Hận thù ăn sâu bám chắc tại Á Châu
“In Asia, Ill Will Runs Deep”
Odd Arne Westad (1)
New York Times
7-1-2013
Người dịch: Nguyễn Quốc Khải (2)
Chỉ có một ít nền kinh tế và xã hội trên trái đất này có thể bổ sung cho nhau như của Trung Quốc và Nhật Bản. Dân Trung Quốc tương đối trẻ, nghèo, cần cù và quyết tâm phát triển kinh tế. Dân Nhật tương đối già và hoàn toàn mãn nguyện, nhưng tiến bộ về kinh thuật và hết lòng bảo vệ mức sống cao.Sự cận kề về địa dư xem như làm cho hai nước phù hợp một cách lý tưởng để đôi bên cùng hưởng lợi.
Nhưng Nhật Bản lo sợ sự vươn lên của Trung Quốc vì nền kinh tế của Trung Quốc năng động hơn nền Kinh Tế của Nhật Bản.Và Trung Quốc bị phiền nhiễu bởi Nhật Bản vì đảo quốc này giống như một hàng không mẫu hạm của Hoa Kỳ không thể chìm được ở ngay ngoài khơi của Trung Quốc.
Hơn một năm vừa qua, những người theo chủ nghĩa dân tộc tại cả hai nước đã tham gia một trận chiến ngôn từvề những hòn đảo đôi bên tranh chấp mà Nhật gọi là Senkaku và Trung Quốc gọi là Diaoyu(3). Thủ tướng mới của Nhật thuộc cánh hữu Shinzo Abe đã làm những nhà lãnh đạo Trung Quốc lo ngại với những lời kêu gọi cứu xét lại những điều cam kết về hòa bình được trân trọng ghi trong hiến pháp hậu chiến áp đặt bởi Hoa Kỳ và làm cho chương trình giáo dục tại các trường học yêu nước hơn.
Lịch sử dài tiếp tục ám ảnh mối quan hệ giữa hai nước. Tại Á châu, Thế Chiến thứ Hai bắt đầu vào 1937 với chiến tranh Trung-Nhật. Hàng triệu người Trung Quốc bị giết chết vì chủ nghĩa bành trướng của Nhật. Nhưng điều này không giải thích được tại sao những người trẻ tại Trung Quốc và Nhật hiện nay thù nghịch nhau hơn là cha ông của họ – ngay cả sau khi chiến tranh chấm dứt.
Sự giải thích thật sự tìm thấy trong quá khứ xa hơn nữa.Trung Quốc xem sự vươn lên của Nhật Bản vào cuối thế kỷ 19 là một sỉ nhục bởi vì Trung Quốc luôn luôn cảm nghĩ rằng mình là nước lãnh đạo của cả vùng. Ông Mao Trạch Đông và những lãnh tụ thành lập Đảng Cộng Sản Trung Quốc chấp nhận quan điểm này và truyền lại cho những người nối nghiệp.
Do đó phần đông những người Trung Quốc coi sự giầu có của Nhật và vị trí đồng minh cốt yếu với Mỹ của Nhật là kết quả của những lợi lộc đoạt được một cách xấu xa. Ngay cả khi Trung Quốc ở vào thế yếu nhất vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, những nhân vật ưu tú nhất của Trung Quốc cảm thấy rằng Khổng Giáo mà Trung Quốc truyền bá qua những nước láng giềng – Hàn quốc, Nhật và Việt Nam – là nguồn gốc của một nền văn hóa chung. Những nước khác trung “vùng Khổng Giáo” có nhiệm vụ là thừa nhận một cách đơn giản sự lãnh đạo tự nhiên của Trung Quốc. (4)
Chính sách của Trung Quốc tại Biển Hoa Nam ngày nay giống như chính sách của Vua Nhà Thanh, triều đại cuối cùng cai trị Trung Quốc vào cuối thế kỷ 18. Hoàng Đế Càn Long thời đó thích nói với vô số các nước ở phương Nam như một người cha nói với những người con. Những nhà lãnh đạo Trung Quốc hiện nay đang sử dụng ảnh hưởng tại những nước như Việt Nam và Lào, theo lối gia trưởng của vua Càn Long.
