Việc thi hành hiệp định Genève
Nhân kỷ niệm 60 năm hiệp định Genève (20-7-1954), chúng ta thử nhìn lại Cộng Sản Việt Nam (CSVN) dựa vào lý do nào để khởi binh tấn công Nam Việt Nam (NVN)?
Hiệp định Genève
Danh xưng chính thức đầy đủ của hiệp định Genève về Việt Nam là Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam. Hiệp định nầy được viết bằng hai thứ tiếng Pháp và Việt, có giá trị như nhau. Hai nhân vật chính ký vào hiệp định Genève là Henri Delteil, thiếu tướng, thay mặt Tổng tư lệnh Quân đội Liên Hiệp Pháp ở Đông Dương và Tạ Quang Bửu, thứ trưởng Bộ Quốc phòng chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH tức Việt Minh cộng sản). Đại diện các nước khác cùng ký vào hiệp định Genève còn có Anh, Liên Xô, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa (Trung Cộng), Lào Cambodia. Chính phủ Quốc Gia Việt Nam (QGVN) và Hoa Kỳ không ký vào bản hiệp định nầy.
Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam (gọi tắt là hiệp định Genève)gồm có 6 chương, 47 điều, trong đó các điều chính như sau:
Việt Nam được chia thành hai vùng tập trung, ranh giới tạm thời từ cửa sông Bến Hải, theo dòng sông, đến làng Bồ-Hô-Su và biên giới Lào Việt. [Cửa sông Bến Hải tức Cửa Tùng, thuộc tỉnh Quảng Trị. Sông Bến Hải ở vĩ tuyến 17 nên người ta nói nước Việt Nam được chia hai ở vĩ tuyến 17.
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ở phía bắc và Quốc Gia Việt Nam ở phía nam Viêt Nam. Dọc hai bên bờ sông, thành lập một khu phi quân sự rộng 5 cây số mỗi bên, để làm “khu đệm”, có hiệu lực từ ngày 14-8-1954. Thời hạn tối đa để hai bên rút quân là 300 ngày kể từ ngày hiệp định có hiệu lực. Cuộc ngưng bắn bắt đầu từ 8 giờ sáng ngày 27-7 ở Bắc Việt, 1-8 ở Trung Việt và 11-8 ở Nam Việt. Mỗi bên sẽ phụ trách tập họp quân đội của mình và tự tổ chức nền hành chánh riêng. Cấm phá hủy trước khi rút lui. Không được trả thù hay ngược đãi những người đã hợp tác với phía đối phương. Trong thời gian 300 ngày, dân chúng được tự do di cư từ khu nầy sang khu thuộc phía bên kia. Cấm đem thêm quân đội, vũ khí hoặc lập thêm căn cứ quân sự mới. Tù binh và thường dân bị giữ, được phóng thích trong thời hạn 30 ngày, kể từ khi thực sự ngừng bắn. Sự giám sát và kiểm soát thi hành hiệp định sẽ giao cho một Uỷ ban Quốc tế. Thời hạn rút quân riêng cho từng khu vực kể từ ngày ngừng bắn: Hà Nội (80 ngày), Hải Dương (100 ngày), Hải Phòng (300 ngày), miền Nam Trung Việt (80 ngày), Đồng Tháp Mười (100 ngày), Cà Mau (200 ngày). Đợt chót ở khu tập kết Trung Việt (300 ngày).
Ai vi phạm hiệp định Genève
Hiệp định này ký kết ngày 20-7-1954 chỉ là một hiệp định có tính cách thuần tuý quân sự. Cũng giống như hiệp ước đình chiến Bàn Môn Điếm ngày 27-7-1953 ở Triều Tiên, hiệp định không phải là một hòa ước, và không đưa ra một giải pháp chính trị nào cho tương lai Việt Nam.
Chính phủ QGVN dưới quyền quốc trưởng Bảo Đại và thủ tướng Ngô Đình Diệm lo tập trung và rút toàn bộ lực lượng của mình về miền Nam vĩ tuyền 17 đúng thời hạn và đúng theo quy định của hiệp định. Điều nầy chẳng những báo chí lúc bấy giờ đã trình bày, mà cho đến nay, chẳng có tài liệu sách vở nào cho thấy là chính phủ QGVN đã gài người hay lưu quân ở lại đất Bắc. Như thế, trong việc thi hành hiệp định Genève, chính phủ QGVN đã thi hành đúng đắn hiệp định.
Trái lại, nhà nước VNDCCH do Việt Minh cộng sản cầm đầu đã không tuân hành quy định trong hiệp định Genève. Sau đây là hai bằng chứng cụ thể do phía cộng sản đưa ra về sau:
Thứ nhứt, tại hội nghị Liễu Châu (Liuzhou) thuộc tỉnh Quảng Tây (Kwangsi), giữa thủ tướng Trung Cộng Chu Ân Lai và chủ tịch nhà nước VNDCCH Hồ Chí Minh từ ngày 3 đến ngày 5-7-1954, tức trước khi hiệp định Genève được ký kết, Hồ Chí Minh đã đưa ra kế hoạch là sẽ chỉ rút những người làm công tác chính trị bị lộ diện; phần còn lại thì ở lại để chờ đợi thời cơ nổi dậy. Số ở lại có thể đến 10,000 người. (Tiền Giang, Chu Ân Lai dữ Nhật-Nội-Ngõa hội nghị (Chu Ân Lai và hội nghị Genève) Bắc Kinh: Trung Cộng đảng sử xuất bản xã, 2005, bản dịch của Dương Danh Dy, tựa đề là Vai trò của Chu Ân Lai tại Genève năm 1954, chương 27 “Hội nghị Liễu Châu then chốt”. Nguồn: Internet).
Thứ hai, Việt Minh cộng sản chẳng những chôn giấu võ khí, lưu 10,000 cán bộ, đảng viên ở lại Nam Việt Nam, mà còn gài những cán bộ lãnh đạo cao cấp ở lại miền Nam như Lê Duẫn, Võ Văn Kiệt, Mai Chí Thọ, Cao Đăng Chiếm… (Huy Đức, Bên thắng cuộc, tập I: Giải phóng, New York: Osinbook, 2012, tt. 271-273), để chỉ huy Trung ương cục miền Nam (TƯCMN). Trung ương cục miền Nam được thành lập ngày 20-1-1951, chỉ huy toàn bộ hệ thống cộng sản ở Nam Việt Nam (Tháng 10-1954, TƯCMN đổi thành Xứ ủy Nam Bộ. Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành TƯĐ (khóa III) đảng LĐ (ngày 23-1-1961) ở Hà Nội, Xứ ủy Nam Bộ trở lại thành TƯCMN.)
Hai tài liệu trên đây do phía cộng sản Việt Nam tiết lộ, chứ không phải tài liệu tuyên truyền của NVN hay Tây Phương. Như vậy, rõ ràng trong khi chính phủ QGVN tôn trọng hiệp định Genève, nhà nước VNDCCH đã có kế hoạch vi phạm hiệp định đã ký kết.
Cộng sản đòi hỏi điều không có
Hiệp định Genève chỉ là một hiệp định đình chiến, thuần túy quân sự và không đưa ra một giải pháp chính trị. Thế mà ngày 19-7-1955, thủ tướng BVN là Phạm Văn Đồng gởi thư cho thủ tướng Nam Việt Nam (NVN) là Ngô Đình Diệm yêu cầu mở hội nghị hiệp thương bắt đầu từ ngày 20-7-1955, như đã quy định trong hiệp định Genève để bàn về việc tổng tuyển cử nhằm thống nhất đất nước. (John S. Bowman, The Vietnam War, Day by Day, New York: The Maillard Press, 1989, tr. 17.) Ngày 10-8-1955, thủ tướng Ngô Đình Diệm bác bỏ đề nghị của Phạm Văn Đồng, vì cho 1955 rằng chính phủ QGVN tức NVM không ký các văn kiện Genève nên không bị ràng buộc phải thi hành.
