Câu đối thời cận đại [4]
… Đến thời cận đại, trong vòng vài ba thế kỉ cuối của thiên niên kỉ thứ 2, câu đối đã phát triển, nâng lên về chất và số lượng. Rất nhiều văn nhân, nho sĩ tham gia thưỏng thức và sáng tác bao gồm cả nam nhân cùng nữ nhân. Người viết bài này không thể kể hết tên những tác giả, tác phẩm câu đối đã đi vào dân gian, được ghi vào sử sách. (hẹn một dịp khác). Bài viết này chỉ giới thiệu một nữ tướng lừng danh Văn chương , Thi phú và Câu Đối: Hồng hà nữ sĩ Đoàn Thị Điểm – người đã dịch Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn từ Hán văn sang chữ Nôm để phổ cập rộng rải trong dân gian.
Theo từ điển Wikipedia: Bà Đoàn có biệt hiệu Hồng Hà Nữ Sĩ, người xã Giai Phạm, huyện Văn giang, tỉnh Bắc Ninh. Sinh dưới triều Lê (1705) cùng thời với cống Quỳnh và Đặng Trần Côn.
Đoàn Thị Điểm – tư chất thông minh, học một biết mười, nổi tiếng văn chương ngay từ khi còn nhỏ. Mới lên sáu, đã học sách sử trung hoa cổ, lịch sử cuộc đời Hán cao tổ – (vị vua nổi tiếng lập ra vương quốc Hán 2 nghìn năm trước , là nước Trung Quốc – hôm nay…)
Anh ruột bà là Đoàn Doãn Luân thấy em thông minh, ra một câu đối để thử xem sức học của em:
Bạch xà đương đạo, Quý bạt kiếm nhi trảm chi.
(Rắn trắng chặn đường, ông Quý (tên tục vua Hán cao tổ) tuốt gươm mà chém nó. (1)
Cô em đối ngay:
Hoàng long phụ chu, Vũ ngưỡng thiên nhi thán viết.
Dịch: Rồng vàng đội thuyền, vua Vũ trông trời mà than rằng…
Năm 15 tuổi, một buổi tối, ông Luân xuống ao rửa chân, thấy em đương soi gương bên cửa sổ, tức cảnh ông đọc vế ra:
Đối kính hoạ my, nhất điểm phiên thành lưỡng điểm.
Dịch: Soi gương kẻ lông mày, một chấm (điểm) hóa ra hai chấm.
Điểm là chấm, là nét vẽ, lại là tên em gái, câu nói của ông anh, có nghĩa: Soi gương vẽ mi – một nàng Điểm thành hai nàng Điểm.
Bà ứng khẩu đối ngay:
Lâm trì ngoạn nguyệt, chích luân chuyển tác song luân.
dịch: Tới ao ngắm trăng, một vầng trăng hóa hai vầng trăng.
Luân là ví mặt trăng tròn, lại là tên anh trai. Trăng sáng in hình xuống ao. Anh trai dưới ánh sáng của trăng, in xuống nước cũng thành ông Luân khác – (một trên bờ, một dưới nước).
Bấy giờ ở kinh đô có bốn danh sĩ thường được tôn là Tràng an tứ Hổ:
– Nguyễn Duy Kỳ, người Thuỷ nguyên, Kiến an;
– Trần Danh Tân, người Cổ am, huyện Vĩnh bảo, Hải dương;
– Nguyễn Bá Lân, người Cổ đô
– Vũ Toại, người Thiên lộc
Nghe danh nữ sĩ, bốn người rủ nhau tới nhà bà để so tài. Biết đây là những người háo danh, bà suy nghỉ chín chắn rồi ra một câu đối để thử tài “bốn… Hổ”:
Đình tiền thiếu nữ khuyến tân lang.
(Trước sân, thiếu nữ mời ăn trầu).
Tân lang là biểu tượng trầu cau, cùng âm với tân lang là chàng rể mới.
Bốn “hổ” không đối được đành lẳng lặng “chuồn”!