Không chắc những nước láng giềng của Trung Quốc ngày nay tán thưởng cách cư xử như vậy hơn là trước đây. Vua Càn Long can dự vào một cuộc chiến với Việt Nam vào thập niên 1780s. (5) Cuộc chiến này làm suy yếu trầm trọng đế quốc của Vua Càn Long.
Từ đó, tại những nước ở trong vùng nổi lên những làn sóng chủ nghĩa quốc gia dân tộc, thường để chống lại chủ nghĩa thực dân của phương Tây.Nam Dương với dân số 248 triệu người, không coi mình là một nước nhỏ, ngay cả so sánh với một nước khổng lồ như Trung Quốc.Nam Dương tìm cách chống lại quyền lực của Trung Quốc trừ khi Trung Quốc thay đổi thái độ và chính sách.
Về phần Nhật Bản, quốc gia này chuyển giữa hai hướng: thích ứng và cạnh tranh với Trung Quốc. Mặc dầu, chủ nghĩa đế quốc Nhật Bản là một sự kiện trong quá khứ, nhưng những thái độ tạo ra chủ nghĩa đế quốc vẫn còn tồn tại. Ông Abe, cháu của một cựu thủ tướng Nhật mà nhiều người Trung Quốc xem như một tội phạm chiến tranh, xem ra là hiện thân của những quan điểm này. (6)
Mặc dù phần đông người Nhật thừa nhận sự quan trọng của việc trao đổi thương mại và đầu tư với Trung Quốc, vấn đề an ninh quốc gia xem ra quan trọng hơn.
Tội lỗi của Nhật trong việc chểnh mạng không giải quyết hoàn toàn vấn đề quá khứ đã gây trở ngại cho chính sách ngoại giao hiện nay, nhưng những tội lỗi này xem ra lu mờ so với ý thức lịch sử muốn làm bá chủ trong vùng của Trung Quốc và chủ nghĩa quốc gia chống Nhật độc hại được nhà nước bảo trợ. Rất buồn là những thái độ kẻ cả này sẽ không chắc thay đổi với ban lãnh đạo Cộng Sản mớinhậm chức vào tháng 11, 2012.
Ngay cả ngôn ngữ ngoại giao của Trung Quốc cũng nhấn mạnh đến việc phải tuân theo dường hướng lịch sử của đảng thay vì nhận thức những quyền lợi hiện tại, nó cũng cho rằng chỉ có một vị thế trong bang giao quốc tế – thường của Trung Quốc – là có thể đúng.
Trung Quốc hôm nay được hưởng nhiều lợi lộc bằng cách hợp tác hơn là xung đột với Nhật. Nhắc đi nhắc lại những tội lỗi quá khứ và làm nóng cuộc tranh chấp về những hòn đảo đem lại ít điều tốt. Nếu Trung Quốc muốn trở thành một thế lực vượt trội trong vùng, Trung Quốc chỉ có thể làm được như vậy với Nhật Bản, chứ không phải chống lại nước này.
Như Pháp và Đức đã chứng minh, những nhận thức có thể thay đổi khi quyền lợi quốc gia đòi hỏi. Nhưng chuyển đổi cách suy nghĩ của Bắc Kinh từ hệ thống có trật tự trên dưới qua hợp tác đòi hỏi một khả năng lãnh đạo mạnh mẽ và sự hiểu biết tinh vi về quyền lợi quốc gia. Những nhà lãnh đạo của Trung Quốc gần đây không cho một hi vọng nào về cả hai điều này.
© Đàn Chim Việt
—————————————
Giải thích:
1. Odd Arne Westad là giáo sư về lịch sử quốc tế tại Trường Kinh Tế London (London School of Economics). Ông là tác giả của cuốn sách “Restless Empire: China and the World Since 1750.”
2. Nguyễn Quốc Khải nguyên là tham vấn và chuyên viên kinh tế tại Ngân Hàng Thế Giới.Ông cũng từng làm tham vấn cho đài phát thanh Á Châu Tự Do và giáo sư thỉnh giảng của Johns Hopkins University. Ông Khải viết chung một số sách về Việt Nam, trong đó có “The Vietnamese Economy – Awakening The Dormant Dragon,” và “The Future of Development in Vietnam and The Challenges of Globalization,” và “Làm Gì Cho Nông Thôn Việt Nam,” Trung Tâm Kinh Tế Á Châu – Thái Bình Dương, Saigon: 2003.
