Bài thơ “Lính mà em” của Phạm Tiến Duật hay Lý Thụy?
Chúng tôi ( TMH) vừa nhận được email của nhà thơ, nhà văn Lý Thụy Ý nói về bài thơ “Lính mà em” của bà đã từng in trên báo “Văn nghệ tiền phong” tại Sài Gòn năm 1967, sau đó in vào tập thơ “Khói lửa” của bà in năm 1972 tại Sài Gòn. Bài thơ này còn in trong tuyển tập: “Thơ tình năm 1975” của miền Nam.
Nhưng, lạ lùng thay, bài thơ “Lính mà em” của nhà thơ Lý Thụy Ý lại thấy nằm trong tuyển tập thơ Phạm Tiến Duật do nhà xuất bản Hội Nhà văn Việt Nam xuất bản năm 2007, tất nhiên là bài thơ mang tên Phạm Tiến Duật (có sửa một số chữ in nghiêng) dưới đây.
Còn đây là lá thư điện tử của nhà thơ Lý Thụy Ý gửi chúng tôi (TMH):
Kính gởi nhà thơ Trần Mạnh Hảo
Tôi tình cờ đọc được trên trang mạng của Nguyễn Trọng Tạo và Nguyễn Khắc Phục những luồng ý kiến về bài thơ “LÍNH MÀ EM” mà tôi là tác giả. Tôi, Lý Thụy ý, viết báo và làm thơ tại Sài gòn trước 1975, đã viết “Lính mà em” khoảng năm 1967-1968. Bài thơ sau đó đăng lên tuần báo Văn nghệ Tiền phong của Sài gòn, tạo được tiếng vang cho tên tuổi Lý Thụy Ý, và được đưa vào thi phẩm “Khói lửa 20″…
Đó là tâm tư của một người con gái thời chiến yêu lính, “đặc sệt” chất “Em gái hậu phương”, nói với người tình lính chiến hay dùng “Lính mà em” để biện hộ cho những lần thất hứa…Tôi tin rằng nhiều người Sài gòn vẫn còn nhớ “Lính mà em” của Lý thụy Ý, vì bài thơ được hai nhạc sĩ Y Vân và Anh Thy phổ nhạc, Hùng Cường hát và phát đi phát lại trên đài phát thanh nhiều lần…
Tôi gởi kèm cho ông 2 bài thơ, 1 được cho là của nhà thơ Phạm Tiến Duật (Ông Nguyễn Khắc Phục gần như khẳng định ). Bài thơ có lẽ được chép qua những người không “thuộc” cho lắm nên lôm côm và mất ý, tôi tin nếu Phạm Tiến Duật làm, chắc chắn sẽ hay hơn nhiều! Và một “Lính mà Em” của chính tác giả, Lý Thụy Ý, để ông thấy rõ sự khác biệt giữa “thật” và “tam sao thất bổn”…Thật ra, tôi đã đọc nhiều “Lính mà em”…và thất vọng khi thấy câu chữ hầu như…chẳng còn gì ngoài ba từ “Lính mà em!”
Hy vọng với sự khách quan, ông cho vài ý kiến, và tôi cũng chỉ biết ngậm ngùi khi mà bài thơ nầy giờ đây cũng đã nằm chễm chệ trong tập thơ cuối cùng của nhà thơ Phạm Tiến Duật với những câu cú…đáng buồn!
Cũng xin nói thêm rằng, chỉ có “người ngoài cuộc” là nói Lính mà Em của Phạm Tiến Duật, còn bản thân ông thì không thừa nhận. Trên báo TUỔI TRẺ số ra ngày Chủ nhật- 4-11-2007, trong bài “Một người lính đặc biệt trên đường mòn huyền thoại” của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều viết về Phạm Tiến Duật có đoạn:( xin trích nguyên văn )”…Khi tôi đến, ông lấy tập thơ tặng tôi và mở tập thơ ra chỉ cho tôi xem một bài thơ và nói đó không phải là thơ của ông, nhưng vì yêu quí mà những người làm sách đã đưa bài thơ đó vào. Đó là bài “Lính mà Em”. Phạm Tiến Duật nói đây là bài thơ của một nhà thơ nào đó của Sài gòn viết trước 1975…”(Nguyễn Quang Thiều).
Thật ra, những dư luận cũng đã qua khá lâu, nhưng gần đây tôi mới tình cờ biết được nên nghĩ tác giả Lính Mà Em lên tiếng cũng không thừa, trước hết để tránh sự ngộ nhận không đáng có, thứ hai là đưa ra nguyên bản bài thơ để những người yêu Lính mà em có một bài thơ đúng nghĩa.