Theo truyền thuyết: Trạng Quỳnh cùng thời với Đoàn Thị Điểm cũng lừng danh về trí thông minh, tài đối đáp “nỡm” thiên hạ từ bé. Khi cha dẫn đến nhà thầy xin cho vào học – thầy đồ chính là cha Đoàn Thị Điểm. Nhìn tướng mạo cậu học trò, thấy biết đây cũng sẽ là danh tài, có ý thử, gọi Quỳnh vào, Quành xưng tên và nói mình là nho sinh muốn theo học nhưng thiếu người tiến dẫn nên không dám đường đột.
Thầy đồ bảo: Anh nhận là nho sinh có lòng hiếu học, nếu quyết muốn học thì ta ra câu đối này, đối được ta sẽ cho nhập môn. Quỳnh xin vâng. Ông đồ đọc:
Thằng quỷ ôm cái đấu đứng cửa khôi nguyên.
Trong tiếng Hán, chữ Quỷ ghép với chữ Đấu, thành chữ Khôi – là khôi nguyên – (trạng nguyên). Quỳnh suy nghĩ rất nhanh rồi đáp liền:
Con mộc tựa cây bàng dòm nhà bảng nhãn.
Tiếng Hán chữ Mộc chắp với chữ Bàng thành chữ Bảng – là bảng nhãn (đọ đứng sau trạng nguyên). Thầy đồ khen ngợi Quỳnh nhận vào học.
Thầy có cô con gái tên là Đoàn Thị Điểm, đẹp người, đẹp nết khiến Quỳnh mê tít, chỉ tìm cách xán lại hòng tán tỉnh người đẹp… Cô Điểm đoan trang luôn ngăn cản “ý xấu” của Quỳnh nên thường chặn Quỳnh bằng những cuộc so tài, đối đáp. Rất nhiều cuộc thi bằng câu đối, Quỳnh thường bị thua. Một ngày từ phòng học Quỳnh nhìn qua cửa sổ sang phòng cô Điểm, thấy nàng vén rèm cửa sổ ngồi trước bàn. Hai cửa sổ trông thẳng sang nhau. Quỳnh mở lời tán xin qua bên ấy chơi. Điểm bảo: Nếu đối được vế này sẽ mở cửa mời qua, Quỳnh nhận lời. Điểm đọc:
Hai người ngồi hai bên cửa sổ song song.
Chữ song tiếng Hán là hai, đồng âm với chữ song tiếng Nôm là chấn song cửa sổ. Song song tiếng Hán có nghĩa là 2 cửa sổ lại đồng âm với “song song” là sóng đôi nhau. Quỳnh lại “tịt”.
Nhân một lần Quỳnh ra phố Mía trở về, khoe gặp cô gái tên Mật, ra vẻ ngầm nói: Ta đây không ”thiếu” gái theo… Nàng Điểm hiểu thâm ý của anh chàng, ”nổi tam bành”, bảo: Gặp người đẹp, vui thế, có dám đối không? Quỳnh đang vui, thách đố. Điểm đọc ngay vế ra:
Lên phố Mía, gặp cô hàng Mật, cầm tay Kéo lại hỏi thăm Đường.
Kéo lại là hành động khi hỏi ai đó mà họ đang bận không có thời gian tiếp, trả lời. Nhưng kéo cũng có nghĩa là đường của Mía làm thành một loại dân gian gọi là Kẹo kéo (2). Vế ra rất ”ác” , khó cả về từ ngữ và ý nghĩa, bởi vì tất cả những từ liên quan đến Mía, nguyên liệu làm ra Mật – đã được người ra vế xử dụng hết: Mía – Mật – Kéo (kẹo) – Đường. Quỳnh nghe xong vã mồ hôi mà vẫn bí… tắc – đành lẳng lặng chuồn ngay.
Một lần khác, thấy Điểm vào buồng tắm, Quỳnh lại chứng nào tật ấy, si tình đến táo tợn: Đòi vào tắm cùng. Nàng Điểm lại cho một bài học khác bằng câu vế thách đối:
Da trắng vỗ bì bạch. (câu này được diễn giải ở nhiều tài liệu, nhiều lần). Quỳnh lại phải chào thua và…“chạy”!
