Bí ẩn lịch sử cần được làm sáng tỏ
“…Trong quyển “Đèn Cù”, ký giả Trần Đĩnh tiết lộ đã nghe Hồ Chí Minh nói tiếng Hẹ của dân tộc Hakkard rất lưu loát, thấy “Bác” rất thích thú đi dạo chơi hành phố Móng Cái và biết rất rõ thành phố này mặc dầu “Bác”mới đến đây lần đầu tiên năm 1960. Ký giả Trần Đĩnh nghĩ rằng “Bác Hồ” đã có ở trong thành phố Móng Cáy khá lâu…”
Hồ Chí Minh và Nguyễn Tất Thành là một người hay hai người khác nhau?
Đến ngày hôm nay, các công trình nghiên cứu sâu rộng, công phu và khách quan của nhiều tác giả ngoại quốc vẫn chưa trả lời được câu hỏi kể trên. Về mặt khoa học, chỉ có một cuộc khảo nghiệm DNA hài cốt của Hồ Chí Minh, cố Chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, đang được thờ phượng tại Ba Đình (Hà Nội) và cố Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc (thân phụ của Nguyễn Sinh Cung tức Nguyễn Tất Thành) đã được chôn cất tại Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp ngày nay. Nhưng nhà cầm quyền cộng sản Hà Nội không muốn phơi bày bí ẩn lịch sử này, chọn lựa giữ im lặng khi phải đối đầu với một vấn đề khó khăn khả dĩ làm tổn thương đến uy tín của mình trước nhân dân Việt Nam và quốc tế. Hơn nữa, bộ máy tuyên truyền của đảng Cộng sản Việt Nam không bao giờ tôn trọng sự thật lịch sử, luôn luôn đề cao sự sáng suốt của đảng và không chấp nhận đảng có sai lầm.
Căn cứ vào các công trình nghiên cứu của các tác giả ngoại quốc và một số dữ kiện lịch sử chính xác, tôi có vài nhận xét về một bí ẩn lịch sử đã có tầm ảnh hưởng vô cùng quan trọng đối với đất nước và dân tộc Việt Nam từ thập niên 1940 đến nay. Bí ẩn đó là: Hồ Chí Minh và Nguyễn Tất Thành là một người hay là hai người khác nhau?
Lý lịch của Nguyễn Tất Thành
Nguyễn Sinh Cung (tức Nguyễn Tất Thành) sanh tại Nghệ An năm 1890, con của Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc. Sau khi học hết bậc Tiểu học, Nguyễn Tất Thành được nhận vào trường Quốc Học Huế nhờ cha là quan lại của Nam triều. Bỏ học và rời khỏi trường Quốc Học rất sớm, Nguyễn Tất Thành đi vào Phan Thiết dạy học tại trường Dục Anh rồi đi vào Sài Gòn làm phụ bếp dưới tàu Amiral Latouche Tréville (lấy tên Văn Ba) để xuất dương sang Pháp tìm kế sinh nhai và danh vọng. Thất bại trong việc xin vào học trường Thuộc địa của Pháp, Nguyễn Tất Thành tiếp tục làm việc trên các tàu viễn dương rồi qua London, Anh quốc, làm thợ nhồi bột cho một lò bánh mì của người Pháp. Năm 1917, Nguyễn Tất Thành trở về Paris theo lời gọi của trưởng thượng Phan Châu Trinh và gia nhập Nhóm Ngũ Long (5 người) gồm có Phó bảng Phan Châu Trinh, Tiến sĩ Luật Phan Văn Trường, Cử nhân Luật Nguyễn An Ninh, Cử nhân Văn Chương Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn Tất Thành. Sống kham khổ tại Paris với nghề thợ rửa hình, Nguyễn Tất Thanh mắc bịnh lao phổi. Mặc dầu vậy, Nguyễn Tất Thành vẫn ăn mặc rất chỉnh tề, luôn luôn mặc áo vest và thắt cà vạt khi đi hội họp.
