Truyền thông và cuộc chiến giải trừ gian dối
Vào năm 2006, khi còn là phó chủ nhiệm quốc hội “CHXHCNVN”, ông Trần quốc Thuận đã công khai lên tiếng, đánh giá, xác minh về các bản chất trong sinh hoạt của chế độ cộng sản là: “ Ngày nay người ta phải nói dối nhau mà sống… Nói dối lâu ngày thành thói quen, thói quen dùng lâu ngày thành đạo đức, mà cái đạo đức ấy là rất mất đạo đức, nhưng đó lại là đạo đức của cách mạng! ( của Việt cộng)”. Sau đó một khoảng thời gian, một con cưng khác của chế độ, mang quân hàm đại tá, cũng là đại biểu của quốc hội, là phó chủ tịch của hội nhà văn CS, ông Nguyễn Khải, trước khi xuôi tay về với thiên đàng Mác Lê, trong “Đi tìm cái tôi đã mất” đã viết là: “”Người cộng sản nói dối lem lém, nói dối lì lợm, nói dối không hề biết xấu hổ và không hề run sợ… và người ta không dám hỏi lại những điều được nghe ấy đúng sai ra sao?
Thật ra thì chẳng cần đến việc hai nhân vật này nói ra, viết ra như thế người ta mới biết đến việc cộng sản chủ trương xây dựng một xã hội dựa trên nền tảng gian dối. Trái lại, hầu như tất cả mọi ngưòi đã biết rất rõ, một trong những chủ trương lớn của đảng và nhà nước cộng sản là phải tạo ra và bảo vệ gian dối. Nếu CS không tạo ra và bảo vệ được sự gian dối, cộng sản sẽ bị hủy diệt. Tuy thế, lời công bố của hai nhận vật này cũng giúp đưa ra vài chỉ dẫn.
Một mặt, họ xác mình việc gian dối, hay nói dối tràn làn trong cuộc sống của người Việt Nam ngày nay không phải là sự gian dối mang tính tự phát của người dân. Nhưng nó là một thành quả xuất sắc bắt nguồn từ chủ trương của đảng và nhà nước CS trong tiến trình đào tạo và huấn luyện các đoàn đảng viên, cán bộ của đảng và nhà nước. Để từ đó, những người này đem vào xã hội. Dưới áp lực khủng bố qúa lớn và sự sợ hãi, người ta không dám hỏi lại, hay tìm hiểu cái xuất xứ của những câu nói từ đảng, từ nhà nước, từ cán bộ là đúng hay sai. Trái lại, chỉ còn biết tuân theo và lập lại như thế mà sống. Kết quả, gian dối từng bước huỷ diệt tận căn nhân thiện của con người trong xã hội, trong tôn giáo và được thay thế vào đó là thứ “đạo đức cách mạng”, là sự đồng bộ trong gian dối và làm nô lệ cho gian dối. Nên những ai tranh đấu cho công lý, cho sự thật thì đều có thể bị quy kết là chống nhà nước CHXHCN/VN với tội danh âm mưu lật đổ chính quyền CS. Một thể chế mà không đáng được tồn tại thêm một giờ, một phút nào nữa!.
Mặt khác, khi phấn khởi hay ta thán về thành qủa bất hủ của nhà nước CS, cà hai vị này đã đưa ra được những lời cảnh tỉnh, gởi cho những ai còn thao thức với vận mệnh của dân tộc, của đất nước biết là: Nếu còn cộng sản, chúng ta không bao giờ thoát ra khỏi được sự gian dối lấp đè lên gian dối. Trái lại, càng lúc càng bị CS đưa từng thế hệ này tới thế hệ khác lún sâu vào cuộc sinh hoạt trong dối trá do họ chủ trương. Kết quả, tiền đồ của đất nước không còn, tương lai của dân tộc bị hủy diệt. Bởi vì, có những sự thật như chúng ta đã bị Tàu đô hộ bao nhiêu năm nay rồi, có thể từ ngày 02-9-1945, mà người ta vẫn dối trá bảo không. Không một ai dám bảo là có. Tệ hơn, CS còn rêu rao cuộc nô lệ ấy là tình hữu nghị! Và họ bảo vệ cái tình hữu nghị ấy bằng mọi gía! Theo đó, những ai còn nghĩ đến tiền đồ của tổ quốc, tương lai của dân tộc thì không thể khoanh tay trước cái chủ trương vong bản của CS.