Hy vọng không làm phiền nhà thơ.
Chân thành cám ơn.
Lý Thụy Ý
Sài gòn 22- 12- 2012
Lính mà em
Phạm Tiến Duật
Em trách Anh gửi thư sao chậm trễ
Em đợi hoài em sẽ giận cho xem
Thư Anh viết bao giờ Anh muốn thế
Hành quân hoài đấy chứ,
Lính mà em!
Anh gửi cho Em mấy nhành hoa dại
Để làm quà không về được em ơi
Không dự lễ Nô- Encùng em được
Thôi đừng buồn em nhé,
Lính mà em!
Ngày nghỉ phép Anh cùng Em dạo phố
Tay chiến binh đan năm ngón tay mềm
Em xót xa đời anh nhiều gian khổ
Anh mỉm cười rồi nói,
Lính mà em!
Qua xóm nhỏ anh ghi dòng lưu niệm
Trời mưa to, hai đứa nép bên thềm
Anh che em khỏi ướt tà áo tím
Anh quen rồi không lạnh,
Lính mà em!
Anh kể em nghe chuyện trong này
Trăng đầu mùakhông đủ viết thư đâu
Thư Anh viết chữ mờ nét vụng
Hãy hiểu dùm Anh nhé,
Lính mà em!
Ghét Anh ghê chỉ được tài biện hộ
Làm cho người ta thêm nhớ thương
Em xa lánh những ngày vui trên phố
Để nhớ người hay nói,
Lính mà em!
Tiểu sử Phạm Tiến Duật (Theo Bách khoa toàn thư)
Phạm Tiến Duật (14 tháng 1 năm 1941 – 4 tháng 12 năm 2007) là một nhà thơ Việt Nam với nhiều tác phẩm thơ tiêu biểu viết trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam.
Tiểu sử:
Phạm Tiến Duật sinh ở huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ. Cha ông là nhà giáo, dạy chữ Hán và tiếng Pháp, còn mẹ làm ruộng, không biết chữ. Ông tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1964, nhưng sau đó không tiếp tục với nghề giáo mà quyết định lên đường nhập ngũ. Trong thời gian này, ông sống và chiến đấu chủ yếu trên tuyến đường Trường Sơn. Đây cũng là thời gian ông sáng tác rất nhiều tác phẩm thơ nổi tiếng. Năm 1970, sau khi đoạt giải nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ, Phạm Tiến Duật được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam.
Chiến tranh kết thúc, ông về làm việc tại Ban Văn nghệ, Hội Nhà văn Việt nam. Ông sống ở Hà Nội, là Phó trưởng Ban Đối ngoại Hội Nhà văn Việt Nam. Ông cũng là người dẫn chương trình của một chương trình dành cho người cao tuổi của kênh VTV3, Đài Truyền hình Việt Nam.
Ông là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2001, Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật năm 2012.
Ngày 19 tháng 11 năm 2007, Chủ tịch Nguyễn Minh Triết đã ký lệnh tặng thưởng Huân chương Lao động hạng nhì cho nhà thơ Phạm Tiến Duật[1].
Ngày 4 tháng 12 năm 2007, vào khoảng 8:50, ông mất tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 vì căn bệnh ung thư phổi[2].
Đóng góp”
Ông đóng góp chủ yếu là tác phẩm thơ, phần lớn thơ được sáng tác trong thời kỳ ông tham gia quân ngũ. Thơ của ông được các nhà văn khác đánh giá cao và có nét riêng như: giọng điệu sôi nổi, trẻ trung và có cái “tinh nghịch” nhưng cũng rất sâu sắc. Nhiều bài thơ của ông đã được phổ nhạc thành bài hát trong đó tiêu biểu nhất là “Trường Sơn đông, Trường Sơn tây”.
Những tập thơ chính:
·Vầng trăng quầng lửa (thơ, 1970), nổi tiếng nhất với tác phẩm “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”
·Ở hai đầu núi (thơ, 1981)
·Vầng trăng và những quầng lửa (thơ, 1983)
·Thơ một chặng đường (tập tuyển, 1994)
·Nhóm lửa (thơ, 1996)
·Tiếng bom và tiếng chuông chùa (trường ca, 1997)
·Tuyển tập Phạm Tiến Duật (in xong đợt đầu ngày 17-11-2007, khi Phạm Tiến Duật đang ốm nặng)
Ông được ca tụng là “con chim lửa của Trường Sơn huyền thoại”, “cây săng lẻ của rừng già”, “nhà thơ lớn nhất thời chống Mỹ”. Thơ ông thời chống Mỹ từng được đánh giá là “có sức mạnh của một sư đoàn”.
