Giải mã những cột mốc chủ quyền – nhà giàn DK1
Kỳ 2: Kế hoạch chi tiết ‘bắt mạch’ biển Đông
(TNO) Với kinh nghiệm thiết kế và xây lắp các giàn khoan dầu khí tại vùng mỏ Bạch Hổ ở độ sâu nước biển 50 m, Liên doanh Việt-Nga (Vietsovpetro) đảm nhận xây dựng hai nhà giàn DK1 trên bãi cạn Tư Chính là nhà giàn Tư Chính A (gọi tắt là DK1-A hay DK1-1) và nhà giàn Tư Chính B (gọi là DK1-B).
Cùng lúc đó, hai nhà giàn DK1-3 và DK1-4 cũng được Bộ Giao thông vận tải xây dựng trên các bãi cạn Phúc Tần và Ba Kè.
Khảo sát Tư Chính
Đây được coi là bốn nhà giàn DK1 đầu tiên trên vùng biển Việt Nam ở biển Đông. Ý thức được vai trò quan trọng của các nhà giàn nên công tác xử lý nền móng được đặt lên hàng đầu để đảm bảo tính bền vững của nhà giàn trước các cơn bão lớn.
Các kỹ sư thiết kế của Viện Nghiên cứu khoa học và thiết kế của Vietsovpetro – NIPI, trên cơ sở các bản đồ hàng hải và mặt bằng khu vực Tư Chính đã tìm và xác định vị trí thích hợp cho công tác khảo sát sơ bộ khu vực dự kiến xây dựng các nhà giàn DK1.
Vietsovpetro cũng điều tàu Phú Quý tiếp cận bãi Tư Chính, đo đạc sơ bộ địa hình, bình đồ đáy biển khu vực các bãi ngầm, dựa trên cơ sở hướng bão, thủy triều và dòng chảy phác thảo, tính toán nhiều mô hình kết cấu nhà giàn sử dụng cọc thép, rồi đưa ra các biện pháp thi công ngoài biển với mục tiêu tiến độ phải nhanh, bí mật, đảm bảo chất lượng và an toàn công trình.
Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu, Vietsovpetro đã kiến nghị thực hiện xây dựng hai nhà giàn theo hai giai đoạn:
Giai đoạn 1, xây nhà giàn Tư Chính DK1-A, đồng thời thực hiện khảo sát kỹ thuật khu bãi ngầm Tư Chính bao gồm đo đạc các thông số khí tượng hải văn và khoan địa chất công trình phục vụ xây dựng nhà giàn DK1-B
Giai đoạn 2, hiệu chỉnh thiết kế nền móng và hoàn thành xây dựng nhà giàn DK1-B ngay trong năm 1989.
Với bốn nhà giàn đầu tiên, Vietsovpetro sử dụng phương pháp đóng cọc thép vào san hô rồi đổ bê tông thành một khối với san hô.
Kế hoạch ứng phó tàu Trung Quốc
Theo ông Ngô Thường San, lúc này mọi kế hoạch xây dựng nhà giàn DK1 phía Việt Nam đều chủ động và được sự ủng hộ của từ phía Nga trong liên doanh Vietsovpetro.
Tuy nhiên, lúc này có một tình huống khó xử phát sinh là toàn bộ thuyền trưởng và máy trưởng các con tàu NPK-547, Sao Mai 01 được điều ra khu vực xây dựng nhà giàn đều do người Nga đảm nhiệm.
“Người Nga sang đây chỉ có nhiệm vụ hợp tác với Việt Nam khai thác dầu khí nên chúng tôi cũng lo lắng khi đưa họ ra khu vực xây dựng nhà giàn. Chưa kể kế hoạch xây dựng nhà giàn DK1 được giữ bí mật, mình có nên thông báo cho họ biết không?”, ông San kể.
Sau khi triệu tập cuộc họp kín với Ban Dự án DK1, đích thân ông San đã thông báo với ông Vovk – Tổng giám đốc Vietsovpetro thời đó – và đạt được nhất trí là nên thông báo cho các thuyền trưởng, máy trưởng người Nga.
Đồng thời Ban dự án DK1 cũng đưa ra các phương án đề phòng tình huống bất trắc xảy ra như:
Trang bị 10 xuồng cứu sinh cho tàu NPK-547, bố trí đầy đủ 100% phao cứu sinh cho các cán bộ chỉ huy và công nhân xây lắp, bộ đội, hải quân trên tàu, đề phòng các tình huống.