Lời cảnh báo ấy, không phải là không có lý lẽ. Bỏi vì, trổi vượt lên trên cái bản ngã nói dối mà sống của từng cá nhân. Sự dối trá của chế độ đã trở thành một khuôn mẫu để làm tiêu chuẩn cho lãnh đạo. Khuôn mẫu này được chứng minh rõ nét nhất là ở cuộc chiến tranh gọi là “giải phóng Miền Nam, chống Đế Quốc Mỹ xâm lược”! Khẩu hiệu to hơn những cái mồm to nhất. Kết qủa, nó chỉ là một cuộc lừa dối trắng trợn nhất, vĩ đại nhất trong chủ trương của cộng sản đã thực hiện. Để ở đó, có hàng triệu người chết mất xác đến nay vẫn chưa thể tìm ra. Những nghĩa trang liệt sỹ thì đầy những bia mộ, có tên nhưng không có cốt. Có hàng vạn thương phế binh của cả hai miền, hàng triệu gia đình ly tan. Mẹ mất con, vợ mất chồng, con mất cha, anh chị em mất nhau chỉ để đánh đổi lấy một kết luận đanh thép của đảng CS do Lê Duẩn công bố: “trận chiến này, ta đánh là đánh cho Liên Xô, cho Trung Quốc”. Và còn tồi tệ hơn thế, trong cuộc gặp gỡ Mao trạch Đông vào năm 1970. Lê Duẩn đã tự hào kể công, kể thành tích của một tên nô lệ với chủ là:“Tại sao chúng tôi dám trường kỳ kháng chiến? Chủ yếu là vì chúng tôi phụ thuộc vào công việc của Mao Chủ tịch”! Có còn ai tìm ra thứ ngôn ngữ kể công nào bóng bẩy hơn thế nữa? Theo đó, đất nước ta có bị tập đoàn CS / HCM áp đặt vào vòng nô lệ của Tàu thì cũng không có gì lạ. Có lạ là chúng ta không nhìn ra được những gian dối của chúng! Và lạ là không cùng nhau tìm phương cách thoát ra khỏi nanh vuốt của CS mà thôi.
Trở lại “chuyện đánh Mỹ cứu nước” dù đây có là một cao điểm của phản trắc và lửa dối thì nó cũng đã thuộc về qúa khứ. Có hối cũng bất cập. Có nói cũng bằng không. Nhưng hiện nay, sự gian dối, lừa đảo của nhà nước CS vẫn phủ lấp trên tất cả mọi sinh hoạt trong xã hội. Từ gia đình đến học đường, thậm chí trong cả lĩnh vực thuộc về tôn giáo, không có một nơi nào mà sự dối trá của đảng và nhà nước cộng sản không luồn lách vào. Mà một trong những lừa dối vĩ đại nhất, hào nhoáng nhất, có khả năng phù lấp, hủy hoại tiền đồ của đất nước, tiêu diệt tương lai của dân tộc là trường hợp Hồ Chí Minh, một con cờ do cộng sản tạo ra?
Hồ Chí Minh là ai? Ông là người Tàu hay là ngưòi Việt Nam? Nguyễn ái Quốc có phải là Hồ chí Minh, hay ông ta đã chết vì bệnh lao phổi sau khi ra khỏi nhà tù vào năm 1931? Có phải dưới sự chỉ đạo của CS/QT, Hồ tập Chương đã đóng vai Hồ chí Minh từ 1932 và xâm nhập vào cơ chế trong đảng CSĐD?
Sự thật ra sao, chưa rõ thực hư. Nhưng nghi án này càng lúc càng lớn, làm cho người Việt Nam vuốt mặt không kịp. Trong khi đó, tập đoàn đảng và nhà nước CHXHCNVC vẫn tiếp tục ca bài phường chèo, ra rả ngày đêm xưng tụng, đánh bóng HCM là một loại cha già dân tộc ( không biết là dân tộc nào, Miêu Lật, Đồng La, Đài Loan chăng?). Rồi xếp cho Y có địa vị, chỗ ngồi cao hơn cả quốc tổ Hùng Vương, cao hơn các anh hùng, cứu tinh của dân tộc như Đức Hưng Đạo Vương, Đức Lê thái Tổ, Đức Quang Trung Nguyễn Huệ…. Đã thế, còn ngày đêm thúc giục mọi người, mọi giới phải học tập theo gương của HCM, mà không hề có lấy một lời làm rõ, nêu lên những chứng cứ khả dĩ, đủ xác định và chứng minh HCM là Nguyễn ái Quốc, người làng Kim Liên. Cũng không hề đưa ra những chứng minh thực tế về hoạt động của Nguyễn ái Quốc từ 1932 đến 1942 để phản bác những lý luận trong cuốn sách kia. Cũng không mời những nhà khoa học thực nghiệm đến làm DNA cho HCM để xác nhận nguồn gốc lý lịch thật sự của cái xác gỉa ở Ba Đình kia là Nguyễn ái Quốc hay Hồ tập Chương?