Tuy sau đó chính phủ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), thay chính phủ QGVN, nhiều lần từ chối, Phạm Văn Đồng vẫn nhắc lại đề nghị nầy hằng năm vào các ngày 11-5-1956, 18-7-1957, và 7-3-1958, để chứng tỏ BVN quan tâm đến chuyện thống nhứt đất nước, và nhằm tuyên truyền với các nước trên thế giới. Lần cuối, Ngô Đình Diệm, lúc đó là tổng thống VNCH, bác bỏ đề nghị của Phạm Văn Đồng vào ngày 26-4-1958.
Một điều lạ lùng là trong hiệp định Genève, không có một điều khoản nào nói đến việc tổ chức tổng tuyển cử để thống nhất đất nước mà nhà cầm quyền CS cứ nhất định đòi hỏi tổ chức tổng tuyển cử theo hiệp định Genève. Thật ra, sau khi hiệp định về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, ở Lào và ở Cambodia được ký kết, các phái đoàn tham dự hội nghị Genève họp tiếp vào ngày 21-7-1954, nhằm bàn thảo bản “Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương”. Bản tuyên bố gồm 13 điều; quan trọng nhất là điều 7, ghi rằng: Hội nghị tuyên bố rằng đối với Việt Nam, việc giải quyết các vấn đề chính trị thực hiện trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, sẽ phải làm cho nhân dân Việt Nam được hưởng những sự tự do căn bản, bảo đảm bởi những tổ chức dân chủ thành lập sau tổng tuyển cử tự do và bỏ phiếu kín. Để cho việc lập lại hòa bình tiến triển đến mức cần thiết cho nhân dân Việt Nam có thể tự do bày tỏ ý nguyện, cuộc Tổng tuyển cử sẽ tổ chức vào tháng 7-1956 dưới sự kiểm soát của một Ban Quốc tế gồm đại biểu những nước có chân trong Ban Giám sát và Kiểm soát Quốc tế đã nói trong Hiệp định đình chỉ chiến sự. Kể từ ngày 20-7-1955 những nhà đương cục có thẩm quyền trong hai vùng sẽ có những cuộc gặp gỡ để thương lượng về vấn đề đó (Thế Nguyên, Diễm Châu, Đoàn Tường, Đông Dương 1945-1973, Sài Gòn: Trình Bày, 1973, tr. 53. Xem bản Pháp văn của tuyên ngôn nầy, vào: google.com.fr., chữ khóa: Déclaration finale de la Conférence de Genève en 1954.)
Chủ tịch phiên họp là Anthony Eden (ngoại trưởng Anh) hỏi từng phái đoàn, thì bảy phái đoàn là Anh, Pháp, Liên Xô, CHNDTH, VNDCCH, Lào và Cambodge trả lời miệng rằng “đồng ý”. (Hoàng Cơ Thụy, Việt sử khảo luận, cuốn 5, Paris: Nxb. Nam Á 2002, tr. 2642.) Tất cả bảy phái đoàn đều trả lời miệng chứ không có phái đoàn nào ký tên vào bản tuyên bố, nghĩa là bản tuyên bố không có chữ ký. Đây chỉ là lời tuyên bố (déclaration) của những phái đoàn, có tính cách dự kiến một cuộc tổng tuyển cử trong tương lai ở Việt Nam, không có chữ ký, thì chỉ có tính cách gợi ý, hướng dẫn chứ không có tính cách cưỡng hành. Một văn kiện quốc tế không có chữ ký thì làm sao có thể bắt buộc phải thi hành? Hơn nữa, những hiệp định với đầy đủ chữ ký mà còn bị CSVN vi phạm trắng trợn, huống gì là bản tuyên bố không chữ ký.
Phái đoàn QGVN và phái đoàn Hoa Kỳ không ký vào hiệp định Genève ngày 20-7-1954 và cũng không đồng ý bản “Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương” ngày 21-7-1954. Hai phái đoàn QGVN và Hoa Kỳ đã đưa ra tuyên bố riêng của mỗi phái đoàn để minh định lập trường của chính phủ mình.
Cộng sản bịa đặt lý do để tấn công QGVN
Cộng sản BVN vi phạm hiệp định Genève, nhưng lại bịa đặt ra hai lý do để tấn công NVN: 1) Nam Việt Nam không tôn trọng hiệp định về việc tổ chức tổng tuyển cử thống nhất đất nước. 2) Nam Việt Nam là tay sai đế quốc Mỹ nên BVN quyết định chống Mỹ cứu nước.
Về lý do thứ nhứt, như trên đã viết, hiệp định Genève không đề cập đến giải pháp chính trị tương lai cho Việt Giải pháp tổng tuyển cử nằm trong điều 7 của bản “Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương”. Bản tuyên bố nầy lại không có chữ ký của bất cứ phái đoàn nào, nên chỉ có tính cách khuyến cáo chứ không có tính cách bắt buộc phải thi hành.
Lý do thứ hai hoàn toàn có tính cách tưởng tượng vì sau năm 1954, Hoa Kỳ viện trợ kinh tế cho Nam Việt Nam tái thiết đất nước, ổn định cuộc sống của dân chúng sau chiến tranh, chứ Hoa Kỳ không viện trợ quân sự, chưa đem quân vào Việt Nam.
Nếu để cho VNCH yên bình xây dựng kinh tế với sự trợ giúp của Hoa Kỳ, thì đến một lúc nào đó chắc chắn VNCH với nền kinh tế tự do sẽ phát triển và vượt xa VNDCCH với nền kinh tế chỉ huy theo đường lối cộng sản. Đó chính là điều mà VNDCCH thực sự lo lắng. Sự giúp đỡ của Hoa Kỳ cho NVN chẳng những khiến BVN rất quan ngại, mà sự hiện diện của người Hoa Kỳ tại NVN còn khiến cho cả Trung Cộng chẳng yên tâm.
Lúc đó, Hoa Kỳ đang giúp Trung Hoa Dân Quốc bảo vệ Đài Loan chống Trung Cộng. Hoa Kỳ còn giúp bảo vệ Nam Triều Tiên và Nhật Bản, nên Trung Cộng mạnh mẽ chống đối Hoa Kỳ chẳng những tại Đông Á, mà còn chống Hoa Kỳ khắp nơi trên thế giới, hơn cả Liên Xô chống Hoa Kỳ. Nay người Hoa Kỳ lại có mặt ở NVN, gần sát với Trung Cộng, nên Trung Cộng rất quan ngại cho an ninh phía nam của chính Trung Cộng.
Hơn nữa, cho đến năm 1960 là năm BVN khởi động chiến tranh tấn công NVN, Hoa Kỳ chỉ viện trợ kinh tế cho NVN chứ Hoa Kỳ không đem quân vào NVN. Chỉ sau khi BVN tấn công và uy hiếp mạnh mẽ NVN, Hoa Kỳ mới đem quân vào giúp NVN năm 1965. Vì vậy, chiêu bài “chống Mỹ cứu nước” năm 1960 là hoàn toàn bịa đặt. Như thế, BVN cố tình đưa ra chiêu bài “chống Mỹ cứu nước” vừa để kêu gọi lòng yêu nước của người Việt Nam vốn có tinh thần chống ngoại xâm, vừa để xin viện trợ cộng sản quốc tế và thi hành nghĩa vụ quốc tế, như Lê Duẫn đã từng nói “Ta đánh Mỹ là đánh cho cả Trung Quốc, cho Liên Xô” (Nguyễn Mạnh Cầm, ngoại trưởng CSVN từ 1991-2000, trả lời phỏng vấn đài BBC ngày 24-1-2013.)
