Tổng thống Thiệu triệt thoái Quân đoàn Hai
Gần đây trong một cuộc tiếp xúc riêng với cựu Đại Tá Lê Khắc Lý, Tham mưu trưởng Quân đoàn 2, Đại tá cho tôi biết đã có rất nhiều người hỏi ông: “Có phải TT Thiệu rút bỏ Quân đoàn 2 tại Pleiku giữa tháng 3-1975, giả vờ thua chạy để tháu cáy Mỹ, khiến cho Mỹ sót ruột phải nhẩy vào?”
Cách đây khoảng nửa năm, trong một lần tiếp xúc khác Đại tá có nói ông nghi ngờ TT Thiệu rút bỏ Cao nguyên để tháu cáy Mỹ nhưng thất bại và ông có gợi ý tôi viết về chủ đề này.
Đại Tá Lê Khắc Lý nói ông đã tốt nghiệp Trường Cao Ðẳng Quốc Phòng khóa 4 năm 1972 và đã đi học ở Mỹ nhiều lần, lớp học cao nhất là “Trường Ðại Học Chỉ Huy và Tham Mưu Lục Quân Hoa Kỳ” tại Fort Leavenworth, Kansas (US Army Command and General Staff College). Chính tại trường Chỉ Huy và Tham Mưu Command and General Staff College này, ông đã học nguyên tắc chiến thuật (tactical) căn bản ngoài chiến trường là luôn luôn chiếm giữ “high ground” (vùng cao) để chế ngự các vùng đất chung quanh. Nhưng khi giảng, “thầy” cũng có nói nguyên tắc này cũng áp dụng cho “chiến lược” (strategy) nữa. Trong trường hợp Quân đoàn 2 của ta hồi 1975, ông nghĩ là đúng với nguyên tắc này. Ông cho rằng quyết định bỏ cao nguyên của ông Thiệu là sai lầm. Rôi từ vùng đất thấp là vùng duyên hải sẽ đánh ngược lên để gọi là “tái chiếm Ban Mê Thuột” là chuyện quá khó nếu không nói là “không tưởng.
Tóm lại TT Thiệu đã sai lầm về chiến thuật chiến lược khi ban lệnh lui binh xuống đồng bằng duyên hải để từ đó lên tái chiếm Ban Mê Thuột.
Trên thực tế nhiều người cũng đã nghi ngờ ông Thiệu tháu cáy Mỹ cho rút bỏ Cao nguyên. Khoảng năm 1975,1976 khi chúng tôi ở trong trại tù CS, có một anh bạn tù tin rằng ông Thiệu giả vờ thua chạy đưa tới sụp đổ, thua luôn cuộc chiến.
Sơ lược tái phối trí
Trước hết tôi xin sơ lược về cuộc triệt thoái lịch sử này, dựa theo tài liệu, lời kể của ký giả Phạm Huấn, Nguyễn Đức Phương, các vị Tướng lãnh Cao Văn Viên, Hoàng Lạc, có tham khảo thêm tài liệu phía Cộng Sản. Như chúng ta đều biết, cuộc lui binh này đã bị thất bại nặng, nó là khúc quành quan trọng nhất trong cuộc chiến tranh VN giai đọan cuối. Người ta kết án TT Thiệu đã làm sụp đổ cả hai Quân khu 1 và 2, kế đó sụp đổ miền nam.
Sau ngày Ký Hiệp định Paris 27-1-1973, Quốc hội cắt giảm quân viện mỗi năm khoảng 50% khiến cho miền nam VN lâm vào tình trạng thiếu thốn trầm trọng về hỏa lực, tiếp liệu đạn dược.
Ngày 11-3-1975, Tổng thống Thiệu bàn luận tình hình với Thủ tướng Trần Thiện Khiêm, Đại Tướng Cao Văn Viên, Trung Tướng Đặng Văn Quang. Ông Thiệu cho biết với khả năng hiện có Quân đội VNCH không thể bảo vệ tất cả lãnh thổ, nên phải tái phối trí lực lượng để bảo vệ những vùng đông dân trù phú, quan trọng nhất là Vùng 3 và Vùng 4. Ông Thiệu không lạc quan về Vùng 1 và Vùng 2. Tại vùng 2, Ban Mê Thuột quan trọng sẽ phải chiếm lại, miền duyên hải Vùng 2 giữ được phần nào hay phần nấy.
Ngày 12-3-1975 ngân khoản 300 triệu quân viện bổ túc đã bị Quốc hội Mỹ bác bỏ, ngoài ra họ cũng không chuẩn chi cho năm tới, nghĩa là từ náy sẽ không cho một xu viện trợ nào. Tin sét đánh đã khiến TT Thiệu bị mất tinh thần khiến ông quả quyết tái phối trí.
Ngày 13-3-1975 mất Ban Mê Thuột, hôm sau ông Thiệu bay ra Cam Ranh mở phiên họp cao cấp quân sự, có mặt các Tướng Trần Thiện Khiêm, Đặng Văn Quang, Cao Văn Viên, Phạm Văn Phú, Tư lệnh vùng 2 . Phạm Huấn ghi lại theo lời kể của Tướng Phú: Tổng thống Thiệu cho biết Quốc hội Mỹ cắt quân viện, hủy bỏ những cam kết yểm trợ không lực, lãnh thổ phòng thủ quá rộng nên ta phải tái phối trí lực lượng. Ông cho biết Tướng Phú Tư lệnh Quân đoàn 2 phải rút quân bỏ Pleiku-Kontum về duyên hải, Nha Trang sau đó sẽ hành quân tái chiếm Ban Mê Thuột. Tại Quân khu 2, VNCH chỉ có 2 Sư đoàn bộ binh (22, 23) và 7 liên đoàn Biệt động quân trong khi BV có 5 sư đoàn bộ binh và 4 trung đoàn độc lập ( theo tài liệu CS).
Tướng Phú xin ở lại tử thủ nhưng Tổng thống Thiệu bác bỏ, ông còn cho biết Tướng Phú phải dấu không được cho địa phương, các Tỉnh trưởng Quận trưởng biết, họ phải ở lại chiến đấu. Các vị Tướng lãnh không có ai phản đối trừ Tướng Phú xin ở lại tử thủ. Về buổi họp này Tướng BV Văn Tiến Dũng ghi lời khai của Chuẩn tướng Phạm duy Tất cũng gần giống như vậy, ông Cao Văn Viên cũng ghi lại chi tiết buổi họp cũng gần giống như lời Phạm Huấn.
Trong buổi thảo luận ông Cao Văn Viên cho biết đường quốc lộ 21 về Nha Trang không thể xử dụng được vì đường 14 từ Pleiku tới Ban Mê Thuột đã bị BV cắt, đường 19 nối Pleiku với Qui nhơn Cộng quân đóng chốt nhiều nơi, đèo An Khê bị cắt ở hai phía đông tây, ngoài đường số 7 xuống Tuy Hòa không còn đường nào khác. Đường số 7 tuy tạo được yếu tố bất ngờ nhưng là con đường bỏ hoang cầu cống hư hỏng.
Kế hoạch được hợp thức hoá và giữ bí mật cho tới giờ phút chót. Kế hoạch của Tướng Phú là Liên đoàn 20 công binh chiến đấu đi trước mở đường , thiết giáp đi theo các đoàn xe để bảo vệ, hai liên đoàn Biệt động quân và thiết giáp đi bọc hậu đoàn quân di tản.
Ngày 16-3-1975 đoàn xe bắt đầu rời Pleiku gồm các đơn vị quân cụ, đạn dược, pháo binh, khoảng 200 xe. Tướng Phú và bộ tư lệnh đi trực thăng về Nha Trang, Chuẩn Tướng Phạm Duy Tất lo đôn đốc cuộc di tản, mỗi ngày một đoàn xe khoảng 200 hay 250 chiếc, ngày đầu êm xuôi vì bất ngờ.