Ba năm sau cuộc Cách Mạng 1917 của Nga, Nguyễn Tất Thành gia nhập đảng Cộng Sản Pháp tại Hội nghị Tours để bắt chước các người Bolsheviks Nga làm cách mạng vô sản trên phạm vi toàn thế giới và xây dựng chủ nghĩa đại đồng vô biên giới. Tại Hội nghị Tours, Nguyễn Tất Thành đã nhờ một Đại biểu người Pháp tham dự hội nghị này giải thích cho ông ta biết sự khác biệt giữa Đệ tam và Đệ tứ Quốc tế Cộng sản. Năm 1924, Nguyễn Tất Thành được Dmitry Manuilsky, cán bộ Đệ tam Quốc tế Cộng sản (Komintern) tuyển dụng và đưa qua Moscowa huấn luyện cấp tốc về kỹ thuật công tác của một cán bộ cộng sản trước khi phái đến Quảng Châu trong tỉnh Quảng Đông làm thông dịch viên dưới quyền của Trưởng Phái bộ Liên xô Mikhail Borodin. Năm 1927, Thống chế Tưởng Giới Thạch của Trung Hoa Quốc Dân đảng ra tay diệt trừ cộng sản, Nguyễn Tất Thành chạy về Moscowa và đến Thái Lan ẩn náu. Năm 1930, Nguyễn Tất Thành vâng lịnh của Tổng Bí thư đảng Cộng Sản Liên Xô Josef Stalin đến Hong Kong tham dự việc thành lập đảng Cộng Sản Việt Nam ngày 3-2-1930 cùng với 3 người Việt và một người Tàu tên Hồ Tập Chương (bí danh Hồ Quang), Đại biểu của Đệ tam Quốc tế Cộng sản. Kể từ đó, Nguyễn Tất Thành đã du nhập chủ nghĩa Cộng sản vào Việt Nam để gieo rắc tai họa cho đất nước và dân tộc Việt Nam từ năm 1931 đến nay. Ở lại Hong Kong hoạt động với bí danh Tống Văn Sơ, Nguyễn Tất Thành bị nhà cầm quyền Anh bắt giữ năm 1931 nhưng được cho nằm điều trị trong một bịnh viện bài lao vì ông ta mắc bịnh lao trầm trọng. Năm 1932, báo chí Hong Kong loan tin Tống Văn Sơ (tức Nguyễn Tất Thành) đã qua đời. Trong quyển sách “Hồ Chí Minh Sinh Bình Khảo”, giáo sư Sử học Hồ Tuấn Hùng ở Đài Loan, cháu của Hồ Tập Chương, cũng có ghi rõ sự kiện này.
Nguyễn Tất Thành mất tích
Kể từ năm 1932 đến năm 1938, Nguyễn Tất Thành đã mất tích một cách bí mật. Ông ta biến dạng trong cõi hư vô và chỉ còn là một hình bóng phai mờ trước bọn đàn em đang được Josef Stalin trọng dụng (như Trần Phú, Hà Huy Tập, Trần văn Giàu, Lê Hồng Phong, Nguyễn văn Cừ). Thậm chí Nguyễn Ái Quốc (bí danh của Nguyễn Tất Thành) còn không được tham dự chánh thức Đại hội 7 của Đệ tam Cộng sản quốc tế như hai đàn em Lê Hồng Phong và Nguyễn thi Minh Khai. Người Cộng sản Việt Nam đầu tiên này bị Stalin nghi ngờ và thất sủng vì trong thời gian lưu trú lần thứ hai tại Nga (1933-1938) ông ta biểu lộ một vài nghi vấn về lý lịch như:
- Khi ghi danh học trường quốc tế Lenin, Nguyễn Ái Quốc khai y sanh năm 1903 thay vì 1890. Một người trung niên có học như Nguyễn Ái Quốc không thể quên năm sanh của mình! Sở dĩ có sự sai biệt về năm sanh là vì lúc này người đội lốt Nguyễn Ái Quốc là Hồ Tập Chương, vốn gốc dân tộc Hẹ (Khách Gia) sanh tại Đài Loan năm 1901, nhỏ hơn Nguyễn Ái Quốc 11 tuổi.
- Trong tờ khai lý lịch, Nguyễn Ái Quốc (giả, tức Hồ Tập Chương) mang bí danh P.C.Lin chỉ khai một chút ít dữ kiện về lý lịch của mình và ghi rằng y không có khả năng chuyên nghiệp gì cả.
(Sophie Quinn Judge, Ho Chi Minh: The Missing Years, University of California Press,2002, — Hồ Tuấn Hùng, Hồ Chí Minh Sinh Bình Khảo, Đài Loan, 2008).
Không những nghi ngờ Nguyễn Ái Quốc (giả), Stalin còn có ý định giết chết y trong cuộc Đại Thanh trừng (Great Purge) năm 1935 nếu không có sự can thiệp của Georgi Dimitrov, Cố vấn của nhà độc tài Liên xô. Tha chết cho Nguyễn Ái Quốc (giả) nhưng Stalin không giao bất cứ công tác gì mà còn đặt ông ta trong tình trạng bị mật vụ theo dõi.