Một lần giáp Tết, Quỳnh đi tới nhà thầy gặp trời mưa ướt lướt thướt. Điểm đang ngồi gói nem, lấy một đĩa mời Quỳnh ăn. Quỳnh đáp: Chả thích nem, chỉ thích giò thôi!
Câu nói ỡm ờ của tay trai lơ si tình ngầm ý: Tôi chả muốn ăn nem, chỉ muốn “ăn”… giò (đùi) – nghĩa là muốn chiếm lấy thân thể của cô gái! Đến câu này thì Điểm thực sự nổi giận, nàng suy nghĩ giây lát, bảo: Nếu đối được câu này thì muốn “ăn” gì cũng cho, đoạn đọc:
Trời mưa đất THỊT trơn như MỠ,
GIÒ, MỌC, NEM, NINH, CHẢ muốn ăn !
“Giò” đồng nghĩa với đi lò dò, đồng âm với Giò Lụa, Giò Thủ và… “giò” (đùi).
“Chả” là chẳng, lại cũng có nghĩa là thức ăn từ thịt lợn (chả nem, chả giò, chả quế). Vế đối có cả “Thịt, Mỡ, Giò, Nem, Ninh, Mọc, Chả”, là những món ăn ngon, qúy trong bữa tiệc của dân ta thời xưa, nhất là bốn món: Giò – Nem – Ninh – Mọc đã được tổng kết đưa vào món bắt buộc của bữa tiệc linh đình (Nem Công – Chả Phượng) của giới giầu sang thời xa xưa….
Câu vế ra của nữ sĩ, các từ đã bị dùng hết. Ông trạng tương lai đành phải chào thua và “lủi” nhanh!
Sau nhiều lần thất bại, Quỳnh căm lắm tìm cách “chơi” lại đối thủ.Nhưng vắt óc mà không ra kế. Tình cờ nhân một tối đi qua phòng “nàng”, thấy cửa không khóa, Quỳnh nghĩ ra một trò tinh quái… hi vọng sẽ làm Nàng xấu hổ – để trả thù…
Đoàn Thị Điểm đi đâu đó trở về, tắt đèn lên giường ngủ. Chợt sửng sốt suýt rú lên vì tay sờ thấy “một vật”… cương cứng, nóng hổi – nghĩ ngay ra đó là của… người và kẻ nằm trên giường kia là ai? Nàng trấn tĩnh lại, lên giọng: Ta biết ngươi. Ta sẽ ra một vế đối, nếu không đối được sẽ mách thầy, đối được thì tha cho. Quỳnh nhỏm dậy run rẩy xin hứa. Nàng đọc:
Trướng nội vô phong phàm tự lập .
Dịch: Trong phòng không có gió mà “cột buồm” lại dựng lên!
Sợ hết hồn, cũng may trước “cửa tử”, Quỳnh đối được :
Hưng trung bất vũ thủy trường lưu.
Dịch: Trong bụng không có mưa mà nước cứ chảy dài.
Sau nhiều lần quan sát, tiếp xúc, nàng Điểm thất vọng về Quỳnh… Nhân một lần thầy sai Điểm mang lễ lên chùa, muốn tạo cơ hội cho trò yêu, Quỳnh được thầy cho theo cùng để bưng lễ. Khi đi trên đường cái quan, thấy rặng cây xương rồng được người mới trồng nhưng khô héo, rũ gục, Điểm chi đám cây, hướng vào Quỳnh, đọc:
Cây xương rồng, trồng đất rắn, long lại hoàn long
Rồng – chữ Hán là Long.
Long – chữ Nôm nghĩa là lỏng lẻo (hỏng).
Điểm có ý bảo Quỳnh: Tính cách ngươi như vậy thì dù có học hành, có được răn dậy, cuối cùng cũng sẽ không chuyển được, hỏng cứ hoàn hỏng thôi !Ý nghĩa của vế ra rất xâu xa, Chữ dùng hầu như đã hết, khóa chặt ở hai đầu. Trước sự chê trách của người đẹp, Quỳnh đã xuất thần đọc được vế đối – vẻ cù nhầy:
Quả dưa chuột, tuột thẳng gang, thử chơi thì thử
Thử chữ Hán nghĩa là chuột.