Ngày hôm sau 17-3-1975 các đơn vị pháo binh còn lại, công binh, quân y, tổng cộng chừng 250 xe. Khi ấy dân chúng, gia đình binh sĩ chạy ùa theo, làm náo loạn gây trở ngại cho cuộc triệt thoái.
Ngày 18-3 Bộ chỉ huy và ban tham mưu Quân đoàn về tới Hậu Bổn, Phú Bổn, các đoàn xe từ ba ngày trước kẹt lại đây, đoạn đường từ Hậu Bổn về Tuy Hoà chưa giao thông được vì công binh chưa làm xong cầu qua sông Ae Pha. Tối ấy Việt Cộng đuổi theo pháo kích dữ dội gây thiệt hại hầu hết chiến xa và trọng pháo tại đây. Sư đoàn 320 BV đóng tại Buôn Hô, Ban Mê Thuột được lệnh đuổi theo đoàn xe triệt thoái từ 16-3 đến 18-3-1975 vào Phú Bổn rồi tiếp tục đánh phá tới Củng Sơn. Ngày 19-3 một số lính địa phương quân người Thượng cướp giựt và bỏ hàng ngũ trốn đi gây thêm hỗn loạn. Các liên đoàn Biệt động quân, thiết giáp, bộ binh bị thiệt hại nặng, BV cũng xử dụng các chiến xa đại bác của ta bị bỏ lại để tấn công đoàn triệt thoái.
Đoàn quân rời Hậu Bổn ngày 20-3 nhưng chỉ đi được 20 km thì phải đi chậm lại vì Phú Túc phía trước bị VC chiếm, đoàn quân di tản vừa chống trả vừa tiến. Không quân đến yểm trợ nhưng ném bom nhầm vào đoàn quân gây tử thương gần một tiểu đoàn BĐQ, thiệt hại này lại càng gây thêm rối loạn. Tại Phú túc hỗn loạn diễn ra dữ dội. BV đóng chốt, một tiểu đoàn Địa phương quân và Biệt động quân được giao nhiệm vụ nhổ chốt. Khi đến Củng Sơn cách Tuy Hoà 65 km đoàn di tản phải băng qua sông Ba. Trực thăng CH-47 chở từng đoạn cầu lên sông Ba để ráp, ngày 22-3 cầu ráp xong đoàn di tản qua sông theo hương lộ 436 về Tuy Hoà, vì xe cộ quá đông cầu bị sập chết nhiều người phải sửa chữa thêm lần nữa.
Chặng đường cuối cùng từ đây về Tuy Hoà rất cam go vì có nhiều chốt VC, trời mưa lạnh, VC pháo kích đoàn di tản để cầm chân ta. Tiểu khu Tuy Hoà không còn quân để tiếp viện nên đoàn quân di tản phải tự lo lấy, các binh sĩ tiểu đoàn 34, Liên đoàn 7 BĐQ lều mạng lên tấn công các cứ điểm CS cùng với chiến xa M-113 tiêu diệt chốt địch. Ngày 27-3 sau khi thanh toán chốt cuối cùng đoàn di tản về tới Tuy Hoà buổi tối tổng cộng 300 xe (trong số 1,200 xe) mở đường máu về được Tuy Hoà.
Đường rút quân tỉnh lộ 7 lại gần vị trí đóng quân của Sư đoàn 320 BV tại Buôn Hô, Ban Mê Thuột, họ được lệnh đuổi theo ngày 16-3, chỉ hai ngày là đã đuổi kịp. Ngày 18-3 Cộng quân pháo kích phi trường gây kinh hoàng cho đoàn di tản. Lực lượng chiến xa pháo binh dồn đống tại Phú bổn bị thiệt hại nặng tới 70%.
Các kho quân dụng tại Kontum, Pleiku bỏ ngỏ, tất cả quân dụng, vũ khí trị giá 253 triệu Mỹ Kim lọt vào tay CS. Sự thiệt hại về tinh thần còn to tát hơn nhiều.
Theo Nguyễn Đức Phương trong số 60,000 chủ lực quân chỉ có 20,000 tới được Tuy Hoà, 5 Liên đoàn BĐQ 7,000 người chỉ còn 900 người. Lữ đoàn 2 Thiết Kỵ với trên 100 xe tăng nay chỉ còn 13 chiếc M-113.
Ông Cao Văn Viên nói ít nhất 75% lực lượng, khả năng tác chiến của Quân đoàn 2 gồm Sư đoàn 23 BB, BĐQ, Thiết giáp, Pháo binh, Công binh… bị hủy hoại trong vòng có 10 ngày. Kế hoạch tái chiếm Ban Mê Thuột không thể thực hiện được vì không còn quân.
Tái phối trí lực lượng có mục đích co cụm lại vì không đủ lực lượng trải rộng toàn lãnh thổ.
Những nguyên do thất bại chính của cuộc di tản có thể gồm:
-Di tản quá gấp rút, cả một quân đoàn quá đông đảo, đường xá bị tràn ngập xe cộ và người chạy loạn.
-Đường số 7 bị bỏ hoang, cầu cống hư hỏng khiến cho cuộc di tản bị ngừng trệ.
-Dân chúng di tản làm náo loạn mất tinh thần quân đội
-Thiếu chuẩn bị, không lập kế hoạch lui binh vì quá gấp rút
Thực ra cuộc di tản thất bại nặng nề vì xui xẻo, đường di tản lại gần với vị trí đóng quân của Sư đoàn 320 CSBV tại Buôn Hô. Tối 16-3 Văn Tiến Dũng đã điều động, đốc thúc đạo quân này đuổi theo, hai hôm sau họ bắt kịp đoàn di tản tại Phú Bổn và đã pháo kích gây thiệt hại nặng cho ta về thiết giáp, pháo binh. Sự thất bại chứng tỏ ta không có tin tình báo chính xác về vị trí các đơn vị Cộng quân.
Ngoài ra theo lời kể của một một nhân dân tự vệ cùng gia đình từ Kontum di tản trên đường số 7, anh thanh niên này cho biết Pleiku di tản trước nên phần nhiều dân quân đã chạy thoát khỏi cuộc truy kích của Cộng quân. Người dân Kontum ở phía bắc, cách Pleiku 40 cây số khi biết Pleiku di tản thì cũng ùa chạy theo, vì chạy sau họ bị VC đuổi kịp pháo kích dữ dội. Khi ấy đoàn xe dân quân dồn đống dưới một vùng đất trũng. Đạn pháo khiến bụi bay mù mịt, không ai thấy ai chỉ thấy tiếng đạn nổ ấm ầm ghê rợn, người chết vì pháo kích, người bị xe cán nằm la liệt. Theo lời nhân chứng này dân chết rất nhiều, lính chết ít vì họ lanh lợi hơn, biết tránh đạn, nạn nhân đa số là dân Kontum . Ký giả chiến trường Phạm Huấn mô tả đây là một hành lang máu.
Giả thuyết
Ngoài những nghi ngờ của Đại Tá Lê Khắc Lý, Tham mưu trưởng Quân đoàn 2 kể trên tôi xin góp ý thêm về giả thuyết này.
Như chúng ta đã thấy, ông Thiệu lệnh cho cả một đại đơn vị (60 ngàn người) hành quân từ Pleiku xuống Tuy Hòa phía đông , rồi từ Tuy Hòa xuống Nha Trang phía nam, rồi lại từ đó lên tái chiếm Ban Mê Thuột ở phía tây. Chặng đường hành quân hình chữ U rất dài và tốn kém nhiên liệu trong khi ta đang kiệt quệ về tiếp liệu. Kế hoạch không logic lại viển vông cho thấy ông Thiệu có mục đích tháu cáy, giả vờ thua chạy hơn là mục đích quân sự. Việc tái chiếm Ban Mê Thuột theo kế hoạch của ông rất gay go và khó thực hiện trong khi ta đang thiếu thốn về mọi mặt.