Sự xuất hiện của Hồ Quang (tức Hồ Tập Chương):
Mãi đến năm 1938, một nhân vật tên Hồ Quang (bí danh của Hồ Tập Chương) từ Liên Xô đến đột nhiên xuất hiện tại Diên An, căn cứ địa của Cộng sản Tàu trong giai đoạn 1935-1948 thuộc tỉnh Thiểm Tây, và có tư cách đảng viên đảng Cộng sản của nước Tàu. Gia nhập Bát lộ quân năm 1939, Hồ Quang đã phục vụ quân đội Tàu cộng với cấp bậc Thiếu tá. Sau một thời gian công tác tại Hoa Nam, Hồ Quang được đặc phái qua Việt Nam năm 1940 với sứ mạng liên tục gây ra chiến tranh để giết chết vô số nhân tài và sinh mạng, tiêu hao sinh lực của nước Việt, chuẩn bị việc thôn tính bán đảo Đông Dương và Đông Nam Á theo kế hoạch của Mao Trạch Đông. Ẩn trốn trong hang Pác Bó (Cao Bằng) dưới sự bảo vệ của cán binh Tàu cộng và bọn người dân tộc Tày của Chu văn Tấn, Hồ Quang thường xuyên qua lại biên giới Hoa Việt. Năm 1943, từ Quảng Tây trở về hang Pác Bó, Hồ Quang mang một tên mới : Hồ Chí Minh. Sự cực kỳ độc ác của Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản Việt Nam đối với dân tộc Việt đã khiến cho rất nhiều người nghĩ rằng Hồ Chí Minh thật sự là Hồ Tập Chương, một người Tàu Đài Loan dân tộc Hẹ (Hakkard) đúng theo sự xác quyết của giáo sư Sử học Hồ Tuấn Hùng, một người cháu trong gia tộc của Hồ Tập Chương không có ân oán gì trong cuộc Chiến Tranh Việt Nam. Mới đây, sau khi Trung Cộng công khai hóa một số bí mật về Hồ Chí Minh tức Thiếu tá Hồ Quang của Quân đội Nhân Dân Giải Phóng, tính thuyết phục của quyển sách “Hồ Chí Minh Sinh Bình Khảo” càng tăng thêm. Ngoài các quyển sách của giáo sư Đài Loan Hồ Tuấn Hùng, giáo sư William J. Duiker và sử gia Sophie Quinn Judge còn có vài nguồn tin chính xác khác và một số sự kiện cụ thể liên quan đến Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh thật sự là ai?
1) Ngô Trọc Lưu, người được xem là người cha của nền văn nghệ Đài Loan, đã xuất bản tại Đài Loan năm 1947 một quyển sách tựa đề “Hồ Chí Minh” viết bằng Nhật ngữ. Thân cận với Hồ Tập Chương và các người em của nhân vật kỳ bí này, Ngô Trọc Lưu xác quyết Hồ Chí Minh là Hồ Tập Chương, người thuộc sắc tộc Hẹ tức Khách Gia (Hakkard) sanh tại Huyện Miêu Lật, Địa khu Đông La, Đài Loan.
2) Ký giả cộng sản Trần Đĩnh, một nhân vật thân cận của Hồ Chí Minh, đã hé lộ một chi tiết đáng kể về lý lịch của người “cha già dân tộc” của cộng sản Việt Nam như sau:
Trong quyển “Đèn Cù”, ký giả Trần Đĩnh tiết lộ đã nghe Hồ Chí Minh nói tiếng Hẹ của dân tộc Hakkard rất lưu loát, thấy “Bác” rất thích thú đi dạo chơi thành phố Móng Cái và biết rất rõ thành phố này mặc dầu “Bác” mới đến đây lần đầu tiên năm 1960. Ký giả Trần Đĩnh nghĩ rằng “Bác Hồ” đã có ở trong thành phố Móng Cáy khá lâu. Suy nghĩ này phù hợp với một vài chi tiết trong lý lịch của Hồ Tập Chương: Năm 1931, Hồ Tập Chương bị bắt tại Quảng Châu cùng một thời gian với Nguyễn Ái Quốc (bí danh Tống Văn Sơ) đang bị giam giữ tại Hong Kong. Sau khi được Cộng sản Tàu giải cứu, Hồ Tập Chương đã đến vùng rừng núi Quảng Tây khai thác hầm mỏ từ năm 1932 đến 1933. Kể từ đó, ông ta không còn liên lạc với gia đình nữa. Khi ở Quảng Tây, Hồ Tập Chương có nhiều điều kiện thuận lợi để đi qua Móng Cáy hoạt động cùng cô Bí thư một Chi bộ Cộng sản tại thị trấn biên giới này.
3) Tập thơ “Ngục Trung Nhật Ký” của Hồ Chí Minh (tự nhận là tác giả) có thể cung cấp một thông tin hữu ích về nguồn gốc địa phương của tác giả: trong tập thơ này có một số từ ngữ đặc thù và lối chơi chữ chỉ có người dân tộc Hẹ (Hakkard) mới biết dùng. Cần lưu ý là: Nguyễn Tất Thành chỉ có trình độ sơ cấp về Hán văn và chỉ biết nói tiếng Quảng Đông nhờ hoạt động tại Quảng Châu từ 1924 đến 1927 và ăn ở với Tăng Tuyết Minh, người vợ xẩm có cưới hỏi năm 1925 qua mai mối của Thái Sướng và Đặng Dĩnh Siêu (vợ Chu Ân Lai).
4) Trước khi qua đời ngày 2-9-1969, Hồ Chí Minh (Hồ Tập Chương) muốn được nghe một bài hát của Tàu do một cô xẩm hát. Tại sao một nhà lãnh đạo người Việt lại muốn nghe một bài hát của Tàu trước khi chết, nhứt là do một cô xẩm hát?