Thử chữ Nôm là thử xem. Cả 2 chữ : Chuột (Nôm) – Thử (Hán). thử (Nôm) – con chuột – qủa dưa gang, đã đối rất chỉnh khiến Quỳnh không mất mặt trước cuộc chơi. Câu đối của Quỳnh mang ý nghĩa thách thức: Ừ đấy! Ta cứ thế mà vẫn chẳng sao đâu. Không tin hãy (thử) chờ xem!
Còn có giai thoại kể rằng khi sứ của phương Bắc sang nước ta, sau khi công việc đã xong họ đi dạo thăm thú kinh đô của nước “Man di”, nghe người dẫn đường nói: Có một tửu điếm rượu ngon, thức nhắm tốt, người chủ là một phụ nữ đẹp lại hay chữ. Sứ giả Bắc phương muốn đến thử tài.
Bước vào quán thấy một phụ nữ xinh đẹp (thực ra bà Đoàn được “Cấp trên” bố trí sẵn trong vai chủ quán…). Sứ Tàu vào, bà tiếp khách ân cần niềm nở.Vốn sẵn tính ngạo mạn, khinh thường dân “ngoại bang”, một “chú Sứ” – áng chừng đầu đàn về văn chương – buông câu miệt thị, thăm dò:
An Nam nhất thốn thổ, bất tri kỷ nhân canh.
Dịch: An Nam một tấc đất, không biết bao nhiêu người cày
Câu đối vế ra mang ý nghĩa tục tĩu, xấc ngạo và chọc ghẹo (3). Biết đây là những kẻ hợm mình, lại quyết tâm giữ thể diện cho quốc gia như “nhiệm vụ” được giao, bằng tài năng trác tuyệt, Bà Đoàn đối ngay không cần kiêng dè, nể nang:
Bắc quốc chư đại phu, giai nho thử đồ xuất.
Dịch: Nước Bắc (Tàu) các vị đại phu, hết thảy đều do chỗ ấy mà chui ra cả.
Câu đối đáp còn tục hơn câu ra đề – như cái tát vào mặt kẻ phàm phu tục tử vô lễ. Các Đại phu bị nhục nhưng phải tấm tắc khen văn tài của nữ chủ quán. Bà Đoàn đã dậy cho bọn ngoại bang láo xược bài học lễ độ, lịch sự khiến chúng bị đau đến độ mất mặt mà vẫn phải tâm phục, khẩu phục. Các đấng “Mày – Râu” ngoại bang tưởng rằng đàn bà nước Nam yếu đuối, sẽ xấu hổ khi họ nhắc đến điều mà nữ nhi thường tình chi dám đối đáp trong phòng the với người đàn ông của mình.
Ai ngờ – họ nhầm to, chuốc lấy thất bâi thảm hại !
Phụ nữ thượng lưu giỏi như vậy đã đi một nhẽ. Nhưng phụ nữ Việt trong dân gian cũng đâu có kém ai. Lấy một thí dụ được dân gian truyền tụng: Một ngày, có hai thầy trò nhà sư – một sư Bác, một chú Tiểu – đi trên đường cái quan qua một làng Đình Bảng (huyện Từ Sơn ) ngày nay. Họ nhìn thấy một nữ Canh điền (Người đàn bà thợ cầy) cùng một con trâu… cái – đang cặm cụi làm cái việc nặng nhọc (cầy ruộng) mà địa phương khác chỉ dành cho đàn ông (4). Vốn gốc là nho sinh, vẫn còn nặng lòng trần tục nên chỉ có ý khoe tài văn chương chứ không có ý miệt thị người phụ nữ nông dân, Sư Bác tức cảnh đọc:
Nhất ngưu, nhất thửa, nhất canh điền.