Ngoài ra tôi nghĩ ông Thiệu rất chủ quan, ông vẫn tin người Mỹ không thể bỏ Đông Dương. Hạ tuần tháng 10-1972 Tiến sĩ Kissinger sang Sài Gòn thuyết trình cho ông Thiệu biết BV đã nhượng bộ những đòi hỏi chính mà họ đã dai dẳng đòi từ mấy năm qua: Không đòi lật đổ Thiệu, không có Liên Hiệp, Hội đồng hòa giải chỉ hữu danh vô thực… nhưng có điều họ không chịu rút về Bắc. Kissinger tưởng là ộng Thiệu sẽ đồng ý ký bản Dự thảo đã soạn chung với phía BV ngày 9-10-1972, dự định ký 25-10, trước bầu cử Mỹ (7-11-1972). Ông Thiệu chống đối bản dự thảo và chỉ trích Kissinger. Nixon khuyên Kissinger không nên ép Thiệu vì Nixon không muốn Hiệp định được ký trước bầu cử, qua thăm dò Nixon biết chắc sẽ tái đăc cử nhiệm kỳ hai.
Tháng sau 11-1972 và cả tháng 12 ông Thiệu mở chiến dịch trên báo chí đài phát thanh lên án Kissinger và cả Nixon ép VNCH ký bản Hiệp định bất bình đẳng, mục đích để vận động cánh tả, diều hâu bên Mỹ áp lực hành pháp không được ép VNCH . Theo TT Nixon (No More Vietnams trang 152), nếu đòi điều kiện BV rút quân sẽ không có Hiệp định, Hà Nội sẽ không chịu ký. Đó là một điều nguy hiểm, nếu VNCH gây trở ngại hòa bình thì Quốc hội thù nghịch sẽ ra tay giải quyết, họ sẽ ra luật chấm dứt chiến tranh, cắt viện trợ miền Nam, thực hiện rút hết quân để đánh đổi lấy tù binh Mỹ.
Người Mỹ coi việc lấy 580 người tù binh là quan trọng vào hàng đầu, dĩ nhiên đứng trên cả sự sống còn của Đông Dương, TT Nixon, Kissinger, Tướng Haig.. và các nhà học giả nghiên cứu về chiến tranh VN đều nói thế. Cuối tháng 11, ông Thiệu quảng bá tin TT Nixon gửi hậu thư cho Thiệu bắt phải ký Hiệp định Paris mục đích vận động phe diều hâu bên Mỹ ủng hộ miền Nam VN.
“Sài Gòn như nghĩ rằng chuyện tối hậu thư sẽ khiến cánh hữu áp lực tòa Bạch Ốc không bỏ rơi một đồng minh đang bị CS bao vây đe dọa. Nhưng thực ra đó là sự đánh giá sai lầm lớn, câu chuyện không được chú ý tới”
(Saigon apparently assumed that an “ultimatum” story would encourage America’s right wing to apply pressure on the White House not to abandon a beleaguered ally threatened by Communism. It turned out to be a gross and embarrassing overestimation. The Story caused barely a ripple – Marvin Kalb, Bernard Kalb, Kissinger- p. 405).
Từ TT Nixon tới Kissinger, Tướng Haig tới Đại Sứ Bunker đều nhắc nhở cho ông Thiệu biết đừng hy vọng gì vào sự ủng hộ tại chính trường Mỹ, nay diều hâu đã đổi lông đổi cánh biến thành bồ cu hết, Quốc hội thù nghịch chỉ tìm cách xiết cổ Đông Dương. Tại nước Mỹ nay số người còn ủng hộ chiến tranh Đông Dương chỉ còn đếm trên đầu ngón tay trước hết TT Nixon, Kissinger, Tướng Haig và một số phụ tá của Tổng thống và của Kissinger. Người dân và Quốc hội đã quá chán ngấy cuộc chiến sa lầy đến tận cổ. Mặc dù hành pháp Mỹ nhắc nhở TT Thiệu nhưng ông vẫn không tin, ông vẫn chủ quan cho rằng Mỹ không dám bỏ miền Nam, nơi đây vẫn là tiền đồn chống Cộng.
Vì quá chủ quan nên tháng 3-1975 ông đã sai lầm tháu cáy giả vờ thua chạy để Mỹ xót ruột nhẩy vào. Trên đây chỉ là những giả thuyết về việc Tổng thống Thiệu tháu cáy người bạn đồng minh.
Kết Luận
Tuy nhiên không có nghĩa là TT Thiệu tháu cáy sai lầm làm sụp đổ Quân đoàn 2 đưa tới sụp đổ miền Nam. Thực ra sự sai lầm của ông chỉ làm cho miền Nam sụp đổ nhanh hơn dự kiến. Nếu TT Thiệu không thực hiện tái phối trí và để Tướng Phú tử thủ tại Pleiku, chính ông Tướng này đã nói nếu được tiếp viện có thể giữ được một tháng nhưng đó chỉ là hy vọng chủ quan trong khi đạn dược tiếp liệu miền Nam đang lâm vào tình trạng kiệt quệ. Sự sụp đổ cả hai Quân đoàn 1, 2 và cả miền Nam tháng 4-1975, một phần vì sự sai lầm của TT Thiệu và nhất là do hỏa lực yếu kém của ta trước áp lực mạnh, đông đảo của đối phương. Người ta thường nói vì ông Thiệu sai lầm triệt thoái Cao nguyên mà mất nước hoặc nói vì ông Dương Văn Minh đầu hàng CS mà mất miền Nam, vấn đề không đơn giản như thế.
Xin nói sơ về thực trạng bi đát này do hậu quả của việc Hoa kỳ cắt giảm quân viện năm 1974, 75.
-Trước hết trang 92 Cuốn Những Ngày Cuối của VNCH, ông Cao Văn Viên cho biết trong tháng 2-1975 tồn kho đạn dược của tất cả các loại súng lớn, súng nhỏ chỉ còn đủ xài 30 ngày.
-Trước đó hai tháng sau khi Cộng quân chiếm Phước Long ngày 7-1-1975, vài tuần sau vào ngày 24 và 25-1-1975, TT Thiệu gửi thư cầu cứu TT Ford về tình trạng nguy khốn của VNCH. Bức thư này được Tiến sĩ Kissinger nói tới trong Years of Renewal trang 490 như sau.
“Ông Thiệu diễn tả cuộc tấn công này của địch rất qui mô hùng hậu bằng hỏa lực mạnh và thiết giáp. Trái lại quân đội miền nam VN đã phải đếm từng viên đạn pháo để tiết kiệm để còn đạn xử dụng”
(He described the intensity of the North Vietnamese attacks, backed by the “massive application of fire power and armor”. By contrast, the South Vietnamese troops “had to count every single shell they fired in order to make the ammunition last)”.
-Theo Kissinger tháng 1-1975 báo Học tập cùa CS viết về tình trạng khó khăn của VNCH.
“Hỏa lực và sự di động của quân Ngụy giảm mạnh trong quí ba 1974, hỏa lực pháo binh hàng tháng của quân Ngụy giảm ba phần tư (3/4) so với 1973. Số phi vụ chiến thuật hàng ngày của Ngụy giảm chỉ còn một phần năm (1/5) so với năm 1972. Số máy bay Ngụy so với thời ký chiến tranh trước đây giảm 70%, trực thăng giảm 80%…Kho bom đạn Ngụy giảm mạnh và gặp nhiều khó khăn về tiếp liệu, bảo trì, sửa chữa các loại máy bay, xe tăng, tầu thuyền, vũ khí nặng…
Years of Renewal trang 480
Nhận xét của CS về sự thiếu thốn của quân đội miền Nam cũng gần với các dữ kiện trong cuốn NNCVNCH kể trên của ông Cao Văn Viên trang 86. 87. Từ trang 89 tới trang 94 tác giả đề cập vấn đề đạn dược tiếp liệu, từ tháng 8-1974 tới tháng 2-1975 quân đội ta chỉ xử dụng 19,808 tấn đạn hàng tháng chỉ bằng 27% so với 73,356 tấn dùng hàng tháng trong thời gian trước đó, nghĩa là hỏa lực đã giảm 70%!