5) Giáo sư William J. Duiker trong quyển sách “Ho Chi Minh: A Life” có nhận xét một sự khác biệt về thói quen giữa Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh: Nguyễn Ái Quốc ăn mặc rất chải chuốt và luôn luôn thắt cà vạt, trong khi trang phục của Hồ Chí Minh thì rất lượm thượm, ông ta không bao giờ thắt cà vạt, trông rất quê mùa (William J.Duiker, Ho Chi Minh : A Life, New York Hiperion, 2001).
6) Năm 1931, trong khi Nguyễn Ái Quốc bị giam giữ tại Hong Kong, thì Hồ Tập Chương bị bắt tại Quảng Châu. Nhờ một nữ cán bộ cộng sản tên Lâm Y Lan giải cứu đưa đến Hạ Môn, một thành phố cảng nằm ở phía Đông Nam tỉnh Phước Kiến, Hồ Tập Chương đã có một mối tình thắm thiết với cô gái Quảng Đông này trong thập niên 1930. Sau này, Chủ tịch Hồ Chí Minh của miền Bắc Cộng sản (tức Hồ Tập Chương giả danh) nhờ Đào Chú, một cán bộ cao cấp đảng Cộng sản Tàu và Chủ tịch CS. Mao Trạch Đông tác hợp với Lâm Y Lan nhưng bị Lê Duẫn, Bí thư thứ nhứt đảng Cộng sản Việt Nam, chống đối nên không thành. Năm 1968, Lâm Y Lan chết ở Quảng Đông, Hồ Chí Minh buồn rầu nên sau đó đi theo người yêu xuống tuyền đài năm sau (HCM mất năm 1969). Cần ghi nhận Hồ Chí Minh không hề muốn gặp lại Tăng Tuyết Minh, người nữ cán bộ cộng sản ở Quảng Châu đã chánh thức kết hôn với Nguyễn Ái Quốc năm 1925. Thái Sướng và Đặng Dĩnh Siêu (vợ Chu Ân Lai) cũng như đảng Cộng sản Tàu cũng không muốn đưa Tăng Tuyết Minh qua Hà Nội tái hợp với Hồ Chí Minh, vì lo sợ lộ thân phận của ông Chủ tịch đảng Cộng sản Việt Nam.
7) Lúc ông Cả Khiêm tức Nguyễn Sinh Khiêm (anh cả của Nguyễn Tất Thành) và bà Nguyễn thị Thanh (chị của Nguyễn Tất Thành) còn sống ở Nghệ An, Chủ tịch Hồ Chí Minh không hề về quê nhà để thăm hai anh, chị ruột. Thậm chí khi hai người này qua đời, Hồ Chí Minh cũng không về Nghệ An để phúng điếu. Năm 1945, bà Nguyễn thị Thanh đã lặn lội từ Nghệ An ra Hà Nội thăm em xa cách gia đình mấy chục năm cũng không được Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp. Dường như, Hồ Chí Minh cố ý tránh gặp ông Cả Khiêm và bà chị Nguyễn thị Thanh để khỏi bị phát giác sự khác biệt giữa Nguyễn Tất Thành và Hồ Chí Minh giả. Khác hẳn phong tục của quảng đại quần chúng Việt Nam, Hồ Chí Minh không có tình cảm anh chị em ruột thịt và tình tự quê hương xứ sở. Ông ta rất xa lạ đối với người anh cả và người chị ruột của mình.
Nói tóm lại, các tài liệu viết của người ngoại quốc và các sự kiện cụ thể kể trên giúp cho tôi có một cơ sở vững chắc để phán đoán và kết luận rằng: Nguyễn Sinh Cung tức Nguyễn Tất Thành và Hồ Chí Minh là hai người khác nhau.
© Thẩm phán Phạm Đình Hưng
Mùa Thu, California, 2014
Nguồn: ethongluan
Xin các bạn hãy kích đường link này để đọc bài của báo Đảng chính tông: LÂM ĐỒNG ONLINE (cơ quan ngôn luận của Đảng bộ Tỉnh Lâm Đồng), nội dung bài báo nói về những năm tháng Bác Hồ ở Quế Lâm Trung Quốc.Đây là đọan mở đầu “…Vào mùa hoa quế năm 1938, Bác Hồ từ căn cứ Diên An -”Thánh địa của cách mạng Trung Quốc đến Quế Lâm. Theo sự sắp xếp của tổ chức, Người nhận quân phục Bát lộ quân với quân hàm thiếu tá và bí danh Hồ Quang. Bát lộ quân ở Quế Lâm do Chu Đức làm tư lệnh, Diệp Kiếm Anh làm tham mưu trưởng. Hai ông đã bố trí để Người công tác tại Cơ quan đại diện của Bát lộ quân thời kỳ Quốc Cộng hợp tác lần thứ hai cùng nhau chống phát xít Nhật xâm lược, đóng tại nhà số 96 đường Trung Sơn Bắc, nội thành Quế Lâm….”