Chú tiểu cũng biết chữ, lại mới vừa vào chùa làm Tiểu tăng, vẫn còn đang vương vất mùi trần tục nên vui vẻ, hăng hái nối:
Nhất lôn hướng hậu, nhất lôn tiền.
Dịch nghĩa: Một con trâu, một mảnh ruộng, một người nữ thợ cầy. Một l… hướng về phía sau (con trâu cái), một l… lại hướng về phía trước (Nữ canh điền).
Chị Canh điền mồ hôi nhễ nhại, mồm đang “Vắt” … “Đi” – dục trâu. Thấy hai vị “con Phật” có thái độ khoe khoang văn tài, không đàng hoàng. Vốn là con gái một thầy đồ, cha chết, gia cảnh bần hàn phải tự kiếm sống, nghe họ trêu trọc, chị vội “họ” trâu lại, ngẩng lên, lau mồ hôi trán, nhìn chăm chăm Sư Bác và chú Tiểu. Hai vị chột dạ sợ chị nông dân nổi sùng. Nhưng không – nữ canh điền cất giọng từ tốn đọc vế đối của mình:
Nhất Sư, nhất Tiểu, nhất Chùa chiền
Rồi, ngừng lại giây lát…
Hai thầy trò nhà sư trố mắt nhìn, giỏng tai, chờ đợi – nghe…
Đột nhiên câu thứ hai của vế đối vút lên, vỡ oà ra:
Lưỡng đầu chỉ Địa, lưỡng đầu Thiên!
Hai thầy trò tái mặt vội cúi gằm, bước nhanh như chạy, trong khi Nữ Canh Điền kia cười phá lên. Tiếng cười của chị mới sảng khoái làm sao !…
Berlin – 23 tháng chạp – Ngày tiễn ông Táo chầu trời.
© Lê Xuân Quang
© Đàn Chim Việt
——————————————
(1) – Theo sách Đông Chu Liệt Quốc : Hán Cao Tổ – Lưu Bang trước khi khởi binh đánh Tần Thủy Hoàng – làm chức Đình Trưởng. Một tối ông uống rượu với các bạn, nửa đêm vùng dậy đòi đi về nhà. Bạn bè khuyên không nên về vào giờ này phải qua con đường mà theo dư luận: Ở đấy thường có con rắn trắng thành tinh xuất hiện, gặp người là ăn thịt.
Đang say rượu, Lưu Bang không nghe, cứ quyết đi. Đến giữa đường quả nhiên con rắn trắng nằm chắn lối, Lưu Bang vung gươm chém chết rắn trắng trở về nhà bình an. Tin này loang nhanh, nhân dân trong vùng thán phục , cho rằng Lưu Bang là do trời sai xuống cầm tinh Hồng xà (rắn đỏ)trảm bạch xà trừ hại cho dân. Uy danh đó vang lừng .Khi Lưu Bang hiệu triệu đánh Tần Thủy Hoàng, dân chúng rủ nhau đi theo rất đông. Lưu Bang khởi nghiệp, tiêu diệt nhà Tần tiếp theo diệt “Đồng minh” Hạng Võ, lên ngôi Hán Cao Tổ… lập ra nhà Hán sau này.
(2) – Kẹo Kéo là thứ kẹo được làm từ mật mía. Kẹo nguyên dạng mầu trắng sữa, làm thành một cục rất dẻo, dai. Muốn lấy kẹo, người bán phải véo vào cục đường kéo dài ra rồi dùng kéo cắt. Tất cả trẻ em ở làng quê đều thích ăn kẹo kéo. Cứ nghe thấy người bán kẹo rao : Kẹo kéo vừa dẻo vừa dai… đây ! cùng lúc đó người bán dập cái kéo phát ra những tiếng cách cách… bọn trẻ trong các nhà túa ra mua ăn…
(3) – Nhà thơ Xuân Sách đã vận dụng tích này viết về một tác gỉa – nhà Văn, trong thơ Chân dung nhà văn – của ông :
Đất làng vừa một tấc/ Bao nhiêu người đến cầy/ Thóc giống còn mấy hạt/ Đợi mùa sau hẵng hay.