Lý Thụy Ý
Lính Mà Em
Mình trách anh hay hồi âm thư trễ
-Em đợi hoài! Em sẽ giận cho xem
Thư anh viết:- Bao giờ anh muốn thế
Hành quân hoài đấy chứ- Lính mà Em!
Anh gởi về em mấy cành hoa dại:
-Để làm quà không về được Noel
Không đi lễ nửa đêm cùng em gái
Thôi đừng buồn anh nhé- Lính mà em!
Anh kể chuyện hành quân nằm sương gối súng
Trăng tiền đồn không đủ viết thư đêm
Nên thư cho em nét mờ, chữ vụng
-Hãy hiểu dùm anh nhé- Lính mà Em!
Qua hành lang Eden ghi kỷ niệm
Buổi chiều mưa hai đứa đứng bên thềm
Anh che cho em khỏi ướt tà áo tím
-Anh quen rồi, không lạnh- Lính mà em
Ngày về phép anh hẹn mình dạo phố
Tay chinh nhân đan năm ngón tay mềm
Mình xót xa đời anh nhiều gian khổ
Anh cười buồn khẽ nói:- Lính mà em!
Ghét anh ghê! Chỉ được tài biện hộ
Làm “người ta” càng thương mến nhiều thêm
Nên xa lánh những cuộc vui thành phố
Để nhớ một người hay nói LÍNH MÀ EM !
(Khói Lửa 20-1967)
Lính Mà Em, thơ Lý Thụy Ý, trong tập THƠ TÌNH NAM 1975 do gio-o.com tuyển chọn và giới thiệu.
Qua những bằng chứng trên đây, rõ ràng bài thơ “Lính mà em” là thơ của nhà thơ Lý Thụy Ý chứ không phải thơ của nhà thơ Phạm Tiến Duật. Chỉ cần nghe hơi thơ biết đây là thơ của một người phụ nữ, càng không phải phong cách thơ tinh nghịch, hóm hỉnh, nghiêng về bút pháp hiện thực của Phạm Tiến Duật.
Chắc là người chủ biên tuyển tập Phạm Tiến Duật (tập 1) là nhà văn Nguyễn Khắc Phục đã có sự nhầm lẫn đáng tiếc khi thực hiện tuyển tập thơ này. Mong nhà văn Nguyễn Khắc Phục cho công luận biết vì sao một bài thơ của nữ thi sĩ Việt Nam Cộng hòa làm cho lính miền Nam lại biến thành bài thơ của nhà văn cộng sản miền Bắc làm cho lính miền Bắc trong khi hai bên đang ở hai chiến tuyến giao tranh?
Bài thơ “Lính mà em” của nhà thơ Lý Thụy Ý viết năm 1967, khi Phạm Tiến Duật chưa nổi tiếng ngoài miền Bắc . Trong cuộc thi thơ của báo Văn Nghệ năm 1969, chùm thơ của Phạm Tiến Duật được giải nhất, bạn đọc mới biết tên tác giả này.
Chúng tôi xin giới thiệu thêm hai bài thơ của chị Lý Thụy Ý để thấy hơi thơ cùng hơi thơ của ‘Lính mà em” là do một người viết:
Lý Thụy Ý: Những Bài Thơ Viết Trước 1975
Mang ý tưởng về những người lính chiến
Từng đêm buồn gác bên súng vào Thơ
Phương trời xa – theo ánh hỏa châu mờ
Nghe chiến trận về gần miền đô thị
1968
Lính Mà Em!
Mình trách anh hay hồi âm thư trễ
- Em đợi hoài! Em sẽ giận cho xem
Thư anh viết: – Bao giờ anh muốn thế
Hành quân hoài đấy chứ – Lính mà Em!
Anh gởi về em mấy cành hoa dại:
- Để làm quà không về được Noel
Không đi lễ nửa đêm cùng em gái
Thôi đừng buồn anh nhé – Lính mà em!
Đêm biên giới kê đầu lên báng súng
Trăng tiền đồn không đủ viết thư đêm
Nên thư cho em nét mờ, chữ vụng
- Hãy hiểu dùm anh nhé – Lính mà Em!
Qua hành lang Eden ghi kỹ niệm
Buổi chiều mưa hai đứa đứng bên thềm
Anh che cho em khỏi ướt tà áo tím
- Anh quen rồi, không lạnh- Lính mà em
Ngày về phép anh hẹn mình dạo phố
Tay chinh nhân đan năm ngón tay mềm
Mình xót xa đời anh nhiều gian khổ
Anh cười buồn khẽ nói:- Lính mà em!