Bố trí loa phóng thanh ghi âm bằng tiếng Việt, tiếng Nga về mục đích dân sự khảo sát dầu khí để tuyên truyền khi tàu Trung Quốc gây hấn.
Cả ba con tàu ra xây dựng nhà giàn đều kéo cờ đỏ sao vàng Việt Nam khi thực hiện công tác xây dựng các nhà giàn DK1 ở vùng Tư Chính.
Trong trường hợp tàu Trung Quốc kéo đến gần và có hành động khiêu khích, sẽ kéo thêm cờ Nga trên tàu NPK-547 và phát loa phóng thanh tuyên truyền. Giao cho ban điều độ vận tải biển giữ liên lạc 24/24 với chỉ huy tàu NPK-547.
Hằng ngày, vào lúc 16 giờ, ê kíp xây dựng nhà giàn DK1 phải báo cáo trực tiếp về đất liền cho tổng chỉ huy Ngô Thường San để kịp thời chỉ đạo khi có tình huốngTất cả được gút để đúng 10 giờ ngày 20.6.1989, “đội đặc nhiệm” xây dựng nhà giàn DK1 của Vietsovpetro khởi hành trong một ngày báo hiệu thời tiết đầy sóng gió.
Âm thầm ra đi
Đoàn công tác xây dựng nhà giàn DK1 gồm ba tàu là tàu NPK-547, Sao Mai 01 và tàu kéo Phú Quý mang theo 55 thành viên thủy thủ, kỹ sư và đội công nhân xây lắp. phát sinh, khẩn cấp.
Ông Nguyễn Trọng Nhưng làm trưởng đoàn kiêm chỉ huy trưởng ở thực địa. Ông Đặng Hữu Quý và ông Larionov làm phó chỉ huy trưởng. Phụ trách thi công là ông Trần Thanh Quang và phụ trách khảo sát là ông Lâm Quang Chiến.
Nhà giàn DK1 với bốn ống trụ bằng thép cao 35 m được chế tạo sẵn trên bờ, lắp thành ba khối trên mặt boong tàu NPK – 547.
Ông Ngô Thường San cho hay kế hoạch xây nhà giàn tuyệt đối bí mật nên tàu rời cảng khi công trường vắng người. Đích thân Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Đào Đình Luyện và lãnh đạo Vietsovpetro có mặt ở cảng tiễn chân, dặn dò anh em.
“Có thể coi nhiệm vụ xây dựng nhà giàn lúc đó rất nguy hiểm. Thành viên trong đoàn ra đi hoàn toàn bí mật. Thậm chí một số thành viên trong đoàn không biết mình đang đi đâu, vì nhiệm vụ gì”, ông San kể.
Trực tiếp có mặt trên chuyến tàu đầu tiên, ông Đặng Hữu Quý cho biết buổi lễ tiễn đoàn ra đi diễn ra không ồn áo nhưng không kém phần trang nghiêm.
“Hôm đó trời có mưa và gió, chúng tôi lưu luyến và bịn rịn như tiễn những người thân mình ra trận và luôn chúc nhau thành công, chờ thắng lợi. Chúng tôi cũng không quên dành một phút mặc niệm để tưởng nhớ tới các liệt sĩ đã anh dũng hy sinh bảo vệ chủ quyền thiêng liêng nơi biển đảo”, ông Quý nói.
Để đánh lạc hướng Trung Quốc, thuyền trưởng tàu NPK-547 thông báo sẽ đưa tàu sang Singapore sửa chữa nhưng khi ra khỏi lãnh hải Việt Nam lại lệnh cho tàu rẽ sang hướng Đông thẳng tiến như đã định trước.
Ông Nguyễn Trọng Nhưng cho hay lúc này vừa mới xảy ra sự kiện Gạc Ma nên tình hình biển Đông rất phức tạp. Trung Quốc có thể cho tàu quậy phá không cho Việt Nam xây dựng nhà giàn.
Về phía Việt Nam cũng có kế hoạch bảo vệ các tàu Vietsovpetro ra thi công. Mọi kế hoạch xây dựng nhà giàn đều được lên kế hoạch chi tiết ở bờ nhưng thực tế vẫn có nhiều nguy hiểm khó lường.