“ĐẤT CHỈ CÓ MỘT TẤC”” mà nhiều người muốn cầy thì… Thơ rất thanh nhưng ngẫm nghĩ kĩ lại … người nghe cười phá lên!
(4) – Tôi đã sống ở làng Đình Bảng, huyện Từ Sơn nhiều năm và công nhận hiện tượng này là có thật. Phụ nữ Đình Bảng rất đảm đang. Công việc ruộng đồng, buôn bán, làm giầu lại đảm việc nhà. các “Đức ông… chồng” thường là ở trong nhà có khi “trông con, đuổi gà” cho… vợ – điều mà tôi đã chứng kiến. Tuy vậy phụ nữ Đình Bảng cũng vẫn bị các Huyện khác của Bắc Ninh liệt vào hàng 1 trong “tứ Bất”, được dân đất Kinh Bắc thời xa xưa tổng kết thành câu ca:
Bất Giao – Phù Lưu, hữu
Bất Phu – Đình Bảng, Thê
Bất Ẩm – Đồng Kị, thủy
Bất Thực – Cẩm Giang, kê.
Theo cách giải thích của các cụ xứ Kinh Bắc;
+ Làng Phù Lưu được dân trong vùng coi là thớ nợ, chỉ nói hay chứ thực chất không có gì, cho nên bị nhận xét – Phù lưu đãi khách – nghĩa là sơ sài, nhạt nhẽo chứ không mặn mà.
+ Gái, Trai Làng Đình Bảng có những đặc điểm riêng; Lấy chồng về – con gái chỉ hầu chồng. Lấy vợ thì bị vợ””Trèo lên đầu”. Cho nên chớ lấy vợ, lấy chồng ở làng này.
+ Làng Đồng Kị xưa nằm ở vùng trũng. Khi mùa mưa, cả làng nằm ở nơi 4 mặt đều là nước. Nước thải từ các nhà không tiêu thoát, uống nước làng này là uống phân người phân súc vật.
+ Làng Cẩm Giang xưa có nghề ăn trộm gà. Ăn thịt gà ở làng này là ăn … tiếng chửi của dân mất của.
(Phù lưu, Đồng Ki, Cẩm Giang là 4 làng nằm ở phía tây, bắc gần giáp Đình Bảng – Từ Sơn.
Tất nhiên đây là câu vè do các cụ đặt từ xa xưa, các đặc điểm của các làng này hiện đã không còn tồn tại…)
Cô gái vụng trộm với chú tiểu sau chùa. Bị sư ông bắt được. Sư ông phạt chú tiểu và đuổi ra khỏi chùa. Trình việc tới quan, quan phạt hèo cô gái 10 trượng, phạt tiền 20 quan, và một lễ tạ lỗi với chùa.
Ngày xử, có sư ông hiện diện. Nhà sư xin cho cô gái khỏi phải tội bị đánh đòn. Ông quan vốn là tay hay chữ, đồng ý với điều kiện cô gái phải đối được vế đối :
- Công đường khai môn hộ, thượng quan kim chánh tọa, sai nha lưỡng biên bài, dân chúng tập đáo lai !
Công đường mở cửa nẻo, thượng quan ngồi ở giữa, sai nha đứng dàn hai bên, dân chúng tụ tập tới
Sư ông xin đáp lại :
- Thiền tự khai môn hộ, hòa thượng kim chánh tọa, tăng chúng lưỡng biên bài, bá tánh tập đáo lai !
Tới phiên cô gái, cô gái thoáng ngập ngừng. Nói :
- Thiếp đối được. Nhưng …
- Nhưng sao? Quan hỏi tiếp.
- Nhưng lời nói thô lổ không văn hoa, sợ có điều xúc phạm đến thượng quan và sư ông. Cô gái trả lời.
Ông quan vốn tính ngay thẳng và rất chuộng người có tài văn thơ, nên quan trả lời :
- Không sao, Đức Khổng Tử dạy rằng ” diệc các ngôn kỳ chí” mỗi người có quyền nói lên ý nghĩ của mình. Nàng cứ tự nhiên, ta không chấp nhứt.