3. Điều Ngư theo lối phiên âm tiếng Việt gồm năm đảo nhỏ và ba tảng đá, hiện do Nhật quản tri.
4. Trung Quốc quên rằng Phật Giáo từ Ấn Độ truyền bá qua nhiều nước Đông Á bao gồm Tây Tạng, Bhutan, Mông Cổ, Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Miến Điện, Thái Lan, Tích Lan, Singapore, Campuchia, Lào, và Việt Nam.
5. Hoàng Đế Quang Trung đại phá quân Thanh vào Tết Kỷ Dậu 1789. Chủ Tướng Sầm Nghi Đống của Quân Thanh tự sát. Thống Đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị chạy thoát về Trung Quốc.
6. Ông Kan Abe, ông nội của đương kim thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe, là người giám sát chương trình phát triển Mãn Châu vào thập niên 1930, trong thời gian vùng này bị Nhật chiếm đóng.
Tác giả, giáo sư Odd Arne Westad, là một chuyện viên nghiên cứu sử học đẳng cấp quốc tế, với lãnh vực chuyên môn về thời kỳ Chiến tranh lạnh và chính trị Á châu hiện đại. Do đó, không có gì ngạc nhiên khi ông thấy rõ tâm lý của người Tầu muốn trở lại vị thế “anh Cả” của vùng Đông Á.
Điều tác giả không nói “huỵch tẹt” ra là, Bắc Kinh đang dùng lợi dụng tâm lý này của người dân TQ – như Hitler đã làm ba phần tư thế kỷ trước – để lôi kéo quần chúng đi theo mình một cách mù quáng, không nhìn thấy hiểm nguy rình rập trên đường dài.
Nước Đức thời Hitler có hùng mạnh đến đâu cũng không thể chiến thắng mãi khi, ngoại trừ hai ba quốc gia (Ý, Nhật và Tây Ban Nha) đồng chí hướng, cả thế giới chống lại mình. Trung Quốc cộng sản ngày nay cũng đang ở đang ở vị thế giống hệt. Ngoại trừ chính quyền vài nước láng giềng nghèo đói đang được Bắc Kinh “bảo trợ” (Bắc Hàn, Việt Nam, Lào và Căm-bu-chia), các nước trong vùng Đông Á – kể cả Nam Hàn, Nhật Bản, Úc và nhất là Ấn Độ – đã tự báo động về hiểm họa bành trướng của Tầu và liên kết với nhau, với cả “hậu phương” lớn Hoa Kỳ hỗ trợ, để đối phó. Do đó, về lâu về dài, người ta có thể tin rằng bành trướng Bắc Kinh sẽ bị chận đứng.
Tuy nhiên, con người ngày này đã khác nhiều so với đầu thế kỷ trước. Nhờ vào kinh qua hai cuộc Thế chiến và cuộc Chiến tranh lạnh (chiến tranh ý thức hệ) đã kinh nghiệm nhiều và, nhờ vào sư phát triển của internet, hiểu biết nhiều hơn gấp cả trăm lần.
Dĩ nhiên nhà nước Bắc Kinh tìm đủ mọi cách để ngăn cản dân chúng nước họ được thông tin và hiểu biết, nhưng chắc chắn họ cũng chỉ làm chậm lại sự xâm nhập của văn minh dân chủ chứ khó lòng đảo ngươc được nó. Có lẽ Bắc Kinh chỉ có chừng 10 năm nữa để chạy đua với tiến trình “văn minh toàn cầu”. Sau đó, chế độ CSTQ sẽ kể như không còn, hoặc chỉ có cái vỏ là nhiều.
Câu hỏi cho chính cho TQ là, tới lúc đó dân tộc TQ có còn giữ được bao nhiêu truyền thống nhận bản cao đẹp “nhân nghĩa lễ trí tín”? Đây cũng chính là câu hỏi rốt ráo cho dân tộc Việt Nam vậy.
