Nghi án 60 năm
Cách đây sáu chục năm, trước khi Việt Minh cộng sản tiếp thu Hà Nội (10-10-1954), tại thành phố nầy xảy ra vụ án mạng ông Đỗ Đình Đạo, một nhà hoạt động chính trị nổi tiếng, mà cho đến nay chưa biết ai là thủ phạm, nhưng lại ảnh hưởng lâu dài đến cuộc đời của nữ văn sĩ Thụy An.
1.- NỮ VĂN SĨ THỤY AN
Bà Thụy An tên thật là Lưu Thị Yến, sinh ngày 24 tháng 8 năm bính thìn (21-9-1916), con gái đầu của ông Lưu Tiến Ích và bà Phùng Thị Tôn, người làng Hòa Xá, huyện Ứng Hòa, Hà Đông. Bà từ trần tại Sài Gòn ngày 7 tháng 5 năm kỷ tỵ (10-6-1989), thọ 74 tuổi (tuổi ta), pháp danh Nguyên Quy. (Theo tộc phả Bùi tộc Châu Cầu, Phủ Lý, Hà Nam.)
Năm 1934, lúc 18 tuổi, bà kết hôn với ông Bùi Nhung (1907-1987). Bùi Nhung là con cụ Bùi Thức (tiến sĩ Nho học), người Châu Cầu, Phủ Lý, Hà Nam, và là em ông Bùi Kỷ (phó bảng Nho học), và cũng là em bà Bùi Thị Tuất tức bà Trần Trọng Kim. Hai ông bà Bùi Nhung-Thụy An có sáu người con là Bùi An Dương, Bùi Thụy Băng, Bùi Thu Linh (nữ), Bùi Dương Chi, Bùi Ngọc Trinh (nữ) và Bùi Châu Công.
Sau khi sinh người con út, Thụy An sống ly thân với Bùi Nhung, nhưng không ly dị. Lý do vì lúc đó, Bùi Nhung liên hệ tình cảm với bà Lưu Thị Trạch, tên thường gọi là Việt. Bà Trạch hay Việt là em ruột bà Thụy An, nên Thụy An im lặng rút lui, nhường chồng cho em.
Bùi Nhung là nhà văn, nhà giáo, bút hiệu Băng Dương, đã từng làm giám đốc Đài phát thanh Hà Nội năm 1948-1949 và sau đó 1951-1954. Bùi Nhung còn làm giám đốc đài phát thanh Hải Phòng năm 1954, trong thời gian 300 ngày trước khi Hải Phòng bị Việt Minh tiếp thu. (Việt Minh tiếp thu Hải Phòng ngày 13-5-1955.) Trong thời gian nầy, xảy ra vụ án mạng Đỗ Đình Đạo ngày 29-7-1954. Bà Thụy An bị nghi ngờ và bị bắt giữở nhà ga xe hỏa gần Hải Phòng. Bùi Nhung biết được, đã đến thăm bà Thụy An.
Bà Thụy An là nữ tiểu thuyết gia duy nhất có tên trong bộ sách Nhà văn hiện đại do Vũ Ngọc Phan biên soạn. Bộ sách nầy gồm 4 quyển, do Tủ sách Tao Đàn, Nxb. Tân Dân ấn hành tại Hà Nội từ năm 1942 đến năm 1945, đánh số trang liên tục, trong đó quyển tư viết về các tiểu thuyết gia. Bộ sách nầy về sau được tái bản nhiều lần. Vũ Ngọc Phan cho rằng tiểu thuyết Một linh hồn (xuất bản 1943) của bà Thụy An là cuốn tiểu thuyết xuất sắc nhất của phụ nữ Việt Nam trước năm 1945.
Ngoài tài làm thơ và viết tiểu thuyết, bà Thụy An còn làm báo, viết phóng sư. Sau khi kết hôn, Thụy An cùng chồng vào Sài Gòn lập ra tuần báo Đàn Bà Mới. Bùi Nhung làm giám đốc chính trị (directeur politique), còn Thụy An làm giám đốc kiêm chủ bút (directrice et rédactrice-en-chef).
Tại Sài Gòn, lúc đầu báo quán Đàn Bà Mới nằm trên đường Leman. (Đường Leman về sau là đường Cao Bá Nhạ, quận 1.) Sau đó, báo quán đổi qua số 43 đường Galliéni. (Đường Galliéni về sau đổi thành đường Trần Hưng Đạo.) Báo Đàn Bà Mới xuất bản hàng tuần vào ngày Thứ Bảy, ra số đầu tiên (số 1) ngày Thứ Bảy 1-12-1934. Khi đổi trụ sở qua đường Galliéni, Đàn Bà Mới cũng đổi ngày ra là Thứ Hai hằng tuần. Số cuối cùng (số 95) ra ngày Thứ Sáu 4-6-1937.
Năm 1938, bà Thụy An ra Hà Nội, xuất bản tuần báo Đàn Bà, phát hành vào ngày Thứ Sáu hàng tuần, số đầu ra ngày 16-2-1938 và số cuối vào tháng 4-1939. Tòa soạn tuần báo Đàn Bà đặt trên đường Wiélé. (Đường nầy về sau đổi thành đường Tô Hiến Thành.)
Theo bà Bùi Ngọc Trinh, con gái của bà Thụy An, thì Thụy An từng làm Giám đốc Vietnam Press, nhưng theo người cháu của bà Thụy An thì ông biết chắc chắn Thụy An có làm việc cho Vietnam Press, nhưng không rõ chức vụ. (Nói chuyện với ông Quyền tại San Jose ngày 8-7-2014.)