Ghét anh ghê! Chỉ được tài biện hộ
Làm “người ta” càng thương mến nhiều thêm
Nên xa lánh những cuộc vui thành phố
Để nhớ một người hay nói LÍNH MÀ EM!
KL 20-1967
Vì…
Viết trong mùa hè đỏ lửa
Vì tất cả những người trong cuộc chiến
Đều mỉm cười chấp nhận chuyện chia ly
Vì chúng mình là người trong cuộc chiến
Em không buồn khi tiễn bước anh đi
Vì hai tiếng Việt Nam trìu mến quá
Nên hàng hàng lớp lớp tiếp chân nhau
Vì mãnh đất quê hương kiều diễm quá
Nên hoa ngụy trang áo chiến chóng phai màu!
Vì Trường Sơn còn kiêu hùng ngạo nghễ
Nên từng đoàn chim sắt lướt tung mây
Vì Cửu Long còn từng cơn sóng vỗ
Nên tàu đi những chuyến hải trình dài
Vì thương người bên kia bờ vĩ tuyến
Nên vạn bàn tay chung sức đắp con đường
Còn ngăn cách bởi dòng sông Bến Hải
Và nhịp cầu mang hai chữ Hiền Lương!
Vì dưới bóng quân kỳ bay phất phới
Còn những người lính trẻ đứng hiên ngang
Nên như ngày xưa tiễn Người ra quan ải
Em hai tay nâng rượu tiển đưa Chàng…
1972
Tiểu sử Lý Thụy Ý
- Tên thật Nguyễn Thị Phước Lý, Sinh nhật vào ngày : 02-04-1947
- Quê nội: Quảng Nam – Quê ngoại: Thừa Thiên – Huế
- Làm thơ, viết văn, viết báo ở đất Sài Gòn từ giữa thập niên 60 thế kỷ XX.
Lý Thụy Ý, một nữ văn, thi sĩ nổi danh từ trước 1975 , khởi sự viết cho tuần báo ‘ Văn Nghệ Tiền Phong’ , thư ký tòa soạn tờ báo này trông coi mục Văn nghệ Kaki ( Văn nghệ lính)
Sau 1975 , Lý Thụy Ý , bạn cải tạo các nhả văn, báo Thanh Thương Lý Đại Nguyên , văn sĩ Doãn Quốc Sỹ vv.. ở trại tập trung nào đó trên Cao nguyên (tôi không nhớ rõ niên hạn năm cải tạo), sau về tp. HCM lấy chồng , viết văn , sáng tác.
Những tác phẩm chính:
Thơ: – Khói lửa 20 (1972) – Thơ tình Lý Thụy Ý (1995) – Kinh tình yêu (2003)
Văn: – Theo triền nắng đổ (1970) – Người sau tuyến lửa (1972) – Bông hồng không tỏa hương (1992) – Ngọc lai (1993) – Khuya hoang (1994) – Những mùa xuân chín (1999)
Phân tích theo khía cạnh triết học công sản về thế nào là hiện
tượng, thế nào là bản chất có thể kết luận như sau:
- bài thơ “lính mà em” xuất hiện trong tập thơ Phạm tiến Duật là …. hiện tượng
- còn tại sao bài thơ xuất hiện trong tập thơ Phạm tiến Duật,
chính là cái tật chuyên ăn cắp của việt cộng và được gọi là … bản chất
Mấy ông VC thấy tội nghiệp quá. Nghe nhạc lính của Ngụy, nhạc đồi trụy phản động, mà cứ tưởng tượng là nhạc mình. Khoảng 25 năm trước, tôi thấy mấy đứa học thanh nhạc nó hát bài “Nhánh Lan Rừng” của VC; nghe kỹ tôi thấy nó không ăn cắp nhạc, nhưng bắt chước tư tưởng và tâm trạng của bài “Hái Hoa Rừng Cho Em” của nhạc VNCH.
Chê người ta là phản động và đồi truỵ, nhưng các đồng chí chẳng có tư tưởng gì mới cả, bèn cóp cái tư tưởng và tình cảm của… “lính ngụy” đem vào và nói là của mình.
Đồng chí VC này cũng tương tự thôi. Các đồng chí gọi là bộ đội chứ chữ lính thì có mấy người Bắc Việt dùng tới. Vậy mà cũng chơi luôn cái bài Lính Mà Em của bọn Phản Cách Mạng, đăng báo rồi ghi tên mình…
VC mà, đâu có cần thể diện hay sự thật. Miễn là đấm ăn xôi. Người ta thấy thì lủi, còn không thấy thì cứ thế mà “nàm”.