Bấy giờ cô gái mới đọc câu đối oang oang giữa chốn nha môn :
- Tuột quần khai môn hộ, m^`ng đ^’c kim chánh tọa, hai thẹp lưỡng biên bài, c.t lõ tập đáo lai !
Sư ông ra về, cô gái được quan tha bổng. Quan còn xuất kho thưởng cho 10 nén bạc để làm vốn buôn bán và bỏ tật trăng hoa. Cô gái tạ ân lui ra.
………………………………………………………………….
TH sưu tầm, tiếu lâm dân gian
ĐỐI VÀ CHƠI CHỮ
Đối là nghệ thuật chọi chữ sao cho cân đối, ý vị, tương xứng, sâu sắc và thật sự sáng tạo.
Ý nghĩa của nghệ thuật rất hàm súc, nhằm nói ít hiểu nhiều, nói một suy mười, đối không phải chỉ chọi nhau, mà còn là ý nghĩa mở rộng, một biện pháp hay phương thức cho liên tưởng.
Chơi chữ hơi khác đối ở chỗ, đối cần hai vế, nhưng chơi chữ chỉ cần một vế. Chơi chữ có nghĩa là ý đối nội tại. Nói vậy mà không phải là vậy. Nói một đường ý một nẽo. Có khi nói để hiểu điều hoàn toàn ngược lại. Tức chơi chữ chính là cách “đối” trong bản thân của chữ. Chơi chữ là cách xài từ hàm súc nhất. Chơi chữ thể hiện nghệ thuật vận chữ, hay kỹ thuật lắt léo của người xài chữ nghĩa. Dùng từ, dùng chữ chỉ là điều bình thường. Nhưng “chơi chữ” quả mới đúng là “chơi” thật. Ngôn ngữ Việt là ngôn ngữ rất thuận lợi, rất phù hợp, hay rất xuất sắc trong vấn đề chơi chữ. Đối chính là một hình thức chơi chữ mở rộng. Bởi nếu đối bình thưởng thì chẳng nói làm gì. Nhưng đối mà kết hợp với chơi chữ, đối đó mới thật sự tuyệt diệu và hấp dẫn, phong phú. Bởi thế cho nên trong thơ Việt, nhất là ngày xưa rất hay có đối kết hợp với chơi chữ. Chính ý nghĩa của đối mang tính văn học cao nên trong thơ đường luật bắt buộc phải có hai vế đối nằm ngay khúc giữa hay tạo thành bốn câu, là bốn ý chính của bài thơ đường luật. Trong các bài phú hay thể văn liễng ngày xưa cũng là hình thức mở rộng hoặc thu hẹp của nghệ thuật đối. Đối hay chơi chữ chính là nghệ thuật nói ít hiểu nhiều, hàm súc, tinh hoa, tinh túy nhất trong ngôn ngữ, thi ca, hay trong văn chương Việt nói chung.
Trong bài viết (4) này về nghệ thuật các câu đối xưa của VN, ông Lê Xuân Quang giới thiệu nhiều câu đối rất tuyệt luân kèm giai thoại càng hấp dẫn. Và trong những câu đối đó, tuyệt diệu nhất là những câu này :
ĐỐI KÍNH HỌA MI NHẤT ĐIỂM PHIÊN THÀNH LƯỠNG ĐIỂM
LÂM TRÌ NGOẠN NGUYỆT CHÍCH LUÂN CHUYỂN TÁC SONG LUÂN
THẰNG QUỈ ÔM CÁI ĐẤU ĐỨNG CỬA KHÔI NGUYÊN
CON MỘC TỰA CÂY BÀNG DÒM NHÀ BẢNG NHÃN
HAI NGƯỜI NGỒI HAI BÊN CỬA SỔ SONG SONG
LÊN PHỐ MÍA GẶP CÔ HÀNG MẬT CẦM TAY NÍU LẠI HỎI THĂM ĐƯỜNG
DA TRẮNG VỖ BÌ BẠCH
TRỜI MƯA ĐẤT THỊT TRƠN NHƯ MỠ
TRƯỚNG NỘI VÔ PHONG PHÀM TỰ LẬP
HUNG TRUNG BẤT VŨ THỦY TRƯỜNG LƯU
CÂY XƯƠNG RỒNG TRỒNG ĐẤT RẮN LONG LẠI HOÀN LONG
QUẢ DƯA CHUỘT TUỘT THẲNG GANG THƯ CHƠI THÌ THỬ
An Nam nhất thốn thổ bất tri kỷ niên canh
BẮC QUỐC ĐẠI TRƯỢNG PHU GIAI DO THỬ ĐỒ XUẤT
Nhất sư nhất tiểu nhất chùa chiền
Lưỡng đầu chỉ địa lưỡng đầu thiên
Quả tất cả những câu đối trên, trong đó bao hàm cả nghệ thuật “chơi” chữ, tùy theo trình độ năng lực và óc sáng tạo của mỗi người mà hiểu tới đâu cũng được. Quả thật nghệ thuật ngôn ngữ tiếng Việt ta thật tới bến.