Cũng theo nguồn tin trong gia đình, thì vào năm 1951, Thụy An đưa bốn trong sáu người con, vào sinh sống ở Sài Gòn. Đó là An Dương, Thu Linh, Ngọc Trinh và Châu Công. Hai người còn lại là Thụy Băng và Dương Chi sống với ông Bùi Nhung và bà vợ sau của ông Nhung.
Không được biết do tình trạng gia đình, hay do công việc, Thụy An lúc nầy hay ra vào Sài Gòn – Hà Nội. Theo lời kể của Bùi Thụy Băng, con trai bà Thụy An, thì khoảng nửa tháng trước khi Việt Minh tiếp thu Hà Nội, Thụy An từ Sài Gòn ra Hà Nội. (Thụy Khuê, Nhân văn Giai phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc, Virginia: Nxb. Tiếng Quê Hương, 2012, tr. 179.) Tuy nhiên, Việt Minh tiếp thu Hà Nội ngày 10-10-1954. Nếu nửa tháng trước ngày Việt Minh tiếp thu Hà Nội tức khoảng cuối tháng 9. Trong khi đó, Đỗ Đình Đạo chết ngày 29-7-1954. Lúc đó, Thụy An đã có mặt tại Hà Nội. Vậy Thụy An phải ra Hà Nội trước ngày nầy. Nếu trước nửa tháng thì có thể trước ngày ký kết hiệp định Genève 20-7-1954. Đây là chuyến đi cuối cùng của Thụy An vì sau đó bà mắc nạn và ở lại đất Bắc.
Văn nghiệp bà Thụy An khá phong phú. Bà có thơ đăng trên tạp chí Nam Phong năm 13 tuổi (1929). Bà làm nhiều thơ nhưng không in thành tập. Về tiểu thuyết, ngoài truyện dài Một linh hồn, bà xuất bản hai tập truyện ngắn là Vợ chồng (25 câu chuyện về hạnh phúc gia đình) và Bốn mớ tóc. Bìa sau của tập truyện ngắn Bốn mớ tóc có in dòng quảng cáo: Đón đọc Nhà lãnh tụ, là sách bà Thụy An dự tính sẽ viết về Đỗ Đình Đạo.
Thụy An còn nhiều tác phẩm viết sau năm 1954 ở Bắc Việt Nam và cả trong thời gian ở tù vì vụ Nhân văn Giai phẩm, chưa được ấn hành. Dầu bị xáo trộn trong gia đình, Thụy An vẫn tiếp tục hoạt động báo chí, sáng tác văn thơ, nhưng bất ngờ bà bị mắc nạn vào nghi án về cái chết của người bạn gia đình là Đỗ Đình Đạo.
2.- ĐỖ ĐÌNH ĐẠO BỊ ĐỘT TỬ
Đỗ Đình Đạo sinh ngày 17-7-1911 tại Hà Nội, là con của cụ Đỗ Đình Tiến (bị Việt Minh giết) và cháu nội của Đô thống Đỗ Đình Thuật. Ông gia nhập Đại Việt Dân Chính Đảng do Nguyễn Tường Tam thành lập năm 1938, rồi gia nhập Việt Nam Quốc Dân Đảng.
Năm 1952, thủ tướng chính phủ Quốc Gia Việt Nam là NguyễnVăn Tâm giao cho Đỗ Đình Đạo chỉ huy Đoàn Quân Thứ Lưu Động (Groupe Administratif Mobile en Opération viết tắt là GAMO) ở Bắc Việt. Trước hiệp định Genève, Việt Nam chưa bị chia hai, Ngô Đình Diệm thành lập chính phủ ngày 7-7-1954. Hai ngày sau (7-7-1954), ông Diệm bổ nhiệm Hoàng Cơ Bình làm đại biểu chính phủ tại Bắc Việt kiêm chủ tịch Uỷ ban Bảo vệ Bắc Việt. Uỷ ban nầy còn có Trần Trung Dung làm uỷ viên dân sự và thiếu tướng Nguyễn Văn Vận làm uỷ viên quân sự, chính thức hoạt động ngày 12-7-1954. Hoàng Cơ Bình mời Đỗ Đình Đạo vào Uỷ ban Bảo vệ Bắc Việt, có thể vì ông Đạo đang chỉ huy binh đoàn GAMO, nắm trong tay lực lượng quân sự.
Những người lúc đó ở Hà Nội cũng như ở Hải Phòng, chuẩn bị di cư vào Nam, cho biết là đã được tin Đỗ Đình Đạo bị ám hại vào cuối tháng 7-1954. Trong sách Việt Nam Quốc Dân Đảng, tác giả Hoàng Văn Đào xác định Đỗ Đình Đạo đột ngột từ trần tại nhà số 1 đường Tuyên Quang, Hà Nội tối 29-7-1954. (Hoàng Văn Đào, Việt Nam Quốc Dân Đảng, tái bản kỳ II, Sài Gòn: 1970, tr. 489.)
Đường Tuyên Quang về sau đổi thành đường Cao Bá Quát. Ngôi nhà nầy là nhà của bà Thụy An. Lúc đó, Hà Nội vẫn còn thuộc chính quyền Quốc Gia Việt Nam. Nhà đương cuộc tìm thấy Đỗ Đình Đạo bị đột tử một mình trong nhà bà Thụy An, nên truy tìm bà để mở cuộc điều tra và chận bắt bà tại ga xe lửa nhỏ gần Hải Dương.