Bộ đội Trường Sơn, ra đi không hẹn ngày về; có đồng chí nào có tâm trạng kiểu lính Ngụy như vầy:
“Em trách Anh gửi thư sao chậm trễ
Em đợi hoài em sẽ giận cho xem
Thư Anh viết bao giờ Anh muốn thế
Hành quân hoài đấy chứ,
Lính mà em!”
Thuỗng văn rồi đồng chí ơi, cái đó là tâm trạng “uỷ mị” của “nính ngụy” đấy. Bộ đội mình là phải hành quân chiến đấu, giết thù… “Đồng chí ơi người chiến sĩ giải phóng quân miền Nam anh hùng, thành đồng tổ quốc. Anh đang hành quân, ra tiền tuyến, MANG THEO TÌNH YÊU GIAI CẤP TRONG TIM”. Chứ không có cái khoản viết thư tình nhảm nhí đó đâu!
Xin phép Thụy Ý được tấu khúc bài thơ “Lính mà em”.Cám ơn
Tặng các văn hào chôm chiả
Em trách anh chôm thơ người quá xệ
Để mọi người nguyền ruả đồ chiả chôm
Thư anh viết:Ối giời ơi quá bận
Nên cầm nhầm ,học tập
Bác mà em!
Thư anh viết trách em sao ngu dại
Cọng sản vô thần làm đé.. gì có Noel
Đường Trường Sơn đang cùng các cán gái
Đang hành quần,theo lệnh
Đảng mà em!
Anh “phỏng giái” từ rừng sâu về phố
Đường Sàigòn rực rở sáng đèn đêm
Bận tìm “đồng,đài,đạp” món hàng khủng
Hãy hiểu giùm anh nhé
Bộ đội mà em!
Anh như nai ngơ ngác đứng bên thềm
Nhìn con gái đẹp trong tà áo tím
Quần nổi gân,áo mỏng tanh không thấy lạnh
Anh bần thần xao xuyến
Ngố mà em!
Là bộ đội đách làm gì có dạo phố
Lòng lạnh tanh,câm nín đói bơ phờ
Vượt Trường Sơn đầy mìn bom gian khổ
Lúc nản buồn ,kiểm điểm
Hãy tự phê!
Đã chiả chôm, đâu ngờ lại bị lộ
Khiến người ta phỉ nhổ ngu đần
Đã nhiều lần,đâu ngờ ông Hảo tố
Tội cầm nhầm,ăn cắp
No star where!
Đừng ghét bỏ anh xảo ngôn biện hộ
Đã ngu đần thêm cái tội bất lương
Đàn áp người đi biểu tình trên phố
Chống Tàu phù,lũ bán nước
X mà em!
Bài tấu khúc của bns quá hay, không thua gì … Lính Mà Em.
Thanks!
Hê, hê. Tuyệt tác ! Hỏng thấy ” phe ta” ý kiến ý cò gì he !
Xin sưả bổ túc:
Là bộ đội đách làm gì có dạo phố
Lòng lạnh tanh câm nín đói bơ phờ
Vượt Trường Sơn đầy bom mìn gian khổ
Đêm buồn về,nằm thao thức
Đợi ăn bom!
Ý của ông đạo Công Khai là “ăn cắp” là “Tư Tưởng Hồ Chí Minh” ?
Lính Mà Em…..Lý Thuỵ Ý…
Ô. Phạm Tiến Duật …phân bua cùng Nguyễn Quang Thiều đó không phải là thơ của ông. Nhưng vì yêu quí, mà những người làm sách đã đưa bài thơ đó vào.
Đọc thoáng qua, một người vô ý cứ nghĩ công việc in ấn sách báo bị nhầm lẩn là chuyện thường vậy thôi. Tuy nhiên, nếu chúng ta đọc kỷ đoạn đó. ..thì thấy nó có vẻ làm sao ! Có vẻ bất ổn. Nó có một cái gì đó ? Vậy chúng ta hãy thí dụ :
Anh A vì yêu quí chiếc xe đẹp của ai đó, rồi đưa về nhà mình xài chơi ! Chúng ta nghĩ sao về hành động của anh A ?
Ông B thấy vợ bạn mình xinh đẹp, thích quá, bèn lôi kéo về phòng mình ” tâm sự ” ! Chúng ta nghĩ sao về tư cách của ô. B ?
Vậy câu hỏi được ra, ai làm tập thơ cho Phạm Tiến Duật rồi sửa đổi lời bài thơ Lính Mà Em của Lý Thụy Ý mà không hỏi ý kiến của ô. Duật và bà Lý Thuỵ Ý ? – Ai ?