Kết luận
Hiệp định Genève là hiệp định đình chỉ quân sự. Chính thể QGVN hay VNCH tức NVN đã thi hành đúng hiệp định. Trong khi VNDCCH liên tục vi phạm hiệp định nầy. Do tham vọng quyền lực, do chủ trương bành trướng chủ nghĩa cộng sản và do làm tay sai cho Liên Xô và Trung Cộng, VNDCCH mở cuộc chiến từ năm 1960, tấn công Việt Nam Cộng Hoà dưới chiêu bài thống nhất đất nước và chống Mỹ cứu nước. Nhân kỷ niệm 60 năm hiệp định Genéve xin ôn lại điều nầy để giới trẻ trong và ngoài nước thấy rõ nguyên nhân của cuộc chiến 1960-1975, làm cho đất nước điêu tàn và khoảng 3 triệu người Việt tử vong, xuất phát từ VNDCCH hay BVN do đảng Lao Động hay đảng Cộng Sản Việt Nam điều khiển.
Điều nầy càng làm sáng tỏ chính nghĩa của VNCH, cương quyết chống lại CSBVN, bảo vệ nền tự do dân chủ ở NVN, chống lại sự xâm lăng của cộng sản và sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản. Dầu thất bại, chính nghĩa tự do dân chủ của VNCH vẫn luôn luôn sáng ngời và luôn luôn là mục tiêu tối hậu mà nhân dân Việt Nam hiện đang cố gắng vươn tới.
© Trần Gia Phụng
© Đàn Chim Việt
Trích: “Nhân kỷ niệm 60 năm hiệp định Genève (20-7-1954), chúng ta thử nhìn lại Cộng Sản Việt Nam (CSVN) dựa vào lý do nào để khởi binh tấn công Nam Việt Nam (NVN)?”
Câu trả lời đã quá rõ ràng; Ông Hồ Chí Minh là tên đồ tể được CS huấn luyện, đào tạo từ bên Nga bên Tầu, lấy máu người VN để tô đậm cho lá cờ đỏ búa liềm, dâng cả nước VN cho CS-Quóc tế.
Ngày nay CS-Quốc tế không còn nữa thì CSVN bám chặt vào Tầu phù và dâng đất, chia biển cho TQ!
Có hai lãnh tụ ” đồng minh ” tới Hanoi, và…vô tình thăm ông X.
Đó là hai ngài Tony Blair và Clinton.
Ông X trông zui zẻ ra mặt, như vùa xơi tô hủ tíu nhiều giá sống.
Có gì hay không thủ tứng X ? == Trongcuộc gặp một đoàn thể vùa
qua, ông X nói như ông VV Kiệt nói, là ta phải đặt q ư ờ n lọi của
Dân và đất nước lên trên hết ( không ngải Trọng Lú mè nheo sao?)
Dâm à,
Có thể nào bớt…vọng ngoại tí không Dâm?
Anh Mỹ hay LHQ gì cũng vậy, mềnh có kinh nghiệm đầy quần với chúng rồi, Dâm?
Cái…sắp xếp của chúng, không thể nào bền bằng cái tự người Việt mình với nhau cùng…khai dân trí, sắp xếp với nhau.
Khi toàn dân VN củng hiểu ra rằng dưới sự cai trị của đàng Cộng, có no bụng được tí xíu, toàn dân cũng biến thành một dân tộc…láo, lấy láo làm căn bản để lên đời.
Vậy, người dân VN sẽ cùng nhau….giật mình, để câu chuyện đảng Cộng nó độc quyền cai trị tổ quốc VN là…không khá. Trước, sau, gì cũng…y chang, láo theo…thời.
Hiểu được như thế, dân ta sẽ cùng nhau…từ chối sự đảng Cộng độc quyền cai trị VN. Phong trào tự do dân chủ toàn cầu đang lên đời, dân VN không cs thiếu gì người…có đầu óc, dân ta sẽ tự…sắp xếp cho…dân ta.
Không cần Mỹ nguỵ, ý quên, Mỹ Anh và LHQ. Chúng chẳng có thật lòng tử tế gì đó.
Chống Cộng tới bến, nhung có lợi, là chúng cũng dìu dắt Cộng tới bến…
Bớt day dreaming tí đi Dâm…
Chính quyền VN Cộng láo sinh tồn nhờ lực lượng…cò mồi, vẽ trằng thành đen, hát bơm cho chúng. Thành ra cái thực tế nhất hiện nay người Việt nên làm là…tống giẽ rách vào họng các cò mồi VC, chúng không còn láo, phun phân được nữa thì VN tự nhiên sẽ…free from the communists!
Chúc Dâm luôn…gặp hên…
Tiên Dâm / Tiên Ngu
Tiên Ngu nghe 5
Tiên DâM; Nè bạn THƠ, hay mơ về cõi xa mờ:
Nếu Cộng Sản VN Sụm bà chè ngay lúc này, thì chẳng có lợi
tí gì cho Mỹ sát cả !
Thằng Trung cộng tanh bành chia năm xẻ bảy, mói lả cái hay.
Sau đó, thì …này công dân ôi, đúng lên đáp lời sông nùi… mấy
hồi. Vậy cho nên, cái gì …cũng do Mỹ, bởi Mỹ,vì Mỹ hết nhá !
== Lâu lâu, lên mấy câu Lục Bát cho ngâm nga , coi. Thanks.
Này Đàn Chim Việt ta ơi, bao giờ ta về Hố Gươm, kinh thành và Thủ Ngữ…
Xét qua ” lý lích trích dọc ” của ngài Clinton, thì vào ngày 11 tháng Bảy 95,
trong bãn tuyên bố bang giao với Việt Nam CS, ngài phán rằng :
” Sự tiếp xúc giữa người Mỹ và người Việt Nam, sẽ giúp Việt Nam đi
theo con đường mà Liên Sô và Đông Âu đã đi trước đây.”
Nay ngài Clinton có …nhắc lại tư tưởng này với toàn đảng ta chăng, là ?
Và ngài Tony Blair, thí có vai trò quốc tế vô cùng lớn rộng,TonyDO nhỉ !
“Ba tôi luôn chủ trương hòa giải, hòa bình dân tộc”
Được lập làm Tổng thống của chính quyền miền Nam Việt Nam vào ngày 28/04/1975 và chỉ tại vị chưa đầy 72 giờ, trưa ngày 30/04/1975, tướng Dương Văn Minh (Minh Lớn) đã chấp nhận đầu hàng quân giải phóng vô điều kiện và đến đài phát thanh để đọc tuyên bố chính thức đầu hàng. Điều gì khiến tướng Minh chấp nhận một việc làm mà sau này báo chí hải ngoại gọi đó là một “hành động ô nhục”: đầu hàng Cộng sản?
“Ba tôi quan niệm, nếu chiến thắng mà phải đánh đổi bằng hàng triệu sinh mạng đồng bào thì không phải là chiến thắng” trong một buổi sáng đầu hè, ông Dương Minh Đức (Việt kiều Pháp), con trai lớn của tướng Dương Văn Minh đã trao đổi với Người Viễn Xứ như vậy tại nhà riêng của gia đình ông trên đường Nguyễn Thị Minh Khai, quận 1, TP.HCM (Chính quyền Việt Nam vẫn giữ gìn, bảo tồn căn nhà của tướng Dương Văn Minh và đến nay tướng Minh vẫn là chủ sở hữu hợp pháp của căn nhà đó).
Thưa ông, là người con gần gũi và hiểu rõ cha mình nhất, chắc ông biết rõ lý do vì sao vào ngày 30/04/1975 tướng Minh lại không đưa ra quyết định tử chiến, mặc dù ông vẫn có thể làm như vậy?