Được tin nầy, báo chí Hà Nội liền chạy những bài phóng sự về cái chết của Đỗ Đình Đạo, có tựa đề nóng bỏng, giật gân, nhằm hấp dẫn độc giả: Vụ án vì TÌNH, TIỀN HAY CHÍNH TRỊ? Báo chí còn cho biết bản khám nghiệm pháp y tử thi Đỗ Đình Đạo do bác sĩ Phán ký tên, kết luận rằng ông Đạo bị chết vì chất độc cyanure de mercure. (Theo lời người con ông Đạo.)
Khi Đỗ Đình Đạo bất ngờ từ trần, bà Đỗ Đình Đạo cùng 12 người con đang sinh sống ở Sài Gòn. Được hung tin, bà Đạo ngất xỉu, đau yếu. Chị của ông Đạo cùng người con gái đầu của ông Đạo, lúc đó 22 tuổi, từ Sài Gòn ra Hà Nội, lo việc tang ma cho nạn nhân.
Dựa vào những bài phóng sự trên báo chí, nhiều câu chuyện chung quanh cái chết của Đỗ Đình Đạo được bàn tán, nhất là mối liênn hệ giữa Đỗ Đình Đạo với người chủ nhà là Thụy An.
3.- LIÊN HỆ GIỮA THỤY AN VÀ ĐỖ ĐÌNH ĐẠO
Để thấy rõmối liên hệ giữa Thụy An và Đỗ Đình Đạo, trước hết cần chú ý là Đỗ Đình Đạo không phải chỉ là bạn của Thụy An, mà còn là bạn với cả Bùi Nhung, chồng bà Thụy An.
Về phía Thụy An, tuy sống ly thân với Bùi Nhung, nhưng bà không ly dị chồng. Thụy An đã im lặng hy sinh hạnh phúc của mình cho em ruột mình, và vẫn còn thương yêu chồng con nên không đoạn tuyệt chồng mà bà chỉ tự ý sống ly thân, chứ không phải bà ly thân vì phán quyết của tòa án. Đây là sự hy sinh mà ít phụ nữ có thể chịu đựng được.
Về phía Đỗ Đình Đạo, ông là một nhà hoạt động chính trị nổi tiếng, chỉ huy một binh đoàn lớn. Ông giao thiệp rộng, và ông cũng là bạn của Bùi Nhung. Ông không thể tự mình làm hại đến tình bạn và cũng là tình đồng chí với Bùi Nhung. Chắc chắn Đỗ Đình Đạo không dại gì có mối liên hệ bất chính với Thụy An để bị mang tai tiếng, mất bạn bè, mất đồng chí, còn bị giới chính trị, dân chúng và ngay cả binh đoàn GAMO, chê cười, khinh dễ mình, làm suy giảm niềm tin của mọi người.
Đỗ Đình Đạo có vợ và 12 người con. Người con đầu sinh năm 1932 và người con út sinh năm 1954, ngay trước khi Đỗ Đình Đạo qua đời. Đỗ Đình Đạo chăm sóc gia đình, vợ con rất chu đáo. Gia đình ông hạnh phúc. Các con ông Đạo xác nhận ông Đạo là chỗ thân tình với hai ông bà Bùi Nhung và Thụy An, chứ ông không phải là tình nhân của Thụy An.
Trong gia đình Bùi Nhung, người cháu của Bùi Nhung cho biết rằng Thụy An và Bùi Nhung đều là bạn của Đỗ Đình Đạo. Vảo đầu năm 1954, người cháu nầy sống trong nhà của Bùi Nhung ở Ngõ Nhà Đo (Hà Nội). Người nầy thấy Đỗ Đình Đạo thỉnh thoảng đến nhà Bùi Nhung, nhưng để theo dõi tin tức thời sự hơn là chuyện tình cảm. Người nầy khá kính trọng Đỗ Đình Đạo, cũng đã từng gặp gỡ riêng tư và có một lần đi xem hát giải trí ở Hà Nội với Đỗ Đình Đạo.
Như thế, trong thực tế, không hề có liên hệ tình cảm nam nữ giữa Thụy An và Đỗ Đình Đạo. Cũng trong thực tế, những hoạt động cá nhân của hai bên cho thấy đây là mối liên hệ bạn bè và nhất là chính trị lúc bấy giờ. Các con cháu trong gia đình của cả hai bên, lúc đó đã khôn lớn, có người học lớp Đệ tứ (lúc đó học lớp đệ tứ tức lớp 9 là khá lớn tuổi), có người học năm cuối bậc trung học (chuẩn bị thi tú tài), biết quan sát, cũng chẳng thấy có dấu hiệu tình cảm gì giữa hai bên. (Người viết hỏi chuyện riêng biệt con cháu hai bên.)
Ngang đây vấn đề liên hệ bạn bè giữa Thụy An và Đỗ Đình Đạo đã khá rõ ràng, hoàn toàn không có chuyện “quan hệ vợ chồng”(?) như Việt Minh cộng sản tuyên tuyền khi kết án Thụy An và một số sách báo sau nầy viết lại.
4.- NGHI ÁN VỤ ĐỖ ĐÌNH ĐẠO BỊ ĐỘT TỬ?