Ông Nhưng kể: “Lúc đó Bộ Quốc phòng yêu cầu việc thi công làm sao phải nhanh, gọn và đảm bảo an toàn. Phía liên doanh Vietsovpetro cũng yêu cầu làm sao đảm bảo tính mạng cho các kỹ sư, công nhân tham gia xây dựng nhà giàn”.
Ghi chú:
“Thuyền trưởng tàu NPK – 547 được giao nhiệm vụ đưa tàu Singapore sửa chữa nhưng khi ra khỏi lãnh hải Việt Nam thì rẽ sang hướng Đông để thẳng tiến như đã định trước”, ông Đặng Hữu Quý – nguyên Chủ nhiệm Thiết kế công trình nhà giàn DK1 – nhớ lại.
(Còn tiếp)
Nguồn: Thanhnien.com
Pages: 1 2
Ngày 14/3/1988, một lực lượng hải quân hùng hậu của Tàu cộng đã tiến vào khu vực quần đảo Trường Sa. Lực lượng này bao gồm: 3 khu trục hạm, 7 tàu cao tốc, 2 tàu đổ bộ, 3 tàu vận tải hỗ trợ LSM, tàu đo đạc, tàu kéo và 1 pông tông lớn.
(Trích đoạn)***5 tháng 10, 2009 -BBC- Lê Quỳnh :
Cuộc đụng độ giữa hải quân Việt Nam – Trung Quốc ngày 14/03/1988 đánh dấu việc lần đầu tiên Trung Quốc mở rộng phạm vi chiếm đóng tại Trường Sa.
Trong cuộc chạm súng ngắn ngủi đó, ba tàu vận tải của Việt Nam bị đánh chìm, hơn 70 thủy thủ thiệt mạng và mất tích.
Một trong những người còn sống, Trương Văn Hiền, khi ấy vừa ở tuổi 20 và chuyến đi ra Trường Sa trên con tàu HQ-604 là lần ra biển đầu tiên của ông.
Nói chuyện với BBC qua điện thoại từ Ban Mê Thuột nhân dịp Trung Quốc tổ chức diễu binh rầm rộ đánh dấu 60 năm lập quốc, ông cho biết mình là lính đo đạc hải đồ, và vào tháng Ba 1988, đơn vị của ông nhận lệnh ra Trường Sa. “Trận đánh không cân sức kết thúc mau chóng, “chỉ 15 phút sau thì chìm tàu”.
Theo tài liệu chính thức của Việt Nam, ba thủy thủ Việt Nam hy sinh và 70 người mất tích mà 61 người trong số đó sau này vẫn được xem là đã tử trận.
***VnExpress online: “Ngày 14/3/1988, khi các tàu vận tải cùng bộ đội Việt Nam đang thực hiện nhiệm vụ bảo vệ đảo Cô Lin, Gạc Ma và Len Đao thì các tàu chiến của đối phương lao đến dùng pháo lớn bắn vào tàu HQ-604 ở đảo Gạc Ma, HQ-605 ở đảo Len Đao và HQ-505 ở đảo Cô Lin; cho quân đổ bộ lên đảo Gạc Ma, nổ súng vào bộ đội”.
Theo thống kê chính thức, ngoài con số 64 thủy thủ thiệt mạng, Việt Nam bị đánh chìm ba tàu vận tải.
“thượng tướng Đào Đình Luyện kể lại tinh thần chiến đấu hết sức dũng cảm và sự hy sinh anh dũng của các cán bộ chiến sĩ hải quân trong trận chiến Gạc Ma năm 1988. Ban đầu tàu Trung Quốc chủ động đâm va nhằm tiến vào chiếm đảo nhưng vấp phải sự truy cản của các chiến sĩ hải quân kiên định bảo vệ chủ quyền biển đảo. Trung Quốc đã điên cuồng nã đạn vào các tàu HQ 604, HQ 605 và HQ 505 nhưng các chiến sĩ hải quân Việt Nam không hề lùi bước “. Trích
Kháng chiến Bịp chống Pháp ! Kháng chiến Bịp chống Mỹ ! Bây giờ lại chuyện kháng chiên Bịp chống Tàu !
Đầu tháng 3 năm 1988, Tàu cộng huy động hai hạm đội xuống khu vực quần đảo Trường Sa, tăng số tàu hoạt động ở đây thường xuyên lên 9 đến 12 tàu chiến gồm: 1 tàu khu trục tên lửa, 7 tàu hộ vệ tên lửa, 2 tàu hộ vệ pháo, 2 tàu đổ bộ, 3 tàu vận tải hỗ trợ LSM, tàu đo đạc, tàu kéo và 1 pông tông lớn .