http://baolamdong.vn/hosotulieu/201404/nhung-nam-thang-bac-ho-o-que-lam-2323703/
Xin các bạn hãy kích đường link này để đọc bài của báo Đảng chính tông: LÂM ĐỒNG ONLINE (cơ quan ngôn luận của Đảng bộ Tỉnh Lâm Đồng), nội dung bài báo nói về những năm tháng Bác Hồ ở Quế Lâm Trung Quốc.Đây là đọan mở đầu “…Vào mùa hoa quế năm 1938, Bác Hồ từ căn cứ Diên An -”Thánh địa của cách mạng Trung Quốc đến Quế Lâm. Theo sự sắp xếp của tổ chức, Người nhận quân phục Bát lộ quân với quân hàm thiếu tá và bí danh Hồ Quang. Bát lộ quân ở Quế Lâm do Chu Đức làm tư lệnh, Diệp Kiếm Anh làm tham mưu trưởng. Hai ông đã bố trí để Người công tác tại Cơ quan đại diện của Bát lộ quân thời kỳ Quốc Cộng hợp tác lần thứ hai cùng nhau chống phát xít Nhật xâm lược, đóng tại nhà số 96 đường Trung Sơn Bắc, nội thành Quế Lâm….”
http://baolamdong.vn/hosotulieu/201404/nhung-nam-thang-bac-ho-o-que-lam-2323703/
HỒ CHÍ MINH, THỰC CHẤT VÀ HUYỀN THOẠI !
Sự thật HCM cũng chỉ là con người bình thường như tất cả mọi người. Đó là quy luật tự nhiên chung của tạo hóa. Có nghĩa ông ta cũng có thể có đủ mọi tính xấu cũng như mọi tính xấu của bất cứ con người thường tình nào, đó chỉ là điều khách quan, hiển nhiên.
Thế nhưng ông Hồ là một người cán bộ CS quốc tế đầu đàn, nên khi thành công nắm được quyền lực thì liền được thổi phồng, thần thánh hóa lên như một người siêu phàm, một vĩ nhân có một không hai trong lịch sử. Đây chỉ là thói quen, tập tính sáo mòn hay bị bó buộc của bất kỳ đất nước cộng sản nào, của bất kỳ đảng viên CS nào.
Cái đó khởi thủy nó là một thủ thuật chính trị để lôi kéo quần chúng, nhưng khi đã quá lậm rồi, nó trở thành một sự tôn thờ, thần thánh hóa cá nhân. Điều này vừa lố bịch đối với chính bản thân của người đó, lố bịch đối với những người tung hô, ngay cả lố bịch đối với dân tộc, đất nước có liên quan mà ai cũng rõ.
Nhưng đã là thói quen của bất kỳ nước CS nào từ trước đến nay, từ Tây sang Đông, từ Âu sang Á, từ lớn chí nhỏ, thì điều lố bịch và phi lý trở thành miễn bàn vì nó đã trở nên điều cấm kỵ mà cả toàn dân đều không ai được hay dám nói đến. Đó cũng chỉ là thói quen chung từ Lênin đến Mao Trạch Đông, đến Kim Nhật Thành, đến Fidel Castro v.v… không cơ man nào kể xiết.
Ngay như người dân vô quyền chẳng nói làm gì, mà toàn thể mọi đảng viên hay ban chóp bu của đảng CS cũng không ai có quyền đi ra ngoài chính thông lệ một chiều, quái đản, đã gần như tệ nạn quái chiêu như thế. Bởi vì vết mòn đó đã được nhào luyện, lập trình trong đầu óc thiếu nhi ngay từ lúc bé thơ, cho đến thanh niên, trong học đường và ngoài xã hội khi lớn lên, nên đã trở thành như một niềm tin áp đặt hoàn toàn đầy phần giả tạo và nhồi nhét, không còn chút gì là tự giác, nhận thức, khách quan, hay đúng đắn nữa.
Bởi nếu người lãnh đạo hay người làm cách mạng như một ngôi sao sáng, cứ để nhân dân tự nguyện, tự động chiêm bái, hà tất phải vẽ vời, đánh bóng quá mức. Còn nếu chỉ ngôi sao tự vẽ hay được vẽ lên phông màn nào đó, giả tạo thì phỏng thực chất có giá trị hay ý nghĩa gì.
Ai cũng rõ thời Mao Trạch Đông và Stalin đang tại quyền, hai người đó đã được cả tỉ người TQ và mấy trăm triệu dân Nga tôn như thánh sống, nhưng rôi toàn thế giới ngày nay đều biết họ thực chất ra sao sao rồi. Tính cách lừa mị dân, tính cách coi thường dân, tính chất áp đặt dân, tính cách nô dịch quả thực là như thế, và nó đã thành một nỗi sỉ nhục cho nhân dân, cho đất nước có liên quan đó.