Theo đó, giả sử. Tôi giả sử, nếu Hồ chí Minh là người Tàu đúng như những gì mà tác gỉa Hồ tuấn Hùng, trình bày trong cuốn sách “Tìm hiểu về cuộc đời Hồ Chí Minh” (Hồ Chí Minh sinh bình khảo), do nhà xuất bản Bạch Tượng Văn Hóa ấn hành ngày 01-11-2008. Và theo ông Phạm quế Dương, “cuốn sách chủ yếu nói về Nguyễn Ái Quốc. Sau vụ án Hương Cảng, 1931 cụ sang Liên xô nhưng bị lao phổi và chết ở Liên xô từ năm 1932. Sau đó, Quốc tế Cộng sản phân công Hồ Tập Chương, người Đài Loan cùng hoạt động với cụ Nguyễn Ái Quốc thay cụ Nguyễn Ái Quốc làm cách mạng ở Việt Nam. Ông Hồ Tập Chương lấy tên là Hồ Chí Minh” thì chúng ta, những người còn sống đây, rồi đến những thê hệ nối tiếp sau đây sẽ phải ăn nói làm sao? Lịch sử nghìn năm chống phương bắc sẽ phải viết lại thế nào? Rồi căn chòi nào, mảnh đất rừng nào sẽ còn được phép lưu danh những Anh Hùng nước Việt Nam đây? Tôi cho rằng, câu hỏi này chỉ có thể là nỗi tủi nhục cho người Việt Nam thôi? Về phía đảng và nhà nước Việt cộng thì chắc đã có sẵn kế sách rồi. Bịp được đến bao giờ thì cứ bịp. Không bịp được nữa thì bỏ chạy sang Tàu, sang Tây là hết chuyện!
Như thế, gỉa sử ấy không phải là một bi quan, cũng không đơn thuần là một diều đáng lo, đáng quan ngại. Trái lại, nó có thể là một thảm hoạ cho đất nước và dân tộc Việt Nam nếu như nó tiếp tục được kéo dài. Theo đó, nếu chúng ta, thế hệ hôm nay muốn đưa đất nước ra khỏi cuộc khủng hoảng nhân bản, làm nô lệ cho gian dối, làm nô lệ cho chủ nghĩa vong bản cộng sản. Hoặc gỉa, muốn tái tạo lại một đất nước có tình người, có cuộc sống lương tri chân thật, có văn hóa, có nhân bản, có cội nguồn dân tộc thì chúng ta chỉ có một con đường duy nhất là cùng bạch hóa nghi vấn này. Bạch hoá bằng cách:
1. Tất cả mọi người, không trừ ai, hãy mạnh mẽ đem tiếng nói của công lý vào truyền thông. Chuyển tải sự thật đến mọi nơi, mọi chốn, để giải phóng người dân ra khỏi mọi gian trá từ cuộc tuyền truyền bất lương của đảng và nhà nước cộng sản.
Trước hết, nhờ tính năng động của tuổi tré, vận động mọi người, mọi giới cùng tham gia vào phong trào làm DNA, tìm hiểu sự thật về lý lịch của Hồ chí Minh. Hãy nhắn tin cho cả nước biết những hoài nghi của dân ta về Hồ chí Minh. Hãy nói chuyện với bằng hữu, người thân về những chứng cứ hiện có, gởi đi những tin nhắn qua các diện thoại cầm tay, để mọi người cùng đi tìm sự thật, Hồ chí Minh là ai? Ông ta là ngưòi Việt Nam hay người Tàu?
Tôi tin rằng, dù chỉ là vài mẫu chuyện nhỏ do nhiều người chứng kiến và kể lại cách xử thế của Hồ chí Minh với mẹ và chị gái của ông ta, nếu được chúng ta chuyển tải rộng ra cả nước, đến với mọi người ở mọi nơi, mọi chốn. Nó không còn là câu chuyện nhỏ bé nữa. Trái lại nó có khả năng tác động cực mạnh trong lòng người và tạo ra một sức mạnh vô bờ, có đủ khả năng đập tan sự gian dối. Chuyện là, vào năm 1957, Hồ Chí Minh về thăm quê ở xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An mà không đến thắp hương mộ thân mẫu là cụ Hoàng Thị Loan dù ngôi mộ không xa địa diểm Hồ chí Minh đến thăm là bao. Trước đó, năm 1945, khi bắt đầu làm Chủ tịch nước, bà chị là Nguyễn Thị Thanh ở quê ra thăm, Hồ chí Minh cũng tránh mặt, không dám gặp. Tại sao lại thế? Nếu Hồ chí Minh là con bà Hoàng thị Loan thì có lẽ nào Y lại không giữ phận làm con đến bên mộ, khóc òa, tạ tội bất hiếu không thể phụng dưỡng cha mẹ. Rồi thắp nhang cho mẹ, báo đáp ơn đức sinh thành? Nếu là chị em ruột tại sao HCM không dám gặp bà Nguyễn thị Thanh?
Chỉ có một lý giải là: Hồ chí Minh là Hồ tập Chương người tàu, không phải là Nguyễn ái Quốc con của bà Hoàng thị Loan, nên Y không thể nào đến thắp nhang “ báo đáp ơn sinh thành” cho cụ Hoàng thị Loan . Nhưng tại sao không gặp lại người chị duy nhất của mình sau bao năm xa cách? Sợ phải nhận họ hàng, làm chị em với bà nhà quê hay sợ bị phát giác ra sự gỉa mạo là em của bà chăng? Nên nhớ, có tật thì giật mình thôi, chứ hình dáng của Hồ chí Minh có đổi khác đi, tiếng nói có khác xưa thì bà Thanh cũng không thể nhìn ra ngay được. Như thế, câu trả lời vắn gọn là: Hai người này cũng chẳng phải là chị em với nhau. Gặp chẳng tỏ bày được tình thân, còn có thể lộ tẩy trong những câu chuyện của gia đình khi xưa. Nên Hồ tập Chương, không gặp, không đốt nhang chẳng có gì là lạ. Có lạ là về phía nhà nước VC vẫn giữ im lặng. Im lặng cho đến chết? Tuy nhiên, khi không dám công khai có ý kiến trước dư luận, cũng không làm thực nghiệm DNA về HCM để trả lời, phản chứng, thì cũng chính là lúc họ xác nhận sự thật Hồ chí Minh không phải là Nguyễn ái Quốc.