TB, Tác giả đưa ra thí dụ vua Càn Long để thuyết minh về tâm lý “đàn anh” của Tầu, thật chính xác. Cùng với hoàng đế Khanh Hi, vua Càn Long một vì vua quan trọng của triều đại nhà Thanh, vốn dĩ là người Mãn Châu (Manchuaria), dòng giống Mông Cổ hơn là Hán tộc. Cả hai đều làm vua 60 năm, đã mở mang bở cõi của Trung Hoa lớn rộng nhất như ngày nay. Đặc biệt, Càn Long có nhiều liên hệ đến nước VN. Dưới triều Càn Long, Tầu lấy cớ là phò nhà Lê đã đem quân xâm chiếm VN, cuối cùng bị Quang Trung đánh tan xác! Là thiên tài quân sự lẫn chính trị có một không hai trong lịch sử VN, Quang Trung đã “đích thân” cầu hòa với vua Càn Long – hẳn để giữ thể diện cho hoàng đế Trung Hoa – và còn xin cưới công chúa, con gái của Càn Long. Qua việc làm rể của hoàng đế Trung Hoa, và được Càn Long hoan hỉ chấp nhận (hồi ký của sứ giả Triều Tiên tại Bắc Kinh thời đó ghi nhận là vua Quang Trung – giả hay thật – tướng mạo uy vĩ hơn người). Ít nhất, qua việc cầu thân đó, Quang Trung đã giữ biên thùy phương Bắc được yên ổn, đế có thể chú tâm lo bình định phương Nam.
Kính chào Ông Lâm Vũ và độc giả của ĐCV,
Thỉnh thoảng tôi may mắn được đọc một vài bài có giá trị viết bằng tiếng Anh. Tôi cố gắng bỏ thì giờ dịch sang tiếng Việt để những độc giả không thông thạo tiếng Anh ở các nơi và nhất là ở Việt Nam có thể đọc những bài báo này. Thông thường tác giả là những người am hiểu vấn đề họ viết. Họ là người nước ngoài, nên nhận định của họ được tin cậy là khách quan hơn người Việt viết về vấn đề liên quan đến Việt Nam. Tôi sẽ tiếp tục làm công việc dịch thuật như một đóng góp nhỏ cho việc tự do thông tin.
Cám ơn ông KQN đã bỏ công dịch thuật tài liệu nước ngoài cho mọi người đọc. Cũng trong tinh thần đó, những t/g nước ngoài cũng chưa hẳn đã đáng “tin cậy”, cho dù họ có được cái nhìn khách quan và là những người am hiểu vấn đề. Họ viết/nói cái gì cũng đều có ý đồ riêng, đọc thì đọc, nhưng những bài viết ấy cũng chẵng nói lên được cái gì nhiều lắm, nhất là trong những lĩnh vực khó kiểm chứng. :)
Tôi xin có một ý kiến.
Bài viết kết luận: “Trung Quốc hôm nay được hưởng nhiều lợi lộc bằng cách hợp tác hơn là xung đột với Nhật…”.
Những câu khuyên nhủ TQ kiểu này tôi đã từng đọc nhiều trên báo chí Hoa Kỳ một hai năm trở lại đây. Chúng khiến tôi có cảm tưởng đang đi thụt lùi dòng lịch sữ thế giới ba phần tư thế kỷ! Chính xác là sống lại thời đồng minh Anh – Pháp tìm cách “o bế” Hitler, để nhà độc tài này đừng có tham vọng lớn quá (mệnh danh là sách lược “Appeasement” của thủ tướng Anh quốc N.Chamberlain). Kết quả, như chúng ta ai cũng biết, là thay vì chỉ đeo đuổi mục tiêu “Đại Đức” – chiếm tất cả những vùng có người Đức sinh sống – mà mở rộng tham vọng thành bá chủ Âu Châu và thế giới…
Một lý do khác khiến tôi tin so sánh này – Hitler với đảng CSTQ – là ở chỗ với cả hai, sách lược bá chủ trung vùng và thế giới – nếu có thể được – vừa là mục tiêu (tham vọng) vừa là “raison d’être (lý do để họ sống còn). Tức là thế “cưỡi lưng cọp”. Cũng như vị thế của NAZI 3/4 thế kỷ trước, đảng CSTQ ngày nay không thể ngưng bành trướng, vì đứng lại là “tự sát”. Lý do của vị thế này của NAZI và CSTQ giống hệt nhau: cả hai đều nắm chính quyền và tồn tại nhờ chiêu bài phục hồi lại vị thế hàng đầu thế giới cho đất nước mình. Cũng như dân chúng Đức thời 1930s, dân chúng TQ ngày này không đặc biệt ưa thích chế độ cầm quyền, nhưng họ ủng hộ vì trước mắt chế độ đã “gỡ được mặt mũi” cho họ.