Thực tế lúc ấy Sài Gòn đã bị quân giải phóng bao vây rất chặt. Phía quân đội Việt Nam Cộng hòa thì đạn đã gần hết, tướng lĩnh cũng đã tháo chạy. Nếu ba tôi ra lệnh tiếp tục tử chiến thì Sài Gòn sẽ bị pháo của cả 2 bên dập vào, mà Sài Gòn lúc ấy chủ yếu là dân chứ lính thì đóng ở ngoài vòng đai. Nếu đánh nhau tiếp thì dân sẽ chết, mà ba tôi đánh giá rằng có đánh thì trước sau cũng thua, vì lực của quân Giải phóng mạnh như vũ bão. Làm người lãnh đạo như ba tôi cần phải sáng suốt: mình là người Việt Nam, nếu lo cho dân thì chính quyền phía nào nắm quyền cũng được, cũng là điều tốt, đâu nhất thiết phải đánh tiếp.
Nhậm chức vào một ngày mà một vị tướng như ông Minh có thể đoán được sự thất thủ của Sài Gòn. Dẫu tướng Minh ra lệnh “tử thủ” thì quân giải phóng vẫn chiến thắng vì đó là thế thắng không thể cưỡng lại được. Nhưng chính việc tướng Minh kêu gọi binh lính Việt Nam Cộng hòa buông súng để chờ bàn giao cho chính quyền Cách mạng đã là một việc làm sáng suốt của một vị tướng, giúp giữ được Sài Gòn nguyên vẹn, cứu được hàng triệu sinh mạng người dân và tài sản của họ. Vai trò này của tướng Minh quả là không nhỏ.
“Vào thời điểm ấy, quân đội Việt Nam Cộng hòa ở miền Tây cũng còn nhưng tinh thần đã xuống nhiều. Nếu tiếp tục rút về miền Tây để đánh tiếp thì cả 2 bên sẽ chịu nhiều thiệt hại, sẽ đổ máu ghê gớm và cuối cùng thì quân Cách mạng vẫn chiến thắng. Chết nhiều thì cũng là người Việt Nam mình chết chứ Mỹ thì đã rút về nước. Mà ba tôi quan niệm, ngoại bang thì phải trở về nước họ, nước Việt Nam phải do người Việt Nam làm chủ, vì vậy ngừng chiến là phương cách tốt nhất. Mặc dù bị chửi là “hèn, nhục” và có vị tướng trong nội các lúc ấy chủ trương phải “tử thủ”, phải đánh tiếp, nhưng ba tôi vẫn quyết định nhận lãnh trách nhiệm tuyên bố đầu hàng quân Cách mạng”.
Dương Văn Minh là vị tướng đã đảo chính lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm, ông cũng là người không chịu hợp tác với Mỹ, không chịu “thân Mỹ”, khiến người Mỹ phải “bật đèn xanh” cho Nguyễn Khánh lật đổ ông. Quan điểm chính trị của tướng Minh là…?
“Ba tôi là người không thích làm chính trị! Sau khi đảo chính Diệm, ông muốn tổ chức bầu cử một cách nghiêm túc để người Việt Nam làm chủ đất nước mình vì như vậy vẫn tốt hơn là để người ngoại quốc can thiệp. Ông quan niệm, là người Việt Nam thì có thể ngồi lại nói chuyện với nhau. Ba tôi đã phản đối việc Mỹ đòi ném bom đê sông Hồng để dìm Hà Nội trong biển nước. Chính quyền Mỹ cho rằng như thế sẽ chiến thắng được Bắc Việt Nam, nhưng ba tôi phản đối vì làm như thế là giết người dân Hà Nội, mà người dân Hà Nội cũng là người Việt Nam, quân đội của miền Bắc Việt Nam đâu có đóng tại đó”.
“Trong sâu xa, ba tôi muốn quân đội Mỹ rút hết về nước để người Việt Nam tự lãnh đạo đất nước mình. Thời kỳ đó người Mỹ đến Việt Nam không mang lại điều gì tốt đẹp cho người Việt Nam. Điều ba tôi cảm thấy tiếc là vấn đề của đất nước lúc ấy không được 2 phía Nam – Bắc ngồi lại cùng trao đổi với nhau mà lúc nào cũng có sự tham gia của người ngoại quốc”.
Tại buổi lễ trả tự do cho các tướng lĩnh trong nội các Dương Văn Minh do Ủy ban Quân quản Sài Gòn – Gia Định tổ chức tối 2/5/1975 tại Hội trường Dinh Độc Lập, tướng Minh đã phát biểu: “… Ngày hôm nay, đại diện cho các anh em có mặt tại đây, tôi nhiệt liệt hoan nghênh sự thành công của Chính phủ Cách mạng trong công cuộc vãn hồi hòa bình cho đất nước. Với kỷ nguyên mới này, tôi mong rằng tất cả anh em có mặt tại đây, cũng như các tầng lớp đồng bào, sẽ có dịp đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng đất nước. Riêng cá nhân tôi, hôm nay tôi rất hân hoan khi được 60 tuổi, trở thành một công dân của một nước Việt Nam độc lập”. Phải chăng tướng Minh là con người rất “thức thời”?
“Là một vị tướng, chấp nhận đầu hàng là việc khiến ông rất buồn, nhưng ba tôi luôn lấy việc hòa giải, hòa bình dân tộc làm mục tiêu trong đời tướng lĩnh của mình, vì vậy, phát biểu ấy của ông thực sự là điều ông mong muốn. Chính vì thế, sau này khi đã sang định cư ở nước ngoài, những năm 95–96, thấy đất nước đổi mới, đang trên đà xây dựng và phát triển ông rất mừng và muốn về sinh sống ở quê hương vì căn nhà của gia đình tôi vẫn được giữ nguyên vẹn, một số bạn bè vẫn còn ở lại Việt Nam…”
Thế nhưng vì sao cha của ông lại không quay về?
“Thực tế lúc ấy về mặt thông tin từ trong nước vẫn còn chưa được rõ ràng và cởi mở như bây giờ. Một số người và một số tờ báo ở hải ngoại biết được ý định của ba tôi lại muốn lợi dụng ông về nước để hoạt động ngầm cho họ nhằm chống đối chính quyền trong nước. Nhưng ba tôi chỉ muốn được trở về và sống như một người dân bình thường. Thấy tình hình phức tạp quá, chị gái tôi ngăn cản không cho ba tôi về”. (sang Pháp năm 1983, nhưng thời điểm này tướng Minh đang sống cùng con gái lớn định cư ở California – NV).
Tướng Minh đã không thực hiện được nguyện vọng của mình trước khi mất là trở về quê hương và sống như một người dân Việt Nam. Còn ông?
“Tôi sang Pháp du học từ năm 1962, nhưng từ đó đến nay tôi đã trở về quê hương trên 10 lần rồi. Ngay từ năm 1996 dù chị gái tôi rất lo ngại nhưng tôi cũng đã về để được tận mắt chứng kiến tình hình đất nước lúc ấy”.
Và…
“Lúc ấy tôi cũng thấy ngại ngại, lo lắng. Nhưng chỉ một tuần sau thì cảm giác ấy tan biến. Tôi cũng đã xin gặp Thủ tướng Võ Văn Kiệt và bày tỏ với ông mong muốn được về nước của ba tôi. Ông Sáu Dân (nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt – NV) rất hoan nghênh và hứa sẽ tạo điều kiện để ba tôi về nước sinh sống tự do, bình thường như mọi người dân khác. Nhưng rồi ba tôi lại không được toại nguyện… Nhưng còn tôi thì lại khác. Tôi là người Việt Nam, tôi phải về sống trên quê hương mình chứ. Những năm qua tôi thường xuyên trở về thăm quê hương. Chỉ tiếc là tôi nộp đơn xin hồi hương đã 2 năm nay nhưng chưa được giải quyết. Từ trước đến giờ tôi vẫn giữ quốc tịch Việt Nam và chỉ mới nhập quốc tịch Pháp được 1 năm nay thôi”.
“Tôi mong muốn được về Việt Nam mở công ty và làm công việc từ thiện. Tôi đã gặp nghệ sỹ Kim Cương và dự định sẽ mở lớp dạy về kỹ thuật nhiếp ảnh cho các trẻ em mồ côi tàn tật của Hội Bảo trợ Người tàn tật và Trẻ mồ côi TP.HCM nơi chị Kim Cương làm Phó Chủ tịch Hội, âu cũng là để làm được một chút gì đó cho người dân mình”.