Kế đến, vận động các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu sử ở trong nước, hải ngoại, các nhà văn, nhà báo hãy cứu nước, cứu dân bằng những bài viết của họ. Người thì làm thực nghiệm với chứng cứ của khoa học, kẻ khác bằng phương pháp sử liệu. Nếu không thể thực nghiệm trực tiếp trên cái xác của Hồ chí Minh với thân nhân ruột thịt, đề nghị làm cách gián tiếp từ Nguyễn tất Trung với những thân nhân ruột thịt này. Mặt khác, cũng có thể vận động GS Hồ tuấn Hùng làm DNA với ngưòi chú (Hồ chí Minh) để tìm ra những điểm tương đồng có thể chứng minh là có liên hệ máu huyết ay không? Dĩ nhiên, những thử nghiệm gián tiếp không thể đưa ra được một kết luận vững chắc. Nhưng dù sao thì nó cũng cho ra những chứng cứ để làm sáng tỏ thêm sự liên hệ giữa những người này.
Ở đây tôi xin mở một dấu ngoặc là. Việc xét nghiệm DNA dù là gián tiếp cũng khó khả thi. Bởi lẽ, với một quá trình và chủ trương ” tráo rồng đổi phượng” thì dĩ nhiên, tro cốt của Nguyễn ái Quốc là người Việt Nam đã bị cộng sản tiêu hủy toàn bộ từ lâu rồi. Đên ngay cái xác của Hồ tập Chương trong lớp áo Hồ chí Minh cũng chỉ là cái xác giả. Riêng cái cốt thật của Hồ tập Chương dù mới chết 1969 thì tập đoàn CS cũng chẵng còn để lại một dấu vết nhỏ nào. Và có thể chính Liên Sô là người đã thực hiện hai vụ phi tang này. Phần cá nhân, Hồ Tập Chương vì phải bảo vệ bí mật của chính mình và tổ chức của CSQT, nên khi còn ngồi ghế chủ tịch nhà nước, Y có thể đã ra lệnh cho thủ hạ tiêu hủy hoàn toàn hài cốt của những vị có liên hệ huyết thống vói Nguyễn ái Quốc như cụ Hoàng thi Loan, bà Nguyễn thị Thanh hay ông Nguyễn Sinh Khiêm rồi. Riêng phần mộ của ông Nguyễn sinh Sắc, có thể chôn ở miền nam. Nhưng trong những năm chiến tranh, ai dám bảo đảm rằng Hồ tập Chương đã không ra lệnh cho cán bộ, du kích trên danh nghĩa là tìm kiếm bảo vệ. Nhưng thực ra là tiêu hủy toàn bộ dấu vết của ông và thay vào đó là những cái hài cốt chẳng có một tý liên hệ nào đến dòng họ Nguyễn sinh Sắc? Theo đó, việc DNA tưởng là dễ và chính xác nhất thì lại không khả thi.
Theo đó, sự việc chỉ còn trông chờ các nhà sử học đứng đắn. Nhờ họ, qua các cuộc nghiên cứu sử liệu từ các thư viện mật của Nga, Trung quốc, hy vọng tìm ra được những những tài liệu lịch sử khả tín về cái chết của Nguyển ái Quốc vào năm 1932. Hay những sinh hoạt của Hồ tập Chương trong thời bí mật từ 1932-42 ở Liên sô, trước khi Y được giới thiệu với nhóm Phạm văn Đồng, Võ nguyên Giáp với cái tên Hồ chí Minh rồi cùng vào sinh hoạt trong Việt Nam Cách Mạng Đồng Chí hội của cụ Hồ Học Lãm. Nguyễn ái Quốc khi đến Pháp và sang Liên Sô rồi về làm chủ tịch đảng CSVN chắc cũng còn để lại nhiều giấy tờ ghi nhận về chiều cao, kích thước, hình dạng. Đây cũng là những chứng liệu hữu ích cho cuộc đi tìm sự thật.
Về phía các nhà văn nhà báo, bloggers, cũng có thể làm xét nghiệm DNA Hồ chí Minh qua các tác phẩm của ông ta, để tìm xem trong đó có hơi hám của Việt Nam hay không. Bởi lẽ, văn là người. Thơ là hơi thở. Không một người làm thơ, viết văn nào phải xa quê hương mà trong thơ văn của nguời đó không thao thức, không nhắc đến quê hương hay những người thân, không nhắc đến những đồng ngô nương sắn, thành thị, nơi mình đã đi qua. Nhờ những chứng từ đó, chúng ta có thể có được một đáp số trung thực hơn về lý lịch của Hồ chí Minh. Dù kết qủa thế nào, phải hay là không, thì điều này cũng giúp dân ta và đất nước ta có được một chỗ đứng nghiêm chỉnh hơn. Dứt khoát, không thể trông chờ CS làm việc này cho chúng ta.