Bọn ngụy quyền Việt cộng nay bịp bợm khoe khoang “thành tích bảo vệ biển đảo của Tổ quốc “, nhưng sự thực lúc đó ra sao ? Chúng chỉ cho ra khơi có ba chiếc tàu vận tải HQ 604, HQ 605 và HQ 505 – thay vì các chiến hạm , như khi trước Việt Nam Cộng Hòa , ở hải chiến Hoàng sa , tung ra khơi các khu trục hạm Trần Khánh Dư HQ4 , tuần dương hạm Lý Thường Kiệt HQ16 , tuần tương hạm Trần Bình Trọng HQ5 và hộ tống hạm Nhật Tảo HQ10 .
Kết cuộc của trận chiến không cân xứng ở Gạc Ma này chỉ kéo dài có 15 phút . Hơn 70 tên lính “Trung với Đảng ” bị Đảng thí mạng làm bia tập bắn cho hải quân Tàu cộng .
(Vài trích đoạn ) Quỳnh Chi, phóng viên RFA – 10-19-2011:
Bắt đầu ngày 12 tháng 3 năm 1988, ba chiếc tàu vận tải của Lữ đoàn 125 mang số hiệu HQ-604, HQ-605 và HQ-505 mang theo một số phân đội của Trung đoàn công binh 83 và Lữ đoàn 146 đến các đảo này. Ba con tàu neo tại 3 đảo, với nhiệm vụ “Xây dựng và bảo vệ đảo”. Tuy nhiên, giao tranh chủ yếu diễn ra ở Gạc Ma. Đó cũng là một cuộc chiến đẫm máu nhất trong chiến dịch CQ-88.
Con tàu HQ-604 chở khoảng 74 chiến sĩ, đa phần là công binh có nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ đảo Gạc Ma. Trước khi đi, tất cả các chiến sĩ đều được quán triệt là bảo vệ tổ quốc nhưng không nổ súng. Anh Nguyễn Văn Thống cho biết “Bên mình lúc ra đi là quán triệt không được nổ súng bằng bất cứ giá nào”.
Chính vì được quán triệt là không được nổ súng, trên các con tàu trong chiến dịch CQ-88 đều chỉ mang lương thực, xi măng, cốt thép và các cột bê tông đúc sẵn mà không mang theo bất cứ một loại vũ khí nào, chỉ trừ vài khẩu súng AK. Các chiến sĩ trên tàu, chủ yếu chỉ là công binh, chưa một lần cầm súng chiến đấu, để rồi cho đến bây giờ, tim họ vẫn còn nhói khi nghĩ lại. Theo lời kể của 8 nhân vật còn sống cho đến hôm nay, họ không hề có một khẩu súng trong tay và chỉ thấy khoảng 3¬-4 người lính Việt Nam có cầm súng AK. Anh Trần Thiện Phung chua xót nhớ lại:
“Đơn vị tôi là đơn vị công binh mà, ra đảo chỉ biết là để xây dựng chứ đâu biết để chiến đấu. Nhưng ra đó, tàu chiến của Trung Quốc đánh mình”.
Chiều 13 tháng 3 năm 1988, tàu HQ-604 vừa đến Gạc Ma và bị quân Trung Quốc dùng loa cảnh báo. Theo lời những người tham gia trận đánh, Trung Quốc lúc ấy triển khai 3 tàu chiến, đứng vị trí hình tam giác bao vây con tàu vận tải HQ-604, chỉ cách nhau chừng vài trăm mét. Anh Dương Văn Dũng nhớ lại:
“Lính Trung Quốc cầm loa thông báo rằng đây là lãnh thổ của Trung Quốc, yêu cầu lính Việt Nam rời ngay. Tuy nhiên, mình vẫn không rời đảo, vẫn bám trụ đảo. Cho đến sáng mai thì trận chiến xảy ra.”
………
Lúc ấy, phía Trung Quốc có 1 hộ vệ hạm và 2 hải vận hạm, được trang bị hỏa lực 100mm với hơn 200 binh sĩ (tài liệu từ Trung Quốc).