Xin cảm ơn ông. Chúc ông mau chóng được hồi hương và đóng góp sức mình cho quê nhà.
Người Viễn Xứ
PHIẾM BÀN CHUYỆN LỊCH SỬ
Khi lịch sử chưa qua, nó là chính trị.
Khi chính trị đã qua, nó là lịch sử.
Chính trị hoặc làm hoặc bàn đều là thọc tay vào thực tế.
Lịch sử thì chỉ bàn cho vui, không còn thọc tay được nữa, cũng chẳng liên lụy gì với ai.
Nên bàn chuyên lịch sử có thể bàn đúng, có thể bàn sai, đúng hay sai chỉ nói lên tính cách của kẻ bàn, không thay đổi được gì giá trị của lịch sử nữa cả.
Chỉ có cái không dám bàn, hay bàn theo cách chó sủa theo lệnh chủ, đó mới là điều tệ lậu, xấu xa, thấp kém nhất.
Ông Dương Văn Minh được lập lên có 72 tiếng đồng hồ rồi đầu hàng đối phương của mình, điều này dễ khiến người ta suy nghĩ.
Nếu thấy đã bế quá, không kham nổi, tại sao anh để lập nên. Đó là bất trí. Tự nhiên gánh của nợ không đâu.
Nếu đã có gan nhằm đứng mũi chịu sào, có cả tam thập lục kế, đâu phải kế duy nhất là đầu hàng. Bởi đầu hàng không phải kế. Đầu hàng là xếp dáo quy hàng, buông xuôi tất cả, phủ nhận, từ chối hét cả. Đó là bất trí mà cũng là bất tín. Bởi nếu biết anh đầu hàng, ai lập anh lên làm gì.
Còn nếu anh biết lên để đầu hàng mà vẫn lên là anh cố đấm ăn xôi, anh quá ngố, quá dại, để người ta sử bậy, giống người ta sử con nít ăn cứt gà.
Bây giờ không nói đến chính trị, không nói đến hay dở, đúng sai, chỉ nói đến đối kháng chiến trận giữa hai bên. Lính thì có quyền đầu hàng, nhưng tướng chỉ huy thì không có quyền đầu hàng. Tướng cũng không thể bỏ chạy. Tướng đúng nghĩa phải tự mình tìm cái chết trong lúc ra lệnh cho lính đầu hàng. Như vậy ở đây đầu hàng không phải để cứu ai cả, chỉ là báo biến, ngụy biện, đầu hàng vì yếu bóng vía, vì ham sống sợ chết, để gương hèn yếu cho muôn đời.
Còn nếu thấy mình không chính nghĩa, tại sao không vào khu theo đối phương, hoặc tìm cách giải ngũ sớm, hoặc tìm cách đảo chính khi còn quyền để cho thấy mình cũng chủ động ngon lành, mình với đối phương cũng ngang ngữa khí phách hay mục đích như nhau. Chẳng miêu nào sợ miểu nào.
Nên đã đi gần hết con đường rồi, tức mình đã phải thấy có cái lý nào đó của mình, vậy mà đầu hàng là phản phé. Như vậy việc đảo chánh và giết ông Diệm cũng là phản phé, không phải chính nghĩa gì. Bởi mình đâu có giỏi hơn ông Diệm để lên thay ông Diệm được. Chỉ có nghĩa mình bị xúi dại bởi ai đó, như vào giờ chót còn hỡi ơi bảo Thầy hại tôi rồi Thầy ơi ! Đã làm tướng mà còn đi nghe lời mấy anh sư sãi bá vơ, quả thật chẳng đâu vào đâu cả. Sư sãi mà đi làm chính trị đã là ngu ngốc rồi. Làm tướng, làm chính trị lại đi nghe lời đám ngu ngốc. Cũng chỉ loại cá mè một lứa chẳng ai hơn ai cả. Thà cả đám cứ vô rừng làm lính cho Nguyễn Hữu Tho cũng còn danh chính ngôn thuận hơn. Cho nên ngày nay và cả trong tương lai mãi mãi, không lấy gì biện minh cho ông Dương Văn Minh, cựu Đại Tướng, cựu Tổng Thống một nước mà lại đi đầu hàng đối phương chứ không dám chết khi thua trận, là điều không ai là người nghiêm túc, đúng đắn lại có thể biện minh cho được.
NGÀN KHƠI
(24/7/14)
“Ba tôi luôn chủ trương hòa giải, hòa bình dân tộc”
Cái kiểu này thì đúng là ba tôi…mắt hí. Sai từ căn bản.
Với Cộng láo mà nói chuyện hoà giãi hoà bình, thiệt….mộng du.
Anh Diệm lúc mới chấp chánh, thiều nhân tài để hợp tác dẹp loạn 12 sứ quân, khuyến khích xài đở Dướng văn Minh, gắn lon tướng. Nằm mộng cũng không ngờ là lòng tử tế được trã bằng…cường bạo.
Cái kiểu này mà lên tướng, thì quả là…chết cha thiên hạ. Chính ông Diệm cũng nhận ra điều đó, đã cho anh tướng này ngồi chơi xơi nước nhưng cũng không qua được định mệnh…
Giết Diệm do Mỹ sắp xếp, ra mặt lãnh cái búa đầu hàng giặc Cộng cũng…do Mỹ sắp xếp.
Quá…ngu.
Xin chia buồn củng…hậu duệ và cò mồi Cộng láo. Có uốn lưỡi lộn lèo thanh minh thanh nga cở nào, người Việt không phải ai cũng…ngu…
“Ba tôi luôn chủ trương hòa giải, hòa bình dân tộc”
Vậy tại sao không hòa giải để cùng nhau xây dựng đất nước mà giết tổng thống Diệm và ông Nhu?
Ông không hiểu dân, không biết dân; không hiểu thế nào là tự do, không biết thế nào là dân chủ; không hiểu con người cộng sản và cũng không biết chủ nghĩa cộng sản là gì mà ông làm tướng, làm lãnh đạo thì đất nước sẽ ra sao?! Nếu ông Dương Văn Minh làm người dân thường như ông muốn thay vì làm tướng – làm tổng thống thì đất nước có tan hoang? Tướng nhưng nghe lệnh ngoại bang đảo chánh giết tổng thống dân cử nước mình thì là tướng gì? Làm tổng thống một nước tự do mà đầu hàng giặc Vietcong thì có phải là phản bội tự do? Cho rằng sợ dân chết nên tuyên bố đầu hàng, vậy tại sao dân không sợ chết bỏ nước đi tìm tự do, và dù cả triệu người bỏ xác trên biển cả và trong rừng thiêng nước độc nhưng tại sao dân vẫn liều chết ra đi?
Nêu vài ý kiến vì đọc lời trích của người con, ông Dương Minh Đức, qua comment của Người Viễn Xứ chứ thật không muốn khơi lại quá khứ đau thương của dân tộc. Ông Dương Văn Minh đã quá cố nên không thể tự biện hộ vậy hãy để lịch sử sau này phán xét.
Người Viễn Xứ nên viết bài để cám ơn ông Dương Văn Minh thì đúng hơn, vì nhờ có “Dại Tướng” mà em mới được làm….Người Viễn Xứ. Nếu không có “Dại Tướng”, thì ngày nay em vẫn còn là Người….Trong Xứ.