Trong khi ấy Hà Nội được CS quốc tế viện trợ dồi dào. Giai đoạn 1969-1972 họ được Nga, Trung Cộng và các nước xã hội chủ nghĩa viện trợ 684,666 tấn vũ khí. Giai đoạn 1972-1975 họ nhận được 649,246 tấn hàng vũ khí, số lượng hàng viện trợ của hai giai đoạn tương đương nhau.(Bản tin của BBC.com ngày 5-10-2006).
Theo Kissinger, Hà nội đã xin được viện trợ của Sô viết tăng gấp bội. Thàng 12- 1974, một viên chức cao cấp Nga viếng Hà Nội lần đầu tiên kể từ sau ngày ký Hiệp định Paris. Tổng tham mưu trưởng Nga Viktor Kulikov tới tham dự họp chiến lược với Bộ chính trị BV, nay họ bãi bỏ hạn chế trước đây. Sô Viết đã chở vũ khí viện trợ quân sự cho Hà Nội tăng gấp 4 lần trong những tháng sau đó. Nga khuyến khích BV gây hấn (Years of Renewal trang 481).
Quân khu 2 diện tích rộng nhất toàn quốc gồm 12 tỉnh chỉ có 2 Sư đoàn bộ binh và 7 Liên đoàn biệt động quân bảo vệ là nơi yếu nhất so với các Quân khu khác nên CS đã chọn để tấn công trước. Sư đoàn 23 chịu trách nhiệm cao nguyên, Sư đoàn 22 bảo vệ vùng duyên hải.
Lực lượng BV tại đây gồm 5 Sư đoàn (10, 320A, 316, 968, 3) và 4 Trung đoàn độc lập (25, 271, 95A, 95B), Trung đoàn đặc công (14, 27), chưa kể các lực lương yểm trợ. Tổng cộng khoảng 6 Sư đoàn bộ binh. (Theo Dương Đình Lập, Trần Minh Cao, Cuộc Tổng Tiến Công Và Nổi Dậy Mùa Xuân 1975, trang 90, 91.)
Như vậy dù ông Thiệu không rút bỏ Cao nguyên và giao cho Tướng Phú tử thủ thì cũng chỉ giữ được một thời gian nào đó, có lẽ không quá một tháng vì như đã nói trên miền Nam đã bị kiệt quệ đạn dược tiếp liệu trước áp lực mạnh và hỏa lực áp đảo của địch.
Tướng Phú nói một câu rất anh hùng, ông xin TT cho ông ở lại giữ đất chiến đấu và chết tại đó, nhưng dù ông có chết tại trận địa cũng không cứu được Quân khu, không cứu được miền Nam mà chỉ kéo dài sự dẫy chết thêm hơn một chút.
Trường hợp Tướng Phú đẩy lui được cuộc tấn công của địch tại Pleiku, Kontum…, sau đó ta lâm vào tình trạng hết đạn VNCH cũng sẽ phải xin viện trợ khấn cấp. Thực tế cho thấy hạ tuần tháng 4-1975, Quốc hội Mỹ đã bác bỏ tất cả các khoản viện trợ cho chiến tranh VN. Đảng Dân chủ đã thắng lớn trong cuộc bầu cử Hạ viện tháng 11-1974, họ chiếm 66.9% Hạ viện, gồm nhiều người mới chủ trương chống chiến tranh tới cùng và bác bỏ tất cả mọi ngân khoản quân viện cho Đông Dương. Trên thực tế tại chính trường Mỹ năm 1975 số người ủng hộ chiến tranh VN chỉ còn vài người: Tướng Weyand, Kissinger và TT Ford. Ngay tại nội bộ Hành pháp, các cố vấn, phụ tá của Tổng thống cũng đã căn ngăn ông đừng can thiệp vào cuộc chiến sa lầy. Quốc hội thù nghịch như ta đã biết thái độ của họ rõ ràng là “Sống chết mặc bay”.
Cựu Đại Tướng Cao văn Viên cho biết
“Nghĩ lại việc đã qua, câu hỏi là miền Nam có sống sót nếu chúng ta không áp dụng kế hoạch tái phối trí lực lượng quân sự hay không. Bây giờ nói thì sự đã rồi, nhưng tác giả tin miền nam có nhiều cơ hội hơn nếu không thực hiện tái phối trí. Tinh thần chiến đấu của quân đội VNCH và nhân dân bị hủy diệt là nguyên nhân trực tiếp của kế hoạch tái phố trí. Không có kế hoạch đó, có lẽ quân đội của chúng ta không tan rã nhanh như vậy. Chúng ta có thể mất đi một phần của sư đoàn 23 BB nhưng tất cả những đơn vị khác vẫn còn nguyên vẹn. Dù lấy được ban Mê Thuột Cộng quân vẫn phải ngừng lại, suy tính kỹ trước khi mở một mặt trận mới ở vùng II. Vùng II vẫn còn Sư đoàn 22BB, cộng thêm với một lực lượng tương đương với 2 sư đoàn bộ binh và hai sư đoàn không quân. Vùng II có đủ quân nhu và tiếp liệu để chiến đấu đến hết mùa khô. Không có kế hoạch tái phối trí, tác giả không nghĩ Cộng Sản có thể thành công, đánh nhanh và chiếm được nhiều đất như họ đã làm ở vùng I. Tình hình quân sự nhân lực của VNCH vẫn gặp những khó khăn dai dẳng như trước khi có quyết định tái phối trí: thiếu thốn về quận viện; không còn nhân lực để lập thêm những đơn vị tổng trừ bị. Nhưng ít ra quân đội VNCH sẽ không tan rã nhanh chóng như khi quyết định tái phối trí được thực hiện”. (Những Ngày Cuối của VNCH, trang 134)
Theo ông Cao Văn Viên sau khi mất Ban Mê Thuột ngày 13-3-1975 lực lượng VNCH tại Quân khu 2 còn tương đối đầy đủ, nếu TT Thiệu không cho rút khỏi Pleiku, Kontum miền Nam sẽ có nhiều cơ hội hơn. Sự thực thì chẳng có cơ hội nào cả vì cuộc bầu cử Hạ viện Mỹ thượng tuần tháng 11-1974 đã là bản án tử hình cho cả Đông Dương. Đảng Dân chủ phản chiến đã chiếm đại đa số tại Hạ viện 66.9%, họ nắm giữ túi tiền, họ nắm giữ sinh mạng của cả Đông Dương. Hạ viện đã hai lần trả lời miền Nam xin viện trợ bổ túc tháng 3-1975 và viện trợ khẩn cấp tháng 4-1975 một cách thẳng thừng “Sống chết mặc bay”.
Tôi xin ngược dòng thời gian một chút để vấn đề được sáng tỏ hơn. TT Nixon thắng cử nhiệm kỳ hai tháng 11-1972 với 60% số phiếu bầu, hơn đối thủ McGovern 18 triệu phiếu phổ thông, 530 phiếu cử tri đoàn. Người ta ủng hộ ông vì ông sắp mang lại hòa bình, nhưng họ chống lại ông vì ông còn tiếp tục ủng hộ cuộc chiến VN. Từ sau Hiệp định Paris đảng đối lập và phản chiến tiếp tục chống Nixon. Sự thực ngay từ sau trận Mậu thân khi số người ủng hộ cuộc chiến tụt thang nhanh chóng, số chống chiến tranh lên cao, khi ấy số phận Đông Dương đã bắt đầu ngắc ngoải. Sang năm 1969 khi Nixon lên nhậm chức Tổng thống phong trào phản chiến càng dữ dội hơn trước. Từ 1969, 70..biểu tình tiến tới giai đoạn bạo động, đổ máu, sinh viên bắn cảnh sát, bắn súng đốt nhà, đập cửa kính, ném bom lớp học (No more Vietnams, trang 126-127). Họ chán ngấy cuộc chiến tranh Đông Dương.