Nhân tiện, cũng xin nhắc thêm nghệ thuật chơi chữ và đối câu có nghệ thuật liên quan như trên của nhà thơ Võ Hưng Khoan.
Ồn Khoan có một người con gái rất thông minh và hay chữ. Hồi bà còn trẻ, sau 1954, bà có bị “dụ dỗ” theo cách mạng (communist) bị bắt xộ khám, đã có làm bài thơ cảm tác dài rất xuất sắc về nghệ thuật, trong đó có hai câu đối rất chỉnh :
………….
Gió sợ lính canh không dám ghé
Trăng chê tù phạm chẳng thèm soi
………….
Còn ông Khoan trong bài văn tế các chiến sĩ Việt Minh hi sinh trong trận đánh Pháp ở Gò Nổi (Quảng Nam) hồi năm 1947, lúc đó Việt Minh chưa có màu sắc cộng sản thật sự như sau này, trong đó có những vế đối rất xuất sắc và nồng nhiệt :
…………..
Lá cờ đỏ phất phơ trên đất Việt
Ngôi sao vàng chói lọi dưới trời Nam
Đem máu xương mà đổi lấy non sông
Rõ mày mặt con Hồng cháu Lạc
Trên trăm năm nuôi hận
Gươm quốc dân thề giết lủ thực dân
Dưới chín suối ngậm hờn
Hồn tử sĩ hãy giúp người chiến sĩ
…………….
Nhưng sau này, khi Việt Minh đã lộ ra cộng sản hết rồi, trong bài thơ về Hội Nghị Quốc tế Genève (1954) ông Viết :
HỘI NGHỊ GENÈVE
Nào có gì đâu phải rụt rè
Bàn cờ đã sắp rõ hai phe
Sẹ tay giục đẩy ba con tốt
Giấu mặt rập rình mấy chú xe
Trước chẳng hay chi trên Tiệp Khắc
Nay còn kéo đến giữa Genève
Chi bằng pháo mã mang ra hết
Thử đập nhau chơi một trận hè
(VHK- 1954)
Thơ của nhà thơ dân giả Võ Hưng Khoan còn rất nhiều bài rất xuất sắc.
Tuy nhiên đáng nói nhất là khi ông Hồ Chí Minh chết, ông Khoan có làm câu đối, lúc đó đài BBC có đọc trên dài nhiều lần :
“Hai mươi tám năm về nước, ông đã làm chi, công với ai mà tội cũng với ai, ba mươi sáu triệu đồng bào thù hận giữa nhau còn trước đó”
“Bảy mươi tám tuổi từ trần, sao ông không sống mãi, vinh cũng được, ừ mà nhục thôi cũng được, trăm muôn ngàn dư luận, phẩm bình xin gác lại sau đây”
Sở dĩ xin kể thêm ra sau đây vài giai thoại câu đối VN như trên, cũng là để chứng minh cái tài năng trí tuệ ẩn tảng của người Việt thật sự là thế nào.
ĐẠI NGÀN
(21/01/12)