Có một câu hỏi mà chắc chắn nhiều người đặt ra là tại sao Đỗ Đình Đạo bị đột tử tối 29-7-1954 tại nhà Thụy An? Lúc đó, Thụy An vừa từ Sài Gòn ra Hà Nội vì mục đích là để kiếm cách cứu Bùi Việt Quốc là con của Bùi Nhung với người vợ sau là Lưu Thị Trạch, em gái bà Thụy An. Bùi Nhung đang làm giám đốc Đài phát Hà Nội. Bùi Việt Quốc bị Việt Minh bắt cóc để áp lực Bùi Nhung không được di chuyển đài Phát thanh Hà Nội xuống Hải Phòng để tiếp tục tiếng nói của chính phủ Quốc Gia Việt Nam trước khi cộng sản tiếp thu Hải Phòng (13-5-1955), rồi mang vào Nam Việt Nam. Ngoài ra, Thụy An còn ra Hà Nội nhằm thông báo cho Đỗ Đình Đạo một số tin tức và diễn tiến chính trị ở Sài Gòn.
Khi Đỗ Đình Đạo bị đột tử trong nhà bà Thụy An, thì thủ tục đầu tiên chính quyền Hà Nội, thuộc chính phủ Quốc Gia Việt Nam, phải tìm chủ nhà để mở cuộc điều tra. Chủ nhà chính là bà Thụy An. Vụ án mới chỉ bắt đầu tiến hành, cuộc điều tra chưa kết thúc, chưa đưa ra xét xử trước tòa án. Đây mới chỉ là nghi án, chưa có kết luận gì cả, nhưng do đề tài báo chí TÌNH, TIỀN HAY CHÍNH TRỊ, nên nhiều dư luận đồn đoán lan truyền.
Một trong những lời đồn đoán quan trọng là người ta nghi ngờ phải chăng Thụy An làm việc cho Việt Minh cộng sản, nên nhận lệnh giết Đỗ Đình Đạo là một lãnh tụ quốc gia? Tuy nhiên, nếu Thụy An theo lệnh của Việt Minh giết Đỗ Đình Đạo, thì sau khi hành động, Thụy An phải tìm đường trốn vào mật khu của Việt Minh để được an toàn. Lúc đó Việt Minh đang bao vây Hà Nội và chờ đợi ngày tiếp thu. Đàng nầy, không có chuyện Thụy An trốn theo Việt Minh.
Ngoài ra, cuộc sống của Thụy An trước cũng như sau khi Việt Minh tiếp thu Hà Nội (10-10-1954), cho thấy rằng trước sau Thụy An chẳng liên lạc gì với Việt Minh, cũng không cộng tác với Việt Minh. Chẳng những thế, Việt Minh còn trù dập và vu cáo Thụy An làm gián điệp cho Pháp trong vụ án Nhân văn Giai phẩm năm 1960.
Sau nầy, chính Thụy An cũng thổ lộ là bà không biết ai giết Đỗ Đình Đạo? Cần chú ý thêm là khi xuất bản tập truyện ngắn Bốn mớ tóc, Thụy An cho in trên bìa sau sách nầy dòng quảng cáo: Đón đọc Nhà lãnh tụ, là sách bà Thụy An dự tính sẽ viết để ca tụng Đỗ Đình Đạo. Như thế, xét cho cùng, nếu không giúp đỡ Đỗ Đình Đạo, người bạn của gia đình, thì Thụy An chẳng có lý do gì để đầu độc Đỗ Đình Đạo. Bà giết ông Đạo để làm gì? Chẳng vì tình, cũng chẳng vì tiền, mà cũng chẳng vì tranh chấp chính trị?
Thực tế, dư luận chung lúc đó cho rằng chính Việt Minh đã ám sát Đỗ Đình Đạo. Việt Minh vốn chủ trương giết tiềm lực, tiêu diệt tất cả những thành phần theo chủ nghĩa dân tộc, có khả năng đối kháng với Việt Minh. Từ năm 1945, nhiều lãnh tụ quốc gia bị Việt Minh thanh toán mà không vết tích như Nguyễn Thế Nghiệp, Nguyễn Ngọc Sơn, Trương Tử Anh, Nguyễn Hữu Thanh (Lý Đông A), Nhượng Tống…
5.- THỤY AN BỎ TRỐN
Theo lời bà Thụy An sau nầy kể lại cho người cháu của ông Bùi Nhung, thì ngày 29-7-1954, Đỗ Đình Đạo mượn nhà Thụy An để tổ chức hội họp. Tin trong gia đình bà Thụy An cho biết hôm đó là một cuộc họp chính trị, có người không muốn dùng công sở của chính phủ, cũng không muốn thuê các nhà hàng hay khách sạn vì sợ lộ bí mật, nên ông Đạo mới mượn nhà bà Thụy An để tổ chức hội nghị, tức địa điểm trung lập. (Nói chuyện với ông Q., cháu Bùi Nhung ngày 8-7-2014.)
Cũng tin trong gia đình, Đỗ Đình Đạo bị đột tử tối 29-7-1954, thì sáng ngày hôm sau, Thụy An về nhà. Bà thấy Đỗ Đình Đạo đã chết, nằm ngay ngắn, trên bàn có một bát (tô) miến, mà về sau nhà đương cuộc Hà Nội nói là có chất độc. Bà Thụy An không biết ai đã giết Đỗ Đình Đạo, hay Đỗ Đình Đạo tự sát, nhưng trước tình trạng nầy, bà hoảng sợ bỏ trốn.