Đứng trước sự chống đối ngày càng mạnh của phong trào phản chiến, họ đòi phải ra khỏi cuộc chiến Đông Dương ngay. TT Nixon và Kissinger, người phụ tá cố tìm lối thoát, mở cuộc tấn công qua biên giới Mên, Lào…rút quân về nước để xoa dịu sự chống đối. Nhưng thực ra tình trạng ngày càng bi đát, mọi cố gắng của Nixon và Kissinger cũng chỉ là giải pháp tạm thời, vá víu, nói khác đi chỉ giúp cho Đông Dương và miền Nam sống thêm ngày nào hay ngày nấy.
Sự ngoan cố của Hà nội đã khiến hòa đàm Paris kéo dài tới bốn năm. Mặc dù Nixon đã dội 20 ngàn tấn bom lên Hà Nội, Hải phòng cuối năm 1972 nhưng ông vẫn phải nhượng bộ BV để cho họ được ở lại miền Nam vì bị Quốc hội thúc ép phải ký. Lập pháp luôn hăm dọa ra luật chấm dứt chiến tranh, cắt viện trợ VNCH để đánh đổi lấy tù binh Mỹ. Trước khi ký Hiệp định, các Trưởng ban tại Quốc hội hứa hẹn tiếp tục viện trợ nhưng ký xong, họ trở mặt cắt giảm viện trợ dần dần và trói tay hành pháp. Tháng 6-1973 Quốc hội ra luật cắt bỏ mọi ngân khoản cho việc oanh tạc cũng như mọi hoạt động quân sự khác tại Đông Dương, có hiệu lực từ 15-8-1973. Họ còn đi xa hơn thế, ngày 7-11-1973 ra luật War Power Act hạn chế quyền Tổng thống, trước khi gửi quân ra ngoại quốc tham chiến, TT phải hỏi Quốc hội.
Trói tay hành pháp bằng các luật mới như trên chưa đủ, người ta sợ Nixon sẽ làm liều, làm ẩu cho ném bom B-52 khi BV vi phạm Hiệp định. Quốc hội thù nghịch và phong trào chống đối tìm cách loại bỏ Nixon vì ông vẫn là trở ngại hòa bình. Mặc dù đã ký Hiệp định ngưng bắn nhưng họ thừa biết Nixon và Kissinger vẫn tiếp tục chiến tranh dưới hình thức cưỡng bách thi hành Hiệp định (to enforce the agreement), trừng trị mọi vi phạm của CS bằng B-52, hai người đã lên kế hoạch nghiền nát BV. Khi Nixon đã mang lại hòa bình, họ chống đối hành pháp mạnh hơn trước, hết chống chiến tranh họ quay ra vụ Watergate từ tháng 4-1973, cho tới ngày 8-8-1974 Nixon phải từ chức. Vài tháng sau, 7-11-1974, họ hả hê kéo nhau vào Hạ Viện, Dân chủ phản chiến từ 242 ghế (55.6%) năm 1972 tăng lên 291ghế (66.9%) năm 1974, Cộng hòa giảm từ 192 ghế (44.2%) năm 1972 xuống còn 144 ghế (33.1%) năm 1974.
Nay những người Dân chủ mới, kiên quyết chống chiến tranh Đông Dương đã vào Hạ Viện, số phận của ba nước Việt Miên Lào đã được quyết định rồi. Họ chống bất cứ khoản viện trợ nào cho cuộc chiến sa lầy. Tháng 3-1975, và tháng 4-1975, hai khoản viện trợ Bổ túc 300 triệu và viện trợ Khẩn cấp 722 triệu của VNCH đã bị bác bỏ không thương tiếc.
Trở lại vấn đề đang bàn trên đây, dù TT Thiệu cho rút khỏi Cao nguyên hay không cũng không tránh khỏi sự sụp đổ sau cùng, không bao giờ miền Nam VN còn hy vọng được Hoa Kỳ cấp viện trợ để tiếp tục chống xâm lăng. Ngay cả TT Nixon cũng không thể quay ngược bánh xe lịch sử, người Mỹ đã quá ghê tởm cuộc chiến tranh bẩn thỉu của Hà Nội.
Tác giả Walter Isaacson trong Kissinger, A Biography trang 487có nói “Một khi người Mỹ đã tìm được con đường ra khỏi Việt Nam, cả Quốc hội lẫn người dân đều đã không muốn can thiệp trở lại, dù có hay không vụ Watergate. . . Bất kể có hay không có vụ Watergate, người Mỹ không còn muốn dính dáng gì với Việt Nam”Once America had found a way to disengage from Vietnam, neither the Congress nor public would have permitted a reengagement, with or without Watergate. . . Irrespective of Watergate, Americans wanted nothing more to do with Vietnam).
© Trọng Đạt
© Đàn Chim Việt
Tham Khảo
Phạm Huấn: Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên 1975, Cali 1987
Cao Văn viên: Những Ngày Cuối Của Việt Nam Cộng Hoà, Vietnambibliography 2003.
Hoàng Lạc, Hà Mai Việt: Việt Nam 1954-1975, Những Sự Thật Chưa Hề Nhắc Tới Texas 1990.
Nguyễn Đức Phương: Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập, 1963-1975, Làng Văn 2001.
Nguyễn Kỳ Phong: Vũng Lầy Của Bạch Ốc, Người Mỹ Và Chiến Tranh Việt Nam 1945-1975, Tiếng Quê Hương 2006
Dương Đình Lập: Cuộc Tổng Tiến Công Và Nổi dậy Mùa Xuân 1975, Nhà xuất bản Tổng Hợp T.P.H.C.M 2005
Phạm Bá Hoa: Cuộc Rút Quân Trên Đường Số 7B, Người Việt Dallas 19-3-2004
Hồi Ký Của Trung Uý D: Những Ngày Cuối Cùng Trên Liên Tỉnh Lộ 7B, Người Việt Dallas, 25-3-2005
Henry Kissinger: Years of Renewal- Simon & Schuster 1999
Walter Isaacson: Kissinger A Biography Simon & Schuster 1992.
Larry Berman: No Peace No Honor, Nixon, Kissinger and Betrayal in Vietnam-The Free press 2001
Richard Nixon: No More Vietnams, Arbor House, New York 1985
Marvin Kalb and Bernard Kalb: Kissinger; Little, Brown and company 1974
The Word Almanac Of The Vietnam War: John S. Bowman – General Editor, A Bison-book 1985
Wikipedia: Opposition to the US involvement in the Vietnam war
1/TTKH nỏi tiéng trong văn hộc tiền chiếm về thơ dù chĩ có 4 bài . Và sau này TTKH trơ nê một huyền thoại , Không ai biết tên thật của nử thi sĩ.Có người thi sĩ nhận là “thơ của mình ” tức T(hâm) T(âm) K(hánh) (khánh là tên của nử thi sĩ. ). Nhưng hầu như không ai chấp nhận .
4 bài thơ đó là “1.hai sắc hoa ty gôn 2.bài thơ thứ nhất .3.Bài thơ cuối cùng 4.Đan Áo cho chồng”
2/Bốn câu NTD tự cho là nhại thơ ,nguyên văn như sau:
a/”Thủa ấy lòng tôi PHƠI PHƠI quá ”
b/Hồn trinh nguyên vẹn một LÀN hương.
c/Nhưng rồi nghệ sĩ từ đâu LẠI .
d/Êm ái trao tôi một vết thương” (TTKH).
-”phơi phới” chớ không là “phơ phới” (không có trong tự điển vn)
-”lòng” hay “hồn” đều dùng được nhưng đẻ tránh lập lại nên phải đẻ 2 chử này trong 2 câu a và b.
