họ ra ngủ đêm thât sự là ai,và khả năng không thề chiến đấu một mình ,và cần đợi YỂM TRỢ và tối hôm đó Quận vào cứu đồn tôi chắc củng bị PHỤC KÍCH ?
    Và còn thấy dân không có bà con nước ngoài họ lảm ăn rất tốt ,làm chủ vài mẩu cao su ,nhà hàng .v.v.hơn những thân nhân có bà con Viêt kiều gửi tiền về cho họ ,vì họ biết thân phân họ nên tự túc lấy ,có than nửa củng là không.
    Bài học VN ,Hội đàm Paris thấy thất bại trước mắt là người Việt giải quyết với ngưới Viêt đi kèm Hoa -kỳ (US) giống thời PHÁP THUỘC ,hay đứa trẻ đi với ông NGOẠI mà quyết định lá tử vi do ông thì chỉ ÔNG biết mà thôi.
    Cho nên VN chúng ta lúc nào củng phải tin chính mình ,đôi tay ,đi đôi chân của mình chứ chờ Viên trợ ,cứu trợ chỉ dài cổ ra như 75

    • May Vu says:

      Nói ra thì BUỒN ván bài VN 75 hết đường BINH rồi ,khỗng thể thắng ,không thể huề chỉ còn có thua,thua ít hay thua nhiều mà thôi ,,Cho dù các vị TIÊN lên làm TT hay Tướng đi nửa lúc đó cũng kết qua như nhau.
      Khi ĐỒNG MINH THÁO CHẠY bài toán đã tính thật kỷ rồi cọng ,trừ ,nhân ,chia, lủy thừa v.v.lùi 1 bước tiến 2-9 bước hay Hoa kỳ kéo dài tới 37 năm bao cấp sẻ tan ra như ĐÔNG ÂU..?
      Nếu chiến tranh VN tiếp tuc đến bây giờ, Quân dân VN Miền nam tệ lắm gấn 20 triệu thương ,vong (20%) vật chất tiền sẻ là tỉ n bình phương $$$
      Thiết nghỉ ,July 4 săp đến tốn vài trăm đô mua pháo ,đốt vèo ,nổ một tí là hết ,nhiều thành phố Hoa kỳ củng có nhiều nơi ngân quỷ thiếu hụt không đốt,hay hạn chế bắn pháo bông ,trong khi còn chiến tranh viên đạn pháo mắc nhiều lần mà phải ráng bắn ngày bắn đêm ,nếu lấy tiền túi ,bán nhà ,bán ruộng mà mua pháo mua đạn thì điền vào CHAPTER 7 hay 11 để giải thích rỏ hơn
      Nhiều khi chúng ta thỉnh thoảng nhắc con cái tiêu dùng câu

  6. Thaophuong says:

    Nhìn ông Thiệu ( dù đã để mất miền Nam VN ) Nhưng sắc mặt vẫn có nét uy hùng của TT , còn Mạnh , SANG , Hùng , Dũng sao mà giống Ô- sin của Tàu cộng thế , khúm núm và hết sức lộ liễu … Dũng y tờ ( tờ i .. Ti ) cuối cùng đem con cái gã cho ” nguỵ quyền ” không cải tạo ,,, hô hô hô ..
    Sao mà trở mặt nhanh còn hơn trở bánh phồng nữa