Tháng 08/1941, Tổng thống Roosevelt cùng Thủ tướng Anh Churchill đã ra một tuyên bố sau này mang tên Hiến chương Đại Tây Dương (the Atlantic Charter) khẳng định Hoa Kỳ và Anh sẽ không có ý định tìm kiếm thôn tính lãnh thổ của các nước khác, nêu quan điểm ủng hộ quyền tự quyết của các dân tộc, giải thể chế độ thực dân, kiến tạo hòa bình và gia tăng phúc lợi cho thế giới. Đầu năm 1945 Tổng thống Roosevelt còn chỉ thị cho nhân viên Mỹ không được giúp hay cộng tác với người Pháp ở Đông Dương. (Trích – “The OSS and Ho Chi Minh-Unexpected Allies in the War Against Japan “, University Press of Kansas, 2006). Khi Truman lên nắm quyền, sau khi Roosevelt qua đời 12/04/1945, cũng từ chối đề nghị của Pháp giúp đỡ vũ khí hay phương tiện chuyển quân vào Đông Dương để đánh Việt Minh (Trích – The Pentagon Papers, trang 8).
*** Bạch Thư ngày 4 tháng 10 năm 1979 Việt cộng tố cáo Tàu cộng là đế quốc :
Chủ tịch Mao Trạch Đông còn khẳng định trong cuộc họp của Bộ Chính trị ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc, tháng 8 năm 1965:
“Chúng ta phải giành cho được Đông Nam châu Á, bao gồm cả miền nam Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện, Malayxia và Singapo…Một vùng như Đông Nam châu Á rất giàu, ở đấy có nhiều khoáng sản…xứng đáng với sự tốn kém cần thiết để chiếm lấy…Sau khi giành được Đông Nam châu Á, chúng ta có thể tăng cường được sức mạnh của chúng ta ở vùng này, lúc đó chúng ta sẽ có sức mạnh đương đầu với khối Liên Xô-Đông Âu, gió Đông sẽ thổi bạt gió Tây…”.
So với các khu vực khác trên thế giới, Đông Nam châu Á là khu vực mà Trung Quốc có nhiều điều kiện thuận lợi nhất, có nhiều phương tiện và khả năng nhất (hơn 20 triệu Hoa kiều, các chính đảng lệ thuộc vào Đảng cộng sản Trung Quốc, Đông Nam châu Á có đường đất liền với Trung Quốc…) để thực hiện chính sách bành trướng và bá quyền nước lớn của mình. Cho nên trong 30 năm qua, những người lãnh đạo nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa đã dùng nhiều thủ đoạn để thực hiện chính sách bành trướng ở khu vực này, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện chiến lược toàn cầu phản cách mạng của họ.
Họ xây dựng lực lượng hạt nhân chiến lược, phát triển lực lượng kinh tế, ỷ thế nước lớn, đe doạ bằng quân sự và hứa hẹn viện trợ về kinh tế để mua chuộc, lôi kéo hoặc gây sức ép với các nước ở khu vực này, hòng làm cho các nước đó phải đi vào quỹ đạo của họ. Họ xâm phạm lãnh thổ các nước và gây ra xung đột biên giới, dùng lực lượng tay sai hoặc trực tiếp đem quân xâm lược, hòng làm suy yếu để dễ bề khuất phục, thôn tính nước này, nước khác trong khu vực.
Biên Giới của Thuơng Đau
Đây rồi biên giới của thuơng đau
Một bên Chính Nghĩa , bên Mác- Mao
Bên thì Gầy Dựng vì đồng loại
Bên thì ĐẤU TỐ giết đồng bào !
Phải cần quy lụy nhờ Mao- Hán
Để có đạn mìn súng pháo dao
Công Hàm Bán Nước nhanh tay ký
Biển Đông lãnh hải sóng xôn xao …
Cố chôn sự thật bằng láo lếu
Thích vùi nhân nghĩa bởi binh đao
AK- 47 thờ Mao- Mác ,
Thãm sát thuờng dân Tết hôm nào !
Đây rồi biên giới của thuơng đau
Làm sao ngăn nổi những nghẹn ngào
Những ngày An Lộc ngàn quả pháo ,
Quốc Lộ dân mình xác chất cao !
Thế giới năm châu bàng hoàng thấy
Triệu người Vượt Biển thét kêu gào
Biên giới thuơng đau lan rộng mãi …
Tội tù xương xác vẫn chất cao
Đây rồi biên giới của thuơng đau
Tiếng Vọng Ngàn Thuơng mãi nghẹn ngào
Bao hồn xương cốt đau thầm lặng ,
Cờ Vàng chính nghĩa quyết dương cao !
Thơ đàn anh hay quá! Bravo!
Tuy nhiên có lẽ vì gõ vội hay sao đó nên câu cuối:
Cờ Vàng chính nghĩa quyết dương cao! em nghĩ đại ca muốn nói là:
Cộng Hòa chính nghĩa vẫn dương cao.
Kính đàn anh double check?
Lâu ngày xin chúc sức khỏe quan bác.
Cám ơn Đổ huynh có lòng hỏi han sức khỏe.
Mới đi du ngoạn về nên lòng Qua cứ gọi là phơi phới
Qua gọi hỏi Lương Tâm department để “double check” dùm cho Đổ huynh rùi…
Reply từ Bộ Lương Tâm rằng thì mà là …: ” mạng này thì bỏ được , cờ Vàng thì không “
Reply từ Bộ Lương Tâm rằng thì mà là …: ” mạng này thì bỏ được , cờ Vàng thì không “.
Respect đàn anh!
Mắt hơi ướt, không viết thêm nữa.
Kính.
MX Lê Công Truyền: Theo tài liệu do Cộng Sản Hà Nội ấn hành “Tổng Kết Cuộc Kháng Chống Thực Dân Pháp, Thắng Lợi và Bài Học, Hà Nội “, 1996, CS đã để lại Miền Nam 60,000 đảng viên. Đám cán bộ và đảng viên này được đặt dưới quyền lãnh đạo của Lê Duẩn, Bí thư Xứ Ủy Nam Bộ. Vào ngày cuối cùng của thời hạn tập kết ở Cà Mau, sau khi giả bộ lên tàu tập kết, Lê Duẩn đã tìm cách rời khỏi tàu vào lúc nữa đêm để ở lại (Võ Văn Kiệt – “ Nhớ Đồng Chí Lê Duẩn”, Báo Nhân Dân 16-08-06) . Như vậy, rõ ràng Miền Bắc đã chuẩn bị tấn công Miền Nam ngay khi Hiệp Ước Genève chưa kịp ráo mực, chớ không phải vì Miền Nam không chấp nhận tổng tuyển cử vào năm 1956 hoặc vì có sự hiện diện của quân đội Hoa-kỳ tại Miền Nam! Một sự chuẩn bị khác cần được ghi nhận là CS đã tổ chức những đám cưới tập thể giữa cán binh của họ và thiếu nữ tại các vùng tập kết như Nam, Ngãi, Bình, Phú ở Liên khu V, Cà Mau trong Nam v.v. với ý đồ biến những người vợ ấy và các con thành cán bộ để hoạt động hoặc che dấu cán binh, cán bộ hồi kết từ Miền Bắc.
Bộ Tư Lịnh Viện Trợ Quân Sự Hoa-kỳ (MACV) được thành lập ngày 06-02-62 dưới quyền tư lịnh của Đại tướng Paul D. Harkins. Vào giữa năm 1962, số cố vấn tăng từ 700 lên 12,000. Ngày 08-03-65, hai tiểu đoàn Thuỷ Quân Lục Chiến đổ bộ lên Đà Nẳng. Đó là các đơn vị tác chiến đầu tiên của Hoa-kỳ được điều động đến Miền Nam . Trong khi đó, theo quyển “Tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, thắng lợi và bài học” xuất bản năm 1996 tại Hà Nội, ngay sau khi Hiệp Ước Genève được ký kết, CS đã có kế hoạch tấn chiếm Miền Nam. Đầu năm 1959, trong Đại Hội lần thứ 15, Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng CSVN đã quyết định thôn tính Miền Nam bằng quân sự. Vào tháng 5 năm 1959, CS thành lập một đơn vị mệnh danh là “nhóm 559” có nhiệm vụ nới rộng đường xâm nhập từ Bắc vào Nam. Hai tháng sau, “nhóm tiếp vận 759” được thành lập để nghiên cứu phương cách đưa người và tiếp liệu vào Miền Nam bằng đường biển (Stanley Karnow, “Vietnam: A History”) . Trên thực tế, CS đã chuẩn bị cuộc chiến ngay sau khi Hiệp Ước Genève vừa được ký kết và đã phát động chiến tranh từ tháng 10 năm 1957, nghĩa là 8 năm trước khi các đơn vị tác chiến Hoa kỳ đến Miền Nam.