………
Khi những khẩu đạn pháo nhắm vào thân con tàu HQ-604 già nua, cũng là lúc quân Việt Nam chết nhiều nhất, người thì chết vì ngạt khi co cụm dưới khoang tàu, người thì chết vì đạn pháo, người thì chết vì ngạt nước – hỗn loạn, tan tác và kinh hãi. Anh Thoa chua xót nói tiếp:
“Khi lính của mình chết gần hết rồi, xác họ trôi lơ lửng, máu tràn lan trên biển, máu của lính từ mạn tàu chảy xuống. Tôi thấy ghê gớm thật. Lúc đó chẳng biết suy nghĩ gì, chạy loạn xạ hết.
“Khi tôi nhảy khỏi tàu thì thật tình tôi thấy hiện trường có rất nhiều lính Trung Quốc. Tôi chứng kiến thấy rằng Trung Quốc ác quá. Khi tàu của Việt Nam đã bị chìm rồi, lính Việt Nam nhảy xuống biển mà nổi lên trên là họ bắn hết. Trung Quốc cho những chiếc xuồng chạy trên biển và bắn tất cả lính Việt Nam nào nổi lên”.
Ông Đặng Hữu Quý chưa hiểu VC nên còm hăm hở kể lại những thành tích của mình trên tờ báo Thanh Niên.Ông ta cũng còn ngây thơ như đứa trẻ, đâu biết Vc chỉ dùng ông làm bia đở đạn để cho bọn chúng tiếp tục đời sống nhung lụa, sao ông này không đứng lên chống lại vụ cưởng chế đất đai của những người dân vô tội mà cứ kể chuyện vu vơ thiếu thực tế. Tàu thì còn ngây thơ nghe lời đường mật của VC nên cũng thất bại như ông Quý. Trong trận chiến 79 và 84, những trận đánh rất ác liệt giữa hai quân đội, lúc đó Đặng Tiểu Bình đã khôn khéo về ngoại giao nên đã giành nhiều tình cảm thế giới ủng hộ cho cuộc chiến chính nghĩa của ông, vì thế ông đã chọc thủng phòng tuyến của VC, dù Nga và các nước Đông Âu ngày đêm không vận và Cuba đưa ý kiến gởi quân tình nguyện. Chú ý nhất là cuộc chiến 84 ở Vị Xuyên, Hà Giang, Trung Quốc đã tung một lực lượng hùng hậu đánh những vị trí chiến lược và đã chiếm được những vị trí ấy, như 1509, 685, 1100, 900, 300, 400, đồi Chuối, đồi Đài, Cô Ích, A6. Nhưng sau đó ký hiệp định biên giới, Tàu đã rút khỏi những vị trí ấy, mặc dù đã đổ biết bao xương máu của hàng ngàn binh sĩ tham gia chiến trận. Lúc đó VC còn bưng bít thông tin nên Trung Quốc dễ dàng đánh và chiếm những vị trí chiến lược ở Hà Giang và đảo Gạc Ma.
Nhưng lần này Tàu đưa giàn khoan Hải Dương vào bờ biển VN thì thất bại hoàn toàn, vì tàu cảnh sát biển VC được báo chí quốc tế tường thuật một cách đầy đủ, VC không bưng bít thông tin như chiến sự năm xưa, nên giành tình cảm bạn bè hứơng về chúng. Vì thế, thế giới lên án Tàu tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược.Con cháu Đặng Tiểu Bình có tính chiến đấu, nhưng không tính ngoại giao, nên gây sự với Phi Luật Tân, một nước từ lâu rất có tình cảm với Tàu, hơn nữa còn gây sự với Nhật, đưa tàu hải giám vi phạm vùng biển của Nhật Bản, gây bất đồng xâu sắc giữa hai nước, trong khi đó thủ tướng Ôn gia Bảo cố gắng hòa giải sau vụ sóng thần, cố gắng hàn gắng những vết thương giữa hai nước, nhưng người kế nhiệm ông, tiếp tục gây căng thẳng ngoại giao.Trong khi đó, Trung Cộng hướng thế ngoại giao về nước Nga nhưng Nga vẫn bán những vũ khí tối tân cho VC để đối đầu với lực lượng hùng hậu tàu chiến của Trung Quốc .Trong những hội nghị quốc tế, tôi thấy quân đội lấn áp ngoại giao, trong khi đó quân đội chưa hiểu ngoại giao là gì mà cứ xen vào vấn đề ngoại giao trong cuộc đối đầu căng thẳng với thế giới.