  7. CĐ16 says:

    Đọc vài lần bài chủ, tôi có những suy-nghĩ thế này :
    (1) – Không chờ Đ/tá Lý dùng sự hiểu-biết ông học ở Mỹ mới cho rằng sự rút bỏ vùng cao-nguyên Vùng 2 CT là sai-lầm, mà một SQ trung-cấp như tôi, hay hầu hết mọi người khác có chút học biết về quân-sự đều không chấp-nhận một kế-hoạch bỏ Vùng 2 CT và tái-phối-trí co-cụm lại.
    (2) – Không thể là tin sét đánh khi TT Thiệu hay tin viện-trợ hoàn-toàn bị cắt. Dù muốn dù không TT Thiệu phải dự-trù trường-hợp này, còn kết-quả ra sao là chuyện khác. Theo tôi được nghe từ một vài giới thân-cận với ông Ngô đình Nhu, thì Ô. Nhu đã đang có kế-hoạch tự-túc, hoặc vận-động sự giúp đở của những nước khác – ngoài Mỹ – khi bị Mỹ bỏ rơi ; rất tiếc Đệ I CH không sống lâu hơn.
    (3) – Việc rút lui khỏi cao-nguyên V2CT, rồi vòng trở lại tái-chiếm Ban-mê-thuột chỉ là cách nói – nếu có – nhưng tôi không tin, ngay chỉ là ý-định, kế-hoạch chứ đừng nói chi đến việc thực-hiện. Chiến-thuật chữ U như vậy, rõ-ràng là ấu-trỉ đối với địa-thế rừng núi hiểm-trở, độc-đạo, không như tại sa-mạc – chỉ có thể áp-dụng cho mặt trận cơ-giới, ví dụ như thống chế Rommel của Đức tại sa-mạc Phi-châu hay của tướng quân-lực Hoàng-gia Anh là Mongomery [không biết có viết đúng tên chăng] đối đầu nhau – Ý-nghĩ trên đánh giá thấp về khả-năng quân-sự của TT Thiệu và những SQ cao-cấp dự buổi họp. Vậy có thể nói ý-tưởng đó là không-tưởng, bịa-đặt, vô-giá-trị không đáng đưa vào bài chủ.
    (4) – Bài chủ viết ‘ Ông [Thiệu] vẫn tin rằng Mỹ không thể bỏ Đông-dương ‘. Không hiểu từ đâu có ý-tưởng đó. Tin hay không tin là chuyện khác, nhưng ở vị-trí lãnh-đạo phải lo xa, trù-tính mọi trường hợp xấu nhất để lên kế-hoạch đối-phó. Ô. Thiệu có những khuyết-điểm trầm-trọng, nhưng không đến nỗi thiếu-sót đến mức đó.
    (5) – Bài chủ viết ‘ Vì quá chủ-quan nên tháng 3/1975 ông [Thiệu] đã sai-lầm tháu-cáy vờ thua chạy ‘. Với những đánh giá ở trên, tôi không tin Ô. Thiệu childlike như thế, nghĩa là hoàn-toàn mâu-thuẩn với con người ông, tư-cách, vị-trí và bản-chất của ông như phần nào lộ ra trong sinh-hoạt, hành-động. Có thể ý-nghĩa ‘ chủ-quan ‘ nên gán cho tác-giả bài viết này.
    (6) – Sự phối-trí V2CT từ lâu đã không cân-xứng so với địa-bàn rộng và vị-trí quan-trọng về chiến-thuật, chiến-lược toàn-thể. Đây là thiếu-sót của BTTM và các vị Tổng Thống kiêm Tổng Tư Lệnh QLVNCH. Lẽ ra, bằng cách nào đó, lực-lượng quân-sự tại đây phải được tái-phối-trí mạnh hơn kể từ khi Lào thay-đổi chế-độ, có lợi cho CSVN mượn đường xâm-nhập từ Bắc vào Nam, khiến vị-thế của V2CT quan-trọng thêm lên.
    (7) – Sau cùng, tôi mượn một ý của Phạm Hà Châu, dù tôi không đồng-ý nhiều điểm khác, trong phản-hồi lúc 10:18 ngày 16/06/12. Đó là, TT Thiệu có điều bí-mật không thể nói ra về việc rút khỏi V2CT, và tái-phối-trí co-cụm khiến VNCH mau bị bức tử. Ô. Thiệu có nói ra [ trước khi qua đời] thì cũng không mấy ai tin. Hơn nữa, trách-nhiệm của ông thì quá rõ-ràng, có nói gì thì người nghe chỉ cho là ông bào-chữa, biện-minh, cố thoái-thác trách-nhiệm và muốn đổ lỗi cho thế-lực nào đó. Nhưng không phải là không hợp-lý như PHC suggests, là Mỹ, chính Mỹ áp-lực Ô. Thiệu là công-cụ cho chính-quyền Ford càng sớm càng tốt kết-thúc chiến-tranh tại VN bấy giờ. Chỉ có kết-luận này mới giải-tỏa những thắc-mắc của riêng tôi suốt mấy chục năm dài.