-làn hương đúng hơn lànG hương.Đúng hơn là sửa lại là LànG hương. Làng là đơn vị hành chánh câp nhỏ của VN (sau lũy tre làng ,làng tôi ). Làng Hương thì chĩ có nghĩa làng đó tên Hương (đúng đầu) như làng Hương Cần /Hương Hóa /Thừa Thiên. LànG còn chĩ một sô người cùng làm một
nghể (như làng chài,làng mọc,làng Hương (làm nhang),làng hoa (ngọc hà /hà nội chả hạn) . NTN chạy trốn vì sợ truy bắt nên núp vào làng Hương…(gì đó) có thể có lý lắm . Vì chỉ có chay trốn ,sợ phát hiện nên mới sáng tinh mơ đã đi và chiều tối mới về !(Làng hương sáng tối đi về). Ong NTD chĩ chửi người khác không uyên bác bằng Ông ,nhưng Ong không giải thích “làng hương” là gì và tại sao lại lànG mà không phải LÀN như thông thường người ta nói (làn gió,làn khói ,làn hương…).Cả làng đều đầy mùi hương (có hương thơm và hương thúi).Cái làng hương đó (hương cả làng ) sớm đi (đi đâu) tối về(về đâu)…hay làng hương đó là chĩ danh sĩ NTN sớm đi lánh nạn ,tối mới mò về làng hương ngủ ?.Câu sau thì phải chăng NTN coi mình như Thái Bạch,và Khuất Nguyên ? Thơ hay và hận cũng hay. Kẻ uống rượu say quá ôm trăng mà chết.Kẻ hận vua không nghe lơi mình nên cũng chết !
Ngoài ra làng hương nếu là làng thì nhỏ quá so vói vnch (vnch= làng /dù là làng hương và dù là ví von theo kiểu văn chương),
Chuyên này đâu có chi phải nói nhiều ,đính chánh lên xuông,tự cho mình đọc thiên kinh vạn quyển,chê mọi người đều “dốt’. Nhưng thực ra chĩ chép 2 câu thơ của NTN xưa đẻ nói là danh sĩ xưa đã viết như vậy thì mình cũng sao chép lại mà không cho độc giã biết là tại sao lại dùng làng Hương mà không phải là làn hương (làng lớn hơn ,nhiều hơn làn chăng. Như vậy LÀNG GIÓ manh hơn làn gió ). Làn Hương không thơm bằng làng hương rồi ! (làng hương còn có thể hiểu nghĩa là nơi các cô gai buôn hương bán phấn tụ họp thành làng (làng chơi !).
Thật ra đâu có cần lên tiếng vói thằng mắng sĩ hố hào và đẻ cho tưvôsĩ xông vào chủi công giáo ,mặc dầu không có dính gì công giáo ở đây !
Theo thiển ý cư coi như TD “NHẠI” Thơ của TTKH để “hạ bệ” VC đi…và nghe TD giãi thích . Đành chịu “dốt ” vậy !Đừng đi quá xa ra ngoài bài đẻ cho bọn luc lâm thão khấu có cớ trở lại ĐCV “xã rác” nữa !
(lvm)
Thưa ,
Theo Nguyễn Hiến Lê ní giải với mạt Dân thì “làng hương” không phải là nơi “chị em” ta tụ hội mà là sự ghép tự từ “làng quê” với “quê hương” thành “làng hương” . ( Cố huơng , làng hương , quê hương ,thổ huơng, quán huơng ….điều là ghép tự … )
Tuy nhiên , cũng theo Nguyễn Hiến Lê, trong ngôn ngữ , nhiều chử ghép tự không được phổ biết và mai một đi. Lâu dần , khi dùng lại , mọi người sẽ nghĩ là viết sai. Nay chỉ còn có chử “cố huơng” là còn phổ biến .
Nay Kính
Con chồn chien đẻ (CCCĐ) Unclefox viết : “…chúng vu oan là lấy ông cha họ đạo làng bên . Lớn lên chúng tưởng thật nên thù oán đạo Công Giáo thậm tệ…”. Aydzà, ba cái “dụ” này nghe có vẻ có hơi hướm “Chuyện dài Vatikeo” đó nghen.
Nhưng trước hết, các con chiên chien đẻ (CCCĐ) hãy can đảm định nghĩa từ công giáo là cái củ gì vậy? Có phải là cái cách giáo dục chung cho mọi con người không? Cái cách giáo dục để cho con người liệt mẹ nó hết trí khôn không dám động não trước những sự thật không? Và để trở thành những con chiên chien đẻ (CCCĐ) gục mặt cúi đầu vất ban thờ tổ tiên vào chuồng heo mấy trăm năm không? Rồi để nghe lời những thằng mắt xanh mũi lõ quay những lưỡi dao đần, ngu vào lưng tổ tiên mình không? Thì chính thằng giám sai Bùi Ghẻ Nhơ (Puguiniez) thú nhận đấy thôi : Không có người công giáo Việt Nam, thì người Pháp (thực dân Pháp) như con cua bị bẻ gẫy càng…) Đó nghen.
Và công giáo có nghĩa là đốt đến “chín rừ” những con người đã sốt sắng dịch những lời “vàng, ngọc” của chúa ra tiếng địa phương không? (William Tyndale 1484-1536 và John Wycliffe 1331-1384)? Còn nữa, có phải công giáo là cúi đầu hôn, liếm giầy cho các “tra” tây mắt xanh mũi lõ không? (Xem Thập Gía và Lưỡi Gươm trang 53 của Mục Sai Trần Tam Tỉnh)
Này các CCCĐ, như thế công giáo có đáng kinh bỉ có đáng thù ghét không? Ấy là chưa kể năm 2000, tháng 3 đăng đàn xin lỗi tòn thể nhơn loài và thú nhận 7 núi tôi lỗi to “vật vã” thì 14 năm sau cả thế giái loài người mà đại diện của nó là LHQ lại phải chỉ thẳng vào mặt cái gọi là “CÔNG GIÁO” tố giác nó chính là thủ phạm tạo tác và bao che cho các CHÚA THỨ 2, tức các “tra” nhà thờ lắp đít con nít trên tòn thể thế giái đó nghen.
Lẽ ra lần này ta bỏ qua cho các CCCĐ vì thấy các CCCĐ đã có vẻ tự chế, bớt đi cái vẻ huyênh hoang, bôi bác nạn nhân là Phật Giáo và Phật Tử, nhưng thấy CCCĐ Nguyễn Trọng Dân ngu đần, dốt nát qúa, ta phải dậy dỗ thôi.
Nhưng nó vẫn ngoan cố một cách liệt não, đã biết sửa sai từ LÒNG THƠ thành HỒN THƠ mà vẫn trâng tráo hỗn hào với người dậy dỗ nó. Nó viết sai chính tả làn hương thành làng hương, nhưng khi được dậy dỗ thì nó lại nói trớ ra là : Ấy là cái làng mang tên miền Nam VN ngày xưa!?!? Sao nó ngu thế? Vì nếu vậy nó phải viết hoa, chứ sao lại viết chữ thường :
Lòng thơ nguyên vẹn một làng hương (nguyên gốc của nó)
Hồn thơ nguyên vẹn một LÀNG HƯƠNG (Nó mới sửa). Sau khi được dậy dỗ.
Và nó bảo là LÀNG HƯƠNG là đại diện cho VNCH nên có “rê (g)”. Việt Nam Công Hòa mà lại biến thành cái làng hử thằng “đít dột”???
Và thê thảm thay, cả LÀNG HƯƠNG con chiên chien đẻ của nó dính “nẹo” và nhau để bênh nó, như vậy không phải là liệt não thì là gì đây hử Allô, Alla ơi? Trời bwwớớớ trời.
Trình độ và tư cách như chúng chiên chien đẻ thì đừng nên tham dự vào những vấn đề lớn nghe chưa?
@Mắng Sĩ
Qua chỉ viết in lên cho trò dễ thấy chứ chẳng có sửa gì cả.
Có sai đâu mà sửa , tại trò dốt quá Qua biết làm sao?