Đến đây, chúng ta hãy ôn lại lịch sử:
- Nguyễn Tất Thành đã ăn cắp tên của nhà cách mạng Hồ Chí Minh làm tên của mình
-Lý Thuỵ tức ( Nguyễn tất thành ) bán Phan Bội Châu cho mật vụ Pháp rồi ” chôm ” luôn tổ chức cách mạng của Phan Bội Châu
- Khi trở thành Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh đã ” chôm ” tập thơ ” Ngục Trung Ký ” của người khác
- Trong cuộc Meeting lớn tháng 8/1945 ở Hà Nội, lợi dụng Chính quyền Quốc Gia còn non trẻ mới giành được từ người Pháp, Hồ Chí Minh xúi đàn em cướp diễn đàn rồi Chôm Chính quyền Quốc gia thành của mình.
-Cuộc khán chiến chống Pháp bao gồm các Đảng Phái : Việtnam Quốc Dân đãng, Đại Việt, Cao Đài, Hoà Hảo..v.v…đã đóng góp, hy sinh xương máu rất nhiều….cuối cùng Đcsvn và HCM đã tiêu diệt họ và cướp công của họ
- Cái đám MTGPMN….Huỳnh Tấn Phát, Trương Như Tản, Nguyễn thị Định. . . .bị bùa mê thuốc lú CS. . ..cái đám thành phần Thứ Ba Trí Thức ngu ngơ. . .Lý chánh Trung, Ngô công Đức, lm Chân Tín, Nguyễn ngọc Lan, Thích Trí Quang đã. . .” góp công “. .làm sụp đổ miền Nam, nhưng sau 30/4/1975 bị bọn Bắc Cộng cho vô tù gặm bo bo, cho về nhà đuổi gà cho vợ đành ngậm miệng như hến, lại còn bị Dân miền Nam nguyền rủa thậm tệ : Trí Thức Đầu Bò !
- Bao nhiêu tác phẩm Văn Học của miền Nam đã. ..Bị. …thay tên, đổi họ…rồi in lại bán ra thị trường sau 30/4/1975 mà phần lớn tác giả đã vượt biên ra nước ngoài ?
- Cả cái tên Sàigon cũng bị..Chôm..mất để thay thế cái tên. . .lưu manh HCM mà Dân miền Nam không bao giờ muốn gọi tới.
Điểm qua những sự kiện thật của lịch sử để chúng ta thấy bản chất. . .Chôm Chĩa của ĐCSVN.
Lính Mà Em…của Thuỵ Ý được sửa đổi để ca tụng lính Bộ đội anh hùng xẽ dọc Trường Sơn xâm chiếm miền Nam chứ còn gì nữa. Nói hỏi ý kiến ông Duật chỉ là nói tếu lâm cho vui thôi !
Bà Lý Thuỵ Ý vì còn ở trong vòng tay Sắt của CS, vì lịch sự nên nói đại khái…” tam sao thất bổn..hay… để tránh sự ngộ nhận không đáng có “. Chứ thật ra cái trò…Ma Mớp đó của CS ai mà không biết ?
Kinh qua những đau khổ, chia lìa, đổ vỡ mà những người tị nạn CS đã gánh chịu, bây giờ được sống ở các nước Tự Do, họ cố gắng làm lại từ đầu một cách cực nhọc để lo cho gia đình và tương lai của con cái, lo cho thân nghèo khổ còn lại ở quê nhà ! Vì mệt mỏi, vì không có thời gian, vì bị đám HCM bán niềm tin nên đa số Dân Tị nạn CS chán nản, không quan tâm đến sinh hoạt chính trị của Cộng Đồng Hải Ngoại ! Đó là tình trạng thực tế của CĐHN mà những Đầu Gấu ở Hà Nội đánh hơi được nên chúng tung nghị quyết 36 ngay.
NQ 36 thất bại, bây giờ chúng xoay qua mua chuộc báo chí truyền thông như. ..báo Người Việt, Việt weekly ở CA. Cho cái đám lười biếng vô công, rỗi nghề ở Hải ngoại về VN nhậu nhẹt, gái gú…và được trả lương để làm Cò Mồi đánh phá CĐHN như Nguyễn cao Kỳ, Nguyền phương Hùng..v.v…để nắm cho được CĐHN. Sau khi ” nắm ” được CĐHN thì số phận những Cò Mồi ra sẻ ra sao khỏi Cần phải nói.
Mặc dù CĐHN có chia rẽ, nhưng vẩn rầm rộ trương cờ chống Trung Cộng để đòi biển đảo Hoàng Sa – Trường Sa về cho VN làm dư luận Quốc Tế quan tâm rất nhiều. Thấy dể ăn quá, toà đại sứ Hà Nội ở Đức liền tổ chức cuộc biểu tình chống Tầu phù mà không có…CỜ…để thừa…Gió..CĐHN rồi..Bẻ Măng.