Tốt gỗ hơn tốt nước sơn. Chỉ những nhân vật lịch sử nào sau khi chết đi đã lâu mà nhân dân vẫn tôn thờ, vẫn tự nguyện lập tượng, đó mới quả là các vĩ nhân thật. Trái lại những người nào có chính quyền do họ lập nên để rầm rộ tung hô, dựng tượng, sơn phết vàng son cho họ, thì đó cũng chỉ là các sản phẩm tự chế của họ, nào có nghĩa lý gì trải qua thời gian được. Đó là chưa nói họ có thực là bản chất khách quan của họ, hay họ chỉ đã được một thế lực nào đó bên ngoài dựng lên và đạo diễn lại là chuyện khác. Còn dựng tượng, tung hô người khác, để lợi dụng cho ý đồ lợi riêng cho bản thân mình, hay để rút ruột kinh phí, điều đó lại chẳng cần gì phải nói.
Cho nên những sự sai lầm ấu trĩ, phản nhân văn, tầm thường như thế, là do lý thuyết, do cơ chế xã hội, do những cá nhân con người giả tạo có liên quan, là điều cũng cần nên suy nghĩ.
Lỗi này thuộc về ai ? Học thuyết của Mác tự mệnh danh là “giải phóng” giai cấp, “giải phóng” nhân loại, rồi cuối cùng chỉ đưa đến sự sụp đổ từ ngay trong chiếc nôi của nó, do sự nô lệ quá đáng xã hội, nô lệ thậm tệ con người, sự thần thánh hóa cá nhân tột cùng lố bịch, cùng lúc là sự đầu độc đầu óc tuyệt đối những cá nhân khác, làm cho cả xã hội phải thành tê liệt, thụ động, rã rời, suy thoái, liệt kháng, thì đó phải chăng là lỗi lý thuyết, hay là lỗi “cơ chế” do chính lý thuyết đó tạo ra ?
SUỐI NGÀN
(28/11/14)
Gần đây tờ Nhân dân Nhật Báo của Trung Cộng đả xác nhận HCM chính là Thiếu Tá Hồ Quang (Hồ tập Chương) trong Quân đội Giải Phóng Trung Quốc ! Bản tin nầy kèm cà hình chụp HCM mặt quân Phục..
Như thế quá rỏ rang HCM là người Tàu gốc Hẹ. Nguyễn tất Thành hay Nguyễn Sinh Sung đả chết năm 1932 tại Hương Cảng ,vì bệnh lao. Trở ngược dòng thời gian,lúc HCM làm chủ tịch nước,đả không bao giờ tìm gặp bà Thanh (chị ruột) VÀ ôNG CẢ kHIÊM (anh ruột).Đến như người vợ Tăng tuyết Minh,xin gặp củng bị từ khước và thời đó Trung quốc củng không cho bà Minh bén mản Ông Hồ,sơ bại lô. Không còn là nghi án nửa,khi chính Tàu Công đả bạch hóa. Có “nghi án ” hay không ,câu đó để Tàu trả lời .
HAPPY THANKS GIVING huynh !
Cám ơn Bạn đả nghĩ đến tôi. Trân trọng.
Dân Oan à! Nỉ khồng piết thì Ngổ nói cho mà nghe nà. Ông Hồ là người đào mồ chôn bọn bán nước Ngụy Sài gòn và đânhs đuổi thực dân Pháp bvaf bố Mỹ của VN CH nớ. Piết chưa? Học mãi mà vẫn Chí sìn sao?
Thế thằng Hồ chí Minh nào chết ngày 9/2/69 vì cơn uất thất trận trong trận đánh lén Mâu Thân 1968 hả con heo dư lợn viên ?
Bác mà sao gọi bằng thằng?
Những gì tên khốn ấy làm từ 1954 thì không gọi nó bằng thằng (chó đẻ) thì gọi bằng gì ? gọi và phải ghi nhớ công ơn nữa chắc ?
Thằng Tàu có cái nick “Dân chẵng oan” này đúng là con rơi của Hồ chi Minh (Hồ tập Chương) và Tăng tuyết Minh nên phát ngôn đầy cái giọng điệu chó đẻ của bọn vẹm Ba đình tay sai Tàu cộng !
Ông tác giả là CỰU thẩm phán ở ViệtNam trước 75. Nhiều ông qua đây cứ tưởng hồi còn ở VN xưng hô tung tung: Trung Tướng, Đại tá, Tổng Giám đốc, vv,…và quên mất chữ CỰU.
“Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối,
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan.”