Theo sử gia Chen Jian, tác giả quyển “Mao’s China and the Cold War”, vào năm 1965, Bắc Kinh đã gởi 320,000 quân sang tham chiến tại VN. Nhà văn Vũ Thư Hiên, trong quyển “Đêm Giữa Ban Ngày” đã trích dẫn một đoạn từ cuốn “Giọt Mưa Trong Biển Cả” của ông Hoàng Văn Hoan về “sự kiện Hoa quân nhập Việt”: “Từ năm 1965 đến năm 1970, theo yêu cầu của Hồ Chủ tịch và Trung ương Đảng Lao Động Việt Nam, Mao Chủ tịch và Trung ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã phái hơn ba mươi vạn bộ đội vào Việt Nam”. Ngoài ra, quân cộng sản Bắc Hàn cũng đã từng tham chiến với quân đội Miền Bắc. Một viên chức của tỉnh Bắc Giang, lần đầu tiên, đã nhìn nhận có sự tham gia trực tiếp của Cộng sản Bắc Hàn vào cuộc chiến tại Việt Nam, và có một số đã tử trận và xác còn chôn tại xã Tân Định, huyện Lang Giang, tỉnh Bắc Giang cách Hà Nội khoảng 60 cây số. Ngoại trưởng Bắc Hàn Paek Nam Sun, nhơn khi sang thăm Việt Nam từ ngày 25 đến 27-03-2000, đã đến viếng nghĩa trang nơi chôn 14 quân nhân Bắc Hàn. Năm nào nghĩa trang này cũng được các viên chức sứ quán Bắc Hàn viếng thăm. Theo một bản tin của thông tấn xã Nam Hàn Yonhap, đa số quân nhân Bắc Hàn tử trận đều là phi công chiến đấu. Các phi công này đóng tại phi trường Kép, thuộc huyện, tỉnh nói trên vào những ngày đầu của cuộc chiến, khoảng 1967-1968.
Tại sao HK cũng có mặt ở Nam Hàn, gần sát với Trung Cộng, mà Trung Cộng lại không xúi Bắc Hàn đánh Nam Hàn, lại đi xúi Hồ chí minh và đảng CSVN???? Xin trả lời: Tại vì Kim Nhật Thành đã không ngu dại gì “tình nguyện” làm tên lính xung kích cho phong trào CS quốc tế, không hèn hạ đến nỗi “tình nguyện làm tay sai cho Trung cộng, hy sinh cho đến người dân Bắc Hàn cuối cùng,…..Chao ôi!!!! Ước gì Hồ chí minh “khôn” như Kim Nhật Thành thì đỡ khổ cho dân miền Bắc VN.
Có sự tính toán từ trên Blời, hay của con người, nên Hiệp định Gieo-Neo
đã không thi hành được. Không thi hành, thì phần ăn dâng cho ai. Ai nào?
Những yếu tố liên quan và ” tiêu cực” như ri rà : Quốc gia Việt Nam (VNCH)
không ký kết hiệp định chia đôi đất nước, thì không bắt buộc phải thi hành.
” Ông Mỹ” cũng không ký kết gì hết ( khôn gớm!) — ” Thằng Cộng phỉ” để
lại một khối bự ” nằm vùng” tại Miến Nam, đánh phá tiếp…
Hay ! Hay! Già Hố — tức điệp viên Lucius, bí số 019/OSS của Mỹ — đã cho
mở sạn đạo vô Nam, tung quân Sinh Bắc tử Nam — là tạo ra lý do cho
Mỹ nó đổ quân vô Miền Nam VN… Hồ Già và OSS (nay là CIA) bên tung,
bên hứng hay ghê nơi — Vậy thì Hồ.. .làm việc cho Mỹ đấy chứ…
Hiệp Định Ba Lê không thi hành, là cơ hội bằng…bạc cho cộng phỉ, nhưng
là cơ hội bằng vàng 24 carats cho Mỹ. ( Thomas Ý)
CHỦ YẾU LÀ Ở ÔNG HỒ CHÍ MINH
Ông Hồ Chí Minh là người chiến sĩ cộng sản quốc tế tiêu biểu và rất kiên định không thua kém bất kỳ người chiến sĩ quốc tế nào khác cùng thời với ông.
Sự kiên định của ông là sự kiên định về chủ nghĩa Lênin. Đó là một niềm tin sắt đá, cho dù nó có hiển lộ ra hay không hiển lộ ra, và dưới bất kỳ hình thức nào đó khác. Song lòng kiên định đó nhất thiết không bao giờ khác đi hay thay đổi.
Có thể ông Hồ Chí Minh không nắm sâu lắm về chủ thuyết Mác, đó là do hoàn cảnh cụ thể khi đó của ông. Nhưng chủ nghĩa Lênin thì nhất thiết ông nắm chắc. Ông đã từng nhảy lên vui sướng tột cùng khi lần đầu đọc đến cuốn Luận cương của Lênin như ông đã thuật lại. Phải nói khách quan, ông Hồ đồng nhất chủ nghĩa Lênin với việc giải phóng dân tộc ra khỏi ách thực dân áp bức thế thôi.
Nói khác đi, ông Hồ là chiến sĩ hành động, không bao giờ ông là nhà lý thuyết như kiểu Trần Đức Thảo. Bởi thế “ông cụ” và “nhà triết học” Trần Đức Thào chẳng thể bao giờ gặp nhau được trong bất cứ tơ hào nào là thế đó.
Đó là lý do không bao giờ ông Hồ dừng lại ở bất kỳ hiệp nghị nào đã có, Hiệp ước Sơ bộ 1945, hiệp ước đình chiến Genève 1954 cũng vậy. Bởi chủ nghĩa Lênin cốt lõi vẫn là chủ nghĩa Mác, tức mức đến tối hậu phải là xã hội cộng sản đại đồng như Mác đã vạch ra mà không bất kỳ ai có thể đổi khác được. Do đó nếu ông Hồ dừng lại bất kỳ đâu ở giữa đường đấu tranh chính trị, tức ông đã dừng lại ở chỗ xét lại, chỗ cải lương, chỗ cách mạng tư sản, còn làm thế nào là người chiến sĩ cách mạng vô sản suốt cả cuộc đời được. Cái khác nhau cơ bản giữa ông Hồ và các nhà cách mạng lớn trước ông như Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu … chính là thế.
Đó là chưa nói ông Hồ không hề là nhà hoạt động cách mạng giải phóng dân tộc kiểu độc lập như vừa kể. Mà ngay từ đầu ông đã tự hội nhập vào trong hệ thống quốc tế cộng sản là Komintern do Lênin tổ chức ra rồi. Có nghĩa đã như một thành viên, một cán bộ, một thành phần rồi, tất được hường mọi thuận lợi của hệ thống cũng như phải tuân thủ mọi kỹ luật của hệ thống, là điều khó mấy ai có thể phủ nhận được. Đó cũng là định mệnh của chính bản than cá nhân ông, và biết đâu cũng chính là định mệnh của lịch sử dân tộc ta nói chung vốn như thế, làm sao mà khác đi được. Tất nhiên duy vật thì không tin, chỉ tin vào tính khách quan của lịch sử, còn niềm tin đó đúng hay sai lại là chuyện khác.