Cái Tật ” láu cá ” của CS cho tới chết chứ không thể nào bỏ được !
Tóm lại bản chất lưu manh Chôm Chĩa của CSVN đã trở thành căn bệnh bất trị,mà khoa học Tây phương gọi là A Hereditary Disease và chúng ta có thể chuyển dịch là căn bệnh Di Truyền Chôm Chĩa của CSVN mà không sợ sai lầm.
Đại đa số các quan chức VN từ trên xuống dưới đều không có đạo đức và ăn cắp hình như là bản chất của họ.Sau 1975 những nhân viên giảng huấn ở Khoa Vật Lý và Khoa Tóan trường Đại Học Khoa Học Saìgon chẳng ai quên chuyện gs Huỳnh Văn Công thuộc ban Điện Tử tại Đại Học Khoa Học Sàigon viết một số bài khảo cứu để gởi cho một tạp chí Khoa Học ở Pháp, nhưng thời gian đó gs Công không được tự mình gởi đi mà phải gởi bài tới Ủy Ban Khoa Học Kỹ Thuật Nhà Nước ở Hà Nội để Ủy Ban này sẽ gởi qua Pháp. Sau một thời gian dài không thấy tin tức gì gs Công nhiều lần viết thư thăm hỏi Ủy ban Khoa Học Kỹ Thuật Nhà Nước.Nhưng chẳng có thư hồi đáp. Mãi tới năm 1978 một người bạn gs Công là gs Nguyễn Văn Giai từ Paris về thăm nhà, ông cho gs Công là ông ta có đọc mấy bài báo này nhưng tác giả không phải là Huỳnh Văn Công, lúc đó gs Công mới biết là mấy bài báo của ông bị người ta lấy tên người khác gởi đi để lấy tiền nhuận bút. Sau sự việc này và vài năm làm việc với Việt Cộng một loạt các gs tại Đài Học Khoa Học vượt biên là Huỳng Văn Công, Tôn Thất Long ̣( ban toán, đảng viên đảng Cộng sản từ Pháp về nằm vùng tại Đại Học Khoa Học Sàigon, gs Tôn Thất Long cũng đã được tt Phạm Văn Đồng choàng vòng hoa vào cổ khi ra hà Nội năm 1976), Phạm Xuân Quang, ban Tóan…
Ngay cả những người có bằng cấp, chức vị của Uỷ ban Khoa Học Kỹ Thuật Nhà Nước cách đây hơn 30 năm mà cũng còn có những hành động ăn cắp trắng trợn như vậy huống chi là những chuyện chôm chiả lặt vặt này !!!!
Cô Thuỵ ý thân kính : không gian trầm lặng , có1 ly cà phê xây chừng , nghe Hùng cường – Mai lệ huyền hát” Lính mà em” được phổ từ thơ của cô .. Trời Châu Âu đêm nay lạnh , có cây đàn thùng làm bạn ( tri kỷ hơn BÁ NHA-TỬ KỲ nữa ) chạnh lòng nhớ Sài gòn năm xưa – khu thương xá Eden & những con đường nắng mưa giao mùa , dù chia ly vẫn ngóng tin nhau.. Cô ra sao ? Vẫn kẹt lại Sài gòn ..sau khi miền Nam thất thủ ?
Mùa Noel đã về .. Cầu chúc cô & gia đình đầy hồng ân của thiên chúa
Sống ở miền Nam, cũng là lính của miền Nam nên tôi biết hai bản nhạc đã phổ từ thơ của Lý Thụy Ý, Lính Mà Em do Nhạc Sĩ Y Vân phổ nhạc, còn một bản do nhạc sĩ Anh Thy phổ nhạc, là người lính Hải Quân nên chúng tôi thường hát nhạc phẩm của Anh Thy hơn (Anh Thy là lính Hải Quân), tuy nhiên nhạc sĩ Anh Thy cũng sửa lại một số ca từ cho thích hợp với lính Hải Quân.
Trăng lên cao muôn hoa sóng dâng đầy
Tàu lắt lư làm sao viết thứ tình
Trăng đại dương không đủ viết thư đêm
nên thư buồn đừng trách, lính mà em
Hôm mình đi cine về mưa nhiều
Áo dài xanh bên áo trắng hoa biển
Anh che cho em đừng làm ướt áo
anh quen rồi sương gió, lính mà em.
……….