Chẳng bí ẩn gì cả, chỉ vì là kẻ bán nước hèn hạ bị thua thì cái gì cũng là bí mật hết, còn nhân dân Việt nam đã cho bọn bán nước cướp nước thua thì ai cũng biết Bác là người họ kính yêu. Giả sử một lầm nữa Mỹ xâm lược Việt nam và với 5 triệu lính ngụy Sài gòn cũng vẫn trhua như thường. Hãy đọc bài bài này thì thấm ngay:
Nhiều người cho rằng Trung quốc lắm tiền, nhiều máy bay, tầu chiến có thể khi cần sẽ đánh Việt nam nếu không nghe theo họ. Nhưng họ đã lầm.
Theo các nhà bình luận quốc tế thì Việt nam có cách đánh của Việt nam mà cả Nga và Trung quốc, Mỹ đều không biết. Ngày xưa Nga viện trợ tên lửa Sam1, 2 đó là thứ đã quá cũ sản xuất từ năm 1956 để bắn máy bay Mỹ. Người Nga và Trung quốc chjo rằng nó chỉ bắn được máy bay bay ở độ cao 5 km trờ xuống độ cao 500 m. Thế nhưng khi về tay người Việt nam thì nó hạ được cả B52 bay độ cao 7, 8 đến 10 km và độ thấp nhất là 100 m. Vậy làm sao Mỹ ngờ được? Vì Việt nam đã cải tiến nó bằng bệ phóng di động và lắp thêm tầng đẩy cho nó bay đến độ cao 10 km. Vì thế B52 Mỹ bay vào Hà nội với ý đồ buộc Việt nam phải chấp nhận ký hiệp định Paris có lợi cho mình. Thế nhưng hơn 100 phi công lái B52 và F105 đã bị bắt sống trong tổng số hơn 3000 phi công Mỹ bị tóm giam ở Hà nội. Ngày nay Việt nam không dại bỏ tiền mua máy bay cho tốn kém vì nước ta còn nghèo Cứ mua hỏa tiễn các tầm ngắn, trung, cao S300, S400 là chẳng có máy bay hay tầu chiến nào dám bén mảng đến. Hãy xem Syria với tên lửa S100 bà S200 của Nga mà Mỹ không dám vào. Hãy xem ở Irac hay ở Ucraina có máy bay hay tầu chiến nào dám vào vùng quân ly khai miền Đông Ucraina mà không bị hạ? Giá tiền mua một máy bay có thể mua 100 hỏa tiễn, vậy tốt nhất là mua hỏa tiễn. Trung quốc khống dám tấn công Việt nam nhưng chắc chắn là những đảo họ chiếm khó mà lấy lại. Việt nam chỉ chờ khi thời cơ Trung quốc có chiến tranh hay đánh nhau với Mỹ hay quốc gia nào khác thì đó là thời cơ để lấy lại mà thôi. Cái chính là có dám đánh, dám bảo vệ đất nước mình hay không mà thôi. Tôi tin vào thế hệ tướng lĩnh trẻ hôm nay họ dám đánh và rất yêu nước, họ không như lãnh đạo bị ảnh hưởng tư tưởng thân Trung quốc. Hãy chờ xem.
Cái mồm Cộng Khỉ…
Thằng Mỹ nó đưa đẩy ban cho Rợ Hồ cái thắng ” bất ngờ” theoLiên Sô
làm cho Tàu thành công cốc sau mười mấy năm trời cho Cộng Khỉ..bú,
(1950-1968)…
Nga Tàu hận thù, chia ra làm hai mảnh cho Mỹ nó đánh từng cái một. Liên
Sô tan tành xí quách khi Tàu Phù đứng nhìn cò bơ…
Ngay sau 1975, Cộng khỉ gào đói ! năn nỉ Thụy Điễn và Thụy sĩ xin ông
Mỹ cho nới cấm vận cho cccooon , cho bang giao cho coong ! Nhục !
Bá nó, du kích hang bét NQ Vẹt Hưm hoặc là nói Láo, hoặc Dốt cán mai!
Cháu ơi..lúc đó ta không có dùng tên lửa gì ráo. Bộ đội ta bắt thang leo lên…mây và núp trong cây đa của thằng cuội, vừa phê thuốc lào vừa chờ B52 bay ngang là cho B..75 nhào ra quăng bo bo và sắn lát vô mắt thằng phi công cho nó nổ con ngươi chết ngay. Tội vạ gì phải nuôi…cơm 3000 thằng khác cho bu thằng Tuấn… rau tuột váy giẫy đành đạch la làng vì địch đánh phá ác liệt khiến cho mụ ăn uống thiếu thốn nên kinh nguyệt không đều.
À này, sau khi cháu chém gió xong rồi thì ghé ngang hợp tác xã mua đở 1 ký xuyên tâm liên về nhà nhai bên cạnh con trâu cho đở..hâm nghen cháu!
Chào sảng khoái… còn hơn lần trước.