Trò thiệt là quá dốt , đúng là con đẻ “biện chứng” của Khổng Khuyết , dạy trò mãi mà trò vẫn không thông
Làng huơng là lối ghép tự của ông cụ bà ta ngày xưa. “Quê huơng” , “cố huơng” , “thổ huơng” , “quán huơng” , “làng huơng ” ,… etc….điều là ghép tự từ thời xưa mà ra …nhưng rồi , một số chữ bị mai một đi , nay chỉ còn phổ biến có “quê huơng” , “cố huơng ” mà thôi
1. ” Làng huơng sớm tối đi về
Câu thơ Lý Bạch , lời thề Khuất Nguyên ”
( Ẩn danh , đồn là của cụ Ngô Thời Nhậm , cáo quan triều Lê lánh nạn )
2. Thơ xưa miền Nam
“Làng huơng vắng vẽ âu sầu
Quần hồng trôi dạt biết đâu mà tìm!
Phải chăng đáy bể mò kim ,
Mối tình Kim Trọng , chân chim Thúy Kiều ?”
3. Hò cổ xưa miền Nam
Nữ:
“Hò ơ… ,
Nhà em nghèo mái chèo đưa đẩy
Suốt quanh năm mưa nắng chịu dãi dầu
Tía má em già yếu bạc đầu
Làm con em phải phụng hầu trước sau
Tuy thuơng anh sóng nước dạt dào ,
Hò ơ …,
Tuy thuơng anh sóng nước dạt dào ,
Theo anh thì lệ lại trào ( hò ơ )….
Theo anh thì lệ lại trào làng huơng !”
Nam đáp :
“Hò ơ… ,
Nhà bậu nghèo có qua đây giúp sức
Tía má già sức yếu phải phụng nuôi
Thấy bậu đây quần quật ngược xuôi
Làng hương con nước bùi ngùi làm sao!
Nay bậu thương qua sóng nước dạt dào ,
Hò ơ ,
Nay bậu thương qua sóng nước dạt dào,
Thì nỡ lòng nào , hò ơ…,
Thì nở lòng nào bậu lại đuổi (hò ơ)…. lại đuổi qua …đi.”
Cho nên “làng huơng ” đã dùng trong thi ca , hò xưa nhưng mai một đi mà thôi , đến nay không ai còn biết đến nữa
Qua đã nói rõ với trò rồi , kim trò cũng dốt , mà cổ thì trò cũng mù tịt , cứ cả ngày múa máy cố lên bi lấy le với bà con lối xóm mà đâu ngờ lòi dốt…NGU QUÁ LỢN!
Merci DCV
Mấy câu thơ trích ở trên hay thiệt , đúng là tuyệt tác !
” Làng huơng sớm tối đi về
Câu thơ Lý Bạch , lời thề Khuất Nguyên ”
Hương thơm mơn mởn làn da
Trọng Dân cảm mến la cà Làng Hương
Khiến chàng lòi sỉ ghen tương
Buông lời mắng chửi như phường du côn
Tôi thấy người theo đạo Công Giáo họ cũng hiếu kính cha mẹ ông bà tổ tiên . Hàng ngày họ đọc kinh cầu nguyện xin Chúa Trời của họ tha tội cho người đã khuất, mau sớm đưa những người ấy về cõi phúc . Chúa Trời của họ dù mắt xanh mũi lõ, màu da khác biệt nhưng dạy điều lành .
Còn Kụ Hồ nhà tôi mà những tên như Mắm Xí tôn vinh thì rước mấy thằng mắt xanh mũi lõ, những thằng Tầu xập ngầu xập xí về tàn phá quê hương đất nước, hậu quả không biết bao giờ mới chấm dứt .
Cũng như Kụ Hồ, Mắm Xí không nhận bố mẹ tổ tiên . Có cha đẻ là ông Khổng Khuyết mà chửa bao giờ dám kêu bằng bố . Bởi nhẽ hắn luôn hoang tưởng người bắn ba dòng thác cách mạng vào hang Pắc Bó của mẹ hắn là một con chien đực, nên càng lúc hắn càng cà tửng nom tức cười đéo chịu được !
Hỏng biết. Cái con mẹ Tư Võ SĨ nó nói cái gì mà BÀ GIÀ GÂN tui tìm muốn bể kiếng cận
luôn mà hỏng thấy để đọc coi nói nói cái gì mà bị diễn đàn này ném đá nó quá chừng
đi hổng biết nữa. Chỉ thấy đá ném tơi bời mà hổng thấy nạn nhân. kỳ quái qúa héng ?
Thôi thì xin nhắc lại chuyện NGƯỜI ĐÀN BÀ HAI NGÀN NĂM VỀ TRƯỚC bị ném đá vì
tội ngoại tình thì …..AI NGƯỜI VÔ TỘI ……HÃY NÉM ĐÁ ĐI …AI NGƯỜI VÔ TỘI ….
HÃY NÉM ĐÁ ĐI.. …HÃY NÉM ĐÁ ĐI ….NÉM ĐI …NÉM ĐI ….NÉM CHO CHẾT …MẸ NÓ ..
LUÔN ĐI ….NÉM CHO CHẾT MẸ CON MỤ TƯ VÕ SĨ LUÔN ĐI …
Mà hình như nó đã chết mẹ nó rồi,không thấy nó xuất hiện nữa rồi.
Đây là ý kiến riếng của Bà Già Gân tui. Mong BBT cho đăng .
Có nhiều người hỏi tại sao BBT Danchimviet lại cứ cho đăng ý kiến của những thằng mất dạy như Mắm Xí, Tư Vô Sỉ, Hô Vê Rằn Mặt, Thắc Mắc Thú Sình vv … như thế . Nghe đâu bởi vì nếu không cho đăng bọn hắn sẽ ném cứt trộn nhớt vào toà soạn như chúng từng ném vào nhà các ông bà Hoàng Minh Chính, Trần Khải Thanh Thuỷ, Bùi Thị Minh Hằng .. trước đây vậy .
Tuy nhiên bọn khốn nạn này xét ra cũng đáng thương hại . Xưa kia, thời chống Mỹ cứu Trung quốc, mẹ chúng nuôi giấu cán bộ Việt Cộng trong nhà rồi dan díu thông dâm đực cái nên mới đẻ ra bọn chúng . Khi sự việc đổ bể, vì sợ chính quyền Quốc Gia bắt tội nên mẹ chúng vu oan là lấy ông cha họ đạo làng bên . Lớn lên chúng tưởng thật nên thù oán đạo Công Giáo thậm tệ .
Chúng có biết đâu cái bản mặt lưỡi cày, hàm răng vẩu đặc trưng của các đồng chí Vi_xi, cộng thêm nét dị dạng do chất độc khai quang của Mỹ thì làm gì có thể do tinh trùng của ông Cố đạo tạo thành cho được ?
Ơ..thằng tư..hộ lý nào nữa đấy! chế độ ưu việt của đảng ta bồi dưỡng cho con em bằng đồ thiếu phẩm chất thế nên thước tấc của các em chưa đứng tới thắt lưng của người khác thì cứ tiện…mồm mà xử lý cái…trước mắt. Việc gì phải.. gọi thầm tên anh khi lắng chiều nhạt ngoài sân thế nhở?
Cho anh gửi lời chào văn hóa đến gia đình của các em.
Người anh em B52.
@Tư Võ sĩ says:”. . . .lộng hành ngự trị thì phải chịu thua t”
Cái gì kì cục vậy trời?
Mới xưng ngon Sĩ. . .Mắng người ta om sòm một cách. . .trật lất, bị mắng lại rồi mếu máo. . .im re.
Còn Võ Sĩ, lại. . .Sĩ nữa! Vừa mới. . . bò lên võ Đài. . .Chim Việt rồi tuột xuống nói chịu thua là sao?
Anh Tư Võ sĩ chơi vậy hỏng có. . .phe đâu nha, ít ra anh cũng phải ra vài chiêu võ. . .con cua hay con rùa gì đó cho bà con thưởng thức chơi chứ, phải không anh Tư?
Nói thiệt anh Tư đừng cười, tui chỉ là nhân dân Tự vệ, mà mổi lần gỏ gỏ cái keyboard thôi cũng run thấy mụ nội rồi chứ đừng nói là. . .nhập nội, đá song phi!