    • Lâm Vũ says:

      Ông CĐ16 đã làm một phân tích rất rõ ràng, chi tiết để dẫn đến một kết luận (điểm 7) có phần hữu lý về thất bại của TT Thiệu trong việc giữ nước.

      Các phân tích từ 1 – 6 đã cho thấy những luận điểm giải thích rằng TT Thiệu có những “mưu mô” chiến thuật để cứu vãn tình thế chỉ là những lối suy nghĩ “trẻ con”, nhiều lắm thoả mãn các câu hỏi “cục bộ”, chư chưa đến gần một lời giải thích tổng quan về sự xụp đổ của chính quyền và quân đội miền Nam vào tháng Tư, 1975.

      Nói chung, những lối giải thích như triệt thoái quân khỏi Cao Nguyên TP để quay lại chiếm BMT là khó tin, như ông CĐ16 giải thích (rút quân khỏi Cao Nguyên, rồi lục tục kéo lên BMT tốn bao nhiêu thời gian, sức lực, chưa kể là kéo quân lồm ngồm trên đường chỉ tổ làm bia cho hỏa lực đại bác của địch!).

      Nhưng giả thuyết “tháu cáy Mỹ” không thể hoàn toàn loại trừ. Khi mọi chuyện đã xong thì ai cũng thấy rõ, nhưng trong những ngày tháng đó ông Thiệu có nghĩ ra kế nào khác nữa không? Theo tôi, rất có thể là trong lúc hoảng hốt và vô vọng (đọc “Tài Liệu Mật Dinh Độc Lập” của TS Nguyễn Tiến Hưng) TT Thiệu đã chụp đại cái phao của một ông thầy dùi tung ra mớm mồi? Đa số mấy thầy dùi của TT Thiệu lúc đó lại là VC nằm vùng hay, nhiều khả năng hơn là của CIA. (Ít ai đề cập đến vai trò của Đại Tướng Trần Thiện Khiêm, mà sau này khá rõ rệt là đã bị CIA mua chuộc hoặc chính là nhân viên của CIA!).

      Tóm lại, đứng đàng sau biến cố 4/75 chủ yếu là Mỹ (Kissinger và CIA). Chính Kiss mở đường sống cho Bắc Việt từ tình trạng sắp “xụm bà chè” năm 1972 – sau chiến dịch Tổng Tấn Công mùa Hè rồi cuộc dội bom miền Bắc vào Giáng Sinh 72 – có thể sống lại có hơn hai năm sau. Chúng ta cũng không quên là cùng lúc đó, Mỹ đã dần dần rút viện trợ, làm suy yếu lực lượng quân đội miền Nam. Đó là những chiến thuật có hệ thống ông Thiệu khó có thể không thấy.

      Câu hỏi quan trọng là TT Thiệu có thể làm gì? Có nghĩ đến việc “tự lực cánh sinh” – tự mua súng ộng đạn dược cho quân đội VNCH không? Theo tôi, đây chỉ là “lý thuyết”, sự thật không thể thực hiện, vì:
      - Khả năng tài chánh của giới hạn (*)
      - Ngay cả TT cũng không dễ dàng lấy ra để tiêu dùng cho việc quốc gia
      - Mua súng đạn phải qua mối giới quốc tế, chả nhẽ CIA để yên v.v.