Trên chuyến tàu hỏa từ Hà Nội đi Hải Phòng, Thụy An bị bắt tại một nhà ga nhỏ cuối cùng trước khi đến Hải Phòng, và bị tạm giữ ngay tại đó, trong một căn phòng, bên ngoài do một người da đen, bận thường phục canh gác. Vì vậy Thụy An không biết cơ quan nào đã bắt mình: Phòng nhì Pháp, hay sở Liêm phóng (Công an), hoặc Cảnh sát?
Được tin vợ bị bắt, Bùi Nhung liền tìm đến thăm. Ông Nhung nói với vợ đại ý rằng ông không đủ thế lực và khả năng để bảo lãnh Thụy An ra khỏi tù. Bà hãy đợi xem thình hình, rồi sẽ liệu định sau. Thụy An liền nhờ Bùi Nhung mua giúp cho bà một chai rượu Tây (Pháp), để bà tặng cho người canh gác, nhằm nhờ ông ta giúp đỡ khi có việc cần. Bùi Nhung làm theo lời vợ yêu cầu. Bà Thụy An tặng chai rượu cho người canh gác. Tối hôm đó, người da đen canh gác uống rượu say. Bà Thụy An lợi dụng cơ hội bỏ trốn. (Toàn bộ câu chuyện về cái chết ông Đạo và bà Thụy An bị bắt, bỏ trốn theo lời bà Thụy An kể lại cho người cháu tên là Q. năm 1988. Ông Q. nói chuyện với người viết tại San Jose ngày 8-7-2014.)
Thụy An kể rằng khi người tây đen đang say sưa , bà xin đi nhà vệ sinh (cầu tiêu), rồi chui xuống lổ hầm nhà vệ sinh và bỏ trốn ra ngoài. Bà đến nhà một người bạn gần đó tắm rửa và thay áo quần, rồi theo xe hỏa trở ngược về Hà Nội.
Thời bấy giờ, loại cầu tiêu phổ thông là cầu tiêu đổ thùng. Cầu tiêu xây cao, phía dưới là một hầm cầu, xây kín 3 phía, còn chừa một phía làm cửa. Trong hầm cầu đặt một cái thùng để đựng chất uế thải. Mỗi tối hay sáng sớm, một người phu đổ thùng đến mở cửa, thay thùng cũ, đặt một thùng khác thế vào. Vì không dội nước, nên cái lỗ cầu thường rộng để khỏi bị dính khi đi cầu. Nhờ vậy, Thụy An mới chui xuống được hầm cầu để bỏ trốn.
Khi chính quyền Quốc Gia Việt Nam di chuyển vào Nam sau hiệp định Genève, hồ sơ vụ việc Đỗ Đình Đạo và Thụy An được Tòa thượng thẩm Hà Nội chuyển vào Tòa thượng thẩm Huế. Trong hồ sơ nầy, đến đoạn Thụy An bỏ trốn, thì người ta ghi rằng bà Thụy An trổ nóc cầu tiêu để thoát thân. (Theo lời kể của ông M. Đ.N. tức giáo sư Nguyễn Hữu Thứ, chánh án Tòa thượng thẩm Huế. Giáo sư Thứ kể cho người viết là ông đã tận mắt đọc lại hồ sơ nầy.)
Như thế là hai nguồn tin riêng biệt (tòa án và Thụy An) đều cho biết rằng Thụy An bỏ trốn sau khi vào cầu tiêu. Chỉ khác nhau là phía tòa án cho rằng Thụy An trổ nóc nhà cầu mà ra, còn Thụy An tự kể là đã chui xuống hầm cầu trốn đi. Thực ra sức vóc phụ nữ thì khó có thể trổ nóc để thoát thân và trước viễn cảnh bị giam cầm, Thụy An phải chấp nhận chui hầm cầu dầu thiếu vệ sinh và hôi hám để bỏ trốn.
Do bị chính quyền Quốc Gia Việt Nam truy nã, Thụy An lo ngại, không dám di cư vào Nam Việt Nam mà đành phải ở lại Bắc Việt Nam, trong khi Bùi Nhung và con cái đều vào Nam. Sau đó, tại Bắc Việt Nam, Thụy An lại bị liên hệ vào một vụ án khác.(Vào Nam Việt Nam, Bùi Nhung xuất bản năm 1965 tập hồi ký Thối nát, về giai đoạn 1945-1954.)
6.- THỤY AN VÀ VỤ ÁN NHÂN VĂN GIAI PHẨM
Sau năm 1954, tại Bắc Việt Nam nhà văn lão thành Phan Khôi chia giới văn nghệ sĩ Hà Nội thành hai thành phần rõ rệt: 1) Nhóm “lãnh đạo văn nghệ” hay những “ông quan văn nghệ”, viết văn theo lệnh của đảng Lao Động (LĐ tức đảng Cộng Sản), được đảng LĐ tin cậy, giao nhiệm vụ chỉ huy, đứng đầu là Tố Hữu. 2) Nhóm “quần chúng văn nghệ” là những thành phần còn lại, yêu tự do dân chủ, không muốn gò bó trong giáo điều và sự quản lý của “lãnh đạo văn nghệ.” Nhóm thứ hai đông đảo hơn, vận động cởi trói văn nghệ. Cao điểm của cuộc vận động là các báo Giai Phẩm và Nhân Văn xuất hiện năm 1956.