Nhưng chế độ Hitler đã không chỉ ngưng ỡ chỗ đó, nên rốt cục, người dân Đức lại một lần trả cái giá đắt hơn lần lỡ lầm “trao thân nhầm tướng cướp” trước thời Thế chiến thứ Nhất. Không khéo dân tộc Tầu (TQ) sẽ cũng có số mạng tương tự.
LV
TB. Cám ơn ông NQK đã giới thiệu những bài viết có giá trị. Cá nhân tôi rất mong được đọc những bài viết hay liên hệ tới VN – hay chỉ giới thiệu, đưa “link” cũng tốt.
@Lâm Vũ : Chính xác !!!
Tôi nghĩ sự sống trên hành tinh nầy sẽ bị tiêu diệt trong vòng từ 50 đến 200 năm nữa hoặc do chiến tranh hoặc do môi trường sống bị đảo lộn hoặc do cả hai,
Sở dĩ có chiến tranh và môi trường đảo lộn là do: Một là do sự trổi dậy của Trung quốc, Hai là do dân số thế giới quá lớn, Ba là do mức tiêu thụ vật chất của từng cá nhân trong cộng đồng nhân loại đang bùng nổ, Bốn là do hố ngăn cách giàu nghèo quá lớn trong đó người nghèo quá đông,
Để không những cứu sự sống trên hành tinh nầy nà còn xây dựng được một thiên đường trên trái đất nầy cho nhân loại tôi thấy cần phải làm:
– Một là phải cải cách tổ quốc Liên Hiệp quốc bàng cách: Chỉ có những nước thật sự có dân chủ tự do mới được làm hội viên chính thức, Những nước có lộ trình cụ thể tiến tới thật sự dân chủ tự do làm hội viên bán chính thức, những nước còn lại làm quan sát viên , Những quyết định của LHQ phải căn cứ vào lá phiếu những hộ viên chính thức vào, đơn vị dân số và đơn vị đóng góp.
– Hai là phải tức khắc bao vây cô lập Trung quốc để Trung quốc nội loạn tự chia thành những nước nhỏ và dùng sức mạnh quân sự của những nước tự do dân chủ cắt Trung quốc ra thành những nước nhỏ trước khi sức mạnh quân sự của Trung quốc quá lớn.
– Ba là phải giảm dân số thế giới xuông còn một nửa hiện tại trong vòng 100 đến 200 năm bằng những giải pháp công bình, nhân đạo, yên lành và tự nhiên
– Bốn là phải điều chỉnh mật độ dân số thế giới và Tài nguyên thiên nhiên sao cho hợp lý hợp tình hơn hiện tại
– Năm là phải khuyến khích và ban thưởng cho những người giàu yêu thương và giúp đỡ người nghèo, Người nghèo siêng nămg, chịu khó, cần kiện … để vượt qua cảnh nghèo và biết opon kíng trọng người giàu giúp mình.
– Sáu là phải khuyến khích và chỉ dạy mọi người có cuộc sống giản dị, biết đủ quân bình giữa vật chất và tinh thần.
– Bảy là phải từng bước loại bỏ biên giới quốc gia trong vòng 200 đến 500 năm tới
– Tám là phải thường xuyên xét để loại bỏ những luật lệ đã lỗi thời hay không còn cần thiết
– Chín là phải chú trọng và phát triển khoa học, kỹ thuật, nhân quyền và lòng nhân ái .
Những điều trên không phải cái gì quá khó vượt qua khả năng của loài người nhưng nếu không hành động ngay thì sự sống trên hành tinh sẽ tiêu tang.