2. Vận động toàn dân tham gia vào cuộc đảnh đổ gian dối, làm chuyển hóa và xóa bỏ chế độ vong bản cộng sản để đưa dất nước vào cuộc sống trong hoà bình ổn định, trong công lý, nhân quyền, nhân ái.
Trong khi chờ có được những bằng chứng khả tìn trong tay, Hồ chí Minh là Hồ tập Chương là ngưòi Tàu theo họ Mật La, Đài Loan, hay là người Việt Nam để công bố cho toàn dân. Chúng ta phải vận động mọi người, mọi giới, không trừ ai, kể các các đoàn đảng viên cộng sản, hãy vì danh dự của tổ quốc, vì tiền đồ của dân tộc, cùng với toàn dân tham gia vào cuộc đánh đổ gian dối, dành lại Độc Lập cho Tổ Quốc. Đem lại Tự Do cho cho con người. Vận động mọi ngưòi cùng nắm tay nhau, biến sợ hải, nhút nhát, vô cảm thành một phong trào lớn mạnh. Cương quyết giải trừ trường hợp Hồ chí Minh ra khỏi dòng lịch sử Việt Nam. Giải phóng đất nước ra khỏi cuộc đánh tráo dơ bẩn và gian dối của cộng sản.
Đây là công việc trường kỳ, nó đòi hỏi chúng ta tốn phí nhiều thới gian. Hơn thế, còn đòi buộc chúng ta phải có thái độ dứt khoát và cương quyết nữa. Từ nhiều năm qua, vì nhiều lý do. Phần vì e dè, phần vì sợ hãi, phần vì né trách nên những cuộc tranh đấu cho Tự Do, Dân Chủ và Công Lý cho Việt Nam dưới nhiều hình thức đều được mở hàng bằng những mớ ngôn từ vay mượn của Hồ chí Minh. “ bác nói thế này, bác nói thế kia”. Coi những lời ấy như một thứ thuẫn che đạy cho chủ kiến và hành động của mình. Điều này không hoàn toàn sai. Tuy nhiên, đã đến lúc chúng ta phải chọn lấy một hình thức tích cực mới. Bởi vì:
Theo Kinh Thánh: “Không thể nhân danh quỷ để mà trừ qủy”. Trái lại, chỉ có Công Lý, chỉ có Sự thật mới giải trừ được gian dối. Theo đó chúng ta cần mạnh dạn hơn, nghiêm khắc và can đảm hơn với chính mình. Hãy dùng tiếng nói của công lý, của nhân tâm dân tộc, của tiền nhân, của nhân tâm con người mà tạo nên nền móng vững chắc cho những hoạt động giải trừ cái bạo tàn, gian dối của đảng và nhà nước cộng sản tại Việt Nam. Sẽ không, không bao giờ còn dùng bất cứ những ngôn từ nào của HCM như là một cái thuẫn, giúp chúng ta chống lại tập đoàn này. Trái lại, phải loại trừ trường hợp của HCM ra khỏi ý thức tư tưởng của Việt Nam. Việc làm này, khỏi đầu có thể lạ lẫm và hơi khó khăn. Tuy nhiên, đó là việc cần phải khởi đầu.
Có làm được như thế, chúng ta mới sứng đáng và hãnh diện mình là nòi giống của Tiên Long, là thần tử của Quốc Tổ Hùng Vương, là con cháu của các anh hùng dân tộc, của Hai Bà Trưng, của Ngô vương Quyền, Hưng Đạo Vương, Lê Thái Tổ, Quang Trung… mới xứng danh là những hậu duệ của Trần bình Trọng, Lý thường Kiệt… hét vào mặt quân thù rằng: “Thà làm qủy nước nam còn hơn làm vương đất bắc.”
Có giải trừ được gian dối, đem trả sự thật về cho nghi án của dân tộc thì con cháu ta mai sau mới còn có chỗ đứng riêng trên mảnh đất mang tên Viêt Nam.
Bảo Giang
9-2013
© Đàn Chim Việt
ĐỨC THÀNH THẬT NƠI CON NGƯỜI
Trong con người tính trung thực là quan trọng nhất. Bởi thế nó vừa là nền tảng nơi cá nhân cũng như nền tảng của chung xã hội. Cho nên khi nền tảng đó nơi cá nhân không có hay không còn nữa, nền tảng của xã hội đó cũng coi như không có hay không còn nữa.
Trung thực trước hết là trung thực với chính bản thân mình. Chỉ cơ sở này mà có, sau đó mới thành trung thực với người khác, với mọi người, hay với toàn xã hội. Nói ngược lại, nếu yếu tố đầu không có, chắc chắn các yếu tố sau cũng không thể nào có.