Nghe con heo dư lợn viên trong cơn mộng du ú ớ “chém gió” mắc cười quá, trong khi thực tế không chế nổi cái đinh vít :
13/9/2014:GS. Nguyễn Mại, Chủ tịch VAFIE cho biết: “Các doanh nghiệp FDI như Samsung, LC, Nokia, Canon và hàng loạt các doanh nghiệp khác đều đang tìm kiếm đối tác Việt Nam để phát triển công nghiệp hỗ trợ. Các tập đoàn nước ngoài cũng sẵn sàng mở rộng chuỗi cung ứng nếu các doanh nghiệp Việt Nam đủ điều kiện. Thế nhưng vấn đề là từ cái cục sạc, ốc vít…doanh nghiệp Việt cũng không đáp ứng được yêu cầu của họ. Đây là nỗi đau của ngành công nghiệp hỗ trợ Việt Nam.”
Đúng là cái thứ…dốt hay khoe…
Giặc Cộng thì chịu là giặc Cộng đi, mở mồm ra cứ láo ta là…nhân dân VN. Nhân dân VN đâu phải ai cũng ngu mà tin Cộng sản?
Đói chết mẹ, cả cái quần cũng không có mà mặc cho nó ra hồn. Nhờ mở cửa, học hỏi theo …nguỵ, mà đở đói, nhưng cứ hả họng ra là khoe…láo.
Đánh Mỹ, chết như rạ, bắt cả con nít cầm sung, vét hết tài nguyên nhân lực của quốc gia, ai còn không biết mà lũ cò mồi cứ thi nhau thổi phồng.
May là Mỹ nó dụ được Trung quốc, một thị trường lớn cho tư bản Mỹ kiếm tiền, hoang sơ mà béo bở, nó mới bỏ VN. Hên cho lũ Cộng láo mà xui cho nhân dân, tha hồ cùng nhau…đói dốt ( nhưng luôn hát tự sướng).,
Đánh 20 năm, nhào vô chịu chết rồi cùng nhau…chạy. Mỹ bỏ, cúp viện trợ quân sự cho VN, VNCH không còn đồ chơi, đành phải trơ mắt mà nhìn cả nước lọt vào tay Cộng sản.
Có vậy thôi mà Cộng láo cùng cò mồi thi nhau khoe rằng chúng…đánh giặc giỏi, hát om sòm ròng rả 40 năm, nghe muốn…mửa.
Cộng láo dám cho tự do báo chí thông tin đi. Coi nhân dân VN thực sự nói gì về cái đảng và nhà nước VN Cộng láo.
Dám hôn?
Bạn Nguyễn Quốc Việt Hưng nói chí phải;
Đâu cần phải có “các nhà bình luận quốc tế” thì mới biết được là Việt nam (CSVN) có cách đánh của Việt nam mà cả Nga và Trung quốc, Mỹ đều không biết;
đó là dùng trẻ em như Lê Văn Tám tẩm xăng vào người chạy vào đốt kho xăng địch, như chiến sĩ Phan Đình Giót ôm bộc phá, lấy thân mình lấp lỗ châu mai, hay như Tô Vĩnh Diện lấy thân chèn pháo .
Chưa hết, còn có những chuyện tay không quật ngã trực thăng UH1 của Mỹ” được đăng trong (http://phunutoday.vn/blog-nguoi-noi-t…) nữa đấy đồng chấy Nguyễn Quốc Viêt Hưng nhẩy?
Hãy xem còn có ai “yêu” cái Đảng này không hẵng hay,dốt mà đòi vào đây múa mỏ hả cưng.
Ông tác giả bài viết ký tên là Thẩm phán Phạm Đình Hưng, xin tòa soạn cho biết ông ấy là thẩm phán ở tiểu bang nào vậy? Sao lâu nay không nghe nói. Chỉ nghe ở quận Cam có 2 ông thẩm phán (nay về hưu rồi), còn ở quận Los có 1 bà (cô) tên gì quên rồi?
Chuyện tên Nguyễn Tất Thành và Hồ Chí Minh là hai hay là một để mấy sử gia nói, cũng như chuyện xử kiện để máy thẩm phán lo. Mà nhiều sử gia đã nói rồi, ông thẩm phán (?) lo cho tốt chuyện của ông đi.
Trước khi làm Thẩm Phán, ông Hưng còn là một người Việt Nam. Người VN thì lo âu chuyện nước nhà cũng là chuyện dễ hiểu thôi mà!!! Hơn nữa, ông góp phần vạch rõ bộ mặt bán nước vì thân thế mờ ám cùng những hoạt động ám muội của tên lưu manh bịp bợm dâm tặc Hồ chí minh, thì đã làm tốt chuyện của một người VN rồi còn gì nữa mà XYZ phải théc méc??? Nếu XYZ muốn đòi hỏi hơn thế nữa, xin mời đọc những bài viết của anh Đặng Chí Hùng đăng đầy trên internet đó, bảo đảm “phê” luôn!!!!
Hầy à, Ngộ léo cần pết Hù zhí Ming là thằng nào, là thằng hẹ hay là hành mà chỉ pết nó là một thằng Quỉ Đỏ cùng lũ quỉ con của nó ông Trời sai xuống để báo hại dân Việt Nam, thế thôi ?