Đảng LĐ liền trấn áp, tổ chức học tập, bắt bớ, tù đày những văn nghệ sĩ phản kháng. Thế nhưng vẫn chưa đủ. Thụy An không tham gia và không viết bài cho cả hai báo Giai Phẩm và Nhân Văn, vẫn bị bắt giam tại ngục thất Hỏa lò Hà Nội vì bị cộng sản cho rằng bà tác động mạnh đến hai nhóm nầy. Khi viên công an cộng sản hỏi cung, y nói với bà Thụy An rằng: “Chị có mù đâu mà không thấy chế độ tốt đẹp ra sao, lại không giác ngộ và mất tin tưởng ở chế độ, trong đầu chứa chấp toàn ý tưởng phản động.” Trở về lại phòng giam, Thụy An tự chọc mù một mắt. Cán bộ trai giam hỏi Thụy An lý do vì sao tự chọc mù một mắt, bà trả lời: “Chế độ của các anh nhìn một mắt cũng đã thấy quá nhiều cái xấu xa chịu không nổi rồi, để cả hai mắt chắc tôi không sống nổi.” (Thụy An kể chuyện cho người cháu là ông Q.) Đúng là đàn bà dễ có mấy tay!
Ngày 21-1-1960, Thụy An bị Tòa án cộng sản kết tội 15 năm tù giam, vì bị tố cáo là tiếp tay cho cả hai nhóm Giai phẩm và Nhân văn, và làm gián điệp cho Pháp. Tuy nhiên, theo Thụy An, vụ án nầy chỉ là sự trả thù cá nhân của Tố Hữu mà thôi. Thụy An kể rằng trong một lần gặp nhau ở Hội nhà văn Hà Nội, Tố Hữu nói với Thụy An: “Tôi thấy chị làm thơ cũng khá, sao không đưa cho báo đăng?” Thụy An liền trả lời: “Thơ thì chỉ có một cái chiếu mà anh ngồi hết cả chỗ thì còn đâu ra chỗ mà ngồi. Tôi không thích ngồi ở mép chiếu.” Từ đó Tố Hữu để tâm thù ghét và kiếm cơ hội ám hại Thụy An. Đó là nguyên nhân chính đưa đến việc Thụy An bị bộ máy tuyên truyền cộng sản dưới quyền Tố Hữu vu cáo và bà bị truy tố ra tòa án, để cuối cùng lãnh 15 năm tù giam.(Bà Thụy An kể cho ông Q.)
Thụy An ở bị nhà cầm quyền cộng sản giam từ 1960 đến 1973. Sau hiệp định Paris (27-1-1973), bà ra khỏi tù trong dịp mà cộng sản gọi là “Đại xá chính trị phạm”. Bà được cộng sản cho vào sinh sống ở Sài Gòn năm 1977. Lúc đó, một số con của bà đã di tản qua Hoa Kỳ. Bà liên lạc được với các con nhưng chưa có cơ hội gặp lại. Sau đây là thư bà Thụy An gởi cho người con trai đầu là Bùi An Dương: (thủ bút do ông Q. cung cấp)
KẾT LUẬN
Trước đây, đã có nhiều sách báo viết về vụ án mạng Đỗ Đình Đạo, nhưng thiếu ý kiến của những người trong cuộc hoặc con cháu của người trong cuộc kể lại. Ngoài các tài liệu cũ, bài viết nầy chẳng những dựa vào những cuộc nói chuyện với con cháu của cả hai bên ông Đỗ Đình Đạo và bà Thụy An, mà còn kiểm chứng thêm với một số thân hữu lớn tuổi đã từng trải qua giai đoạn chuyển tiếp ở Hà Nội và Hải Phòng năm 1954, trước khi di cư vào Nam, đã từng đọc báo hay nghe thuật lại diễn tiến vụ án. Hy vọng bài báo nầy có thể góp thêm vài thông tin mới, ví dụ mối quan hệ giữa Đỗ Đình Đạo và Thụy An là tình bạn trong sáng giữa hai người và hai gia đình, chứ hai người không phải là tình nhân như một số tài liệu trước đây.
Tuy nhiên, cuối cùng vấn đề quan trọng là ai đã sát hại Đỗ Đình Đạo tối 29-7-1954 tại nhà số 1 đường Tuyên Quang, tức đường Cao Bá Quát, thì vẫn chưa có câu trả lời cụ thể, ngoài sự hoài nghi là cái chết của Đỗ Đình Đạo nằm trong kế hoạch giết tiềm lực của Việt Minh cộng sản, thủ tiêu tất cả những ai có khả năng chống lại cộng sản. Như thế, nếu cộng sản còn cầm quyền, thì có thể nghi án nầy sẽ chìm dần theo thời gian mà chẳng bao giờ có phần kết luận.
TRẦN GIA PHỤNG
(Toronto, 16-7-2015)
Nhiều người, nhất là LNĐ, nêu thắc-mắc với tác-giả bài viết, về vụ án mà bà Thụy An dính-líu. Họ đòi-hỏi mọi thứ phải có tình, có lý.
Theo tôi, nếu TGP, tác-giả bài viết này muốn tiểu-thuyết-hóa câu chuyện bà Thụy An để có tình-tiết éo-le, nhất-quán trước sau, hợp tình hợp lý … thì cũng dễ thôi, và cứ để tác-giả cứ phịa ra, bịa-đặt thêu-dệt đủ điều. Tôi không bênh-vực cho tác-giả, tuy nhiên, phải lưu-ý rằng, tác-giả là người ngoài cuộc, chỉ thu nhặt dữ-liệu – mà trong bài, chúng ta thấy chỉ mỗi BQ là nhân-chứng duy-nhất, là người gọi ông Bùi Nhung là chú ruột (có lẽ vậy, tôi không nhớ rõ), là người duy-nhất lui tới với người thím là bà Thụy An trong thời-gian bà ở Sài gòn, và trước khi BQ qua Mỹ năm 1991.