Thế nhưng tại sao có người lại không thành thật ? Thường là những người ở trong hoàn cảnh lép vế nào đó nhưng lại muốn chiến thắng, muốn vươn lên, muốn thành công cho những mưu toan không chính đáng nào đó, thế là áp dụng sự gian dối, thủ đoạn để lừa lối người khác, làm người khác tin mình, tạo nên kết quả gạt gẫm nhất định. Sự gian dối như vậy đầu tiên xuất phát từ một người, sau nó thành lan rộng ra, kết quả nhiều người hay có khi toàn xã hội phải chịu chung hậu quả đó. Sự ta mị riêng không bao giờ đưa đến được kết quả ích lợi chung nào chỉ đơn giản là vậy.
Cách đây nhiều ngàn năm, nhà hiền triết phương Đông nổi tiếng Khổng tử từng đã đúc kết “nhân vô tín bất lập” (con người không có chữ tín không thể đứng vững được). Con người không có chữ tín, mọi người khác còn căn cứ được gì nơi người đó nữa để mà tin cậy. Mà một xã hội lại có nhiều hay có toàn người như vậy, hỏi xã hội đó còn gì để đứng vững, có giá trị hay có ý nghĩa nữa.
Người ta bảo có thể gạt được một người mãi mãi, khó có thể gạt được nhiều người mãi mãi, khó có thể gạt được mọi người mãi mãi. Đây quả là một chân lý dễ chiêm nghiệm nhất. Bởi một người nào bị người khác gạt mà bị mê lầm, khi chết đi là bị gạt mãi mãi, còn khi đang sống mà vẫn tin hoài, cũng có nghĩa bị gạt mãi mãi. Nhưng đối với nhiều người, khi lịch sử chuyển biến, khi hoàn cảnh hay thông tin mới được xác lập, khi có sự hiểu biết mới, tất nhiên người ta sẽ sáng suốt ra, sẽ sực tỉnh ra, nên khó mà gạt được họ mãi mãi.
Như thế khởi đầu của niềm tin là do sự cả tin, sự ngây thơ, sự thiếu am hiểu, hay sự dốt nát. Mọi sự nói dối, sự không trung thực, sự tuyên truyền, sựa lừa gạt có được, chính là do các yếu tố như trên. Như vậy cũng có nghĩa người nói dối, người lừa gạt người khác, tự họ luôn có ý thức, nhưng là thứ ý thức sai trái nhằm lợi dụng người khác, nhằm biến người khác thành phương tiện của mình cốt nhằm phục vụ lợi ích riêng của mình. Tính cách phi đạo đức ngay từ đầu ở đây nơi cá nhân và nơi xã hội chính là như thế. Mọi cái tà tâm đều phi đạo đức, cho dù nó phát xuất từ đâu, từ người nào, hay vì mục đích gì. Bởi đó câu nói mục đích biện minh cho phương tiện, thực chất luôn sai trái, phi đạo đức, chỉ thuần túy là sự ngụy tín, sự lừa gạt, vì cái xấu thì tự nó không thể chứng minh hay biện minh cho bất kỳ mục đích tốt nào. Bởi thực chất đó chỉ là sự lừa gạt toàn diện, bao quát và thuần túy.
Nhưng nếu trong đời sống xã hội, tức trong xã hội dân sự thuần chất, sự lường gạt chỉ có thể xảy ra trên phương diện cá nhân, trong liên quan cá nhân. Ngược lại trong đời sống chính trị, nhất là trong những loại chính trị độc tài độc đoán toàn trị, sự lừa phỉnh thường xảy ra trong toàn bộ quy mô xã hôi. Các chủ nghĩa Đức quốc xã, chủ nghĩa Phát xít, chủ nghĩa Bônsêvích trước kia đều là như thế. Nước Đức dưới thời Hitler, Liên Xô dưới thời Stalin, nước Ý dưới thời Moussolini v.v… đều chứng tỏ điều ấy. Nên mọi sự sụp đổ của chúng dĩ nhiên tất yếu. Bởi mọi sự lừa dối không thể che mắt được mọi người mãi mãi.
Nên chính sự lừa dối bằng chính trị khi nó được đúc kết bằng một hệ thống kinh nghiệm nào đó, khi nó được xây dựng thành một bộ máy toàn diện nào đó, mọi sự khốc liệt của nó thật luôn khủng khiếp, bởi bì nó bóp chặt hết mọi cá nhân cũng như toàn xã hội. Mọi người đều hay phải thành giả dối theo nó, nó trở thành như một nguyên lý sống, một nhu cầu sống, một mục đích sống, khiến toàn xã hội trở nên vô nhân bản, trở thành phi nhân nhưng không bất kỳ ai có thể thoát ra hay đi ngược lại được. Chỉ có thể sống một cách xấu xa, nếu không thì đành mang thái độ tiêu cực xã hội, tức tìm mọi cách thoát ly ra khỏi xã hội đó, bất cộng tác với nó, mang tới nhiều sự thua thiệt cho chính bản thân cũng như cho toàn xã hội. Tính chất tiêu cực toàn bộ của một xã hội giả dối về mặt chính trị chính là như vậy.