      Tạm kết luận, TT Thiệu chắc phải nghĩ đến nhiều mưu kế để thoát khỏi tình trạng bế tắc, nhưng tứ bề thọ địch, giặc trong giặc ngoài… nên đã bỏ của (và quốc gia) chạy lấy thân!

      LV
      (*) Sau này chúng ta biết Ngân khố Quốc gia VNCH có 15 tấn vàng:
      1 tonne = 32,000 chỉ vàng (ounce)
      15 tonnes = 480,000 chỉ vàng

      480,000 chỉ vàng trị giá khoảng 250 triệu đô-la thời đó. Giả sử có thể dùng số vàng đó để mua vủ khí đạn dược chắc cũng có thể kéo được 2-3 năm mới hết sạch!

  8. Chiến tranh ở Việt Nam đã qua đi hơn 37 năm ,một thời bom đạn đã cầy tung mảnh đất Quê Hương tôi ,chôn vùi biết bao nhiêu Đồng Bào vô tội cả hai miền Nam +Bắc,nhà tan cửa nát , ruộng đồng đầy khói lửa ,loạn ly sơ tán,máu và nước mắt đã một thời cạn khô cho cả Dân tộc Việt Nam tôi.
    Ngoảnh lại nhìn chỉ để nhớ một thời đau thương đã qua !
    Tưởng rằng chiến tranh kết thúc ,đất nước thống nhất ,mọi người được sống trong tự do dân chủ thật sự,công bằng xã hội được thự thi và đi vào cuộc sống ,”Quyền Con Người ” được tôn trọng, đất nước thanh bình và phát triển hài hòa hội nhập vào cộng đồng chung mà nhân loại đã và đang đi tới.
    Nhưng thật tai họa là chúng ta đã trao quyền thiêng liêng ấy cho một chế độ độc tài tòan trị hiện
    nay do ĐCSVN thao túng và trắng trợn phản bội lại lý tưởng của biết bao thế hệ hy sinh xương máu. Một hệ thống và thể chế chính trị theo chủ nghĩa CS mưu mô xảo quyệt phi nhân tính còn nguy hiểm hơn chiến tranh,mầm mống của tội ác lại hoành hành cả hệ thống xã hội đó là “Thời đồ đểu đã lên ngôi ? “.Một thể chế chính trị (Con ông cháu cha) ,mua quan bán chức văn hóa bầy đàn cục bộ, phi nhân tính,một thể chế trưng dụng những con người bảo thủ (ít học) làm thủ tướng và vào Bộ Chính Trị làm vua tập thể theo hình thức phong kiến trá hình mị dân hại nước,một nhà nước có cả một rừng luật mà thực thi công bằng Xã Hội bằng luật Rừng ?
    Sinh ra một bầy sâu tàn phá đất nước trong mọi ngóc ngách của cuộc sống từ thành thị đến nông thôn ? Con đường tiến lên CNXH là môi trường bẩn thỉu và hôi hám nhất, giống như một mô hình đi xây dựng một( Hố xí công cộng không ai làm chủ,, môi trường sâu bọ) ,mô hình này cả nhân lọại nghê tởm và được Quốc Hội Âu Châu phê chuẩn năm 2006 , Chủ Nghĩa Cộng Sản là tội ác chống lại loài người .
    Theo tiếng gọi của trái tim và lương tâm làm người ,với tình yêu Quê Huơng Việt Nam ,giải phóng con người thoát khỏi nhà tù khổng lồ CNXH .Tất cả vì một Việt Nam tự do +dân chủ thật sự,chúng ta hãy khép bỏ quá khứ hận thù do lịch sử để lại ,với lòng vị tha cao cả ,huớng thiện và nhân bản dấn thân cùng chung tay xây dựng một Việt Nam thanh bình ,công bằng và thịnh vượng .Vận dụng sáng tạo để kiến thiết ” Con Đường Việt Nam” bằng tính ưu việt ,thể theo mô hình dân chủ mà các nước văn minh tiến bộ Châu Âu như (Đức),Châu Mỹ La Tinh như (Mỹ) và Châu Á như( Singapore) đã và đang đạt được, cùng phát huy trí sáng tạo và những tinh hoa của nền văn hóa bốn nghìn năm Lạc Hồng một nhà nước nhất định không Cộng Sản và cững không Cộng Hòa được ra đời ,là bạn và sẵn sàng hợp tác toàn diện với tất cả các Quốc Gia trên hành tinh chúng ta chiểu theo thông lệ Quốc Tế và Hiến Chương Liên Hiệp Quốc…
    Kính chào thân ái và đoàn kết đầy tình người…
    Ngày 17 /06 /2012
    Việt Nam (Âu Lạc )