Cách đây 5 hay 6 năm gì đó (tôi không nhớ rõ), BQ từ Ca-li qua Atlanta, GA, tham-dự đám cưới người cháu gái – gọi BQ bằng chú họ – Tôi cùng đi với BQ, có dịp nói chuyện với người con thứ hai của bà Thụy An, là BTB. Người cháu gái đó là cháu nội của bà Thụy An. Ông BTB mất cách nay vài năm. Tôi có nghe BQ và BTB nói lại chuyện của bà Thụy An. Vậy có lẽ ngay chính BTB là con ruột của bà Thụy An, cũng không rõ câu chuyện của mẹ mình bằng chính BQ.
Chỉ có điều tác-giả không đề-cập gì đến những người con khác của bà Thụy An – có lẽ đều ở nước ngoài. Riêng trong bài viết có print lá thư bà Thụy An gởi cho người con cả – tôi không rõ người này còn sống không -. Tuổi BQ bằng tuồi BTB, tức người con thứ hai của bà Thụy An. Điều này có nghĩa, những sự việc xảy ra trong bài viết nằm ngoài khả-năng nhận-xét của những người con đó, vì còn nhỏ quá. Chỉ mỗi BQ, khoảng 17 tuổi , năm 1954, có thể biết nhiều chuyện khi hay lui tới gia-đình ông Bùi Nhung và bà Thụy An. BQ di-cư vào Nam năm 1954.
Tôi nghĩ rằng BQ thật-tình kể lại câu chuyện mà ông hầu như là người duy-nhất biết rõ – nhất là đối với vụ án Đổ Đình Đạo. Còn tác-giả thì cứ thật-tình ghi-nhận và viết lại. Người kể có thể không nhớ hết mọi chi-tiết, cũng không muốn đưa câu chuyện vào hư-cấu để thêm-thắt cho có tình có lý ; và người viết thì có sao ghi chép làm vậy, và dĩ nhiên có những tình-tiết không rõ-ràng để mở đường cho những suy-đoán, hiểu lầm hoặc nghi-ngờ.
Theo tôi, nên có BQ trực-tiếp viết về bà Thụy An thì có thể khiến câu chuyện trong-sáng hơn.
Nhà văn Thụy Khê (=bà Luyện) ở Paris(Pháp) có liên hệ gì với bà Thụy An không? Bà Thụy Khê có viết(ghi trong bài của tác giả Trần gia Phụng) về vụ”Nhân văn giai phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc”,và “lời dẫn đầu”(préface)cho 1 cuốn sách của nhà văn Dương Thu Hương,tỵ nạn chính trị ở Paris.
Trước hết cám ơn ông Trần Gia Phụng khơi lại vụ án Thụy An với nhiều tình tiết éo le gây cấn ở trong. Chính vì thế tôi thấy có nhiều điểm khả nghi, không thể không đặt dấu hỏi ở đây.
1/
Bà Thụy An trốn ở lại ngoài Bắc không di cư vào Nam vì bị dính vào vụ án mạng Đỗ Đình Đạo.
Lý cớ này của ông Trần Gia Phụng đưa ra nhằm chống chế cho bà Thụy An chọn việc ở lại với CS hoàn toàn không vững lắm.
1.1/
Như ông kết luận, Thụy An là một con người tài ba sắc sảo, dám hy sinh hạnh phúc riêng mình để gia đình được toàn vẹn, dám tự chọc mù một mắt của mình để phản đối CS, dám trả treo với Tố Hữu, từng hoạt động có tiếng trong giới văn học nghệ thuật … thế mà bà không gỡ nổi một vụ án mà bà chỉ là một nghi can tầm thường.
Tầm thưởng ở chỗ bà có thể bỏ trốn khỏi sự canh gác của một anh lính canh đa đen, chứ không phải trong nhà lao đặc biệt nào đó.
Mà tại sao bà lại phải bỏ trốn những hai lần, nếu như bà thực sự vô can trong vụ này !?
1.2/
Bà vào Nam ra Bắc như đi chợ, có tiền của lẫn thế lực, thì việc bà ẩn trốn ở một nơi nào đó trong vùng quốc gia để gần chồng con là chuyện quá dễ dàng, chẳng hạn ở vùng cao nguyên Trung phần, thậm chí sống ở Lào hay Miên, nhất là trong lúc tình trạng còn sôi đậu mới di cư gần một triệu người trong năm 1954.
Chọn ở lại miền Bắc là một điều nguy hiểm, nếu không nói là điên rồ, bởi chắc chắn bà biết CS ghê gớm ra sao ?
Chưa kể con trai riêng của chồng bà và em gái bà là Bùi Việt Quốc, theo lời kể của ông Phụng, bị CS bắt cóc để làm áp lực với chồng bà, khiến bà phải chạy ra Bắc lo liệu dùm chồng. Ấy thế mà khi bà bị bắt ông chồng lại tỏ ra quá vô tích sự, không lo được gì cho bà hết. Kể cũng lạ quá phải không ông Phụng. Bởi ông ta làm giám đốc đài phát thanh Hà Nội, mà không lo cho vợ được tại ngoại hầu tra ư !?
Đã thế ông ta còn ngôn rằng mình không đủ tài chánh và thế lực để lo cho vợ ra khỏi tù. Nhưng qua tiết lộ này cho ta thấy rằng, vụ án này rất nghiêm trọng và bà Thụy An bị nghi ngờ dính dáng nhiều đến nỗi ông chồng không sao gỡ ra được.