Còn một điều nguy hiểm và xấu xa nhất trong sự lừa dối chính trị là nó kết hợp giữa sự tuyên truyền lừa gạt và tính cách bạo lực, võ trang. Người nào nghe theo thì bị sự lừa dối, người nào không nghe theo hay phản kháng sự lừa dối thì bị sự áp đảo bằng tính hung bạo, bằng võ lực đi kèm. Nó khiến con người thành phải đầu hàng, thành bị tê liệt, hoặc phải ngoan ngoãn phục tùng một cách sai trái, hoặc hăng say trong sự sai trái và tạo sự kết quả dây chuyền đó cho toàn xã hội. Thế nên mọi sự ở đời không phải chỉ đo bằng kết quả thành công của công việc mình làm, mà chính yếu phải đo bằng ý nghĩa đạo đức, tức chính chính đáng hay không chính đáng của việc làm đó, tức ý nghĩa và giá trị khách quan, đúng đắn thật sự của nó. Đó là ý nghĩa của tính chân chính, của sự chính nhân quân tử mà ông cha ta từ ngàn đời đã từng nêu rõ. Ngược lại với tính chính nhân quân tử là sự tà ma, sự tà đạo, sự tà giáo, sự ma đầu nào đó mà ai cũng biết. Chữ nhân là tính nhân văn trong tính chính danh quân tử. Ngược lại với chữ nhân là tính bất nhân, tính phi nhân mọi loại, tức đều là tính phản nhân, phản lại con người hay xã hội, sự hạ nhục cá nhân và xã hội trong thực chất, nên cũng không thể tự biện minh được trong bất cứ mục đích hay ý nghĩa gì.
Nên nói chung lại, mọi sự tuyên truyền dối gạt về chính trị chính là điều xấu xa, nguy hiểm nhất cho con người và cho xã hội, cho dù nó có lâu dài đến như thế nào, nó phát xuất do đâu và khi nào, cũng như nó vì bất kỳ mục đích gì. Bởi tự bản thân nó là không tốt, là bất chính, thì dù nó diễn ra như thế nào, qua ai, hay trên cơ sở hoặc thực tế nào thì mọi bản chất xấu xa của nó cũng đều như vậy. Nó là toàn bộ hệ thống lừa gạt con người và xã hội, nó phản lại mọi người và xã hội. Tính cách nguy hiểm và mọi hậu quả khốc liệt của nó đối với xã hội dù trong hoàn cảnh nào, thực tế hay thực chất nào cũng đều chỉ như vậy.
Cho nên khi bất kỳ con người nào viết về điều gì, nói về điều gì, các đức tính trung thực hay phản trung thực của nó đều thể hiện ra trong lời văn, trong chất giọng hay trong cử chỉ điệu bộ. Những người như thế vì ngây thơ, vì bị bắt buộc nên nhiều khi tự lòng mình thì rõ, nhưng bên ngoài cứ mãi đóng kịch, song không hay là không qua mắt được ai mà mọi người đều thấy rõ cả. Văn tức là người, giọng nói hay điêu bộ chính là người. Mọi sự dối gạt tự nó đều lộ ra, luôn luôn khách quan chỉ là vậy.
Nên đọc một bài báo, nghe phát biểu trên ti vi, trong một hệ thống chính trị hoặc xã hội nào đó, những người trung thực, hiểu biết luôn thấy đâu là sự dốt nát hay không trung thực. Không thể lừa mãi mãi được mọi người chính là thế đó. Chỉ những tay mê muội hay khôn lõi mới tưởng người khác ngu còn chính mình mới hay. Sự khác nhau giữa chính trị mê muội và chính trị khôn lõi với chính trị chính danh và chính trị nhân văn cũng là như thế. Chính trị nhân văn và chính trị chính danh luôn luôn lấy sự khai dân trí, sự thông tin đại chúng khách quan làm chính đáng, làm mục tiêu tốt đẹp. Chính trị tà mị, vô nhân luôn chỉ biết lấy sự tuyên truyền dối gạt, sự bạo lực, sự tổ chức hệ thống chặt chẽ, sự cưỡng bức làm yếu tố thành công và tồn tại. Nhưng không có cái gì bất chính mà lại tồn tại mãi được ở đời, đó thật may cũng là nguyên lý hết sức tự nhiên và hết sức chắc chắn trong cõi đời này.
ĐẠI NGÀN
(14/9/13)
Ông HCM có 1 người con trai vẫn còn đang sống. Có thể dùng ông này để thử nghiệm? Hy vọng ông này sẽ không “đột ngột” qua đời.
Đây là giải pháp khả dĩ tốt nhất cho toàn bộ vấn đề hiện nay cuả VN: Giải trừ chế độ Cộng Sản !
Hồ Chí Minh là “đầu mối” và là “nút” quan trọng nhất.
Đảng và Chính quyền độc tài đảng trị vẫn dùng HCM như là bình phong để che đỡ cho sự thối nát, xấu xa bán nước, hại dân.(so với CÔNG cuả Hồ và Đảng thì TỘI bán nước, hại dân vẫn it).