Thành thật cảm ơn nhà thơ Lý Thụy Ý và Trần Manh Hảo làm cho tôi hồi tưởng những gì tốt đẹp của một thời đã qua.
Kính gủi cô Thuỵ Ý
Xin phép được phổ bài thơ của cô thành Văn . Nếu cô đồng ý – thân kính !
Mình trách anh hay hồi âm thư trễ
Em đợi hoài .. Em sẽ giận cho xem,
Kính gởi tiền bối lý thuỵ ý .. Vãn bối xin nghiêng mình bái phục
Quả thật tôi có nghe tới trước năm 75,nhưng không đọc được một tác phấm nào của bà ta.Cho nên củng mù tịch .Nhưng bài hát “lính mà em”thì đả nghe nhiều cặp song ca hát ,như HùngCuờng /MailêHuyền…
Gấn đây trong một cuốn video về lính vnch của trung tâm Asia,hình như có ban hợp ca asia gồm 4 casỉ hát lại.Như vậy thì bài thơ không thể là của PTDuật ,thi sỉ ,cán bnh VC được. Hơn nửa một bài thơ (bài hát) lảng mạng ngoài cái từ linh được dùng phổ thông ở miền Nam .Ngoài ra bô đội miền Bắc đ trên đường Trường son thì làm sao cạp bồ với em gái hậu phương “đi xinê về trời mưa ướt áo?’.Tụi BC đemnhốt chết luôn,ví lảng mạng tiểu tưsản…
Một góp ý sau cùng là theo bài viết dẩn lới nhà văn nqlập được PTD tăng cuốn thơ,có giở bài :’Lính mà EM” nói là không phải của mình…
Dù thật xảy ra ,hay chạy tội cho bạn là PTD,thì PTD củng có LỔILỚN trong vụ này. Đáng lẻ anh ta phải yêu cầu nhà xuất bản bỏ bài đó ra hoặc lở phát hành thì phải đính chánh xin lổi,hoặc yêu càu thâu hồi sách hoặc bôi đen bài thơ đó.Nhưng PTD không làm,chỉ nói với bạn (nqlập) .TD có thể không biết,nhưng nói rằng ông yêu quí bài thơ vì aì đó yêu quí ông mà đưa vào. Nhưng nếu đó là bài thơ dở,như bài vè thì sao ?…
Cho nên ,người ta củng không biết có bao nhiêu bài trong thơ PTD là của tác giả vôdanh khác (thơ đăng báo chẳng hạn). Thi sỉ nên lên tiếng và xin lổi tác giả thì TỐT hơn …
(tn)
Bài thơ đặc sệt văn chương lính miền Nam sao lại có thứ nhầm lẫn hoặc đạo thơ 1 cách tai hại như vậy. Bản thân ông PTD cũng phủ nhận bài thơ này. nhưng cái nhóm ” đạo thơ” …. dùm cho PTD thì lại cho rằng vì nhà thơ PTD viết lời thơ lãng mạn quá nên không dám nhận là của mình ! Xem lại cách hành văn cùng tư tưởng của các bài thơ của PTD có khi nào gióng với bài ” lính mà em ” chưa mà cứ sĩ diện hão gượng ép cho là thơ của PTD. Trong khi ý bài thơ ” lính mà em” thì lại rất gióng với những bài thơ lính và nhạc lính VNCH. Nay chính tác giả Lý Thuỵ Ý đã lên tiếng,hãy trả bài thơ về đúng chổ đã xuất phát.
Về cái nghi vấn này, trên Văn Tuyển 2 có 1 bài nêu ra. Khổ nỗi lại gặp 1 làn sóng phản pháo từ “phe ta” viện đủ lý do 1 cách hết sức vô lý, khi bài thơ đặc chất ” em hậu phương – anh tiền tuyến” của lính VNCH. Bắc CS thời đó lấy đâu ra tà áo dài đi cùng người yêu là lính vào chiều thứ 7 ?? Trong khi các cô gái Bắc mặc gần như đồng phục áo ngắn – quần đen – nón lá ? Có 1 com khôi hài viết rằng ông PTD có “thiên lý nhãn” nên từ trong rừng Trường Sơn mà ông nhìn được cặp tình nhân lính này đang tay trong tay dạo phố Sài Gòn mà cảm tác ra bài thơ chăng ? Rồi tư nhiên bài viết đó lại…. biến mất , thế là chấm dứt việc đôi co lẫn nhau. Có người đề nghị VTđăng lại nhưng VT trả lời rằng bài mất không phục hồi được. Nếu tác giả bài viết chịu đăng lại thì có cho bà con đọc và ý kiến tiếp. Mấy ảnh thua lý rồi phá là vậy.