Không thể cho rằng ông ta nhân cơ hội này bỏ rơi Thụy An, bởi bà đã sẵn sàng nhường hẵn chồng cho em gái mình và chuyện này đã trở thành quá khứ, đôi bên vẫn qua lại thân tình như không có chuyện gì (bằng chứng bà lo giúp cho con riêng chồng với em gái nên mới dính vào vụ án mạng trên)
2/
Chuyện Thụy An bị dính vào vụ án Nhân văn Giai phẩm là do bởi sự trà thù của Tố Hữu chỉ bằng một câu nói xỏ xiên của bà dành cho Tố Hữu, theo tôi không đứng vững chút nào ở đây cả.
Nếu tôi là chính quyền thời đó, tôi cũng bắt giam Thụy An bằng cách này hay cách khác, bởi chuyện bà ở lại miền Bắc qua lý cớ nêu ra để trốn tránh vụ án đại hình Đỗ Đình Đạo xem ra không vững tí nào cả.
Cũng thưa luôn bà không bị CS thủ tiêu là may lắm đó. Bởi CS thường thủ tiêu bất cứ ai mà họ thấy tài giỏi mà không theo họ, nhất là khi tỏ dấu nghi ngờ. Người ta còn bảo, CS thường trở mặt ăn thịt cả con đẻ của mình. Bằng chứng như trong vụ án Nhân văn Giai phẩm, rồi vụ án tù mù gọi là Xét Lại Chống Đảng ….
3/
Tóm lại, các nghiên cứu gia Việt sử như Nguyễn văn Lục, Trần Gia Phụng … giỏi trong mặt thu lượm tài liệu, nhưng lại thiếu sắc bén trong lý luận.
Lão Ngoan Đồng
Đỗ đình Đạo và Thụy-an là tình bạn ” trong sáng”giữa hai người và hai gia đình…Tình bạn trong sáng …nhưng không trong sạch thì chuyện gì sẻ xẩy ra.!!! Làm chính trị mà đầu óc không được minh-mẩn thì hại đến mọi người xung quanh.
Tại sao lại cần thiết mượn nhà bạn mình làm nơi hộp kín.!?Không phải là một nơi nào khác,kín-đáo hơn.!!!Hoặc là trong nhóm người…trong buổi hợp mặt đó có người của cộng sản!?Cộng sản HCM có gì mà chúng nó chừa ra khi đi đến quyết định để đạt được mục tiêu tối-hậu.!
Co thể không có tình bạn trong sáng giữa đàn ông và đàn bà,nhất là thời nay. Nhưng lùi lại 60 năm về trước thì khác.Con ngưởi không còn phong kiến ,nhưng vẫn giữ một số nguyên tắc lể giáo của không tữ. Đọc nữ chừng xuân của khái hung ,không ai không thấy thương và phục bỏ Hạnh ,người làm công cho Ong Tú Lãm ,sau vẩn ở vậy ,làm công ,rất lể phép trung thành vói 2 con của chủ. Và còn nhiều nữa…Vã lại trong chữ trong sáng có trong sạch rồi .
Làm chính trị mà đầu óc không minh mẩn thì ai không minh mẩn ở đây ? Vã lại sự sáng xuốt của lãnh đạo khó thể đánh giá cho đúng,cho nên người ta mới cần tới tập thể .Không ai nói mình cái gì ũng minh mẩn hết. Hồ ly tinh làm chính trị hỏi ong ta đã có đũ minh mẩn chưa hay u mê tối tâm chọn con đường mà minh không thấu ,không hiểu.,không có óc phán đoán đr sau này mói bết là :”khong ai là Bạn chĩ có quyền lợi của chinh họ ,dù là cùng cs đỏ đi nữa.Nhưng đã cởi lưng cọp thì “gầm gừ ” cho hết cuộc đời .Lưu danh lưu xú cũng chì 4 dài 2 ngăn ,”sè sè nấm đất ” ,đoi khi không còn ,mà thôi !
Mươn nhà đẻ họp kín thì tgp đã cho biết tại sao ? Nhưng tất cả khong thể tránh nếu kẻ thù cố ý. Chĩ cố găng hết sức mình tự bão vẹ mình và đồng chí anh em….(sáng hôm sau TA mói về tới nhà và ĐĐ Đ năm chết bên cạnh tô miến ăn dở.TGP không nói là ai dọn cho Đ Đ Đ ăn ?)
Làm chính tri mà đầu óc không thũ đoạn ,không đè phòng cẩn mật kẻ thù lén lút sau lưng đam lút cán thì CHẾT. Dấn thân thì phải chấp nhận tù đày ,kể cả cái chết…
Bà TA .Phụ nữ vn cách dây 60 năm ,khi nước Việt còn nữ thực dân ,nữa phong kiến thâtt dáng ngưỡng mộ,nhất là hành động tụ đam vào 01 con mắt của mình dẻ nhìn đói nhìn việc bằng 01 con mát vì quả thật cuộc đòi đầy trớ trêu chĩ nhìn như vậy cũng quá đũ…
(h)
Trước khi ông Diệm lên cầm quyền , ông Diệm bị VṂ(HCM) bắt cóc , thoát khỏi tay VM là nhờ ông Nhu ?
Nữ văn sĩ Thuỵ An: Một nhân tài của đất nước đã bị Việt cộng huỷ hoại .