  9. TRong Dat says:

    Trả lời ngài Dâm Tiên
    Cám ơn ngài Dâm tiên đã góp ý, thú thật tôi đọc lại hai lần mà không hiểu ngài muốn nói gì
    Chẳng hiểu ngài đã học hết bậc tiểu học chưa? Nếu chưa xin về trường làng học lại để viết tiếng Việt cho ra câu cú hơn
    Cám ơn nhiều

    • Thất trận says:

      Anh mới là tự ái hùng hổ, lôi quân truờng, đơn vị chiến thuật ra hù dọa làm gì. Nói thật nếu đuợc lựa chọn, tôi không thích quân truờng và đơn vị chiến thuật nào hết vì tất cả cũng là: đơn vị chiến …bại mà thôi.
      Phải ở trong chăn mới biết chúng ta và cả ông Thiệu là những con rận.
      Gà nhà (và còn là gà già) sao cứ bôi mặt đá nhau.

  10. Dao Cong Khai says:

    theo Nguyen Tien Hung:
    “Một Chính phủ Thiệu không có Thiệu

    Sau khi được trao quyền Tổng thống, ông Hương e ngại rằng vì ông đã là Phó Tổng thống, nên người ta cho rằng bây giờ ông chỉ điều hành một Chính phủ theo ý ông Thiệu. Ông liền yêu cầu Đại sứ Martin nên cố vấn ông Thiệu ra ngoại quốc và dàn xếp giùm chuyến đi này (33). Sau đó ông Hương tới chỗ ông Thiệu khuyên ông sớm rời khỏi Việt nam, vì nếu không, Cộng sản sẽ nói “tôi đang điều khiển một Chính phủ Thiệu không có Thiệu”(34).

    Lúc đó có một cơ hội thuận tiện. Để cho việc ra đi được hợp Pháp, ông Hương ký nghị định đề cử ông Thiệu làm đặc sứ VNCH đi Đài Bắc phúng điếu Tổng thống Tưởng Giới Thạch vừa qua đời ngày 5 tháng 4. Theo Frank Snepp cả ông Minh cũng đã yêu cầu tướng Timmes tìm cách đưa ông Thiệu khỏi Việt nam (35).

    Chiếc máy bay DC-6 dưới quyền sử dụng của Đại sứ Hoa kỳ từ Thái Lan bay qua Sài gòn trong đêm 25 tháng 4. Ông Polgar, trùm CIA ở Sài gòn và tướng Timmes gặp ông Thiệu và đoàn tuỳ tùng ở nhà Thủ tướng Khiêm trong Bộ Tổng tham mưu. Polgar chuẩn bị ba chiếc công xa màu đen chở mọi người ra phi trường. Đoàn xe lướt qua đài tưởng niệm Chiến sĩ trận vong của Đồng minh gần phi trường,với ba hàng chữ nỗi bật trên bảng: “Những hy sinh cao quý của các chiến sĩ Đồng minh sẽ không bao giờ bị quên lãng”. Ông Thiệu ngồi giữa ông Polgar và tướng Timmes. Nhìn thấy bảng, ông thở dài và quay mặt đi…

Phản hồi