Nhưng cũng nói thiệt với anh Tư, tui có cái tật. . . ghét. . .chơi ăn gian kiểu du kích du nick rình rình bên bụi rậm nầy bắn. . .phẹt phẹt vài cái, núp sau hè nhà dân bên kia. . .sịt sịt vài cái cho nên đôi lúc tui “bức súc” lở tay. . .bái dóp cho hả giận vậy mà.
Thôi, dù sau mình cũng “đồng hương” mà anh Tư, ở lại chơi cho. . .dzui anh Tư à!
Nghe thấy thương quá…
Má em mà nghe em…mắng chửi, sỉ vã như thế này, chăc bả cũng phải…chịu thua em…
Con hơn..má, nhà thiệt có phước.
Xưa nhà em ở sâu trong khu…ngã ba Chùa chắc?
Chúc em may mắn, lúc nào cũng…chửi được thành công…
Nickname ‘Tư Võ sĩ’ nghe cũng lạ tai, nhưng văn ngôn nồng nặc mùi hôi thúi của loài chồn hôi thì chẳng che dấu được ai!
Chồn hôi suốt kiếp chồn hôi
Cố tình giả dạng cũng nòi đuôi ra
Loại rùa cũng giống ba ba
Loài ngư ăn phẩn cá tra cá vồ
Việt gian là lũ giặc hồ
Công an một thứ côn đồ lưu manh
Dùi cui roi điện lộng hành
Chó săn hung dữ cũng đành vô niêu
Chào ông Tư Võ Sĩ
Tui nghĩ rằng, “võ sĩ” là người có học thức và đã được trau dồi “Đức, trí, dũng” thì chỉ biết tôn trọng sự thật và chỉ nói những điều thật thà, không a dua bè đảng với những kẻ côn đồ, du thủ du thực, hoặc là những kẻ vô văn hoá phát ngôn những ngôn từ “địt đéo” giống như tên Mắng sỉ (dấu hỏi). Ấy thế mà ông Tư lại cùng một giuộc với hắn, văn phong đen thùi lùi và tanh tưởi, đầy thù hận thì rõ ràng ông cũng thuộc loại “vỏ sỉ” bất nhân vô đạo?
Những ngôn từ mà nhóm Chưng Sơn, Nắn sỉ, cuồng tín, Hôva Rành Mạch, Giải Magsaysay Phét Dổm, Thư sinh théc méc, sử dụng rất tanh tưởi, đầy hận thù và xúc phạm tôn giáo. Người bình thường tử tế thì không ai chấp nhận được!
GS Trần Thủy Tiên đặt câu hỏi; “Tại sao những người Tốt không đoàn kết lại để chống bọn Xấu? Và rất ít người Tốt nhưng có Sĩ Khí, lên tiếng cho Lẽ Phải, ngày nay… Họ thường im lặng cho yên thân, bỏ mặc đồng đội“.?
Tôi (Trực Ngôn) đã góp ý ngày 29/08/2014 at 13:17 như thế này;
“Kẻ xấu biết kết bè kéo cánh, bu chung lại với nhau để tấn công người tốt. Còn ngưòi tốt như BBT của ĐCV.Info thì thường im lặng, để cho kẻ xấu lợi dụng ĐCV như diễn đàn hoang, mặc sức tung hoành phỉ báng, khích bác đạo Chúa và miệt thị bạn đọc, tín đồ TCG!…../….Câu nói của GS Trần Thủy Tiên rất đáng cho chúng ta suy nghĩ?”
HÙNG says: 29/08/2014 at 22:24 : “Hê, hê, gã Chưng Sơn nổi đóa lên thì xì cái vô văn hóa, thép kém của mình ! Cái nền ráo rục XHCN nó ưu việt là vậy “.
LONG says: 29/08/2014 at 22:34, “Sao không “nắn” mấy thằng ” bán nước ” như HCM ?? Sau vụ giàn khoan dân VN đi đâu cũng bàn vụ BÁC ….BÁN Hoàng Sa ỏm tỏi. Nhục nhã cái thằng chuyên hiếp dâm nhi đồng !”
Bin La làng says: 30/08/2014 at 00:32 , “Vì rằng Chưng Sơn-Nắn Sĩ-Chuẩn Sĩ-Mắng Sĩ-Hôva Rành Mạch-Nguyễn Trung Thực… đều là con đỡ đầu của họ. Đã là con cưng thì ai lại đi cấm cửa chúng làm gì.”
Trong còm của ông tôi chỉ gạn lọc được câu này, (chúng thành) “quỷ mất rồi, không còn lý trí,không còn có thể cứu vớt được nữa đâu. Chúng không còn biết tự trọng,lễ nghĩa,liêm sĩ,tôn ti trât tự là gì…/…Chúng rất sợ nói về thực chất của bọn chúng.
Những sự thật về những cái điều nhảm nhí,quái gở đang u mê chúng, Chúng sợ lắm….“. (Câu trên rất đúng với ông và nhóm chuột cống chui ra từ giáođiểm, sáchhiếm)
Ông viết tiếp: “Tôi đã từng vào diễn đàn này vài lần,nhưng đành chịu thua chạy dài,vì hình như trang Web này dành nhiều ưu tiên cho những bài viết ý kiến mất đạy của chúng lắm. (Đụng đến chúng,có thể ý kiến này sẽ không được đăng). Thôi thì thời đại này của Ma (Ghost) Quỉ (God) lộng hành ngự trị thì phải chịu thua” (sic)
Ông nói đúng một phần, Web ĐànChimViệt này dành nhiều ưu tiên cho những bài viết ý kiến tử tế. Còn những lời lẽ mất dậy của ông và đám chuột cống (tanh tưởi, vô nhân) thì khó có thể được chấp nhận cho hiển thị.
Vậy mà nó vẫn được đăng lên ĐCV làm bẩn mắt bẩn tai mọi người! Tui nghĩ, một khi BBT đã cho đăng lên thì hẳn là họ đã cân nhắc kỹ, vì có những còm bẩn thỉu tanh tưởi vô văn hoá của các ông thì các ý kiến nhân bản kia càng tăng thêm giá trị, và để cho bạn đọc thấy được người tốt kẻ xấu?
Gởi tới mẹ của Tư Võ Sĩ ,
Mình ơi ,
Từ hôm ăn ở , đè nhau theo tính biện chứng do tổ chức cơ cấu tới nay , không ngờ thằng con của đôi ta , Tư Võ Sĩ đã lớn khôn biết đọc biết viết. Lời văn có nét ngu ngu giống mình , có cái láo láo cách mạng giống Khổng Khuyết tôi.
Lúc ấy, bởi chiến trường quá nóng , Khổng Khuyết tôi phải từ giã đi ngay , nhưng vẫn nhớ rõ , dù đôi ta bên chuồng Lợn của tập đoàn , nhưng người mình thơm từ đầu đến chân …, bao nhiêu năm , lòng Khổng Khuyết tôi vẫn muôn bề ray rứt…dù đã tối bảy ngày ba , vào ra chưa tính với mình (bên chuồng Lợn) mà đến nay , vẫn cãm thấy còn chưa đủ tâm cao của nhu cầu .
Khi vào Nam , Khổng Khuyết tôi đi cùng với đồng chí Nữ , chị ruột của mình , do tình hình Cách mạng cấp bách , phải gần nhau nên Khổng Khuyết tôi có thêm đứa con mang tính biện chứng là Mắng Sĩ , cũng có nét ngu ngu của hai chị em , có cái láo láo cách mạng của Khổng Khuyết Tôi.
Nay Khổng Khuyết tôi viết mấy lời kể lễ này , mong mình mỗi ngày vẫn lấy cây chọt lỗ đít…”LỢN” như Chung Sơn , đứa con mà mình sanh đôi với thằng con Tư Võ Sĩ sau ngày ấy …, cho tập đoàn sản xuất được thành công thắng lợi !
Khổng Khuyết