Trí thức XHCN và những người đã có thời đi theo CS… vẫn dùng HCM như là một hình tượng để bênh vực cho quá khứ sai lầm, (để một số người) vẫn tiếp tục theo đuổi …”LÝ TƯỞNG”!
Những người chống đối chế độ hiện nay vẫn phải dựa vào hình ảnh HCM để làm cớ phản kích, mà vô tình hay cố ý không nhận ra chân lý: Không thể lấy quyền năng của Chúa Qủy để trừ quỷ!
Giải quyết rốt ráo cho việc một số người dân do tuyên truyền, do sợ hãi mà họ vẫn còn “thần tượng” HCM hoặc không có hành động dứt khoát với chế độ.
Khi hòn đá tảng HCM bị đẩy sang bên lề và những “rào cản” trong tâm thức trên được gỡ bỏ, chủ nghiã CS tại VN, chế độ đương quyền chắc chắn không còn chỗ dựa, tất phải sụp đổ. Khi đó bạo lực, súng đạn, nhà tù không còn hiệu quả. Những cuộc CM trên thế giới đã chứng minh rằng, chỉ bạo lực không thôi, nó không thể cản nổi sức mạnh cuả Cách Mạng!
“vào năm 1957, Hồ Chí Minh về thăm quê ở xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An mà không đến thắp hương mộ thân mẫu là cụ Hoàng Thị Loan . Trước đó, năm 1945, khi bắt đầu làm Chủ tịch nước, bà chị là Nguyễn Thị Thanh ở quê ra thăm, Hồ chí Minh cũng tránh mặt, không dám gặp” – Tác giả Bảo Giang
Trong khi đó, bè đảng Việt cộng đua nhau xây nhà từ đường, đền thờ tráng lệ cho dòng họ Nguyễn Sinh Sắc với phí tổn lên đến hàng ngàn tỷ đồng, trong khi hàng ngàn trẻ em vùng núi chỉ mơ ước có được một chiếc cầu treo để băng qua sông đến trường mỗi ngày.
trong lúc giao chiến giữa cs và quốc dân đảng đã làm cho nhiều gia đình ly tán , chính vì thế GS hồ tuấn Hùng đi tìm người chú đi theo cs thất lạc mất tích bao nhiêu năm. vì công lý ông ta đi tìm chứ chẳng có lợi gì cho ông ta mà có thể hại nhiều hơn nếu bị csvn kiện ra toà .cái tội láo bôi nhọ cha già kính yêu của dân việt. con người xác thịt có nhiểu thay đổi theo tuổi tác nhưng chắc chắn rằng chiều cao và lổ tai không thể thay đổi được Hồ tập Chương thì cao Nguyễn ái Quốc thì lùn cả hai điều theo cs,làm cùng chung một việc lấy cùng tên kể núp người hiện .ngay cả đảng csvn cũng hờ hẩn vụ việc này mà cũng không ai biết gì về nguyễn Ái Quốc kể từ năm1929 .hơn nữa sau bao nhiêu gian dối tráo trở từ nhiều thế hệ được dạy theo một chiều nên thì thật tai hại. nếu là Hồ chí minh là dân việt là chủ tịch nước thì không thể nào làm ngơ khi trung quốc giết bà Nguyễn thị Năm là người có công cho cs không ai biết rỏ bằng mấy ông đó .cuối cùng sự nghiệp của Nguyễn Ái Quốc chấm dức năm 1932 ,Hồ tập chương đóng vai chính cho tới 1969 ,tại sao đảng csvn không lôi ông Hồ tuấn Hùng ra toà làm minh bạch
Hồ Tặc Chối Tội Với Chị Xuân
Ta lỗi cùng em hỡi Thị Xuân
Dẫu ta có chết đến muôn lần
Vẫn còn đắc tội cùng cô gái
Thằng Đồng thằng Duẫn đã đem dâng.
Thuở ấy chúng gọi ta là bác
Cha già dân tộc được vinh danh
Bắt ta phải đóng vai trò bịp
Suốt cả cuộc đời sống độc thân.
Ta thú thật rằng ta thương em
Thương người ân ái đã bao đêm
Cho ta một đứa con truyền giống
Tình nghĩa đôi ta gắn bó thêm.
Nhưng rồi em bổng nhiên đòi cưới
Trời đất! Ta nghe lạnh cả người
Nếu đảng nghe được là em chết
Quả nhiên, em đã về chầu trời.
Em biết, đảng này đại ác gian
Bọn chúng sai tên Trần quốc Hoàn
Hiếp em rồi giết không thương xót
Xác em chúng vứt ngay giữa đàng.
Rồi chúng dâng ta cô gái khác
Những người con gái thật ngây thơ
Mà chúng gọi là em hộ lý
Chuyên hầu lãnh tụ đảng dâm ô.
Thế rồi lần hồi ta đã khuây
Chìm trong xác thịt ngát hương say
Quên đi cô gái miền sơn cước
Xưa đã cùng ta sống những ngày.
Bây giờ cô độc ở trong lăng
Ta nhớ về em, em nhớ chăng?
Và thằng con trai nay đã lớn
Cho ta xin lỗi mẹ con nàng.
http://fdfvn.wordpress.com