Nhưng bởi ông Hồ Chí Minh không phải là nhà cách mạng dân tộc thuần túy thật sự, nên không bao giờ chính sách của ông là đào tạo ra những người cách mạng dân tộc hậu duệ để thay thế ông. Ông chỉ chủ yếu đào tạo ra các lớp cán bộ CS hồng là chính, phục tùng, tuân lệnh và trung thành với ông, với lý tưởng CS là chính, cho nên ông không thực sự đào tạo ra những nhân tài theo nghĩa cổ điển nào cho đất nước, mà chỉ đào tạo ra lớp lớp quần chúng đi theo và những lớp lớp các bộ thi hành chính ý hướng và mục đích mà ông vốn có vậy thôi.
Từ các ông đại tướng Võ Nguyên Giáp, rồi thủ tướng Phạm Văn Đồng, rồi các tổng bí thư Trường Chinh, Lê Duẩn … đều thể hiện sự thuần thành với “Bác Hồ” trong mọi ngôn từ, thái độ cũng như hành vi là chính xác như vậy. Ông Hồ khác với mọi bậc anh hùng ngày xưa của dân tộc ta, là luôn luôn đào tạo ra các tầng lớp kế thừa tinh hoa nhất, kiểu nhân tài là nguyên khí quốc gia như mọi đời đều có. Trái lại ông Hồ chỉ cốt đào tạo ra các lớp chiến sĩ cách mạng CS là chủ yếu hay đặt thành cao nhất. Bởi thế dầu muốn dầu không, ông Hồ dường như phần nhiều vô tình hay hữu ý tạo thành sự đứt mạch với truyền thống cổ xưa của dân tộc. Chắc theo nguyên tắc cũng như là trường của Lênin và Mác hiển nhiên coi cách đó là cách của “tư sản”.
Nên thực chất, do hậu quả đó mà hầu suốt gần non cả thế kỷ rồi, VN thiếu hẳn mọi nhân tài đa dạng như xưa, mà chỉ có rặt một lớp người mới cộng sản, chỉ thuần thành với Đảng, với chủ nghĩa Mác Lênin, với “Bác Hồ” là chính yếu nhất. Điều này nếu chỉ thuận buồm xuôi gió như thời kỳ phe XHCN đang lên thì không thành vấn đề gì. Đàng này thế giới giờ này đã hoàn toàn đổi thay mọi mặt, chủ nghĩa Mác đã không còn thời vàng son như cũ trên cuộc đời nữa, lại xảy ra sự mâu thuẫn với TQ càng ngày càng lớn khó có thể nào hàn gắn hay giải quyết được. Thật là đất nước và dân tộc thực chất đã đi vào sự hụt hẫng, bế tắt, nguy hiểm đáng kể mà bất kỳ ai còn có ý thức quốc gia dân tộc đều cay chua cảm thấy hết.
Nhưng hầu hết hay nhiều người VN ngày nay vẫn không dám công khai phê phán hay nhận định gì về ông Hồ. Vì làm điều đó liền trở thành sự phạm húy. Giống như mọi sĩ tử ngày xưa đi thi, cứ phạm húy là bất cứ tài gì cũng bị đánh hỏng. Điều này chẳng biết chính nguồn gốc là do bản thân ông Hồ tạo ra hay chỉ do những kẻ ăn theo, nịnh bợ, thánh hóa ông ta bất chấp hết mọi cái tạo ra. Dù sao trong bất kỳ trường hợp nào, không thể nói những sản phẩm nào đó hỏng không phải không có vết tay của người nào chế tác ra chúng.
Có nghĩa ông Hồ đã không tạo ra hay không thành công tạo ra những thế hệ yêu nước đúng nghĩa để đối phó khi quốc gia, dân tộc hữu sự thì thật hoàn toàn đáng tiếc. Bây giờ chủ yếu chỉ có những con người yêu Bác Hồ là chính mà không phải yêu đất nước, yêu dân tộc là chính. Bởi vì nười ta đã đồng hóa yêu nước vào yêu chủ nghĩa, yêu chủ nghĩa vào yêu bác Hồ, yêu bác Hồ vào yêu đảng hay là ngược lại thế thôi. Cớ sự đó không phải chỉ kinh qua một thế hệ nào, mà hầu như nó liên tu bất tận trong cả quá khứ, trong hiện tại, và kể cả mút mùa nữa trong tương lai. Ôi quả thật là một vườn hoa đỏ chói hoàn toàn rực rỡ !
Nhưng cũng không it người thấy đó chỉ phần nhiều là chủ nghĩa hình thức. Tức nó chỉ thuần túy là ngôn ngữ, là thái độ biểu thị bề ngoài là chính yếu. Có ai biết rõ “tình yêu” đó có phải là tình yêu thực chất hay không. Bởi vì nếu trong xã hội tự do, người ta không giả tạo, hầu đều có thể nhìn rõ tính cách biểu lội khách quan được. Nhưng trong xã hội được tổ chức hoàn toàn chặt chẽ, không thể ai công khai đi ngược hay thoát ra ngoài tính cách chung đó được, đã chắc gì không phải chỉ là trò diễn kịch tập thể. Ai dám quả quyết được thực chất và thực tế điều đó là đúng hay không ? Thế nên cái oái ăm của mọi xã hội toàn trị là vậy. Con người thì ai lại không có khả năng thích nghi, đặc biệt những con người càng xấu, càng tiêu cực đối với xã hội thì moị sự thích nghi như thế càng giỏi, tức hoàn toàn xuất sắc. Sự thật nói ra như vậy thì nghe rất chói tai, nhưng có ai muốn chấp nhận thực trạng hay không để sửa lại vì lợi ích chung lại là chuyện khác.
Nhưng như trên đã nói, nếu thực trạng quả thế thì trách ông Hồ cũng tội nghiệp. Nhiều khi nếu là do người khác đã lợi dụng ông thì sao. Đấy cái tế nhị về nguyên nhân đầu tiên trong mọi sự bao giờ cũng thế. Nên người mình hay có thành ngữ là không it thì nhiều để đánh giá về mọi loại trách nhiệm, gián tiếp hay trực tiếp của bất kỳ ai. Nhưng nếu thế, trách ông Hồ thì phải trách Lênin, trách Lênin thì lại phải trách Mác. Mà trách Mác lại phải trách mọi cái gì là nông cạn, nông nỗi, phiến diện, bất cẩn, không chính xác, chủ quan, sai trái, cường điệu, nhược điểm v.v… và v.v… của Mác. Kiểu quy trách chạy vòng, kỳ nhông ông kỳ đà, kỳ đà cha cắc ké, cắc ké mẹ kỳ nhông. Tức là trách chung bản thân con người và cả bản thân xã hội, hay trách mẹ nó cả lịch sử loài người hay kể cả chính lịch sử dân tộc ta cũng vậy ! Người xưa cũng nói biết dừng là được, không biết dừng là không được, thế thôi. Nhưng cũng có người chẳng biết có chính xác hay không, lại cứ nói mọi cái chỉ do chính tham vọng cá nhân riêng của những con người thôi. Nhưng các điều thế đó, thì chỉ có những con người trong cuộc, hay chỉ chính ông Trời mới có thể biết được !
NON NGÀN
(21/7/14)
Ở nước nào cũng thế, muốn có một cuộc bầu cử công bằng thì người dân phải được làm ít nhất là hai điều: tự do ngôn luận và tự do đi lại. (Không có hai điều này thì làm sao vận động quảng bá cho phe mình?) Ở Việt Nam ngày nay sau 60 năm, dân số gần trăm triệu mà vẫn chưa có một tờ báo tư nhân nào được phép xuất bản, dù chỉ là một tờ. Tự do đi lại thì có được một phần, đó là tự do đi bia ôm (!), còn ngoài ra thì coi chừng bị giống như bà Bùi Hằng và những người đi vận động dân chủ khác – vận động dân chủ vốn cũng là một hình thức đòi được tự do lựa chọn. Cho nên những anh cộng phỉ như anh Đồng vều ảnh chỉ nói lăng nhăng gạt dân ngu được thôi.